Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 10:24:04 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Trận Điện Biên Phủ dưới con mắt người Pháp  (Đọc 63542 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #100 vào lúc: 07 Tháng Ba, 2009, 04:33:00 pm »

Chủ nhật ngày 18 tháng 4. (Lễ Phục sinh)

Mờ sáng, ta rút khỏi cao điểm 105

Langlais nghĩ rằng sẽ nhảy dù dễ hơn nếu thả một bức màn khói bảo vệ. Ở Hà Nội, người ta yêu cầu loại bom đặc biệt cần thiết để che mắt pháo thủ địch.

Tướng Navarre quay về Sài Gòn mà chưa quyết định gì về cuộc hành quân Condor. Tướng Partridge báo sắp gửi một phái đoàn Mỹ sang nghiên cứu việc thực hiện kế hoạch Vautour trong trường hợp Lầu Năm Góc tán thành những kết luận của ông sau chuyến thăm Sài Gòn.

Cầm đầu phái đoàn là tướng Caldera đẹp trai, lịch sự và hăng hái, người chỉ huy các phi đội B29 ở Philippin, mà người ta gọi thân mật là "Smoked Joe". Một cách rất thẳng thắn, ông hỏi tướng Lauzin một câu đơn giản: "Trong điều kiện nào thì máy bay của chúng tôi có thể tấn công Điện Biên Phủ, bất kể thời tiết ra sao? Các ông giúp chúng tôi được gì về kỹ thuật?"

Sự giúp đỡ kỹ thuật gần như không có gì. Máy bay B29 đòi hỏi có ba điểm chuẩn điện tử giữa Hà Nội và tập đoàn cứ điểm: Không có. Họ yêu cầu có những sân bay đón họ nghỉ tạm trong trường hợp không quay về Manille kịp: Có hai sân bay, nhưng hiện nay có vẻ khó giải tỏa hoàn toàn để dành riêng cho B29.

Hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ Saipan chở đến Đà Nẵng 28 máy bay Corsair lấy từ Philippin. Phi đoàn 14 được khẩn cấp rút từ căn cứ không - hải quân Bizerte để tăng cường cho hai phi đội của Arromanches đã mất 1/3 quân số bắt đầu luyện tập bằng các máy bay ấy.

Hôm đó, chính phủ Anh cho ông Foster Dulles biết họ sẽ không dự các cuộc hội đàm chuẩn bị hội nghị Genève, sẽ bắt đầu ngày 20 tháng 4 tại Washington. Trong giới ngoại giao, người ta thấy không còn cách nào để có sự can thiệp quân sự dù nhỏ nhất của Mỹ để yểm trợ Điện Biên Phủ. Theo những người thân cận ông cho biết, Ngoại trưởng Mỹ hết sức giận dữ và buộc tội người Anh phá hoại hành động chung mà ông định tiến hành.

Thứ hai ngày 19 tháng 4.

CỨ ĐIỂM 206 BỊ BAO VÂY
GỌI BẰNG LOA PHÓNG THANH

Một đợt khí lạnh từ biển thổi vào bỗng làm tình hình khí tượng được cải thiện ở vùng cao, và tồi tệ hơn ở châu thổ vì mưa phùn trở lại. Tầm nhìn xa trên bầu trời Điện Biên Phủ rất tốt cho nên máy bay lao vào tấn công các vị trí địch. Nhưng bom đạn không có hiệu quả gì bao nhiêu khi đối phương có hầm hào sâu và vững chắc, cũng chẳng có hiệu quả gì đối với lực lượng phòng không: Một chiếc Packet bị trúng đạn trút hết hàng sang phòng tuyến đối phương, ban đêm thì một chiếc Dakota chở quân lê dương cũng làm như vậy. Địch tập trung bao vây 206. Ở Hồng Cúm, hai đại đội có chiến xa yểm trợ đi lấp đường hào của địch ở phía Nam sân bay phụ.

Ta rải hàng chục ngàn truyền đơn xuống các vị trí, các đường giao thông và hậu phương Việt Minh để kêu gọi binh sĩ quân đội nhân dân đừng đổ máu.

Một phi công của không quân viết thư cho bạn: "Trong lúc thả lính nhảy dù, chúng tôi được máy bay tiêm kích và B26 bảo vệ, nhưng tất cả các phi công lái Packet đều sẽ nói họ cảm thấy được an toàn và yên tâm bao nhiêu khi công tác bảo vệ ấy do người Arromanches thực hiện. Chúng tôi không còn cảm thấy cô đơn dưới đáy lòng chảo này khi máy bay Hellcat bay chặn giữa hỏa lực phòng không địch và chúng tôi. Cho đến nay tôi đã có 129 phi vụ trên bầu trời Điện Biên Phủ. Có thể tin lời tôi làm chứng. Có lý do giải thích được sự hăng hái ấy của lực lượng không quân của hải quân. Nó có những người chỉ huy trẻ và nhiệt tình, nó muốn bảo vệ danh dự của hải quân và các phi đội của Arromanches đoàn kết với nhau như thủy thủ đoàn trên một con tàu, họ có năng suất cao hơn gấp nhiều lần so với các đơn vị thường”.

Tối hôm đó, đại đội của đại úy Bizard đến thay đại đội của đại úy Phạm Văn Phú, thuộc tiểu đoàn 5 lính dù Việt Nam, đóng quân tại Opéra, trong phần phía Nam của đường ống dẫn nước dọc theo sân bay. Từ mấy ngày nay, vì buồn chán, Bizard nhớ lại mình từng phục vụ trong binh chủng thiết giáp, anh ta mượn một chiếc Chaffee, đưa tấm thân cao lớn của anh chui vào tháp pháo và vừa xoay nòng pháo để tránh pháo địch nhằm vào mình, anh vừa tống mấy quả đạn nổ chậm vào các lô cốt địch. Khi trở về hàng ngũ bộ binh, anh cười vang khoái trá. Binh lính nói về anh: "Thật là một con sư tử."
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #101 vào lúc: 07 Tháng Ba, 2009, 04:33:59 pm »

Thứ ba ngày 20 tháng 4

Ngày yên tĩnh, ngoại trừ ở Hồng Cúm nơi ớự:ch quấy rối dữ dội trong đêm.

Bigeard kiểm điểm lực lượng còn lại: 200 người ở tiểu đoàn 1 lính dù thuộc địa, 200 người ở tiểu đoàn 5 lính dù Việt Nam, 150 ở tiểu đoàn 6 lính dù thuộc địa, 250 ở tiểu đoàn 8 xung kích, 350 trong hai tiểu đoàn lính dù lê dương, 400 lính lê dương và 550 quân chi viện. Tổng cộng là 2100 người. Lực lượng phản công phải lấy từ các đơn vị không bị tấn công.

Để bù lại việc Thủ tướng Anh không chịu tham gia hội đàm ở Washington, A.F.P. công bố một thông điệp của ông Winston Churchill gửi tướng de Castries: "ở Anh, chúng tôi đã theo dõi với lòng cảm phục sự kiên trì, chịu đựng và thái độ anh hùng của những chiến sĩ anh dũng của ông vẫn đang giữ vững Điện Biên Phủ trước nhiều đợt tấn công liên tiếp dữ dội của một kẻ địch đông hơn rất nhiều về số lượng. Những chiến công của ông và binh sĩ dưới quyền ông làm nên vinh quang cho nước Pháp. Tôi xin chúc mừng và xem đó là tấm gương cho chúng tôi noi theo."

Thứ tư ngày 21 tháng 4

Vì có những trạm dừng ở nước ngoài, binh lính của tiểu đoàn 7 lính dù thuộc địa được gửi sang Đông Dương phải mặc thường phục, lên máy bay Globemaster của Mỹ tại Orly.

Ngày hôm đó, báo Umta đăng bài phỏng vấn ông Giáp của Franco Calamandrei, đặc phái viên của Đảng cộng sản

"Bởi vì Điện Biên Phủ cách căn cứ hậu phương của chúng tôi quá xa và đường giao thông lại xấu, địch không ngờ phải tiến hành trận đánh phòng thủ ở đây... Sau ba tuần chiến đấu, chúng tôi đã diệt hơn 2/5 lực lượng địch (5000 người trên 12000), diệt toàn bộ khu Bắc, chiếm những quả đồi cuối cùng và kiểm soát toàn bộ phần phía Bắc lòng chảo đến ranh giới sân bay, cô lập phân khu Nam với trung tâm... Diện tích của địch chỉ còn lại 2 kilômét vuông. Từ các vị trí của chúng tôi ở trên cao, phía Đông, chúng tôi ở cách trung tâm phòng thủ của Pháp và sân bay chỉ có 500 mét... Trong tình hình như vậy, địch còn trông cậy gì kia chứ? Họ trông cậy chủ yếu vào không quân Mỹ, vào các cuộc tấn công bằng bom phá và napan, nhưng các cuộc ném bom chỉ gây cho chúng tôi tổn thất không đáng kể... Chúng tôi biết cuộc chiến đấu sẽ còn gay go, nhưng chúng tôi không nghĩ là không quân Mỹ có thể là yếu tố quyết định trận đánh này. Sai lầm cơ bản của đế quốc, một lần nữa, là không dự kiến nổi một dân tộc chiến đấu vì độc lập có thể nỗ lực đến đâu."

Tướng Navarre gửi cho chính phủ một công văn nói về tình hình quân sự ở Đông Dương trước hội nghị Genève.

Ông biện minh cho Điện Biên Phủ bằng lý lẽ là chắc chắn Việt Minh đã có kế hoạch tấn công mạnh mẽ ở châu thổ trong mùa đông 1953-1954 sau đó chuyển thành kế hoạch chiếm những vùng rộng lớn để gây tác dụng tạo ấn tượng mạnh.

Ngày 1 tháng 3 năm 1954, kế hoạch của Tổng tư lệnh diễn tiến đúng dự kiến: Điện Biên Phủ chặn đường tấn công của địch lên Bắc Lào và ở vùng cao, xuất hiện những dấu hiệu cho thấy địch rút lui.

Theo Navarre, chính việc thông báo về hội nghị Genève ngày 18 tháng 2 đã khiến bộ chỉ huy Việt Minh quyết định gia tăng cường độ chiến tranh và Trung Quốc quyết định cung cấp cho họ sự viện trợ đáng kể. Do đó đã có cuộc tổng tấn công làm thay đổi điều kiện chiến đấu. Điện Biên Phủ bị tấn công, cuộc chiến đấu tái diễn trên cao nguyên và ở vùng hậu phương của chiến dịch Atlante, chiến tranh du kích bùng nổ lại khắp nơi, tám tháng trước thời điểm Navarre dự kiến và chỉ vì nguyên nhân duy nhất ấy mà ông gặp nhiều khó khăn.

Sau khi ghi nhận là ở Điện Biên Phủ, có thể địch sẽ sợ thất bại mà không tấn công và chỉ bao vây bóp nghẹt. Navarre kết luận là tình hình sắp tới không có gì đáng lo ngại. Sau 40 ngày đề kháng, nếu tập đoàn cứ điểm thất thủ, sẽ chỉ có hậu quả nghiêm trọng khi nào nước Pháp và Việt Nam nản lòng buông xuôn: Bây giờ đã quá muộn để các đại đoàn địch có thể chiếm Bắc Lào hay quay về châu thổ với những ý định quá hung hăng.

Hơn nữa, khối chủ lực Việt Minh sẽ cần một thời gian dài để xây dựng, củng cố lại, nhất là nếu họ muốn trang bị hiện đại: ta có thể lợi dụng cơ hội ấy để, ngay từ mùa thu, giáng cho họ một đòn rất nặng, với điều kiện nước Pháp nhanh chóng thay thế các đơn vị bị tổn thất. Navarre đề nghị chính phủ hoặc ngừng chiến trước khi thương thuyết mà không ngưng bắn và công khai chuẩn bị gia tăng cường độ chiến tranh bằng cách gửi sang nhiều phương tiện đáng kể. Ý tưởng của Navarre nặng nề, lời văn lúng túng, tất cả là một mớ hỗn độn vô nghĩa.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #102 vào lúc: 07 Tháng Ba, 2009, 04:36:38 pm »

Sài Gòn, ngày 21 tháng 4 năm 1954

GHI NHẬN
Về tình hình quân sự ở Đông Dương trước hội nghị Genève
(Trích)


I. CHIẾN DỊCH 53-54

A - Chương trình hành động của Tổng tư lệnh Pháp ở Đông Dương

Kế hoạch này được xây dựng và được sự đồng tình của chính phủ vào tháng 7 năm 1953, chấp nhận giả thiết căn bản là: chiến tranh vẫn giữ nguyên tính chất của nó như từ trước tới nay, tức là chúng ta phải đối đầu với một khối cơ động chiến lược Việt Minh ngày càng mạnh hơn về chất lượng, tuy nhiên không đến tầm cỡ có thể làm thay đổi tính chất cuộc chiến tranh.

Kế hoạch gồm hai phần:

a) Một phần "tổ chức" gồm việc từng bước hình thành một khối cơ động chiến lược bằng cách rút khỏi các đồn bót, các đơn vị thuộc lực lượng trên bộ Viễn Dông (F.T.E.O.) và lực lượng chính quy Việt Nam, giao lại công tác phòng thủ họ đang đảm nhiệm trên bề rộng lãnh thổ cho các đơn vị Việt Nam mới thành lập. Kế hoạch tổ chức khối cơ động chiến lược như vậy là gắn bó chặt chẽ với kế hoạch phát triển quân đội Việt Nam được xây dựng song song với kế hoạch này.

Hai kế hoạch này phải đạt kết quả là vào tháng 10 năm 1954, cho phép ta có phương tiện đầy đủ về các đơn vị thuộc khối cơ động chiến lược và các đơn vị phòng thủ trên bề rộng lãnh thổ để giành thế tấn công đối với khối cơ động chiến lược Việt Minh mà đồng thời vẫn bảo đảm hậu phương an toàn trên toàn bộ lãnh thổ.

b) Một phần hành quân gồm lịch hành quân xây dựng tùy theo các khả năng do sự phát triển về phương tiện mở ra (khối cơ động chiến lược và các đơn vị phòng thủ trên diện rộng). Lịch hành quân vốn có ấy gồm những nét lớn như sau, trong điều kiện như thế này:

- Trong chiến dịch 53-54 ta chấp nhận để cho địch giữ thế chủ động chiến lược vì ta không đủ lực lượng. Do đó, thái độ chung của ta là phòng thủ - nhưng một thái độ phòng thủ có tính tấn công, nhằm gây trở lực tối đa cho các kế hoạch của địch và giáng cho chúng những thất bại cục bộ.

Tuy nhiên ta có dự kiến một hoạt động tấn công trên quy mô lớn để thu hẹp một lõm Việt Minh đang bị cô lập với phần còn lại của lãnh thổ địch, nằm giữa mũi Varella và Đà Nẵng. Thật vậy, nhất thiết cần phải xóa bỏ cái lõm này ngay trong chiến dịch 53-54 vì những lý do sau đây:

- Ngăn chặn không cho nó lan rộng ra và được củng số đến mức trở thành mối nguy cho vùng Nam Trung Kỳ vào năm sau;

- Tạo ra một tình hình cho phép toàn bộ Nam và Trung Việt Nam, ngay từ mùa hè 1954 có thể đặt dưới quyền chỉ huy của người Việt Nam và chỉ còn chiến tranh địa diện; lúc đó kể từ tháng 10 năm 1954, nỗ lực của khối cơ động chiến lược có thể gần như tập trung hoàn toàn cho vùng đất từ Đèo Ngang trở ra;

- Ngược lại, trong chiến dịch 54-55, có dự kiến là, nhờ khối cơ động chiến lược đã được hình thành, thái độ chiến lược của ta sẽ là tấn công và ngay từ mùa thu 1954, ta sẽ tìm cách đánh một đòn quyết định vào khối cơ động chiến lược Việt Minh bằng cách tấn công nó ở một trong những địa bàn có tính sống còn.

Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #103 vào lúc: 07 Tháng Ba, 2009, 04:37:05 pm »

B - Việc thực hiện kế hoạch của Tổng tư lệnh

Trước việc thực hiện này, vào mùa hè 1953, đã có những cuộc hành quân cục bộ trong vùng châu thổ, ngoài vùng châu thổ trên các tuyến giao thông, ở Trung Trung Kỳ và vùng duyên hải chủ yếu nhằm mục đích giành lại ưu thế tinh thần so với địch và trả lại cho quân đội ta một khí thế tấn công mà chiến dịch Đông Xuân trước đã làm mai một.

Khoảng cuối hè 1953, nhiều thông tin đã khiến Tổng tư lệnh nghĩ, và sau đó chắc chắn rằng sau cuộc hành quân dạo đầu ở Nà sản - kế hoạch của bộ chỉ huy Việt Minh là tấn công mạnh mẽ vùng châu thổ trong chiến dịch Thu Đông 53-54.

Đầu tháng 9, sau khi rút quân khỏi Nà Sản nhằm mục đích tước của địch một cơ hội thắng ta một cách rẻ tiền, ta đã chuẩn bị để đương đầu với một cuộc tổng tấn công ở châu thổ mà chúng ta đã biết một cách chắc chắn những nét lớn trong kế hoạch của họ (...)

Cùng lúc ấy, có một sự kiện chính trị có tầm cỡ lớn; lời tuyên bố của ông Hồ Chí Minh về khả năng có một nền hòa bình thỏa hiệp.

Hai sự kiện ấy đã khiến bộ chỉ huy tối cao Việt Minh thay đổi hoàn toàn kế hoạch của họ.

Từ bỏ ý định tấn công châu thổ, họ đã xây dựng một kế hoạch trước hết có ý nghĩa chính trị nhằm vẽ lại một bản đồ chiến sự nổi bật bằng cách chiếm đóng, hay đúng hơn là chứng tỏ sự có mặt của mình trong những địa bàn rộng lớn đó, vào thời điểm có thương lượng hòa bình, họ sẽ có thể tuyên bố là họ làm chủ các địa bàn ấy.

Kế hoạch mới này gồm:

- Hoàn toàn nắm lấy vùng thượng du Bắc Kỳ và xóa sạch các vùng du kích của ta ở đó;

- Chiếm Trung Lào và Nam Lào;

- Chiếm Bắc Lào;

- Chiếm vùng phía Bắc cao nguyên và bắt liên lạc với các bộ phận tiền tiêu về phía Nam Lào.

Kế hoạch này đã thể hiện trong hành động như sau:

- Bộ phận lớn của khối cơ động chiến lược (khoảng ba đại đoàn rưỡi cộng với đại đoàn nặng) tiến lên vùng cao.

Trước sự tăng cường lực lượng ấy, một mặt nhằm quét sạch các khu du kích của ta khỏi vùng thượng du Bắc Kỳ và vùng Bắc Lào, mặt khác, nhằm tràn xuống Luông Prabăng và Viêng Chăng, ta đã đỡ đòn bằng cách chiếm đóng Điện Biên Phủ, ở đó, với 12 tiểu đoàn ta đã cầm chân 30 tiểu đoàn địch;

- Một đại đoàn tăng cường một trung đoàn tấn công Trung Lào.

Chống lại cuộc tấn công này, chúng ta đã phòng bị bằng cách tổ chức căn cứ không - bộ binh Sênô. Căn cứ này cho phép ta nhanh chóng chặn đứng bước tiến của địch và ném đại bộ phận lực lượng chúng về biên giới Lào - Trung Kỳ trong vùng Nà Phao (...)

- Địch tấn công cao nguyên buộc ta rút bỏ Kontum, nhưng ta đã trụ lại ở vùng Plâyku.

Về phía chúng ta, ngày 20 tháng 1, ta mở màn chiến dịch Atlante mà mục tiêu, như đã nói ở trên, là chiếm vùng của Việt Minh từ mũi Varella đến Đà Nẵng.

Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #104 vào lúc: 07 Tháng Ba, 2009, 04:37:14 pm »

Tóm lại, vào ngày 1 tháng 3 năm 1954, kế hoạch của Tổng tư lệnh đã diễn ra gần giống như dự kiến. Cuộc tấn công của Việt Minh ở thượng du Bắc Kỳ và Bắc Lào bị chặn đứng ở Điện Biên Phủ và ta đã phá âm mưu địch định dùng một đại đoàn tập kích Bắc Lào. Ở Trung Lào, đại bộ phận lực lượng Việt Minh đã bị đẩy lùi sau nhiều trận ác liệt. Tuy nhiên Việt Minh vẫn còn thâm nhập nhiều vào Nam Lào. Trên cao nguyên, tình hình có vẻ gần như ổn định. Chiến dịch Atlante diễn ra đúng tiến độ dự kiến.

Trong tuần đầu tháng 3, Tổng tư lệnh có cảm tưởng là cuộc tấn công của Việt Minh đã đạt đến cực điểm và có những dấu hiệu thoái trào rõ rệt.

Đầu tháng 3, trong một chỉ thị gởi tất cả các tư lệnh vùng, Tổng tư lệnh đã ra lệnh cho quân đội ta tiến hành tổng tấn công trở lại.

Nếu, trên bình diện hoạt động tác chiến, tình hình có vẻ diễn tiến khá thuận lợi thì, ngược lại, trên phương diện xây dựng khối cơ động chiến lược, bộc lộ nhiều điểm rất đáng lo lắng. Như đã nêu trên, việc phát triển khối cơ động chiến lược tùy thuộc chủ yếu vào sự phát triển các Quốc gia liên kết và đặc biệt là quân đội Việt Nam, với tiến độ dự kiến. Thế nhưng, vì nhiều lý do thật ra có tính chính trị hơn là quân sự, sự phát triển ấy rất chậm trễ và thậm chí có vẻ thui chột nghiêm trọng.

C. Cuộc tổng tiến công của Việt Minh

Tuy nhiên, ngày 18 tháng 2, một sự kiện mới xuất hiện sẽ làm thay đổi hoàn toàn diễn biến tiếp theo của chiến dịch: Hội nghị Berlin quyết định triệu tập tại Genèva một cuộc hội nghị sẽ thảo luận về khả năng hoà bình ở Đông Dương.

Ngay từ ngày 20 tháng 2, chính phủ Việt Minh quyết định gia tăng cường độ chiến tranh để làm áp lực với hội nghị và duy trì áp lực ấy đến khi hội nghị kết thúc, nghĩa là theo họ, ít nhất cho đến cuối tháng 6.

Trong thực tế, họ đã phát động tổng tấn công bắt đầu từ ngày 15 tháng 3 và kéo dài theo dự kiến hiện nay là ít nhất đến ngày 30 tháng 6.

Đối với bộ chỉ huy tối cao của Việt Minh, vấn đề là :

- Một mặt, giành thắng lợi quân sự nổi bật trước và trong hội nghị Genèva;

- Mặt khác, thực hiện "bản đồ chiến sự tối ưu", ít nhất ở vẻ ngoài, bằng cách chứng tỏ sự có mặt của quân đội chủ lực Việt Minh trong toàn cõi Đông Dương.

Cuộc chiến có các biểu hiện sau đây:

- Việt Minh tấn công Điện Biên Phủ và tập trung ở đó đại bộ phận khối cơ động chiến lược.

- Chiến tranh du kích tăng cường chưa từng thấy ở châu thổ Bắc Kỳ, nỗ lực chủ yếu của địch nhằm vào các đường giao thông và sân bay của ta;

- Địch hoạt động lại ở Trung Lào, đưa các tiểu đoàn thâm nhập Nam Lào tiến xa hơn về phía Nam và đưa chúng sang Campuchia, nơi chúng được lệnh mở những cuộc đột kích rất sâu trong lãnh thổ Campuchia;

- Địch đánh lại ở cao nguyên và vùng hậu phương của chiến dịch Atlante;

- Tình hình chính trị ung thối nghiêm trọng ở Nam Việt Nam và Campuchia.

Kết quả là ngay trong mùa xuân này ta bị lôi cuốn vào cuộc giao chiến toàn diện với toàn thể khối cơ động chiến lược Việt Minh, cuộc giao chiến toàn diện mà theo kế hoạch ta phải đẩy lùi đến tháng 10 năm 1954, khi khối cơ động chiến lược của ta đủ mạnh để chấp nhận giao chiến trong điều kiện thuận lợi. Vì nó đã diễn ra tám tháng sớm hơn dự kiến, nên không nghi ngờ gì nữa, cuộc giao chiến toàn diện với Việt Minh hiện đang đặt ta vào tình thế khó khăn nghiêm trọng.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #105 vào lúc: 07 Tháng Ba, 2009, 04:38:09 pm »

II. TÌNH HÌNH QUÂN SỰ HIỆN NAY VÀ TRIỂN VỌNG TRƯỚC MẮT.

Ở khắp nơi, quân đội ta đã vào chiến dịch không ngừng nghỉ từ đầu tháng 9 - đều rất mệt mỏi. Tuy nhiên, các đơn vị thuộc lực lượng viễn chinh vẫn giữ tinh thần hăng hái. Trong các đơn vị quân đội liên kết, tinh thần kém hơn: Nó còn khá vững ở lính Lào (tuy nhiên phải tính là chất lượng của họ rất xoàng), nó giảm sút rất rõ ở lính Việt Nam và ở mức thấp nhất đối với lính Campuchia. Quân Campuchia chưa được đưa vào tham chiến, nhưng kể từ khi mất cán bộ khung người Pháp, các đơn vị này hoàn toàn suy sụp.

Tuy nhiên, chúng ta vẫn giữ vững ở khắp nơi, dù một cách khó khăn.
Ở Điện Biên Phủ. Tập đoàn cứ điểm chỉ còn nối liền với thế giới bên ngoài bằng một cầu hàng không chỉ hoạt động một chiều vì không còn giải tỏa được thương binh. Tập đoàn này đang chờ đợi cuộc tấn công của địch, tuy nhiên cũng không chắc chắn vì rất có thể là địch sợ tổn thất, nhất là sợ thất bại sẽ ảnh hưởng tai hại đến hội nghị Genève, nên thích chọn giải pháp bóp nghẹt hơn.

Ở châu thổ. Chúng ta đã gặp khó khăn lớn trong việc bảo vệ các trục đường giao thông chủ yếu - đặc biệt là tuyến đường bộ và đường sắt Hải Phòng - Hà Nội (các sân bay và kho hàng của ta) có thể sẽ có những thất bại cục bộ, kể cả thất bại nặng. Tuy nhiên, theo tôi, không đáng lo sẽ có những thất bại nghiêm trọng, vì tướng tư lệnh F.T.N.V. có đủ lực lượng để tránh thất bại như vậy. (....)

Như vậy, triển vọng trước mắt không có gì đáng lo.

Tuy nhiên, tình hình có thể trở nên ngày càng nghiêm trọng với thời gian, binh sĩ sẽ ngày càng mệt mỏi. Cho đến nay, ở Đông Dương luôn luôn có thời gian tạm ngừng các cuộc hành quân vào đầu mùa mưa, nghĩa là khoảng tháng 5. E rằng năm nay sẽ không có thời gian tạm ngừng ấy hoặc nó sẽ bị hoãn lại rất nhiều.

Trong thực tế, rầt nhiều điều tùy thuộc vào Điện Biên Phủ. Nếu tập đoàn cứ điểm thất thủ sau thời gian đề kháng ngắn ngủi, tác dụng sẽ rất tồi tệ và ta phải lo ngại những hậu quả xấu nhất. Tinh thần binh lính suy sụp (đặc biệt là trong quân đội liên kết và có lẽ sẽ có cả những vụ đào ngũ), các đại đoàn Việt Minh chiến thắng tiến về Luông Prabăng hoặc quay trở về châu thổ.

Việc tập đoàn cứ điểm đã giữ vững trong vòng 40 ngày khiến cho bây giờ hậu quả tinh thần sự thất thú bớt nghiêm trọng hơn, hậu quả vật chất cũng giảm nhẹ đi: Chúng ta bị ảnh hưởng vì sự tổn thất những đơn vị thiện chiến, nhưng bây giờ đã quá muộn.

Như vậy, Điện Biên Phủ thất thủ sẽ chỉ có hậu quả rất nghiêm trọng trong chừng mực nước Pháp và Việt Nam trong tình hình này lại buông xuôi, chán nản và bỏ cuộc.

Điều chắc chắn là hai quân đội sắp kết thúc chiến dịch vào đầu hay giữa mùa hè - thời điểm tùy thuộc lúc kết thúc hội nghị Genève trong tình trạng mệt mỏi, tiêu hao đến nỗi cả hai sẽ phải cần thời gian rất dài để củng cố lại; và nếu, trong mùa chiến dịch tới, chiến tranh Đông Dương vẫn giữ tính chất như hiện nay, thì quân đội giữa đôi bên, quân đội nào củng cố và lấy lại thế công sớm hơn, chắc chắn quân đội ấy sẽ thắng.

Kể cả nếu chỉ phải đối đầu với khối cơ động chiến lược Việt Minh gồm có pháo, một lực lượng phòng không quan trọng, nhiều xe cơ giới, có thể có cả chiến xa, nhưng không có máy bay, thì khối cơ động chiến lược mà ta hy vọng xây dựng khi chiến dịch mở màn trở lại sau Genève, trong khuôn khổ những dự án đang thực hiện (nỗ lực của Pháp dừng lại ở mức quân số hiện nay và quân đội Việt Nam tăng lên theo dự kiến), sẽ là hoàn toàn không đủ sức để đương đầu với khối cơ động chiến lược Việt Minh như vừa mô tả trên đây. 

Bởi vì phải tiến hành cuộc "chiến tranh khác", cho nên ta cần một "khối cơ động chiến lược khác": Có nhiều máy bay hơn (máy bay tiêm kích, máy bay ném bom hạng vừa và nặng - không quân ấy sẽ cần một cơ sở hạ tầng quan trọng hơn bây giờ nhiều), có nhiều pháo hơn (nhất là pháo hạng nặng), nhiều hơn về công binh, chiến xa v.v...

Tuyệt đối không thể trông cậy quân đội Việt Nam có thể đóng góp về không quân trước thời hạn nhiều tháng, họ cũng không thể góp phần hình thành khối cơ động chiến lược có tầm cỡ về số lượng và nhất là chất lượng như ta mong muốn.

Mặt khác, hình như không thể tính đến chuyện Pháp muốn hay thậm chí là có thể cung cấp nỗ lực đơn phương về cán bộ và quân số - bởi vì nỗ lực về tiền và trang bị giả định là do Hoa Kỳ đảm trách .

Như vậy hội nghị Genève thất bại gần như sẽ không tránh khỏi dẫn đến việc quốc tế hóa cuộc chiến tranh.

Nhiều lắm, có lẽ nước Pháp chỉ có thể gắng cung cấp một mình một nỗ lực cuối cùng vào mùa thu 1954, tìm cách khai thác sự tiêu hao quan trọng của khối cơ động chiến lược Việt Minh sau chiến dịch này. Thật vậy, không nghi ngờ gì nữa, khối cơ động chiến lược này sẽ cần thời gian khá dài để xây dựng lại, nhất là nếu nó chịu đựng chiến dịch hết một phần thời gian mùa hè, chuyện này rất có thể xảy ra. Nó sẽ cần cũng cố lại khung cán bộ và quân số. Nếu nó muốn trang bị hiện đại, nó phải mất nhiều tháng. Như vậy ít có khả năng có có thể vào chiến dịch trước thời điểm giữa mùa đông, trong tình trạng được củng cố và trang bị hiện đại hơn.

Ở đây có một cơ hội mà ta có thể lợi dụng, để ngay từ mùa thu, giáng cho Việt Minh đòn rất nặng ít nhất có thể dẫn họ đến chỗ phải thương lượng trực tiếp và cho phép ta gỡ lại thất bại ở Genève.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #106 vào lúc: 07 Tháng Ba, 2009, 04:38:46 pm »

III. VẤN ĐỀ QUÂN SỰ TẠI HỘI NGHỊ GENÈVE 

Những nhận xét trên về hậu quả một thất bại ở Genève, ngược lại, cho thấy lợi ích của việc cố gắng đạt được thành công tại hội nghị ấy.

Thật vậy, chỉ có thành công, nó mới bù đắp và lý giải được những thiệt hại rất nghiêm trọng mà cuộc hội nghị ấy đã gây cho ta ngay từ khi nó chưa khai mạc; vì chính nó đã khiến Việt Minh tổng tấn công vào thời điểm ta chưa sẵn sàng đối phó. Thành công của hội nghị cũng sẽ tránh được những thiệt hại còn nghiêm trọng hơn mà nó sẽ gây cho ta trong trường hợp nó thất bại .

Chiến sĩ ta, tất cả đều mệt mỏi sau một chiến dịch dài mà họ chưa thấy chừng nào kết thúc, một số tinh thần rất kém vững chắc, dễ bị tuyên truyền của Việt Minh tác động (tôi nói đến quân đội các quốc gia liên kết), sẽ là nạn nhân liên tiếp bị đội vào những hy vọng rồi thất vọng do các tin tức hoặc đúng hoặc sai phổ biến trên báo chí gần như không chịu sự kiểm soát nào. Như vậy, sợ rằng họ đã nhanh chóng xuống tinh thần và trong trường hợp thương thuyết thất bại, rất khó đưa họ tiếp tục tiến lên. Cũng sẽ là trong quá trình thương thuyết, nếu như kéo dài, sẽ có đào ngũ trong quân đội các quốc gia liên kết; hiện tượng đào ngũ sẽ càng nghiêm trọng vì nếu các cuộc hành quân tiếp diễn, địch có thể khai thác ngay và làm chúng ta lâm vào hoàn cảnh khó khăn.

Giải pháp đình chiến trước khi thương thuyết rõ ràng làm các nhà ngoại giao của ta mất lý lẽ quân sự, nhưng ở trên đã nói lý lẽ này có giá trị tương đối ra sao.

Trong trường hợp thương thuyết gián đoạn, giải pháp này sẽ khiến cho Pháp gần như không thể tiếp tục chiến đấu một mình; nhưng hình như nó không cấm cản ta tiếp tục chiến đấu trên cơ sở hoàn toàn mới, chẳng hạn có sự can thiệp ồ ạt của Mỹ.

Nhưng cái lợi chủ yếu của giải pháp này, nếu ta nhanh chóng chọn nó, là ổn định ít nhất là trên lý thuyết. Một tình hình quân sự nhìn chung vẫn còn khá thuận lợi. Nếu ta đại thương thuyết xong, mới ngừng bắn, cho rằng trong thời gian đó, vì những lý do đã nêu trên, tình hình càng xấu đi lập trường thương thuyết của địch sẽ cứng rắn hơn.

Cách đối phó duy nhất là gởi quân chi viện sang trong quá trình thương thuyết, để gây áp lực với cuộc thương thuyết tương tự như Việt Minh đã quyết tâm làm; đồng thời tác động đến tinh thần binh sĩ bằng cách chỉ cho họ thấy hòa bình không phải là điều chắc chắn và trong trường hợp đánh nhau trở lại, ta cũng sẵn có những phương tiện quan trọng.

Kết luận, phương hướng hành động rốt cuộc quay về hai điểm:

- Hoặc là ngừng bắn trước khi thương thuyết, với tất cả những bất lợi của giải pháp này;

- Hoặc là thương thuyết mà không ngừng bắn, nhưng, trong trường hợp này, ngay từ đầu cuộc thương thuyết phải hành động như là nó sẽ phải thất bại, tức là tích cực và công khai chuẩn bị để trong trường hợp thương thuyết bị cắt đứng, có thể tiến hành ngay lập tức cuộc chiến tranh với cường độ gia tăng, tiến hành bằng những phương tiện to lớn ..
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #107 vào lúc: 08 Tháng Ba, 2009, 01:03:04 pm »

Thứ năm ngày 22 tháng 4

Trong trường hợp Điện Biên Phủ thất thủ, sợ tình hình nghiêm trọng hơn ở châu thổ, Cogny điện cho Navarre là tình hình ở đó tiếp tục xấu đi. Các cuộc giao tranh, các trận phục kích tiếp diễn, mỗi làng đã biến thành một pháo đài, đường sá chỉ đi lại được từ trưa và đến chiều bị cắt đứt ngay; nông dân ban ngày bị huy động đi sửa đường thì ban đêm cũng chính họ cắt đường; mìn có vỏ bằng gỗ không thể rà theo kiểu cổ điển được, thế là chúng thường nổ tung vào lúc người ta tưởng nguy cơ đã bị gạt đi rồi; xe bị phá hủy chất đống ở ven đường.

Cogny láo xược yêu cầu Navarre thông tin cho chính phủ biết tình hình thực tế của châu thổ và hỏi ông định tiếp tục kế hoạch Condor như thế nào.

Ông Charles Favrel, đặc phái viên báo Le Monde bay trên bầu trời Điện Biên Phủ trong vòng 4 giờ đồng hồ, ngồi trên một chiếc Dakota có nhiệm vụ điều khiển nhảy dù. Ông ngạc nhiên và bất bình khi nghe chỉ huy trưởng cuộc hành quân ban hành mọi mệnh lệnh mà không dùng mật mã và do đó, đồng thời thông tin cho địch mọi ý đồ của mình. Ngày hôm đó, bảy chiếc Packet bị đại liên 12,7 bắn trúng. Bốn máy phát điện bị rơi xuống chỗ quân Việt. Tình hình khí tượng xấu đến nỗi máy bay tiêm kích và máy bay ném bom không bay được. Chỉ có máy bay vận tải đương đầu được với mưa giông và thả hàng thành công.

Cứ điểm 206 bị vây kín. Không nhận được hàng tiếp tế gì nữa cả. Biệt phái đi đồi A1 một thời gian, đại úy Capeyron cho bắn ĐKZ 75 nhằm vào quân Việt mà anh trông thấy đi dưới đường hào, cách đó 50 mét. Ngay sau đó, pháo địch buộc anh phải câm họng.

Ban đêm; địch tấn công cứ điểm 206 sau khi đã đánh nghi binh suốt ngày làm quân phòng thủ mỏi mệt và căng thẳng. Mặc dù họ không hề đi thực tập ở Bắc Phi và không nghiên cứu trận Verdun, quân Việt vẫn tái tạo lại mọi mưu kế trong chiến tranh hầm hào mà các đơn vị đã học tập từ một năm qua. Họ đội nón cát lên đầu gậy, bắn phi tiễn, gây báo động, reo hò. Khi cuộc tấn cộng thực sự bắt đầu, không ai còn tin nữa và thế là lớp con cháu của các chiến sĩ Verdun bị tràn ngập.

KẾT LUẬN CỦA MỘT BỨC ĐIỆN DÀI CỦA ÔNG DEJEAN GỬI CHÍNH PHỦ

Sau khi trình bày tình hình đã trở nên nghiêm trọng, ông Tổng ủy viên viết: 

Từ toàn bộ những nhận xét ấy, kết cuộc là, mặc dù đội quân đồn trú ở Điện Biên Phủ chiến đấu dũng cảm và có hiệu quả đến đâu, mặc dù không quân chiến đấu và vận tải của ta anh hùng và tài giỏi một cách tuyệt diệu đến đâu, trận đánh chỉ có thể xoay chuyển có lợi cho ta khi có hành động từ bên ngoài. Cách đây một thời gian, bộ chỉ huy tối cao của Mỹ hình như có nghĩ đến chuyện đó. Nhưng bây giờ, hình như chính phủ Mỹ không sẵn sàng nữa, mặc dù họ vẫn đề cao ban tham mưu tiến hành một số công tác chuẩn bị kỹ thuật.

Ngoại trừ một hành động như vậy, và dù triển vọng ấy đau lòng đến đâu, ta vẫn buộc phải dự kiến khả năng, trong thời gian nào đó, những người bảo vệ Điện Biên Phủ hoặc sẽ bị tràn ngập, hoặc có nhiều khả năng hơn là bị bóp nghẹt.

Một thất bại như thế sẽ có hậu quả quân sự và chính trị vô cùng nghiêm trọng.

Thứ sáu ngày 23 tháng 4

Việt Minh đến giữa sân bay Điện Biên Phủ.

Mất cứ điểm 206.

Hội đàm Dulles - Bidault ở Paris.

Cogny điện cho Navarre để, một lần nữa, xin chỉ thi về cuộc hành quân Condor và báo cho Navarre biết là ông sắp phải cho nhảy dù xuống Điện Biên Phủ một tiểu đoàn trên nguyên tắc là dành cho Condor.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #108 vào lúc: 08 Tháng Ba, 2009, 01:04:32 pm »

NHỮNG GIỎ THAN CỦI ĐỂ CỨU ĐIỆN BIÊN PHỦ.
MẬT MÃ, MẬT, EMIFT GỬI FTNV

(Ban Tham mưu Đông Dương của các lực lượng Trên Bộ gởi các lực Trên Bộ Bắc Việt Nam )


Căn cứ văn thư số 87/cab/s của văn phòng Tổng Thư ký thường trực Bộ Quốc phòng. Stop. Nội dung: Mưa nhân tạo 150 giỏ than hoạt tính và 150 giỏ đồ dằn đã được gửi từ Paris ngày 24 tháng 4 bằng máy bay. Stop. Sẽ gửi bằng đường hàng không ra Hà Nội ngay sau khi nhận được.

ĐIỆN SỐ 05/01 CỦA TƯỚNG COGNY

1/ Nhịp độ tiêu hao quân ở G.O.N.O: Tổn thất trung bình mỗi ngày từ 14 đến 20 tháng 4: 120; ngày 21 và 22: 150.

2/ Còn lại tổng cộng 300 quân tình nguyện lê dương có chứng chỉ (nhảy dù).

3/ Quân số của G.O.N.O: Khoảng 8500 (người mạnh khỏe và bị thương nhẹ) bề ngoài có vẻ ít giảm sút, song số lượng người bị thương nhẹ đã trở lại chiến đấu từ đầu đến nay chỉ gần 2000. Tất cả đều mệt mỏi, các đơn vi ưu tú nhất đã bị thử thách nhiều nhất.

4/ Cứ điểm 206 bị mất trong đêm 22, 23. Sẽ mở cuộc hành quân ngay hôm nay để giành lại cứ điểm này sau khi không quân can thiệp. Castries đưa vào đây lực lượng dự định cuối cùng có giá trị và dự kiến cuộc hành quân sẽ tổn thất lớn. Do đó, yêu cầu thả dù một tiểu đoàn lê dương.

5/ Tiểu đoàn 2, trung đoàn 3 bộ binh lê dương không dùng được sau vụ quốc lộ 5 ngày 21 tháng 4. Tiểu đoàn 2, bán lữ đoàn 13 lê dương và tiểu đoàn 1, trung đoàn 3 bộ binh lê dương tình nguyện. Nhưng tiểu đoàn 2 bị tiêu hao và rất mệt mỏi sau các cuộc hành quân của "binh đoàn 4", còn tiểu đoàn 1 đóng chốt ở mặt Bắc. Xin nhắc những nhận xét của Sauvagnac và những kết luận của tôi ngày 21 tháng

6/ Còn lại giải pháp thả dù 1 tiểu đoàn của binh đoàn dù (G.A.P) và sẽ tái bố sung cho G.A.P. bằng một tiểu đoàn từ Pháp sang. Xin đặt vấn đề cuộc hành quân Condor, v.v...

Thứ bảy ngày 24 tháng 4

Trao đổi thư từ giữa ông Dulles và ông Bidault.

Đô đốc Radford đến Paris.

Nehru đề nghị một kế hoạch để chấm dứt chiến tranh Đông Dương.

Sắc lệnh ngày 23 tháng 4 được đăng trên Công báo: Được thăng cấp đặc cách: Đại tá Castries, thăng lên thiếu tướng; các trung tá Lalande và Langlais, thăng đại tá; các thiếu tá Bigeard và de Séguins-Pazzis, thăng trung tá.

Hôm qua một chiếc Packet bị phòng không bắn hỏng nặng, viên phi công dân sự bị thương vì hai quả đạn 37. Các tổ lái Mỹ không chịu thả hàng ở độ cao hạn chế. Thế nhưng, hàng trong bụng các máy bay vận tải ấy phải được trút từ rất thấp để hàng rơi đúng vị trí bên ta; và bởi vì người Mỹ không chịu bay nữa, nên cần thay họ bằng quân nhân Pháp. Để làm điều đó, cần có chỉ thị của Tổng tư lệnh, bởi vì tướng Cogny không thể ra lệnh cho các binh chủng khác. Kể cả trong trường hợp này ư? Kể cả khi số phận Điện Biên Phủ đang lâm nguy, vẫn phải nghiêm chỉnh tuân thủ đúng các qui định ư?

Cogny đánh điện để báo cáo và xin quyết định. Nhưng những phi công dân sự ấy là ai? Dó là những chàng Cọp Bay của cựu đại uý Clair Chennault, nay đã lãng tai. Cách đây 25 năm, ông biểu diễn tiết mục bay trước đám đông bên Mỹ. Năm 1942, được thăng cấp tướng, ông tuyển người lái máy bay tiêm kích mặc thường phục để chống quân Nhật, rồi năm 1946, thành lập Công ty Hàng không Dân sự ở Đài Loan để đón các nhà tư sản Trung Quốc đi di tản trước bước tiến cộng sản.

Với sự đồng ý của Bộ Ngoại giao Mỹ, ông đã cho lực lượng viễn chinh thuê 12 tổ lái với giá 2000 đô la mỗi tháng cho mỗi phi công, cộng các chi phí khác. Bốn tổ lái quân sự Pháp bổ sung con số 16 chiếc Packet mà quân đội Hoa Kỳ cung cấp cho không quân Pháp.

Là những phi công dạn dày qua chiến tranh 1939-1945, các Cọp Bay đông ý chấp nhận một số nguy cơ, theo hợp đồng, nhưng không buộc phải đương đầu với cái chết chắc chắn. Nếu phải phơi mình ra khi chúi mũi xuống lòng chảo đầy súng đại liên và đại bác rồi lại bay lên từ rất thấp, đúng vào lúc chiếc máy bay trút hàng như cái thùng lật của xe ben, thì họ gần như cầm chắc là máy bay bị diệt. Dù sao, dù họ có quyết tâm chống cộng đến đâu đi nữa, nhiệm vụ của họ không thể kèm theo cái khoản là dẫn họ đến chỗ chết, đâu có hợp đồng nào đắt giá đến thế.

Việc từ nay ta bỏ phương pháp thả hàng từ trên cao để thay bằng cách thả hàng ở là là mặt đất đã khiến họ quyết định đình công. Sau hơn 500 phi vụ trong đó họ đã chở 3000 tấn hàng cho Điện Biên Phủ, có thể chấp nhận là họ có quyền tha thiết giữ tính mạng của mình, vào thời điểm đã rõ ràng là Điện Biên Phủ sẽ thất thủ.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #109 vào lúc: 08 Tháng Ba, 2009, 01:06:36 pm »

ĐIỆN CỦA TƯỚNG NAVARRE    

1/ Tôi chia sẻ quan điểm của anh về tình hình Điện Biên Phủ.

2/ Tôi biết tình hình gay go ở châu thổ, nhưng tôi không đánh giá nó hay hơn và không chắc chắn là Điện Biên Phủ thất thủ sẽ ảnh hưởng đến châu thổ nghiêm trọng hơn là phần còn lại của Đông Dương. Tình hình đang gay go, căng thẳng ở khắp nơi vì lý do Việt Minh tổng tấn công. Tình hình thời thống chế de Lattre không liên quan gì đến tình hình hiện nay.

3/ Xin anh tin chắc rằng tôi đã thông báo cho chính phủ tình hình chính xác nhìn từ quan điểm toàn diện của Đông Dương chứ không chỉ từ quan điểm Bắc Kỳ.

4/ Đồng ý với anh về cái lợi nếu ta huy động lực lượng không quân đáng kể, xin anh tin rằng tôi không ngừng hoạt động nhằm mục đích ấy nhưng anh cũng thừa biết là quyết định không tuỳ thuộc tôi.

5/ Tôi cũng chia sẻ quan điểm của anh về kết quả mà ta nên chờ đợi từ cuộc hành quân Condor với quân số hiện có và ach cũng biết rõ như tôi rằng đó là quân số tối đa mà ta có thể bảo đảm yểm trợ bằng đường hàng không. Sắp tới tôi sẽ cho anh biết quyết định của tôi về vấn đề này.

6/ Trong điều kiện hiện nay, tôi thiên về hướng cho phép anh thả dù thêm một tiểu đoàn sau khi đã cho nhảy dù 300 lính lê dương còn lại, nếu diễn biến tình hình G.O.N.O. vẫn yêu cầu. Tôi sẽ quyết định vào ngày mai hay ngày mốt, sau khi anh kiểm điểm tình hình cho tôi biết.

TRẢ LỜI CỦA TƯỚNG COGNY

Tôi không hề nghi ngờ gì về việc ông đã thông tin cho chính phủ theo quan điểm toàn diện của Đông Dương, chứ không phải chỉ là quan điểm Bắc Kỳ. Chính để giúp ông bổ túc thông tin ấy mà tôi tha thiết muốn khẳng định ý kiến riêng mà tôi tin là khác với ý ông trên mấy điểm quan trọng.

1) Tính gay go của tình hình Bắc Kỳ và sợ rằng còn phát triển thêm. Xin xem lại những văn thư gần đây của tôi tôi không nhắc là ông chấp nhận điều ấy ở mức độ giống như tôi.

2) Khi tính chất gay go trong tình hình các vùng lãnh thổ khác ngang nhau, cần ưu tiên cho Bắc Kỳ. Tôi nhắc lập trường của thống chế de Lattre là về điểm này.

Điều phối lại lực lượng Đông Dương để hình thành khối cơ động tại châu thổ, theo tôi là cơ may duy nhất để cứu Điện Biên Phủ bằng hoạt động trên bộ. Ngoài tác dụng quân sự sẽ còn có tác dụng tâm lý rất quan trọng đối với hội nghị Genève, và nó sẽ bù đắp được cho tác hại do việc giảm bớt vị trí của ta và từ bỏ các cuộc hành quân trên các vùng lãnh thổ khác. Hơn nữa, trong trường hợp Điện Biên Phủ thất thủ, khối cơ động ấy sẽ bảo đảm giữ châu thổ, vị trí mà tôi cho là sống còn đối với Đông Dương và chính yếu trên bình diện quốc tế..

Tôi hoàn toàn hiểu rõ là ông muốn có hoạt động mạnh mẽ của không quân cho Điện Biên Phủ nhưng, như chính ông nhấn mạnh, ông không có quyền quyết định, ngược hẳn với điểm trên kia. Thế nhưng, kéo dài thời gian hiện nay hết sức nghiêm trọng đối với việc bảo toàn Điện Biên Phủ.

ĐIỆN CỦA TỔNG TƯ LỆNH (số 668) 22 giờ 20 phút

Yêu cầu anh trả lời gấp những câu hỏi sau đày, mà tôi cần để có những quyết định khẩn cấp:

1) Cho biết ý kiến của anh xem Điện Biên Phủ có khả năng kéo dài độ bao lâu trong trường hợp có hoặc không có chi viện, giả định là địch tiếp tục chiến thuật hiện tại, không tiến hành tổng tấn công.

2) Anh có ủng hộ tăng cường cho Điện Biên Phủ không?

3) Nếu có, tăng cường bằng những tiểu đoàn dù hay lực lượng lê dương tình nguyện biệt phái?

4) Anh có còn ủng hộ cuộc hành quân Condor không, mặc dù anh dã tỏ ý dè dặt về mức độ giảm áp lực cho Điện Biên Phủ? Nếu không, xin cho biết lý do. Tôi nói rõ chỉ có thể thực hiện Condor với sự tham gia của binh đoàn dù (G.A.P)

Tình hình khí tượng: Ngày 25 tháng 4, trở lại gió đông nam nóng và ẩm gây mưa phùn ở châu thổ, mưa giông trên lộ trình, sương mù, sương mù khô và mưa lớn ở Điện Biên Phủ ... thời tiết này tiếp tục cho đến khi Điện Biên Phủ thất thủ.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM