Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 09:44:03 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: An Nam Chí Lược - Lê Tắc  (Đọc 34306 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
lonesome
Moderator
*
Bài viết: 1244


« Trả lời #50 vào lúc: 19 Tháng Hai, 2009, 10:52:03 pm »

An-Nam Chí-Lược
Quyển Đệ Cửu
[/b]
Cổ - Ái Đông-Sơn Lê-Tắc Biên

Các quan Đô-Đốc, Đô-Hộ, Kinh-Lược-Sứ An-nam và các quan Thứ- Sử ba quận Giao, Ái, Hoan, đời nhà Đường

Lý-Đại-Lượng

Đầu niên hiệu Trinh-Quán (627), Đường Thái-Tông, làm Đô-Đốc Giao-Châu.

Lý-Thọ

Tôn-Thất nhà Đường, làm Đô-Đốc Giao-Châu, vì tham-lam bị tội.

Lư-Tổ-Thượng

Tự là Quý-Lương, người Quang-Châu. Đầu niên hiệu Trinh-Quán (627), Lý-Thọ bị tội, Thái-Tông muốn tìm một vị Châu-Mục xứng đáng, triều đình đều khen Tổ-Thượng tài gồm văn võ, tính người liêm bình công trực. Vua vời đến bảo rằng: "Giao-Châu là một phiên-trấn lớn, cần có kẻ hiền trông coi, lâu nay các quan Đô-Đốc đều không xứng chức, khanh có tài yên vỗ biên-thuỳ, khá vì ta ra đó trấn nhậm, chớ vì đường sá xa xuôi mà từ chối". Tổ-Thượng tạ ơn, nhưng sau lại hối hận, lấy cớ bệnh-tật từ chối. Vua khiến Đổ-Như-Hối khuyên dỗ, Tổ-Thượng cố từ; vua lại khiến anh vợ ông là Châu, Phạm qua dụ rằng: "Kẻ thất-phu hứa với nhau cũng còn giữ tín, khanh đã hứa trước mặt trẩm, há được ăn-năn, nên hãy sớm đi qua, ba năm ắt có chiếu triệu về, khanh chớ thối thác, trẩm quyết chẳng nuốt lời". Thượng tâu rằng: "Lĩnh-Nam nhiều chướng khí, đã đi không thể trở về". Thái-Tông nổi giận phán rằng: "Ta khiến người không chịu đi, làm sao làm việc nước cho được?". Bèn khiến chém ngay ở trước triều đường. Sau vua hối hận, cho phục lại quan-tước, con cháu được tập ấm.

Lý-Đạo-Hưng

Tôn-thất nhà Đường, được phong Quảng-Ninh Quận-Vương, sau vì có lỗi bị giáng phong Huyện Công. Năm Trinh-Quán thứ 9 (635), làm Đô-Đốc Giao-Châu, vì ở phương nam khí hậu độc địa, sinh lo, chết trong lúc đương làm quan.

Lý-Đạo-Ngạn

Trong thời Trinh-Quán (627-649), làm Thứ-Sử Giao-Châu, Rợ Lèo (sơn liêu) làm phản, Đạo-Ngạn dẹp yên.

Lý-Giám

Con của Ba-Vương Thần-Phù, làm Thứ-Sử Giao-Châu.

Liễu-Sở-Hiền

Người Bồ-Châu, thời Trinh-Quán, (627-649), làm Đô-Đốc Giao-Châu và Quế-Châu.

Đỗ-Chính-Luân

Người châu Tương. Vua Thái-Tông biết tiếng, cho làm chức Trung-Thư Thị-Lang, Thái-Tử Tả- Thứ-Tử. Vì Thái-Tử Thừa-Kiền bị truất, biếm Chánh-Luân làm Đô-Đốc Giao-Châu.

Đậu-Đức-Minh

Làm Thứ-Sử Ái-Châu đời Đường.
 
Nịnh-Đạt

Thời Tắc-Thiên (Vũ-Hậu), (685-705), làm Thứ-Sử Ái-Châu.

Chử-Toại-Lương

Tự là Đăng-Thiện, người Tiền-đường, con của Chử-Lượng, làm chức Trung-Thư-Lệnh, cuối thời Trinh-Quán (649), đổi làm Đô-Đốc Đàm-Châu và Quế-Châu. Sau đó, Hứa-Kính-Tông và Lý-Nghĩa-Phủ vu tấu Toại-Lương làm phản. Vũ-Hậu giận, biếm làm Thứ-Sử Ái-Châu, được hơn một năm thì mất. Hai người con là Ngạn-Phủ và Ngạn-Hàm-Thông thứ 5 (864), Cao-Biền bình định An-nam, mới tấu xin đưa di-hài về Dương-Địch.

Sài-Triết-Uy

Triều Cao-Tông (650-683), bị liên luỵ vì em là Lệnh-Vũ theo Phòng-Di-Ái làm phản, phải đày ra
Thiệu-Châu. Sau lại được tha, cho làm Đô-Đốc Giao-Châu.

Lang-Dư-Khánh

Làm quan thanh liêm, nhưng tính khắc bạc, dần-dần thăng lên chức Ngự-Sử Trung-Thừa, sau vì bị lỗi, giáng làm Thứ-Sử Giao-Châu.

Lưu-Diên-Hựu

Trong năm Thùy-Củng thứ 3 (687), làm An-nam Đô-Đốc. Lệ cũ, dân quê hằng năm nạp nữa thuế, Diên-Hựu bắt nạp toàn phần, chúng oán và mưu phản. Diên-Hựu giết người cầm đầu là Lý-Tự- Tiên; dư đảng là Đinh-Kiến giết Diên-Hựu, chiếm cứ Giao-Châu. Tư-Mã Quế-Châu là Tào-Huyền-Tĩnh đánh chém được Đinh-Kiến.

Lưu-Hựu

Đời nhà Đường, làm An-nam đô-hộ, nhà giàu có lớn, mỗi lần nuôi gà lợn, có chết con nào, bắt
đày tớ bồi thường gấp đôi và chẳng bao giờ ăn một món gì ngon.

Nguyên-Sở-Khách
(1)

Người Giang-Lăng, đầu niên hiệu Khai-Nguyên (713), đổi ra làm An-nam đô-hộ, cùng Dương-Tư- Húc dẹp yên loạn Mai-Thúc-Loan.

Tống-Chi-Đế

Em của Tống-Chi-Vấn, người cao tám thước. Trong khoảng niên-hiệu Khai-Nguyên (713-741), đã từng làm Kiếm-Nam Tiết-Độ-Sứ và Thái-Nguyên-Doãn, bị tội đày ra quận Chu-Diên. Lúc ấy có giặc Mán đánh hãm Hoan-Châu, Chi-Đễ được bổ chức Giao-Châu Tổng-Quản, dẹp yên quân Mán.

Đỗ-Minh-Cử

Người Dương (?), cuối đời Cảnh-Long nhà Đường (709), làm quan Uý quận Tế-Nguyên, nằm chiêm bao thấy đi vào một phủ-đường, gặp một người mặc áo xanh, vái chào rất cung kính và nói rằng: "Ông sẽ làm An-nam đô-hộ, tôi là dân An-nam, nên đến đây chào mừng trước, xin ông hãy giữ gìn quí thể". Sau quả nhiên, Minh-Cử làm An-nam đô-hộ.

Hà-Lý-Quang

Người Quế-Châu, năm Thiên-Bửu thứ 10 (751) làm An-nam đô-hộ, đem quân đánh Vân-Nam, thâu phục thành An-Ninh, dựng lại trụ đồng của Mã-Viện để định cương giới.
-----------------------------------------------------
(1) Việt-sử Thông-giám chép: Quang-Sở-Khách.
Logged
lonesome
Moderator
*
Bài viết: 1244


« Trả lời #51 vào lúc: 19 Tháng Hai, 2009, 10:57:32 pm »

Trương-Bá-Nghi

Làm An-nam Kinh-Lược-Sử đời nhà Đường, bắt đầu đắp thành Đại-La.

Khang-Khiêm

Lái buôn ở phương Bắc, làm An-nam đô-hộ.

Triều-Hoành

Người Nhật-Bản, trong khoảng niên hiệu Khai-Nguyên (713-741) đem hóa-phẩm đến triều-kiến, hâm-mộ phong-hóa Trung-Hoa, nhơn lưu ở lại, đổi tên là Triều-Hoành, nhiều lần sang sứ Trung-Quốc. Năm Vĩnh-Thái thứ 2 (1), Triều-Hoành làm An-nam đô-hộ. Thời ấy có quân Mán xâm phạm cảnh giới hai châu Đức-Hoá và Long-Vũ, vua xuống chiếu khiến Triều-Hoành qua dẹp yên.
---------------------
1 Vĩnh-Thái là niên hiệu của Đại-Tông nhà Đường, chỉ có một năm đầu là năm 765 sau công-nguyên.

Phụ-Lương-Giao

Năm Kiến-Trung thứ 3 (782), đời Đường Đức-Tông, làm An-nam đô-hộ. Lúc ấy, Tư-Mã Diễn- Châu là Lý-Mạnh-Thu và Thứ-Sử Phong-Châu là Lý-Bỉ-Ngạn làm phản, tự xưng An-nam Tiết-độ Sứ, đều bị Lương-Giao bắt chém.

Cao-Chính-Bình

Làm An-nam Kinh-Lược.

Trương-Ứng

Đời nhà Đường, làm An-nam Kinh-Lược, chết đương lúc tại chức. Kẻ tá-nhị là Lý-Nguyên-Độ, dùng binh lực uy hiếp châu Huyện làm phản. Tướng nhà Đường là Lý-Phục dụ bắt được Nguyên-Độ, cỏi Nam trở lại yên lặng.

Triệu-Xương

Tự là Hồng-Tộ, làm Thứ-Sử Kiền-Châu. Gặp lúc tù-trưởng An-nam là Đỗ-Anh-Hàn làm phản, vua cho Triệu-Xương làm đô-hộ, mán rợ đều hoà theo. Xương ở An-nam mười năm, chân đau xin về. Vua phái Binh-Bộ Lang-Trung Bùi-Thái qua thay thế. Chưa bao lâu, châu-tướng Vương-Quý-Nguyên đánh đuổi Bùi-Thái. Đức-Tông đòi Xương đến hỏi thăm tình-hình, Xương tuổi hơn 70, tấu đối sáng suốt, vua lấy làm lạ, lại cho làm An-nam đô-hộ. Xương đến, người đều mừng rỡ, quân làm phản tức thì dẹp yên.

Bùi-Thái
Đã nói trên.

Trương-Châu

Nguyên trước làm An-nam kinh-lược phán-quan, đến đời vua Hiến-Tông, năm Nguyên-Hoà thứ 3 (808), đổi làm chức Đô-hộ Kinh-lược sứ. Quan Kinh-Lược trước là Trương-Bá-Nghi đắp thành Đại-La, thành chỉ cao hai trượng hai thước, mở ba cửa, cửa đều có lầu; đông tây mỗi phía đều có ba cửa, phía nam 5 cửa, trên cửa đặt trống còi, trong thành, hai bên tả hữu, đều cất 10 dinh. Thời Bùi-Thái, hai thành Hoan, Ái, bị Hoàn-Vương (tức vua Chiêm Thành) đánh phá tan tành, Trương-Châu cho sửa đắp lại. Lúc đầu trong quân đội, khí giới chỉ có 8.000 món, 3 năm lại đây tăng lên hơn 300.000 món. Châu khiến bộ- thuộc cất 30 gian lầu để chứa. Trước kia có chiến-thuyền vài mươi chiếc rất chậm chạp, Châu khiến đóng thành kiểu thuyền đồng-mông (2), 32 chiếc, mỗi chiếc chở thuỷ-thủ 25 người, trạo-phu 23 người, 2 cây nỏ bắn xe, thuyền chèo tới lui, mau như gió. Các nước Chiêm-Thành, Chân-Lạp đều lo tiến-cống. Châu chết, Liễu-Tử-Hậu làm văn tế.
-----------------------------------------------------------------------------------------
2 Đồng-mông là một loại chiến-thuyền, hẹp mà dài, dùng để xông vào đánh thuyền địch.

Mã-Tổng

Tự là Nguyên-Hội. Trong năm Nguyên-Hoà, Đường Hiến-Tông (806-820), đương làm Thứ-sử Kiền-Châu đổi qua làm An-nam đô-hộ, thanh liêm chẳng nhiễu dân, dùng nho thuật giáo hóa, dân mọi được yên. Mã-Tổng dựng cột đồng ghi công đức nhà Đường để tỏ rằng Tổng là giòng dõi của Phục-Ba.

(Hàn-Dũ làm bài thơ đưa chân có câu: "Hồng kỳ chiếu hải áp Nam-Hoang", nghĩa là cờ đỏ rực rỡ trên biển, đàn áp cõi Nam).

Lý-Tượng-Cổ

Tôn-thất nhà Đường, làm An-nam đô-hộ, tham lam chẳng giữ phép, gặp lúc Hoàng-Gia-Động làm phản, Tượng-Cổ giao cho Thứ-Sử Hoan-Châu là Dương-Thanh 3.000 binh để trợ chiến, Dương- Thanh trở lại tập kích giết Tượng-Cổ.

Quế-Trọng-Vũ

Làm Đô-Hộ đời Đường, dẹp yên loạn Dương-Thanh.

Bùi-Hành-Lập

Làm An-nam Kinh-Lược-Sứ, đời nhà Đường. Thời ấy có người phản thần của Hoàn-Vương (tức Chiêm-Thành) là Lý-Lạc-Sơn toan mưu cướp ngôi, đến xin quân viện. Hành-Lập bắt chém Lạc-Sơn trả thây lại cho Hoàn-Vương; người Chiêm-Thành vui lòng phục-tùng. Bộ-tướng Đỗ-Anh-Sách và Phạm-Đình- Chi là những tay hào hùng ở Khê-Động, lệ thuộc trong quân-đội. Các Kinh-Lược-Sứ trước hay dung túng làm lơ, nên chúng quen tính dữ tợn, buông lung khó trị. Hành-Lập mỗi khi bắt tội, trừng-phạt rồi để cho cố gắng lập công mà chuộc tội, bởi thế, Anh-Sách thường gắng sức lập công, còn Đình-Chi thường hay đi tắm gội, lâu chẳng về; Hành-Lập triệu về giao hẹn rằng: "phép quân đi quá ngày thì chém". Lần khác lại cứ thế, bèn đánh chết đem thây trả cho họ Phạm và chọn con em hiền lành thay thế. Từ ấy oai phong thịnh hành, thăng chức Quế-Quản Quan-Sát-Sứ. Hoàng-Gia-Động làm phản, Hành-Lập dẹp yên, bèn thay thế Quế-Trọng-Vũ làm An-nam đô-hộ.

Lý-Nguyên-Thiện

Làm An-nam đô-hộ, đầu niên hiệu Bửu-Lịch (825) tâu xin dời phủ-lị qua bờ sông phía Bắc.

Hàn-Ước

Làm An-nam đô-hộ. Năm Thái-Hoà thứ 2 (928), đời Văn-Tông, Thứ-Sử Phong-Châu là Vương- Thăng-Triều làm phản. Ước dẹp yên, sau bị loạn quân đuổi chạy.

Mã-Thực

Tự Tôn-Chi, đầu niên hiệu Khai-Thành (836), đời vua Văn-Tông, làm An-nam đô-hộ, lấy văn-nhã trau-dồi, làm việc quan thanh tịnh chẳng phiền, dân được yên ổn, các tù trưởng đều nạp lễ qui thuận.

Vũ-Hơn

Làm An-nam Kinh-Lược, năm Hội-Xương thứ 3 (843), bị loạn quân đuổi đi.

Điền-Tảo

Con của Điền-Hồng-Chính, trong khoảng niên-hiệu Thái-Hoà (826-830) làm An-nam đô-hộ.

Vương-Thức

Con của tể-tướng Vương-Khởi, thời Tuyên-Tông (847-859) làm An-nam đô-hộ. Nguyên Điền-Tảo dựng hàng rào gỗ, làm hàng năm tốn tiền, chưa hoàn-thành, lại có giặc cướp đến rất cấp bách. Thức đến, trồng hàng rào cây, đào hào sâu, chung quanh trồng tre gai, giặc cướp không dám phạm đến. Sau có quân Mán vào cướp Cẩm-Điền-Bộ, Thức khiến người thông-ngôn chiêu dụ, ban đêm quân Mán bỏ đi và xin lỗi rằng: "chúng tôi đến bắt trói người Mán làm phản, chứ không phải vào ăn cướp". Trước kia La- Hành-Cung làm chức Đô-Hiệu, chuyên quyền chính trong phủ đã lâu, bị Thức đánh đòn cách chức.

Thôi-Cảnh

Năm Đại-Trung thứ 6 (852) của Chử-Toại-Lương

Điền-Tại-Hựu

Con của Điền-Bố, làm đô-hộ, có công dẹp yên biên-thuỳ.

Lý-Trác

Trong thời Đại-Trung (847-859) làm chức đô-hộ. Trác có tính tham dữ, lấy một đẩu muối đổi một con ngựa, bởi thế, Mán, Mường ta oán làm phản, liên kết với rợ Nam-Chiếu là Đoàn-Tù-Thiên, hiệu "Bạch-Y Một-Mệnh-Quân" (quân cảm-tử áo trắng) đánh An-nam phủ. Khởi-Cư-Lang Trương-Vân dâng sớ nói rằng: "Lệnh Hồ-Đào dùng Lý-Trác trấn giữ An-nam, đầu tiên gây ra mối loạn, giặc cướp đầy thiên-hạ, luôn năm chinh-chiến, tổn binh hao lương".
(Bì-Nhật-Hưu làm thơ chế Lý-Trác. Thơ chép ở quyển thứ 16).

Lý-Vu

Làm đô-hộ, đóng đồn ở Vũ-Châu, đầu niên hiệu Hàm-Thông (860), đời vua Ý-Tông nhà Đường, quân Mán đến đánh, Vu chạy trốn, bị vua Ý-Tông đuổi.

Vương-Khoan

Thay Lý-Vu làm Kinh-Lược-Chiêu-Thảo-Sứ. Lý-Trác tâu xin bãi đạo binh phòng thủ mùa đông,
6.000 người, viện lẽ rằng: "giao một mình thủ-lĩnh động bảy-quán ở Đào-Lâm Tây-Nguyên là Lý-Do. Độc cũng đủ sức chống ngăn quân mọi. Sau mãn tù gã con gái cho con Do-Độc, Do-Độc bèn đem quân phụ- thuộc quân Mán, Vương-Khoan chế ngự không nổi.

Thái-Tập

Năm Hàm-Thông thứ 3 (862), thay Vương-Khoan làm An-nam Kinh-Lược. Tháng 11, rợ Nam- Chiếu vây Giao-Chỉ, Tập đóng cửa thành cố giữ, đợi binh cứu viện chẳng đến. Tháng giêng năm Hàm- Thông thứ 4 (863), quân Mán đánh gấp, thành bị hãm, gia-nhơn 70 người đều tử-nghĩa. Tập cùng mấy người thủ-hạ, đi chân không, ra sức cố đánh, muốn chạy ra thuyền giám quân, nhưng thuyền đã lìa bến, Tập bị chết chìm. Tướng sĩ Kinh-nam 400 người chạy đến bờ sông phía đông thành, Ngu-Hầu Nguyên- Duy-Đức bảo chúng rằng: "Chúng ta không có thuyền, xuống nước thì chết, chi bằng trở lại quyết chiến với quân mọi", bèn quay về thành, đánh giết quân mọi hơn 2.000 người rồi chịu chết. Chỉ có mạc-phủ là Phàn-Xước mang ấn của Tập chạy trước qua sông được khỏi chết. Nam-Chiếu hai lần hãm thành Giao- Chỉ, cướp bắt chừng 10 vạn người, để lại 12 vạn binh, khiến tướng Dương-Tư-Tân chiếm cứ An-nam.

Tống-Nhung

Năm Hàm-Thông thứ 4 làm Đô-Hộ, cùng các đạo binh qua cứu viện An-nam, đồn trú ở Lĩnh- Nam, không chịu tiến, hao tổn lương-thực. Trần-Bàn-Thạch xin tạo thuyền lớn chở nổi 1.000 hộc, chở gạo từ Phúc-Kiến đến cấp cho Nam quân. Nhung nghe theo, từ ấy quân lương được đầy đủ.

Cao-Biền

Tự là Thiên-Lý. Nguyên trước mọi Nam-Chiếu công hãm An-nam, Tuyên-Tông xuống chiếu lập Hành-châu ở Hải-Môn, cho thêm binh hai vạn, khiến Dung-Quảng Kinh-Lược là Trương-Nhân thâu phục An-nam. Nhân dùng dằng không tiến, bèn giao binh cho Biền, phong làm chức đô-hộ. Biền chọn 5.000 quân tiến trước, giao ước giám-quân Lý-Duy-Châu kế tục tiến sau. Duy-Châu đóng quân ở Hải-Môn, Biền tiến đóng Phong-Châu, phá quân Mán ở huyện Nam-Định, chém bọn Trương-Thuyên, hàng phục được muôn người, thâu được của để cung cấp quân-dụng. Tin tâu thắng trận về đến Hải-Môn, Duy-Châu giấu đi và tâu dối rằng Cao-Biền giỡn với quân giặc, chẳng chịu tiến. Vua giận, sai Hữu-Vũ-Vệ-Tướng-quân Vương-Án-Quyền thay thế. Lúc ấy, Biền lại đánh phá quân giặc, tiến vây thành Giao-Châu hơn mười ngày, thế giặc rất nguy khốn. Vừa tiếp được điệp-văn của Án-Quyền, Biền giao việc quân cho Giám-Quân Vi-Trọng-Tể trông coi, cùng quân dưới cờ hơn 100 người trở về. Trước đó, Biền khiến Tăng-Cổn về Kinh báo tiệp, Cổn đi đến giữa bể, trông thấy cờ-xí tiến sang phía đông, nói ấy là thuyền đội của quan Kinh-Lược Sử mới và quan Giám-Quân. Cổn ngờ Duy-Châu tất cướp lấy biểu-văn, bèn nấp nơi cửa đảo, chờ cho Duy-Châu đi qua rồi liền ruổi đến Kinh-Sư. Vua tiếp được tấu-văn cả mừng, gia-phong Biền chức Công-Bộ Thượng-Thư, khiến trở lại trấn An-nam. Biền đi đến Hải-Môn, trở về nhiệm lại chức cũ. Trong lúc Án-Quyền ngu hèn, Duy-Châu tham dữ, các tướng chẳng chịu phục tùng, quân Mán nghe Biền trở lại, bỏ trốn quá nửa. Biền lại khích-lệ tướng sĩ, đánh được thành, giết man-soái Đoàn-Tù-Thiên và quân Mán hơn 3 vạn người. Thổ-nhơn ngày trước đầu hàng quân Mán, nay đem chúng trở về hàng-phục. Vua xuống chiếu đặt Tịnh-Hải-Quân ở An-nam, phong Biền làm Tiết-độ-sứ.
Logged
lonesome
Moderator
*
Bài viết: 1244


« Trả lời #52 vào lúc: 20 Tháng Hai, 2009, 01:02:36 am »

Mod chèn cái hình bìa này vào bài mở đầu topic hộ nhé. Cám ơn Mod
« Sửa lần cuối: 20 Tháng Hai, 2009, 01:35:24 am gửi bởi lonesome » Logged
lonesome
Moderator
*
Bài viết: 1244


« Trả lời #53 vào lúc: 22 Tháng Hai, 2009, 07:45:29 pm »

Phụ chép bài văn bia Thiên-Oai-Kỉnh, đường kênh mới đào

Tịnh-hải-tiết-độ, chưởng thơ-ký, triều-nghị-lang, thị-ngự-sử nội-cung-phụng, tứ phỉ-ngư-đại (được đeo dãi thêu hình con cá), Bùi-Hình soạn.

(Thấy chép ở sách Ung-Chí)

Biển lớn không bờ, xa tít tận chân trời mờ-mịtt, cuồng phong cuồn cuộn, sóng lớn nổi dậy, như gò cát trôi, như núi tuyết dựng, nháy mắt trắng xóa muôn dặm, dầu oai-linh của thuỷ-thần cũng không ngăn cản nổi. Cá voi to sợ sức dày vò, con trạnh lớn mắc vòng vây khốn, loài thuỷ-tộc lớn lao như thế, còn chẳng được yên; huống thuyền bè qua ngang, làm sao đi được. Bởi thế, đã có nhiều thuyền chìm đắm không thể cứu vớt. Có cứu vớt đặng chăng là nhờ Thiên-Oai-Kỉnh ngày nay vậy.

Từ Đông-Hán Mã-Phục-Ba muốn đánh hai chị em họ Trưng để thâu phục Giao-Chỉ, vì đường sá chuyển-vận khó-khăn, phải vượt qua bể cả, bèn đục đá đào núi, để tránh đường biển, nhưng lúc làm công việc, nhân-công chết hàng vạn người cũng không làm nổi; nhiều khi sét đánh làm cho đá lớn trên núi lăn xuống ngáng đường; Phục-Ba chẳng làm sao được, bèn phải đình chỉ công việc.

Từ ngày Hoàng-Đường ta lập cuộc đô-hộ, nghe kể chuyện cũ, nổi giận, muốn kế-tục làm nốt công việc, bèn khiến khởi công làm lại, nhưng hao người tốn của, mà công việc làm cũng không nên, dân phu đi làm, chết chóc bỏ xương đầy đường. Sau đó không ai dám bàn đến việc ấy nữa.

Từ ngày Kỵ-Xạ Bột-Hải-Công ra đánh Mán rợ, vượt bể cả, dẹp yên Giao-Chỉ, thâu phục quận thành, ruổi ngựa mài gươm, lập đồn đóng trại, nhưng chuyển vận lương hướng còn phải xông pha sóng gió; bàn luận mưu chước, chưa được đồng ý về một kế-hoạch nào hay. Bột-Hải-Công nói rằng: "Chúng ta chinh-phục phương Nam, mở rộng oai-phong hoàng-gia, họp binh để an dân, phải chịu tốn kém, mới tiện cho công việc", bèn khiến bọn Trưởng-Sử Lâm-Phúng và Hồ-Nam tướng-quân Dư-Tồn-Cổ lĩnh bản- bộ tướng-sĩ và lấy thêm dân phu hơn một nghìn người, đem đi khai phá Thiên-Uy-Kỉnh. Bột-Hải-Công dụ rằng: "Đạo trời giúp thuận, sức thần phò trì; nay chúng ta đào giòng biển để cứu sinh-linh, nếu làm việc ngay thẳng thì chẳng có gì khó. Các quan đô-hộ trước lại khao quân, mà chẳng đi đến nơi, giữ phép không nghiêm, nhân việc công để thu lợi riêng, bởi thế, người đều biếng trể. Nay ta thì chẳng thế, cốt làm cho được việc nhà vua mà thôi". Bọn Lâm-Phúng vâng lời ra đi.

Bắt đầu từ ngày mồng 5 tháng 4 năm Hàm-Thông thứ 9 (868) mọi người tay cầm cuốc xuổng, dự bị tiền lương, gặp núi đá đào phăng, chẳng sợ gì cứng rắn, gặp những tảng đá lớn và dày, thì đông người hợp sức giúp tay, đập phá cạy xeo, chỉ trong vòng hơn một tháng, đường gần mở xong. Nhưng chặng giữa có hai đoạn, gặp đá lớn chơm chởm, dăng quanh mấy trượng, cứng rắn như sắt, không thể đào thông, đục tra xuống thì mũi cong, búa đập vào thì cán gãy, dân phu ngó nhau ngã lòng, tay chân bải hoãi, chẳng làm thế nào được. Ngày 16 tháng 5, giữa lúc ban ngày, thình lình mây kéo đen đặc, gió thổi ào ào, rừng núi tối mờ, ngữa bàn tay không thấy, bỗng chốc sấm vang chớp nhoáng, ở sở làm có vài trăm tiếng sét đánh dồn, dân phu khiếp đảm, run rẩy, bưng tai bịt mắt, một lát sau, trời quang mây tạnh, chúng chạy ra xem, thì đống đá gan lì bỗng dưng tan nát, có những hòn lớn cồng-kềnh, sức người không sao xeo nổi, đều bị rồng cuốn vứt ra hai bên lèn. Lại ở phía tây có những tảng đá rắn chắc, đến ngày 11 tháng 6, sấm sét lại đánh dữ dội như ở phía đông, chúng chạy đến xem, thấy đá tiêu tan đâu mất, những hòn đá quanh co ở hai bên bị phá vỡ chừng mười trượng. Đi lên phía tây lại gặp phải đá lớn, người chịu bó tay, chỉ vái trời giúp đỡ, thì sấm chớp lại nổi lên, đá bị dđánh tan, suối nước tuôn ra mùi như rượu ngọt. Ấy là càn không giúp sức, thần lực phò-trì, lối hiểm đường nguy, một giây san phẳng, đều nhờ Bột-Hải-Công lòng không riêng vạy, tinh-thần cảm thấu trời xanh, hoàn thành việc lớn, thần

diệu vô cùng, được sức mặc-tướng âm-phò, từ xưa không ai sánh kịp. Từ nay một mạch lưu thông, hai hồ liên tiếp, không còn một chút trở ngại; quan quân kinh quá, biển nước chẳng sợ gian nguy, lương hướng chở chuyên, thuyền bè không lo chìm đắm. Từ trước đường đi Giao-Chỉ có ba nơi nguy hiểm:

1.- Mũi Hoa-Chùy ở bãi Tống-Động, có sóng to cuồn-cuộn;

2.- Rặng Thạch-Giốc ở vũng Nữ-Ân có cá mập vẩy vùng;

3.- Sóng thần Đại-Gia dữ-dộ, ai đi qua đó thảy đều rởn óc lạnh mình.

Ngày nay, dòng êm đường phẳng, chẳng phải đi qua những nơi nguy hiểm ấy nữa.

Than ôi! Công cán của Bột-Hải-Công có thể ngang với người đào Hứa-Cừ và mở Quế-Lĩnh để giúp người đời. Bọn Lâm-Phúng và Tồn-Cổ siêng lo việc nước, mẫn cán tinh-chuyên, ngoài công việc chỉ- huy, còn biết xem xét địa-thế, xẻ núi đốn cây, sửa công quán, lập thương-đình, suối đào cho nước thông, cầu bắt ngang như mống dựng, miếu thần chùa phạt, đền thờ Thiên-Lôi và nhà thờ Lão-Tử đều xây cất đầy đủ, để lưu truyền đời đời. Ngày 15 tháng 9 năm nay hoàn thành, bọn Lâm-Phúng và Tồn-Cổ nài xin dựng bia ghi công, để đời sau được biết. Bột-Hải-Công nhân khiến người chưởng-thư chép rõ công việc. Tôi là Bùi-Hình chẳng dám khiêm nhường từ chối, cầm bút làm bài minh rằng:

Trời đất mênh-mông, sức người hèn yếu, Đường nguy chở gạo, biển cả vượt thuyền, Chẳng mấy lúc yên, đắm nghiêng thường bị, Ông tôi quyết kế, đào núi xẻ ngàn;
Công-tác gian-nam, sấm chớp vang dậy, Biển thông lối chảy, thuyền dễ qua ngang, Sông nước phẳng bằng, thuận đường vận-tải, Đạo trời khai thái, oai thần phò-trì.

Ngày 13 tháng giêng năm Hàm-Thông thứ 11, (870) dựng bia.

"Nền cũ ở phía nam Giao-Chỉ, thời Hàm-Thông (860-873), Bột-Hải-Công Cao-Biền, đi đánh phương Nam, mở đường vận-tải lương-thực, có sét đánh trời giúp, bèn dựng đá lớn ghi công. Lối đi đặt tên là Thiên-Oai. Đến đời Chiêu-Hy (Chiêu-Tông) (889-903), Hy-Tông (874-888), Trung-Nguyên loạn lạc, bỏ ra ngoài bờ cỏi, không ngó đến, nhà Tống ta nhân theo, cũng chẳng sửa chữa đường đi ngoại bang. Thái-Thú Ung-Châu là Hoắc-Trung-Cẩn tình cờ tìm thấy bản khắc cũ, sợ ở chỗ xa xuôi, lâu ngày vùi lấp thất truyền, bèn khiến thợ khắc đá, dựng ở bên hữu sảnh-đường, ý muốn tỏ cho người xa biết được thánh đức của nhà vua, hằng năm phải lo việc tiến công, không nên trễ nải vậy.
Ngày 21 tháng 1 năm Thiệu-Thánh thứ 5 ( Niên hiệu Thiệu-Thánh chỉ có bốn năm 1094-1097.)


Cao-Tầm
[/b]

Theo Cao-Biền thâu phục Giao-Chỉ có công; vua khiến thay Biền làm chức Tiết-Độ-Sứ.

Tăng-Cổn

Tỳ-tướng của Cao-Biền, thường vì Cao-Biền đi báo tin thắng trận tại An-nam. Trong năm Càn- Phù thứ 4 (877), được bổ-nhiệm chức An-nam đô-hộ. Thời ấy vua Nam-Chiếu là Tù-Long mất, con là Pháp nối ngôi, xưng hiệu Đại-Phong-Nhân, cử quân xâm phạm An-nam, Cổn chạy qua Ung-Châu, đạo binh đồn trú tan rã. Gặp lúc vua Hy-Tông chạy ra đất Thục, Trần-Kỉnh-Huyên đề-nghị hoà với Nam- Chiếu, Lư-Huệ-Đậu và Lư-Trác bèn nói dối với vua rằng: "Từ cuối đời Hàm-Thông (860-873), quân Mán làm phản, xâm nhập bốn Châu: An-nam, Ung, Quản, và Kiềm, thiên-hạ tao loạn đã mười lăm năm nay; quá nửa tô-thuế không nạp về Kinh-Sư, kho-tàng trống rỗng, quân lính bị chết vì lam chướng, đốt xương gửi tro về; người chẳng nghĩ đến nhà, chỉ lo vong mạng làm trộm cướp, thực đáng đau lòng, huống chi quân đồn-thú An-nam ít ỏi, nạn cướp mùa đông rất đáng lo ngại. Nay ta khiến sứ-giả đi báo hoà hão, tuy họ chưa xưng thần, nhưng ta cũng có thể dùng mưu lung lạc bọn họ bắt phải phục tùng, như thế trong nước sẽ được nghĩ ngơi vậy". Vua cho lời tâu là phải. Nhưng vừa lúc giặc Hoàng-Sào (1) đã yên, nên không khiến đi nghị hoà.

(1) Hoàng-Sào đời Ý-Tông nhà Đường, thi tiến-sĩ hỏng, làm phản vào đời Hy-Tông, bắt đầu từ năm Càn-Phù thứ 2 (875) đến năm Trung-Hoà thứ 4 (884) mới bị dẹp yên.


Kính-Ngạn-Tông

Làm Thứ-Sử Ái-Châu đời nhà Đường.

Thôi-Lập-Tín

Làm An-nam đô-hộ, rễ là Bùi-Duy-Nhạc quyền nhiếp chức Thứ-Sử Hoan-Châu, tham dữ quá độ.
Logged
lonesome
Moderator
*
Bài viết: 1244


« Trả lời #54 vào lúc: 22 Tháng Hai, 2009, 07:52:38 pm »

Tống Giao-Châu Chuyển-Vận-Sứ, An-Vũ-Sứ

Hầu-Nhơn-Bửu

Con của Thái-Sư Hầu-Ích, được tể-tướng Triệu-Phổ gã em gái và cho bổ nhiệm công-vụ ở Tây- Lạc luôn mười năm, không thay đổi. Lư-Đa-Tốn có hiềm khích với Triệu-Phổ, gặp lúc Phổ phải ra nhiệm ngoại-trấn, Đa-Tốn làm Tham-Tri chính-sự, bèn đổi Nhân-Bửu qua coi việc Ung-Châu, mười năm không được thay thế. Nhân-Bửu tự nghĩ chắc phải chết già ở cõi ngoài, nhơn dâng kế-sách bình định Giao- Châu, nói hiệu nay chủ-súy Giao-Châu đã bị hại, trong nước đương loạn, có thể đem một đạo quân nhỏ thừa thời đánh chiếm, và cầu xin về triều tấu việc. Sở vào, vua Thái-Tông cả mừng, khiến ngựa trạm ra triệu về. Đa-Tôn tâu rằng: "Giao-Chỉ có nội loạn, ấy là thời trời làm mất nước ấy, triều-đình phát binh thừa lúc bất ý, ví như sét đánh chẳng kịp bưng tai vậy. Nay triệu Nhân-Bửu về, mưu của ta đã lậu, họ sẽ biết mà ngừa trước, dựa vào thế núi rừng hiểm trở, không thể đánh được nữa. Bây giờ, nên cho Nhân- Bửu làm Chuyển-Vận-Sứ, theo đường tắt qua nhận chức, rồi khiến phát quân Kinh, Hồ 3 vạn người, ruổi thẳng đánh vào, thế ắt vạn toàn, dễ như đập lá khô và bẻ củi mục vậy". Vua cho lời tâu là phải, bèn phong cho Nhân-Bửu làm Giao-Châu thủy-lục chuyển-vận-sứ. Nhân-Bửu tiến binh, gặp quân địch rất mạnh; viện binh không đến, nên Nhân-Bửu bị giết chết giữa sông. Thái-Tôn nghe tin rất lấy làm thương xót, truy tặng chức Công-Bộ Thị-Lang và cho hai người con là Diên-Linh và Diên-Thế đều làm Trai-Lang; Diên-Linh làm đến chức Điện-Trung-Thừa và Diên-Thế đến chức Thái-Tử Trung-Xá.

Thiệu-Diệp

Năm Cảnh-Đức thứ 2 (1005), làm chức Quang-Lộc-Khanh, Giao-Châu An-Vũ-Quốc-Tín-Sử. Năm thứ 3 (1006), Giao-Soái Lê-Hoàn mất, trong nước đương loạn, vua xuống chiếu khiến Diệp cùng với Lăng-Sách Quảng-Châu đồng đi Kinh-lược, xem tiện-nghi tâu về cho vua nghe. Tháng 8, Diệp dâng bản- đồ đường thuỷ và đường bộ từ Ung-Châu tới Giao-Chỉ. Chân-Tông đưa cho cận-thần xem và nói rằng: "Giao-Châu là nơi độc-địa, nếu đem binh qua đánh thì tử-thương ắt nhiều; vả lại tổ-tôn mở mang cương- thổ rộng lớn nhường ấy, chúng ta chỉ nên giữ gìn cẩn-thận mà thôi", bèn khiến Diệp làm Binh-Bộ Viên- Ngoại-Lang, vỗ yên Giao-Chỉ, việc xong được thưởng công.

An-Nam Chí-Lược Quyển Đệ Cửu Chung
Logged
lonesome
Moderator
*
Bài viết: 1244


« Trả lời #55 vào lúc: 22 Tháng Hai, 2009, 07:54:56 pm »

An-Nam Chí-Lược
Quyển Đệ Thập
Cổ - Ái Đông-Sơn Lê-Tắc Biên

Những người tôi các đời trước sang ký ngụ


Hồ-Cương

Ông tổ bốn đời của Thái-Phó nhà Hán là Hồ-Quảng. Làm người thanh cao, có khí-tiết, gặp lúc Vương-Mãng soán ngôi, treo mão ở cửa phủ mà đi, lưu lạc ở Giao-Chỉ, ẩn mình làm hàng thịt. Đến ngày Vương-Mãng thất bại, mới trở về xứ sở.

Lương-Tủng

Tự là Kính-Thúc, đời vua Minh-Đế năm Vĩnh-Bình thứ 4 (61), bị kết án liên-lụy vì việc của người anh là Lương-Tùng. Nguyên trước đó, Lương-Tùng vì có sự oán hận, làm thư phỉ báng triều-đình, Tủng cùng cả gia quyến và em là Cung đều phải dời qua Cửu-Chân, trải khắp Giang, Hồ, Nguyên, Tương, cảm thương Tử-Tư và Khuất-Nguyên (1), không tội mà phải trầm mình, làm bài phú điệu-tao. Sau được vua xuống chiếu cho về cố-quận. Tủng thường lên nơi cao trông xa mà than thở rằng: "trượng-phu ở đời, sống phải được phong hầu, chết được lập miếu tế tự, nếu chẳng thế, thà nhàn-cư để dưỡng chí, thơ rượu cho vui vầy, chớ chuốc lấy công việc châu quân làm chi, cho nhọc người vô-ích". Sau luôn luôn có chỉ triệu của nhà vua, nhưng nhất định không đến.
(1) Ngũ-Tử-Tư là tôi nước Ngô, Khuất-Nguyên là tôi nước Sở vào thời Đông-Châu liệt quốc.

Viên-Trung
[/b]

Tự là Chính-Phủ. Cuối đời Diên-Hy (158-166), vua Hoàn-đế, thiên-hạ loạn, bèn bỏ quan, đi du- lịch ở quận Cối-Kê. Tôn-Sách đánh phá Cối-Kê, Trung lại vượt bể lưu vong qua Giao-Chỉ.

Hoàn-Diệp

Tự là Văn-Lâm. Trong khoảng niên-hiệu Sơ-Bình (190-193), thiên hạ loạn, lánh ở đất Cối-Lê, sau vượt bể ký ngụ tại Giao-Chỉ. Người Việt cảm-hóa theo khí-tiết của ông, đến nỗi xóm làng chẳng có việc tranh tụng. Sau vì kẻ hung ác vu cáo, bị chết ở ngục Hợp-Phố.

Đổng-Phụng

Tự là Quân-Dị, người đất Hầu-Quan. Sĩ-Nhiếp ở Giao-Chỉ, có lúc mắc bệnh chết 3 ngày, Phụng cho ngậm một hoàn thuốc, giây lát nhan-sắc lần lần bình-phục, nửa ngày sống dậy. Việc nầy thấy chép trong "Tiên-truyện".

Hứa-Tĩnh

Tự là Văn-Hưu. Người quận Nhữ-Nam, đậu Hiếu-Lâm, làm Thượng-thư-Lang, giữ việc tuyển-cử; tránh loạn Đổng-Trác, qua nương nhờ Thái-Thú Cối-Kê là Vương-Lãng. Đến lúc Tôn-Sách qua Giang- Đông, Tĩnh chạy qua Giao-Chỉ lánh nạn, được Sĩ-Nhiếp tiếp đãi rất hậu, cùng với Viên-Huy người Trấn- Quốc đồng ngụ ở Giao-Chỉ. Huy gửi thư cho Tuân-Quắc nói rằng: "Hứa-văn-Hưu là bậc anh tài vỹ-sĩ, từ ngày lưu lạc đến nơi rừng núi xa xuôi, vẫn được các nhân-sĩ đi theo; mỗi lần có việc nguy cấp, thường trước lo cho người, sau mới đến mình, cùng người họ nội ngoại chín đời, chung chịu đói rét". Người quận Cự-Lộc là Trương-Cao vâng mệnh vua đi sứ Giao-Chỉ, hâm mộ Tĩnh, ỷ thế muốn yêu cầu minh thệ giao- kết, nhưng bị cự tuyệt. Tĩnh gửi thư cho Tào-Công nói rằng: "Tam-giang, Ngũ-hồ đều thành sân giặc, tôi cùng bọn Lưu-Tử-Hiếu, người đất Cổn-Bái, vượt bể cả đến đất Giao-Châu, trải qua Đông-Âu, Mân-Việt, đi suốt muôn dặm chẳng thấy đất nhà Hán. Lúc qua Hải-Nam, gặp Nghê-Hiếu-Đức, được biết Túc-Hạ phấn phát lòng trung-nghĩa, chỉnh sức binh nhung, ra phía tây rước xa giá vua về, tức thì tôi cùng Từ-Nguyên- Hiến, người Cổn-Bái, lo sửa soạn hành trang về nước, nhưng Kinh-Châu đường thuỷ lục không thông, Giao-Châu việc sứ-dịch lại bị đoạn tuyệt. Lại có Trương-Tử-Vân xưa ở Kinh-Thành, vốn có chí muốn khuông phò vương thất, hiện nay đến ở nơi hoang vực nầy, chẳng còn tham dự triều chánh, người ấy cũng là phiên-trấn của nước nhà, có thể làm ngoại việc cho Túc-hạ vậy". Trương-Cao giận Tĩnh chẳng chịu kết giao với mình, bèn lấy bức thư của Tĩnh gửi, ném xuống nước. Lưu-Chương khiến sứ vời Tĩnh vào đất Thục. Tiên-Chúa dùng làm Thái-Thú Ba-quận và Quảng-Hán, sau làm đến chức Tư-Đồ, rồi qua đời.

Lưu-Ba

Tự là Tử-Sơ, người quận Linh-Lăng. Lưu-Biểu mấy lần mời ra làm quan, chẳng chịu đến. Tào- Công vời làm Duyện-Lại, sai đi chiêu hàng mấy quận Linh-Lăng, Quế-Dương, Trường-Sa. Gặp lúc Tiên- Chúa lược định ba quận ấy, Lưu-Ba không trở về được, bèn chạy qua Giao-Châu, cùng Sĩ-Nhiếp bàn luận chẳng hợp ý, lại vào đất Thục, được Gia-Cát khen ngợi dùng làm chức Thượng-Thư. Lưu-Ba tánh người thanh kiệm kính cẩn, bao nhiêu xưng-hiệu, sách-mệnh của Tiên-Chúa, đều do tay ông làm ra.

Cố-Đàm

Tự là Tử-Mạc, cháu nội của Cố-Ung, tướng nước Ngô. Đàm làm Thượng-Thư, vì dâng sớ nói việc Lỗ-Vương-Bá, từ ấy, Bá với Đàm hiềm nhau. Lại nhân con của Vệ-Tướng-quân Toàn-Tông là Toàn-Ký làm tân khách của Bá, người vốn khinh bạc gian tà, nên Đàm không chới với. Ký, Bá cùng Ký bèn thêu dệt làm cho Đàm bị tội, phải đày qua Giao-Chỉ.

Cố-Thừa

Em của Đàm. Tự là Tử-Trực, làm Đô-Uý Tây-Bộ; dẹp yên Sơn-Việt, được vào làm chức Thị- Trung. Sau cùng với Đàm bị đày qua Giao-Chỉ rồi chết.

Trương-Hưu

Tự là Tử-Do, làm Thị-Trung Dương-Oai Tướng-quân, cùng với Cố-Đàm, Cố-Thừa bị Tuấn Pha luận công sự gian dối, phải đày qua Giao-Châu, sau bị Tôn-Hồng gièm pha, vua xuống chiếu bắt phải tự tử.

Lưu-Hy

Không biết người ở quận nào. Tiết-Tông và Trinh-Bỉnh tránh loạn qua Giao-Chỉ, thường cùng Hy bàn luận đại-nghĩa. Vy-Chiêu nói rằng: "Lưu-Hy có làm sách Thích-Danh tám quyển nói về loài vật rất nhiều, nay khó xét rõ được.

Trình-Bỉnh

Tự là Đức-Xu, người quận Nhữ-Nam, có được học với Trịnh-Huyền, tránh loạn qua Giao-Chỉ, thường cùng Lưu-Hy bàn đại-nghĩa, học rộng, thông hiểu ngũ-kinh, Sĩ-Nhiếp khiến làm chức Trưởng-Sử. Sau Tôn-Quyền mời về làm chức Thái-Tử Thái-Phó.

Du-Ích-Kỳ

Người Dự-Chương, tính cương-trực, chẳng theo thường tục, chạy qua ở quận Nhật-Nam.

Dữu-Đạo-Mẫn

Người Yên-Lăng, cháu huyền-tôn của Dữu-Vĩnh làm chức Tư-không nhà Tấn. Đạo-Mẫn làm người có hiếu hạnh và có văn-tài, tuổi trẻ đã chịu cảnh mồ-côi. Lúc người mẹ đẻ lưu lạc qua Giao-Châu, Đạo- Mẫn còn đương tuổi nằm nôi, kịp đến ngày khôn lớn, cầu làm chức Tá-Nhị phủ Tuy-Ninh thuộc Giao- Châu; ở đó, cách Giao-Châu còn xa, Đạo-Mẫn mạo hiểm đi đến Giao-Châu, tìm kiếm mẹ suốt năm, hằng

ngày than khóc. Ngày nọ, đi vào một thôn, ban chiều gặp cơn mưa lớn, phải vào ký túc một nhà bên đường, bỗng có một bà già đội củi về, Đạo-Mẫn thấy, động lòng, hỏi thăm thì chính là bà mẹ đấy. Mẹ con ôm nhau nức nở khóc than, ai thấy cũng rơi nước mắt. Sau Đạo-Mẫn làm quan nước Tề, đến chức Xạ-Sinh Hiệu-uý.

Trương-Dung

Tự là Tư-Quang. Thời Tống Văn-Đế, làm quan lệnh đất Phong-Khê. Lúc đi từ Bột-Hải qua Giao- Châu, giữa biển gặp gió, không sợ sệt, ngồi ngâm nga nói rằng: "ăn cá khô mà về được quê nhà, lọ cầu nem thịt mà làm gì?". Nhân làm bài Hải-Phú, văn-từ rất quỉ-quyệt. Cố-Khải-Chi nói rằng: "bài phú nầy hay hơn bài của Huyền-Hư1, nhưng chỉ tiếc trong bài không nói đến muối. Dung tức thì cầm bút làm nối thêm mấy cầu: "Lộc sa cấu bạch, ngao ba xuất tố, tích tuyết trung xuân, phi sương thử-lộ", nghĩa là: lọc cát nấu sóng, làm ra chất trắng, như tuyết mùa xuân, như sương tháng nắng.
« Sửa lần cuối: 22 Tháng Hai, 2009, 07:56:30 pm gửi bởi lonesome » Logged
lonesome
Moderator
*
Bài viết: 1244


« Trả lời #56 vào lúc: 22 Tháng Hai, 2009, 07:58:25 pm »

Cao-Kiệm

Tự là Sĩ-Liêm. Cháu nội của Thanh-Hà-Vương Cao-Nhạc nước Tề. Trong khoảng niên-hiệu Nhơn- Thọ (601-604), nhà Tuỳ, thi văn tài, đậu Giáp-Khoa, bổ làm chức lại ở Bộ-Hộ, bỏ việc quan chạy qua Cao-Ly, nên bị biếm làm Chủ-Bộ huyện Chu-Diên, vì mẹ già không thể ở nơi nước đốc, phải lưu bà ở lại đồn Giài-Vu mà đi. Gặp lúc loạn, Thái-Thú Giao-Chỉ là Khâu-Hoà bổ Kiệm làm Tư-Pháp-tá. Khi ấy nhà Lương khiến Nịnh-Trường-Chân đem binh xâm chiếm Giao-Chỉ; Hoà khiến Kiệm làm Hành-quân Tư-Mã, đón đánh phá tan quân giặc. Thời sơ-niên nhà Đường, Kiệm làm chức Trung-Thư Môn-hạ.

Bùi-Kiến-Thông

Làm Thứ-Sử Thần-Châu đời nhà Đường. Năm Trinh-Quán thứ 2 (628), vì Kiền-Thông là người cũ của vua Dượng-Đế, lại làm nghịch loạn, cho nên tuy có lệnh ân-xá, cũng không thể dùng để trị dân, bị bôi tên và đày qua Hoan-Châu.

Vương-Phúc-Trĩ

Cha của Vương-Bột, thời Cao-Tông (650-683), làm Ung-Châu Tư-Hộ Tham-Quân. Vì việc của
Vương-Bột, bị đổi qua làm Giao-Chỉ-Lệnh. Vương-Bột qua Giao-Chỉ thăm cha, bị đắm thuyền chết.

Lý-Sào

Tự là Hiếu-Nghĩa, con của Lý-Diệm. Lúc tuổi trẻ rất hào hiệp, dâng thơ cho vua điều trần việc lợi hại, vua cho làm chức Giám-Sát Ngự-sử. Sau vì có việc trái ý vua, bị biếm làm Long-Biên Chủ-Bộ.

Lý-Hữu

Người đồng tộc với Lý-Nghĩa-Phủ, theo Đỗ-Chính-Luân, cùng nhau kể tội Lý-Nghĩa-Phủ. Sau Nghĩa-Phủ khiến người đầu cáo Chính-Luân làm phản, cùng Lý-Hữu giao thông để dối vua, có mưu toan gì khác. Vua Cao-Tông ghét Hữu, đày qua Hoan-Châu.

Thẩm-Thuyên-Kỳ

Tự là Vân-Khanh, người Châu-Tương, lần lượt thăng đến chức Cấp-Sự-Trung, trong khi đi xét công-tác của quan lại, có nhận của hối-lộ, bị hạch tội, cứu xét chưa xong, vừa gặp lúc Trương-Dị thất thế, phải đày qua Hoan-Châu. Sau được làm lên chức Trung-Thư Xá-Nhơn.

Hàn-Tư-Ngạn

Tự là Anh-Viễn, người Nam-Dương, làm Giám-Sát Ngự-Sử, có chính tích hay. Gặp lúc có sao Thái-Bạch mọc ban ngày, Tư-Ngạn khuyên vua sửa đức để đáp sự khiển trách của trời. Vua trách Lý- Nghĩa-Phủ rằng: "Một chức quan bát-phẩm, còn biết nói chuyện đắt thất của triều đình, nhà ngươi ngôi cao phú quí, coi việc gì?". Nghĩa-Phủ cùng các người họ Vũ gièm pha, Tư-Ngạn thôi chức bỏ đi. Trong năm Thượng-Nguyên (674-675), vua Cao-Tông lại vời đến để bổ dụng. Tư-Ngạn thôi làm quan đã lâu ngày, sơ sót nghi-lễ triều-đình, lúc lạy vua, quên múa tay tiến bước, bị Lý-Khâm-Nguyên tấu hạch, phải
đổi qua làm quan Thừa huyện Chu-Diên, rồi mất ở đó.

1 Mộc-Huyền-Hư đời Tấn có làm bài "Hải-phú".


Lư-Tàng-Dụng

Tự là Sĩ-Thanh, người Do-Châu, thi tiến-sĩ không đỗ, cùng với người anh ngao du tại miền nước Ngô và nước Thục. Vũ-Hậu dùng làm Hoàng-Môn Thị-Lang. Vì tội phụ giúp Thái-Bình Công-chúa, Huyền- Tông lúc đầu muốn xử trảm, sau bớt giận, bèn đày đi Tân-Châu, có kẻ cáo Tàng-Dụng mưu phản, xét không có bằng chứng, lại đày qua Hoan-Châu. Gặp lúc Giao-Châu làm phản, Tàng-Dụng ngăn chồng có công, được thăng chức Trưởng-Sử Kiềm-Châu.

Tống-Tấn-Khanh

Con người chị họ của Vũ-Hậu, có người anh là Sở-Khách làm Hộ-Bộ Thị-Lang. Tấn-Khanh cùng quân Vũ-Lâm xây cất dinh-thự cho Sở-Khách, quá nỗi xa hoa, bị lỗi, phải đày đi Phong-Châu.

Lý-Càn-Hựu

Làm Thứ-Sử hai châu Hình và Ngụy, thường viết thư cho người lại quen biết, dùng lời bí ẩn, nói việc đắc thất của triều-đình; bị người lại ấy tố-cáo lên triều-đình, Càn-Hựu bèn bị đày qua Hoan-Châu.

Nghiêm-Thiện-Tư

Thời Tắc-Thiên Vũ-Hậu (685-705), làm Giám-Sát Ngự-Sử công-bình ngay thẳng, gặp việc dám nói. Từ thời Thuỳ-Củng (685-688), trở về sau, chuyên dùng những quan lại tàn khốc, hại tôn-thất, giết đại-thần, những bọn điềm-chỉ mật-báo không biết bao nhiêu mà kể. Thái-Hậu cũng chán sự phiền phức, khiến Thiện-Tư tra hỏi, xét ra chịu phục tội hơn 800 người. Những phường thêu dệt hết thế hung hăng, bèn cùng nhau gièm Thiện-Tư, làm cho Tư phải bị đày qua Hoan-Châu.

Đậu-Sâm

Thời Đức-Tông (780-804), làm Tể-Tướng, vì ghét Lý-Tốn đuổi ra làm Thứ-Sử Thường-Châu. Kịp khi Sâm bị biếm làm Tiết-Độ-Sứ Nghi-Châu, Lưu-Sĩ-Ninh đưa biếu Sâm năm mươi cây lụa, Tốn tâu vua nói Sâm giao kết với các quan phiến-trấn, vua giận, muốn giết Sâm. May nhờ Lục-Chí ra sức cứu vớt, bèn biếm làm Tư-Hộ Hoan-Châu, kế buộc phải tự tử.

Lý-Nhân-Quân

Cha của Lý-Ngại. Khoảng Trinh-Nguyên (785-804), đời Đường, Thái-Phó Lũng-Tây-Công dẹp yên Biện-Châu, Nhân-quân làm Thị-Ngự-Sử, coi việc muối, sắt ở Biện-Châu. Khi Lũng-Tây-Công mất, quân lính nổi loạn, những người tùng sự trong quân-đội đều bị xử tử, Nhân-Quân cũng bị gièm, biếm làm dân quận Nhật-Nam.

Bùi-Di-Trực

Tự là Lễ, làm Trung-Thư Xá-Nhơn. Khi Vũ-Tông (841-846) lên ngôi, Di-Trực xem sách điệp, chẳng chịu ký-tên, bị giáng làm Thứ-Sử Hàng-Châu; lại bị đuổi đi làm Tư-Hộ tham-quân tại Hoan-Châu. Thời Tuyên-Tông (847-859), được triệu về làm chức Thường-Thị.

Dương-Thu

Tự là Tàng-Chi. Từ niên-hiệu Đại-Trung (847-859) về sau, mán Nam-Chiếu thường vào Ung- Châu, cướp bóc Giao-Chỉ, quân Tàu qua lại đồn trú, bị chết vì lam chướng mười phần hết bảy, thế giặc càng ngày càng mạnh; Thu bàn mộ quân Dự-Chương một vạn người, đặt đạo quân Trấn-Nam để chống quân Mán, lại cho thuyền bè vận lương cho Nam quân. Vua khen, cho thăng chức Thượng-thư Bọc-Xạ. Thời Ý-Tông (860-873), thăng làm Tễ-Tướng. Trước đây con trai của Thượng-Thư Hữu-Thừa Bùi-Thản cưới con gái của Thu, lễ đưa đâu có của hồi-môn rất hậu, đồ dùng trang trí toàn bằng ngọc và sừng tê. Bùi-Thản giận nói rằng: "Đồ ấy sẽ phá hại nhà ta", lập tức khiến đập vỡ hết. Sau quả nhiên Thu vì ăn hối-lộ bị bãi chức. Năm Hàm-Phong thứ 11 (870) đày qua Hoan-Châu, kế buộc phải tự tử.

Trần-Bàn-Tẩu

Làm quan lệnh phủ Chí-Đức, thấy vua Ý-Tông hoang chơi, chẳng lo việc triều-chính, vả lại tin dùng Lộ-Nham; Nham xa xỉ, hay ăn hối-lộ, Tẩu dâng sớ tâu bày, xin chỉ phá một nhà Biên-Hàm, cũng đủ nuôi quân ba năm. Vua hỏi Hàm là ai? Thưa rằng: "là kẻ thân lại của Lộ-Nham". Vua giận đày ra Ái- Châu.

Lưu-Chiêm

Tự là Cơ-Chi, người Quế-Dương, thôi chức Tể-Tướng ra làm Tiết-Độ-Sứ Kinh-Nam. Năm Hàm- Thông thứ 11, Đồng-Xương công-chúa chết, vua xuống chiếu bắt quan y-viện hơn hai mươi người, toàn gia hạ ngục. Chiêm cùng với Kinh-Triệu-Doãn là Ôn-Chương cố sức can gián, bảo rằng vua quá thương con gái, làm khổ dân. Ý-Tông giận, biếm Chiêm làm Tư-Hộ Hoan-Châu, Chương làm Tư-Mã Chấn-Châu.
Logged
lonesome
Moderator
*
Bài viết: 1244


« Trả lời #57 vào lúc: 22 Tháng Hai, 2009, 11:01:18 pm »

Trần-Trọng-Vy

Tự là Trí-Quảng, người Thuỵ-Châu, thi đậu khoa Mậu-Tuất (1238) niên hiệu Gia-Hy đời Tống-Lý- Tông (1225-1264), khoảng niên-hiệu Hàm Thuần (1265-1274) làm triều-sĩ, thường bàn bạc chỉ-trích Giả- Tự-Đạo, vì cớ ấy bị đuổi ra nhiệm chức ngoại-quận, chuyển đổi qua đến Lĩnh-Nam. Năm Bính-Tý (1276), niên-hiệu Chí-Nguyên (1264-1294), nhà Nguyên, quan-quân (tức quân nhà Nguyên) vào bắt ấu-chúa (vua nhà Tống), cả nước đều qui thuận, hai vua (tức Đoan-Tông và Đế-Bính nhà Tống), chạy xuống phía Nam, Trọng-Vy từ Quỳnh-Châu vào yết kiến, đến Quảng-Châu, được cử làm Lại-Bộ Thượng-Thư, khiến với Thừa-Tướng nhà Tống là Trần-Nghi-Trung. Nhà Tống mất, Trọng-Vy chạy vào An-nam, rất được vua Trần-Thánh-Tông trọng đãi. Thường làm thơ rằng:

"Tử vi Việt-Quốc qui hương quỉ,
Sinh tác Nam-Triều cự gián thần".
nghĩa là:

Lưu-lạc thác làm ma Việt-Quốc,
Trung cương xưa vẫn sĩ Nam-Triều (Tức triều Nam-Tống.)

Ở An-nam được vài năm thì mất, Tăng-Uyên-Tử vãn một bài thơ rằng:
Giang-Nam duy nhị điểu,
Dực chiết ảnh tương y,
Thính vũ thấp tàn cảo,
Trùng thiềm cự phá y,
Bất tri Phật Lão cực,
Do vọng thái-bình qui.

tạm dịch:

Giang-Nam chim một cặp,
Gãy cánh tựa nương nhau,
Mưa thấm cây khô nhánh,
Nhà chê áo rách bâu,
Phép mầu nhiệm chẳng biết,
Còn đời thái-bình sao?
Bình-Triều Trương-Hoằng-Nghị

ai điếu một câu rằng:

Giao-Châu phương phản Ngu-Phiên cốt,
Linh-Vũ thuỳ minh Đỗ-Phủ tâm.
Dịch nghĩa:
Linh-vũ ai hay lòng Đỗ-Phủ (1),
Giao-Châu vừa tiễn cốt Ngu-Phiên (2).


Sau Quốc-đệ nước An-nam là Trần-Thôi bị tội, lén khiến con của Trọng-Vy là Trần-Văn-Tôn qua Trung-Quốc xin quân đánh An-nam. Mùa đông năm giáp-Thân, đại-binh qua đánh nước Nam, Trấn-Nam- Vương cho Trần-Văn-Tôn làm Thiên-Hộ để dẫn đường. Vua Thánh-Tông nhà Trần cả giận, khiến bổ quan-tài Trọng-Vy.

Tăng-Uyên-Tử

Tự là Quảng-Trưng, người Vũ-Châu, thi đậu khoa Canh-Tuất (1250), niên hiệu Thuần-Hữu (1241-1252), đời Tống Lý-Tông, do chức Thị-Tũng ra làm Tri-Huyện Long-Hưng, kiêm chức An-Vũ, lại được vời làm Lâm-An Phủ-Doãn, coi việc Tham-Chính-Phủ. Mùa xuân năm Ất-Hợi (1275) do chức đài- đoan biếm ra Lôi-Châu. Niên-hiệu Chí-Nguyên năm Bính-Tý (1276), đại-binh vào Hàng-Châu, ấu chúa nhà Tống ra hàng, Nhị Vương vượt biển đến Quảng-Châu. Uyên-Tử yết kiến, được cho làm Quảng-Tây Tuyên-Uý-Sử, kiêm quản Lôi-Châu. Năm Mậu-Dần (1278) làm chức Thị-độc, gia phong Kim-Tử Quang- Lộc đại-phu. Lúc Ích-Vương bại trận ở Nhai-Sơn, Tham-Chính là Tú-Phu ôm Quảng-Vương nhảy xuống biển. Uyên-Tử nhảy theo, nhưng được người nhà vớt lên khỏi chết, bèn ở nhờ trong thuyền của Tô-Lưu- Nghĩa. Bọn Mã-Vượng giết Lưu-Nghĩa, đem Uyên-Tử chạy qua An-nam, rất được Trần Thánh-Vương trọng đãi. Mùa đông năm Giáp-Thân (1284), niên hiệu Chí-Nguyên, đại binh vào An-nam, Uyên-Tử đem chúng qui phục. Sau không biết chết ở đâu.

Tô-Cảnh-Do

Con của Tô-Lưu-Nghĩa, An-Vũ-Sứ nhà Tống. Năm Bính-Tý (1276), hiệu Chí-Nguyên, quan binh vào Lâm-An, Nhị Vương chạy xuống phía Nam, lúc ấy người cha làm Sách-Ứng Đại-Sứ Quảng-Đông, và Quảng-Tây gia hàm Thiếu-Bảo. Sau trận thua tại Nhai-Sơn, vua Tống đã bị chôn vào bụng cá. Lưu-Nghĩa bị bọn Vương-Phục, Mã-Vượng giết chết. Chúng tôn Khả-Văn-Kiệt lên làm trưởng, bắt vợ Lưu-Nghĩa gã cho Văn-Kiệt. Lúc ấy Cảnh-Do mới mười tuổi. Văn-Kiệt dẫn chúng chạy qua An-nam, Cảnh-Do kêu oan cho cha với Thánh-Vương nhà Trần, Vương khiến Kiểm-Pháp-quan Đinh-Củng-Viên tra xét. Văn-Kiệt lo lót rất hậu, Cũng-Viên tâu với Vương rằng: "ấy là việc xảy ra lúc chúng nó chưa về phụ với ta, bất tất cật vấn làm gì". Mùa đông năm Giáp-Thân (1284), niên hiệu Chí-Nguyên, quan binh vào An-nam, Văn-Kiệt đem chúng ra hàng. Cảnh-Do lại đem việc ấy tố cáo với Trấn-Nam-Vương, Vương thương xót, khiến người dò hỏi ra sự thực, bèn chém Văn-Kiệt. Cảnh-Do theo quân về Bắc, được cho về làng cũ.

(1) Đỗ-Phủ nhà Đường bị truất ra ở đất Linh-Vũ.
(2) Ngu-Phiên, người đời Tam-Quốc, học giỏi, vì lưu-lạc ở phương Nam, sau chết ở đó. Thường than thở rằng: "Sống không biết nói chuyện với ai, chết chỉ có ruồi xanh đến điếu. Đời người gặp được một người tri-kỷ cũng đủ khỏi buồn".


An-Nam Chí-Lược Quyển Đệ Thập Chung
Logged
lonesome
Moderator
*
Bài viết: 1244


« Trả lời #58 vào lúc: 22 Tháng Hai, 2009, 11:04:37 pm »

An-Nam Chí-Lược
Quyển Đệ Thập Nhất

Cổ - Ái Đông-Sơn Lê-Tắc Biên

Gia thế Họ Triệu

Triệu-Đà

Người Chơn-Định, thời nhà Tần, (246-207 trước Công-Nguyên) làm quan lệnh huyện Long-Xuyên (Tuần-Châu ở Nam-Hải). Buổi đầu nhà Tần gồm thâu thiên-hạ, đánh lấy đất nước Việt, đặt ba quận Quế- Lâm, Nam-Hải và Tượng-Quận, để đem dân đi đày qua ở chung lộn với dân Việt. Quan Uý quận Nam-Hải là Nhâm-Ngao đau bệnh ung-thư chết, nhà Tần bèn cho Đà kiêm chức Nam-Hải-Uý. Nhà Tần mất, Đà đánh lấy luôn Quế-Lâm, Tượng-Quận, tự lập làm vua. Khi Hán Cao-Tổ (206-195 trước Công-Nguyên), đã bình-định thiên-hạ, vì trong nước trải qua chiến-tranh lao khổ, nên tha tội Đà, chẳng trách. Năm thứ 11, khiến Lục-Giả phong Đà làm Nam-Việt-Vương. Thời Cao-Hậu cấm Nam-Việt mua bán đồ sắt, Đà bèn tiếm hiệu xưng Nam-Việt Vũ-Đế, phát binh đánh Trường-Sa, lấy của cải mua chuộc mấy nước Mân-Việt, Tây- Âu-Lạc (1) bắt làm thuộc-bang để sai khiến. Bờ cõi từ đông qua tây rộng hơn muôn dặm, cỡi xe Hoàng-ốc- tả-đạo (2), xưng đế-chế sánh ngang với Trung-Quốc.

Hán Văn-Đế lên ngôi năm đầu (179 trước Công-Nguyên), đặt người thủ-ấp, để coi sóc mồ mả của thân-nhân Triệu-Đà (3), hằng năm hương-khói, lo việc phụng-tự, lại vời anh em của Đà đều ban cho ân-huệ, quan-tước. Đà bèn xuống lệnh trong nước rằng: "Ta nghe nói hai kẻ hùng chẳng cùng đối lập, hai kẻ hiền chẳng cùng sinh tồn. Hoàng-đế nhà Hán là đấng hiền Thiên-Tử, bèn bỏ hoàng-ốc, tả đảo". Văn-Đế rất lấy làm đẹp lòng. Thời Cảnh-Đế (156-141 trước Công-Nguyên) Triệu-Đà xưng thần, khiến người vào triều-yết... Nhưng ở Nam-Việt vẫn tiếm hiệu như cũ... Lúc khiến sứ vào chầu Thiên-Tử, xưng triều mạng như chư-hầu. Năm Kiến-Nguyên thứ 4 (137 trước Công-Nguyên) Đà mất, cháu là Hồ nối ngôi. (Thời ấy nhà Hán đã được 70 năm, Triệu-Đà đã hơn trăm tuổi, ở ngôi 71 năm).

Hồ lên làm vua, lúc ấy Mân-Việt đến đánh Nam-Việt, Hồ không dám tự chuyên dấy binh, khiến người dâng thư cho Hán Vũ-Đế. Vũ-Đế vì Hồ dấy binh đánh Mân-Việt và khiến Nghiêm-Trợ qua dụ, Hồ cảm oai đức của Thiên-Tử, bèn sai Thái-Tử Anh-Tề vào chầu vua Hán, tự mình ngày đêm cũng sắp sửa vào chầu. Các đại-thần can rằng: "Xưa tiên-vương có nói: "thờ Thiên-Tử giữ đừng thất lễ là được, cốt đừng nghe lời dỗ ngon ngọt mà vào yết-kiến, vào yết-kiến thì không về được, ấy là cơ mất nước". Rốt cuộc Hồ xưng bệnh chẳng đi, sau mười năm, Hồ đau nặng, Anh-Tề xin về. Hồ mất, tôn Thuỵ-Hiệu là Văn-Vương.

Anh-Tề lên làm vua, giấu cất ấn ngọc tỷ của tiên-đế (Lý-Khanh nói rằng: "giấu cất ấn ngọc tỷ, tiếm hiệu". Trước đây, lúc Anh-Tề vào túc vệ ở Trường-An, cưới con gái họ Cù ở đất Hàm-Đan, đẻ con là Hưng. Đến lúc nối ngôi vua, Anh-Tề dâng thư xin lập Cù-thị làm Vương-Hậu và Hưng làm tự. Nhà Hán thường khiến sứ dụ Anh-Tề vào chầu, Anh-Tề xưng bệnh không đi, chỉ khiến con là Thứ-Công vào chầu mà thôi. Anh-Tề mất, tôn Thuỵ-Hiệu là Minh-Vương.

Hưng lên làm vua, tôn mẹ làm Thái-Hậu. Cù-Thị lúc chưa lấy Anh-Tề, đã tư thông với người Bá- Lăng tên là An-Quốc-Thiều-Quý. Năm Nguyên-Đỉnh thứ 4 (113 trước Công-Nguyên), người trong nước biết việc ấy, chẳng phục Thái-Hậu. Thái-Hậu sợ nổi loạn, muốn cậy oai nhà Hán, thường khuyên vua và bề tôi cầu nội-thuộc nhà Hán, bèn nhờ sứ-giả dâng thư xin cho Nam-Việt được đứng ngang hàng với chư-hầu, ba năm một lần vào triều-kiến. Thiên-Tử y cho, Vua và Thái-Hậu sắm sửa hành-trang, đem nhiều của báu để vào chầu Hán-Đế. Thừa-tướng Lữ-Gia can ngăn, vua chẳng nghe, Gia có lòng muốn làm phản, thường xưng bệnh, chẳng chịu ra mắt sứ-giả nhà Hán. Thái-Hậu giận, mưu toan giết Gia, bèn mở hội trong cung, lúc uống rượu, Thái-Hậu bảo Gia rằng: "Nam-Việt nội-thuộc Trung-Quốc là việc lợi cho nước; Thừa-tướng lại cố ý không chịu là vì cớ gì?". Nói vậy, để chọc giận Hán-Sứ, nhưng hai bên cùng ngó nhau, hồ-nghi, không dám hành-động. Lữ-Gia thấy có mòi chẳng lành, liền bỏ chạy ra. Thái- Hậu giận, muốn dùng cái mâu đâm Gia, nhưng vua can ngăn lại. Gia ra ngoài xưng bệnh, mấy ngày không yết-kiến vua, bèn cử binh làm phản, đánh giết Vua, Thái-Hậu và Hán-Sứ, rồi lập con thứ của Minh-Vương là Vệ-Dương-Hầu Kiến-Đức lên làm vua. Năm Nguyên-Đỉnh thứ 5 (112 trước Công-Nguyên) Vũ-Đế sai Phục-Ba tướng-quân Lộ-Bác-Đức đem mười vạn quân qua đánh. Năm sau đánh bại được quân Việt, khiến bộ-tướng bắt Kiến-Đức và Lữ-Gia nơi cửa biển, tiêu-diệt nước Việt, chia làm chín quận, bắt đầu đặt quan Thái-Thú. Họ Triệu làm vua được năm đời, cộng 93 năm.

1 Lạc tức là Giao-Chỉ.

2 Hoàng ốc là mui xe lợp màu vàng, tả đảo là chùm lông đặt trước đầu ngựa kéo xe ở phía trái, cho ngựa không ngó thấy nhau.

3 Mồ mả thân nhân Triệu Đà ở Chân Định bên Tàu.
Logged
lonesome
Moderator
*
Bài viết: 1244


« Trả lời #59 vào lúc: 22 Tháng Hai, 2009, 11:09:14 pm »

Phụ chép bài "Nam-Việt-Hành" của Quan Gián-Nghị nhà Tống là Chu-Chi-Tài

Chi-Tài tên chữ là Sư-Mỹ, người Lạc-Tây, khoảng niên-hiệu Sùng-Ninh (1102-1106), vì nói thẳng bị lỗi, ra làm quan lệnh ở Tứ-Thuỷ. Bài nầy thấy chép ở Trung-Châu-Tập.

Nam-Việt-Hành
Gái Hàm-Đan vợ vua Nam-Việt,
Răng trắng ngời, mắt liếc sáng trưng.
Ngọc làm trướng, ngà làm giường,
Dương cao tàn gấm, đánh vang trống đồng.
Ao Thái-Dịch, phù-dung một đóa,
Chốn khói Mường đày đọa tấm thân.
Bá-Lăng tin vắng cố-nhân,
Thâm-cung chỉ thấy dấu chân phi-hồng.
Con làm chúa mà lòng chẳng nguyện,
Chỉ nguyện về chầu điện Bá-Lương (1)
Mậu-Lăng tuổi trẻ quân-vương (2)
Sai qua hải-đảo tìm đường hàn huyên.
Đuốc Kim-Nghê long-diên thơm phức,
Ngọc Minh-Châu sáng rực thâm-cung.
Xa xuôi muôn dặm Phiên-Ngung,
Uyên-ương đôi lứa thoả lòng hôm nay.
Lão thừa-tướng cầm tay ấn bạc,
Chốn tiêu-tường gây việc đao cung.
Gái nầy ai bảo chẳng hùng,
Phục binh tiệc rượu trong cung an bài.
Sứ nhà Hán một bầy nhu nõa,
Tót mâu-thần, bà đã rắp toan.
Cấm ngăn vì bởi cô-man (3)

Thương ôi! uổng chết gã Hàn-Thiên-Thu.
Quân chinh-phạt thuyền lầu muôn đội,
Ra Quế-Dương xuống lối Ly-Giang.
Lữ-Gia sa lưới Việt-Lang (4),
An-nam chín quận, Hán-Hoàng tóm thâu.
Cỏ mấy độ xanh mồ Triệu-Uý,
Mới ngày nào ngọc tỷ nghinh ngang.
Thành nghiêng vì gái Hàm-Đan,
Nước xuôi Dương-Thuỷ (5), tre tàn sông Tương
Tương-Phi (6), Cù-Hậu khóc thương.
-----------------------------------------

(1) Bá Lương: đền của vua Hán.
(2) Mậu Lăng là lăng của Hán Vũ Đế.
(3) Cô Man là tên Mường mồ côi cha, tức chỉ Việt Vương Hưng.
(4) Việt Lang là chức quan Lang của nước Việt, tên là Đô Kê, bắt Lữ Gia nạp cho tướng nhà Hán.
(5) Quảng Đông cũng gọi là Ngũ Dương Thành.
(6) Tương Phi: vua Ngu Thuấn đi tuần thú, chết ở Thương Ngô, hai bà vợ theo khóc rồi chết ở sông Tương, người đời sau gọi hai bà là Tương Phi.

« Sửa lần cuối: 22 Tháng Hai, 2009, 11:10:59 pm gửi bởi lonesome » Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM