XE TĂNG TRONG CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI
1. Mk VI “Crusader”
Giới Quân sự Liên hiệp Anh đã đặt vào Mk VI “Crusader” niềm hy vọng lớn, nhưng đáng tiếc nó đã không đáp ứng được sự kỳ vọng đó. Thời gian mà nó tham gia hoạt động trên các chiến trường không lâu dài.
Lịch sử phát triển “Crusader” được bắt đầu từ năm 1936, khi tướng Uaywen và đại tá Martel chứng kiến khả năng hoạt động của các xe tăng hạng nhẹ BT do Liên Xô sản xuất trong các cuộc tập trận tại Kiev. Bộ Quốc phòng Anh cũng nhận ra điều đó và đã đặt mua từ Mỹ loại xe tăng “Christie” M1930. Vào tháng 11, các xe tăng được chuyển qua Anh cùng với nhà sáng chế ra nó và trên cơ sở “Christie” M1930, người Anh đã phát triển xe tăng hạng trung Mk III (A13), với số lượng sản xuất 65 chiếc. Năm 1938, hãng “Nifflid” bắt đầu sản xuất kiểu xe tăng mới, Mk IV (A13 Mk II), khác với “người tiền nhiệm” của nó về độ dày giáp bảo vệ và tháp pháo kiểu mới. 665 xe tăng kiểu này đã được sản xuất và tham gia hoạt động trên chiến trường Bắc Phi. Sau đó 1 năm, seri xe tăng hạng trung Mk V “Kovenantor” (A13 Mk III) ra đời nhưng không thành công. Toàn bộ 1770 xe tăng được sản xuất chỉ được sử dụng vào mục đích huấn luyện.
Mùa hè năm 1939, hãng “Naffild” giới thiệu mẫu xe tăng hạng trung A15 với động cơ “Liberty”. Xe tăng này là sự phát triển tiếp sau của “Kovenantor” với việc giữ lại các chi tiết và tổ hợp của xe tăng cũ Điều đó cho phép triển khai sản xuất hàng loạt loại xe tăng mới một cách nhanh chóng. A 15 có thân dài và thêm một bánh đỡ - bánh thứ năm mỗi bên. Trong seri sản xuất, xe tăng được biết dưới tên gọi “Xe tăng hạng trung Mk IV” (“Crusader Mk I”).
Thân “Crusader” có khung với các miếng thép liên kết với nhau bằng bu long. Tháp pháo dạng thấu kính nhiều góc, cạnh, động cơ trang bị hệ thống truyền động thủy lực, thực hiện vòng quay đầu tiên trong 10s. “Crusader” bố trí pháo 40mm và kíp xe 3 người. Trên phần đầu xe tăng có một tháp pháo nhỏ có trang bị sung máy 7,92mm với góc bắn theo phương ngang 150 độ. Các chi tiết của hệ thống treo được bố trí khoảng không gian giữa bên trong và bên ngoài thành xe.
“Crusader” Mk I tiếp nhận vào các hoạt động chiến đấu vào tháng 6 năm 1941 trên mặt trận Bắc Phi. . Trong các trận đánh, loại xe tăng mới này bị bắn cháy rất nhiều bởi hỏa lực từ pháo chống tăng – được cải tiến từ pháo phòng không 88mm của Đức. Tại đó, “Crusader” Mk I đã bộc lộ nhiều điểm yếu: giáp bảo vệ yếu, hệ thống điều khiển và hậu cần, bảo dưỡng phức tạp, không đáng tin cậy. Hệ thống làm mát động cơ hoạt động rất đặc biệt tồi trong điều kiện hoang mạc Bắc Phi. Bộ phần truyền động khí nén trên bộ hãm gần cửa ra từ hệ thống máy nén khí bị vỡ kéo theo sự ngừng hoạt động của xe tăng.
Một số không ít “Crusader” đến năm 1941 trở thành xe tăng tiêu chuẩn trong lực lượng Thiết giáp Anh. Có 3 phiên bản khác nhau dựa trên cơ sở “Crusader” chỉ khác nhau ở trang bị và độ dày thiết giáp. Trên “Crusader” Mk II không trang bị tháp súng máy, còn giáp đầu xe được gia cố. “Crusader” Mk III trang bị pháo chính 57mm – nhưng uy lực tăng lên không đáng kể. Tháp pháo hai chỗ ngồi và trưởng xe phải kiêm thêm nhiệm vụ nạp đạn. Độ dày giáp đầu xe tăng lên 51mm.
Vào năm 1942, seri sản xuất “Crusader” bị dừng hoạt động, còn các xe của các đơn vị xe tăng trên tuyến đầu được chuyển về và thay đổi thành hệ thống pháo phòng không tự hành với hai phiên bản: với một nòng 40mm “Bocffor” hoặc hai nòng 20mm “Erlikon”. Gầm “Crusader” đồng thời được sử dụng rộng rãi trong nhiều mục đích khác như xe kéo pháo, xe kéo – sửa chữa bọc thép, máy ủi, xe dò – quét mìn. Tổng cộng từ năm 1939 đến 1943 các công xưởng của hàng chục hãng đã sản xuất 4350 “Crusader” và 1370 các phiên xe bản đặc biệt trên gầm xe tăng này.
Các thông số chính:
Tên gọi: Crusader Mk I
Phân loại: hạng trung bình
Kíp xe: 5 người
Khối lượng chiến đấu: 15,3 tấn
Chiều dài,m: 5,99
Chiều rộng,m: 2,64
Chiều cao,m: 2,23
Số lượng vũ khí:
Pháo chính/mm: 1/40
Hỗ trợ/mm: 2/7,92
Độ dày giáp đầu: 40mm
Độ dày giáp bên: 24mm
Động cơ: Naffild “Liberty”, bộ chế hòa khí, 340 sức ngựa
Tốc độ tối đa: 43km/h
Tầm hoạt động: 160km.