Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 20 Tháng Tư, 2024, 02:57:43 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: An Nam Chí Lược - Lê Tắc  (Đọc 34372 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
lonesome
Moderator
*
Bài viết: 1244


« Trả lời #40 vào lúc: 18 Tháng Hai, 2009, 10:39:06 pm »

Tiền Đại Thư Biểu
[/b]
(Thư và Biểu của đời trước)


Bức thư của vua Nam-Việt là Triệu-Đà dâng lên vua Hán Văn-Đế.

Tôi là Triệu-Đà, xin liều chết, hai lạy, kính dâng thư lên Hoàng-đế Bệ-Hạ:

Lão-phu nầy là một chức lại ở đất Việt xưa, Cao-Hoàng-đế cho tôi ăn ngọc tỷ, để làm vua nước Nam-Việt. Hiếu-Huệ-Đế lên ngôi không nỡ dứt tình, ban thưởng cho tôi rất hậu. Đến đời bà Cao-Hậu coi việc nước, tách riêng xứ mọi rợ mà ra lệnh cấm bán cho nước Việt những đồ làm ruộng bằng kim-loại, lại cấm bán trâu bò dê ngựa về giống cái, nếu có bán chỉ bán con đực mà thôi,... Lão-phu nầy ở nước Việt đã đến tuổi già, tự nghĩ rằng không lo việc cúng tế ông bà là tội đáng chết, nên sai sứ-thần là quan nội- sử tên Phan, quan Trung-Uý tên Cao và quan Ngự-sử tên Bình, tất cả là ba người, qua dâng thư chịu lỗi, đều không thấy trở về. Hơn nữa, được tin nói; phần mộ của cha mẹ tôi đã bị đào lên huỷ hoại hết, anh em giòng họ của tôi đã bị giết cả. Vì cớ đó bắt buộc tôi hội-đồng với quan lại thảo luận rằng: nay đối với nhà Hán đã tỏ lòng xích-mích, đối với các nước ngoài, không lấy gì làm thanh danh, nên đổi hiệu làm Hoàng-đế, làm vua Thiên-tử trong nước Việt, chứ không dám hại gì đến thiên-hạ. Cao-Hậu nghe được, cả giận, tước bỏ quốc-hiệu Nam-Việt, không cho sứ-thần nhà Hán qua lại. Lão-phu nghi cho Trường-Sa- Vương có lời dèm pha, nên cử binh đánh, phạm đến địa-giới.

Lão-phu ở nước Việt đã 49 năm, hiện đương bồng cháu, tối ngủ sáng dậy, nhưng nằm không yên chiếu, ăn chẳng ngon mùi, mắt không ngó tới sắc xinh đẹp, tai không nghe đến tiếng trống chuông, là vì mối sầu không được phụng-sự nhà Hán vậy. Ngày nay, Bệ-Hạ thương tình, cho phục lại quốc-hiệu, cho đến chết còn ghi và từ nay xin trở lại tước vương, không dám xưng làm Hoàng-đế nữa.
Logged
lonesome
Moderator
*
Bài viết: 1244


« Trả lời #41 vào lúc: 18 Tháng Hai, 2009, 10:41:18 pm »

Năm Thái-Bình Hưng-Quốc thứ 5 (980), Giao-Chỉ Đinh-Liễn (con Đinh-Bộ-Lĩnh) mất, em là Đinh-Triền lên làm vua, quan Đại-Hiệu là Lê-Hoàn cướp ngôi, vua Tống-Thái-Tông cử binh qua đánh, Lê-Hoàn giả lời của Đinh-Triền dâng biểu như sau:

Đời chịu ơn trên;
Ở xa góc bể,
Lãnh tiết chế trấn nơi mọi rợ; Lo cống-triều hết phận tôi con. Không ngờ gia vận chẳng may; Xui khiến phụ huynh gặp nạn.
Tuy ngọc lụa tôi thường cống hiến; Nhưng đất tranh, trên chửa sắc ban (1).
Trước kia, cha tôi là Bộ-Lĩnh và anh tôi là Liễn:
Đều được ơn vua; Phong cho chức tước. Kính cẩn giữ gìn bờ cõi, Không hề trể nải bỏ qua,
Nhưng chưa lập được công lao; Bỗng đã xảy ra biến-cố.
Lúc ấy tôi:
Cửa nhà sắp sập; Tang-chế đương còn.
Mà những người trong nước, Nào là quan lại, quân dân; Nào là họ hàng kỳ lão.
Cùng đến nhà ở chế;
Xin quyền lãnh việc binh. Tôi từ chối nhiều lần;
Họ nài xin tha thiết. Chưa kịp trần tấu;
Vì sợ diên trì.
Các bọn mọi rợ ở nơi khe động, núi rừng, tố-tính giảo-hoạt, hung-ác; Không được thỏa lòng;
E khi sinh biến.
Vì vậy, tôi đã nhận chức Tiết-Chế-Hành-Quân Tư-Mã, quyền lãnh châu quân-sự, Nép trông Hoàng-đế Bệ-Hạ:
Ban cho sắc-mệnh; Vào hạng phiên-bang.
Để tỏ ơn rộng lượng của Thánh-Triều; Ngõ thỏa lòng hết trung của thần-hạ. Như vậy tôi được:
Nối truyền nghiệp trước; Vỗ trị dân Mường,
Giặc giã dẹp yên, ngoài đồng-trụ ra công cản-ngự; Ngọc ngà cống-hiến, dưới kim-môn tỏ dạ trung-thành. Kính mong Hoàng-đế Bệ-Hạ thương tình tha tội.

------------------------
1 Đã chú ở bài biểu của Trần-Ích-Tắc mừng Võ-Tông Hoàng-đế lên ngôi.
Logged
lonesome
Moderator
*
Bài viết: 1244


« Trả lời #42 vào lúc: 18 Tháng Hai, 2009, 10:42:34 pm »

Năm Bảo-Hựu thứ 6 (1258), vua An-nam họ Trần dâng biểu xin nhường ngôi cho con.

Tôi nghe nói:

Làm người phải tri túc, nên thoái lui không đợi tuổi già; Sanh con có khả năng, thì giao phó nối theo nghiệp trước. Đó là lẽ thường thiên-đạo;
Lại thêm thuận cả nhân-tình. Nay tôi truyền vị cho con thơ; Kính cẩn tâu bày lên chúa thánh. Tự xét không công-nghiệp;
Lạm mong phong tước hầu,
Lãnh sắc-mệnh ở triều, mà chưa khi nào làm lễ vào triều;
Tỏ trung-thành với nước, mà chưa khi nào đền ơn cho nước. Nay đương thời khó;
Không xiết lòng lo,
Thân liểu bồ héo trước mùa thu, xin trao trọng trách;
Lòng quỳ-hoắc (1), hướng theo mặt nhật, gần ánh thanh-quang. Trước chưa thỉnh-mệnh thánh-triều;
Nay dám kính tâu Bệ-Hạ. Suốt ngày run sợ;
Cúi bước lom khom,
Kính dâng lễ mọn bao-mao (2); Để tỏ lòng thành cần hiến (3). Nép trông Hoàng-đế Bệ-Hạ: Đèn trời soi sáng;
Đức lớn thấm nhuần,
Thương kẻ dưới trung-thành; Xét tình tôi ngu-xuẩn.
Bao dung dân-chúng, học đế-vương thật đáng lưu-truyền; Cùng cứu cơ-vi, việc lớn nhỏ thảy đều thanh thõa.
Ban cho áo mũ, ơn sũng-vinh rạng một cỏi mán mường; Bền tợ núi sông, lời minh-thệ để ngàn năm son sắt.
Lòng tôi mong ước; Ý thánh chuẩn y,
Thái-Thượng quốc-chủ hiệu phong; Chiếu-chỉ mười hàng trông đợi.
Nếu được thoả tình ty-tiện; Thật là có phận vinh-quang. Tôi nguyện:
Giữ dạ trung-trinh, Suốt đời ngay thẳng,
Tấc lòng xin tạc đá ghi vàng; thường tưởng thấy đất trời che chở; Muôn một chỉ bụi hồng giọt nước, ngõ đền bồi non bể cao sâu.

---------------------------------------------
(1) Quì-hoắc là hai thứ hoa luôn luôn hướng về mặt trời.

(2) Bao-mao là một loại cỏ, đời xưa thường dùng để làm vật cống-hiến.

(3) Cần là một loại rau, hiến là dâng lên. Cần-hiến hay hiến-cần là dâng lễ mọn.
Logged
lonesome
Moderator
*
Bài viết: 1244


« Trả lời #43 vào lúc: 18 Tháng Hai, 2009, 10:45:29 pm »

Phụ chép lời biểu của nước Chiêm-Thành dâng lễ cống cho vua nhà Tống. (Nước Chiêm-Thành vốn là huyện Tượng-Lâm, quận Nhật-Nam. Cuối đời nhà Hán, người trong quận làm phản, xưng hiệu là nước Lâm-Ấp, đời sau nhân cuộc loạn, dời qua đất Chiêm, gọi là nước Chiêm-Thành)

Nước tôi ở góc bể xa, thường được nhà vua yêu dấu; Muôn dặm về dâng lễ cống, dám quên chức phận tôi đòi.
Đã mong phong làm nước chư-hầu; Thì triều cống phải y thường lệ. Tôi trộm nghĩ:
Nước Việt-Thường dùng nhiều lớp thông-dịch, mới vào chầu Trung-Quốc, là vì nghe thịnh-
đức của nhà Chu;
Nước Bàn-Mộc (1) soạn mấy khúc ca-chương, để dâng lên vương-đình, là vì mến lòng nhân của nhà Hán.
Một người trên có lòng nhân ái; Muôn nước dưới tỏ dạ phục tùng. Tuy nước tôi ở chốn rất xa xuôi;
Vẫn ngày trước có tên trong các quận. Tượng-Lâm thuộc bản-đồ đất Việt; Đồng-Trụ còn dấu-tích Phục-Ba.
Chúng tôi:
Triều-cống Trung-Hoa;
Đã nhiều năm tháng.
Đương thời vua Nghệ-Tổ dựng nước, chúng tôi tới chúc hạ đầu tiên; Xuống đến các triều-đại nối ngôi, chúng tôi lại cống-triều liên-tiếp. Các cây hoa tốt, đều gieo giống vào đất Trung-Hoa;
Những loài vật xinh, cũng đem dâng đến vườn Thượng-Uyển (2). Trên thi ân tiếp-đãi, nối vận Lục-Tiêu (3);
Dưới hết dạ trung-thành, như hoa quì-hoắc (4).
Đinh ninh vâng lời chiếu phụng; Ân-huệ cho cỡi xe vàng (5).
Tôi nay:
Gặp vận may hưởng phước thái bình; Vinh thân mọn ở nơi cố-quốc.
Lần lút trong gò kiến, phận thấp hèn nhờ chiếu Hán vinh-quang; Ngửa trông lên sân rồng, lời chúc hạ có trời Nghiêu soi thấu.
Ở nhậm-thổ (6) có một vài phương-vật; Dâng bao mao (7) như các nước chư-hầu. Cung duy Hoàng-đế Bệ-Hạ:
Nhất-thị nhân đồng (Cool; Tam-vô đạo hợp.
Cao dày đức thánh, hai bên văn võ múa can lông,
Đông-đúc sân vua, muôn nước công hầu cầm hốt ngọc. Chẳng những yên Lào-Quốc mà mở đất Vĩnh-Xương (?); Sắp ra tới Tây-thành mà trị miền Giao-Chỉ.
Trời một loạt toả ra ánh sáng, dẫu hang cùng cũng soi tới tận nơi;
Đường ba ngã tất có nơi bằng, hễ người ở thì làm thành hoa đất.
Tôi:
Nương theo phong hoá; Trải hết trung thành.
Bôn ba muôn dặm bể khơi, để về dâng lễ;
Mộng tưởng chín tầng nhạc thổi, lần tới nghe ca
Tấc lòng ghi tạc ân sâu; Muôn một đền bồi lượng cả.

--------------------------------
(1) Bàn-Mộc: tên nước mọi ở đời nhà Hán, có dâng vua Võ-Đế một khúc nhạc.

(2) Thượng-Uyển: vườn vua lập ra để tới chơi, trong vườn có đủ cỏ hoa và cầm thú quí lạ.

(3) Lục-Tiêu: Kinh-Thi chép thiên Lục-Tiêu, kể ơn vua đãi bề tôi dự tiệc.

(4) Quì-hoắc: xem chú-thích số 1 bài trước.

(5) Xe dãi vàng: Vua Thiên-Tử ban cho các nước chư-hầu có cấp bậc. Nước lớn thì đi xe treo dãi đỏ, nước vừa vừa đi xe treo dãi tía, xuống nữa thì sắc xanh, sắc vàng (chế-độ của nhà Tần).

(6) Nhậm-Thổ: đất nước của mình cai-trị.

(7) Bao-mao: Xem chú-thích số 2, bài trước.

(Cool Nhân-đồng nhất thi: lòng nhân thương người, xem ai cũng như nhau.
 
An-Nam Chí-Lược Quyển Đệ Lục Chung
Logged
lonesome
Moderator
*
Bài viết: 1244


« Trả lời #44 vào lúc: 18 Tháng Hai, 2009, 10:52:17 pm »

An-Nam Chí-Lược
[/b]
Quyển Đệ Thất

Cổ - Ái Đông-Sơn Lê-Tắc Biên

Các quan Thứ-Sử, Thái-Thú ở các Quận Giao-Châu, Cửu-Chân và Nhật-Nam, phụ-biên các quan Thứ-Sử, Thái-Thú đời Tam-Quốc


Đặng-Huân

Người Nam-Dương, ông nội của Tây-Hoa-Hầu Đặng-Thần, đời Hậu-Hán làm chức Châu-Mục ở Giao-Châu.

Ích-Cư-Xương
Con của Cư-Ông, trong năm Ngũ-Phụng thứ 5 (1), làm Thứ-sử quận Giao-Châu.

(1) Xét Ngũ-Phụng: là niên-hiệu của Hán Tuyên-đế, không có năm thứ 5, chỉ từ năm đầu đến năm thứ 4 (57-54 trước Công-Nguyên). Có lẽ sách chép sai.


Đặng-Nhượng

Thân-thế thế nào chưa rõ, nhưng theo sách sử-ký của đời vua Quang-Võ trong Hậu-Hán-Thư, thời trong thời Vương-Mãng, các quận Giao-Chỉ, đều đóng cửa tự giữ lấy, có Sầm-Bành ngày thường có tình thân-mật với Đặng-Nhượng làm quan Mục ở đất Giao-Chỉ, đưa thư cho Nhượng, Nhượng bèn suất cả các Thái-Thú ở các quận, sai sứ đem lễ-vật về cống-hiến, sau đó đều được phong tước hầu.

Tích-Quang

Người Hán-Trung, trong thời vua Bình-Đế, làm Thái-Thú đất Giao-Chỉ, lấy lễ-nghĩa dạy dân.

Nhâm-Diên

Tự là Trường-Tồn, mới 12 tuổi đã thông hiểu Kinh Thi, Kinh Dịch, Kinh Xuân-Thu, nổi tiếng trong trường Thái-Học, người ta gọi là Nhâm-Thánh Đồng, nghĩa là Ông thánh con nít họ Nhâm. Đầu niên hiệu Kiến-Võ (25 sau Công-Nguyên), làm Thái-Thú quận Cửu-Chân. Theo phong-tục tập-quán thì dân Cửu- Chân chỉ làm nghề đánh cá và săn thú, chứ không biết cày cấy. Nhâm-Diên dạy dân vỡ đất hoang, trồng lúa, đất mỗi năm mỗi mở rộng thêm, dân được no đủ giàu có. Còn hạng dân nghèo không có tiền cưới vợ, thì Nhâm-Diên bắt từ quan Trưởng-Sử trở xuống phải chịu bới lương bổng để giúp kẻ nghèo. Vì vậy, số người cưới vợ trong một lúc tới 2.000 người. Năm ấy, mưa gió thuận hoà, các giống lúa đều được mùa. Nhà nào sinh được con cũng đặt tên Nhâm. Cai-trị được bốn năm, Nhâm-Diên trở về Trung-Quốc, người quận Cửu-Chân lập nhà sinh-từ để thờ.

Tô-Định

Đầu năm Kiến-Võ, làm Thái-Thú quận Giao-Chỉ, tính tham lam mà hung dữ, nên Trưng-Trắc giết Tô-Định làm phản. Sau đó, nhà Hán sai Mã-Viện qua dẹp yên cuộc loạn ấy.

Lý-Thiện

Tự là Thứ-Tôn, người đất Nam-Dương, làm chức Thái-Tử Xá-Nhân của nhà Hán. Trong thời vua Hiển-Tông, làm Thái-Thú quận Nhật-Nam, làm việc hay dùng ân-huệ, bác-ái đối với dân, nên dân ở các xứ khác cũng phục tùng, đổi làm chức Thái-Thú quận Cửu-Chân.

Trương-Khôi

Trong triều vua Hiển-Tông, làm Thái-Thú Giao-Chỉ, vì ăn hối-lộ bị tội, của bị tịch thu vào kho. Vua nhà Hán ra lời chiếu lấy của ấy ban cho các quan.
Logged
lonesome
Moderator
*
Bài viết: 1244


« Trả lời #45 vào lúc: 18 Tháng Hai, 2009, 10:54:51 pm »

Hồ-Cống
[/b]

Cha của Hồ-Quảng, làm chức Đô-Uý quận Giao-Chỉ.

Phàn-Diễn

Trong năm Vĩnh-Hoà thứ 2 (137) của Thuận-Đế, làm chức Thứ-Sử quận Giao-Chỉ. Giặc mọi Khu- Liên huyện Tượng-Lâm, quận Nhật-Nam làm phản, Diễn phát quân ra đánh bị thua.

Trương-Kiều

Trong năm Vĩnh-Hoà thứ 3 (138), làm chức Thứ-Sử quận Giao-Châu, sai sứ-thần đi ủy-dụ bọn giặc mọi ở huyện Tượng-Lâm; bọn giặc đều hàng phục.

Chúc-Lương

Tự là Thiệu-Khanh, người Lâm-Tương. Trong năm Vĩnh-Hoà (136-141), làm Thái-Thú quận Cửu- Chân. Bọn mọi Khu-Liên nổi làm phản; lúc Lương đến, chỉ đi một chiếc xe vào nơi giặc hiểu dụ, lấy oai tín mà thuyết-phục, người tới đầu hàng có vài vạn, cõi đất Lãnh-Ngoại đều yên cả.

Châu-Xưởng

Tự là Tử-Kính, người đất Ngô. Trong năm Vĩnh-Hoà thứ 6 (141), làm Thái-Thú Giao-Chỉ. Xưởng dâng thư tâu rằng: "Đất Giao-Chỉ ở xa, ngoài cả chín Châu, trông về Kinh-đô như xem ngôi sao Vân-Hán, thì nên đặt ra một chức Phương-Bá để làm một hàng rào phía nam cho quốc-gia". Nhà Hán bèn phong Xưởng làm chức Thứ-Sử Giao-Châu.

Hạ-Phương

Làm Thứ-Sử Giao-Châu đời Thuận-Đế, (126-144), dân Giao-Chỉ làm phản, phiến động đến Quận Cửu-Chân, kết bè đảng với nha. Phương lấy ấn-tín khuyến dụ, nên bọn giặc đầu hàng; nhân công đó, được thăng lên chức Thái-Thú quận Quế-Dương.

Năm Diên-Hy thứ 3 (160), dư đảng bọn giặc quận Cửu-Chân lại nổi lên mãnh-liệt, nên triều-đình lại sai Phương làm Thứ-Sử ở Giao-Châu; Phương cai-trị có ân có oai, nên quân giặc kéo nhau tới xin hàng cả.

Dương-Phò

Người Cối-Kê, cháu của Dương-Mậu. Dương Mậu theo vua Hán Quang-Võ chinh phạt có công, nay cho Phò làm Thứ-Sử quận Giao-Châu.

Nghê-Thức

Trong năm Vĩnh-Thọ (Hoàn-đế), làm Thái-Thú quận Cửu-Chân. Lúc bấy giờ, quan lệnh huyện Cư-Phong tham lam hung bạo, nên người trong huyện là Châu-Đạt giết quan lệnh và suất quân chúng đánh cả quận Cửu-Chân. Thức tử trận. Vua Hán hạ chiếu ban thưởng 60 vạn quan tiền, lại cho hai người con làm quan Lang-Trung.

Ngụy-Lãng

Tự là Thiếu-Anh, người Cối-Kê, làm quan lệnh huyện Bành-Thành, thăng lên chức Đô-Úy quận Cửu-Chân. Trong năm Vĩnh-Thọ thứ 3 (157), bọn mọi làm phản, Nghê-Thức tử trận, Lãng tới, trị việc binh ngũ rất nghiêm, dẹp yên được giặc.

Chúc-Điềm

Tự là Bá-Hưu, người Trung-Sơn, Sách Nam-Việt-Chí chép rằng: "Điềm làm chức Tư-Đồ, vì nói thẳng xúc phạm đến vua, bị giáng làm Thứ-Sử quận Giao-Châu. Ông làm việc thanh-liêm, lại có ân-huệ với dân, cho nên được lòng dân lắm".

Xét lại trong năm Diên-Hy thứ 2 (159) của Hoàn-đế, Điềm giữ chức Quang-Lộc Đại-phu, thăng lên chức Tư-Đồ, năm thứ 3 (160) thì mất. Như vậy, thì có lẽ sách Nam-Việt-Chí không đủ làm bằng cứ.

Cất-Kỳ

Năm Diên-Hy thứ 6 (163), đi đánh giặc Giao-Châu, bị giặc bắt sống giữ lại.

Đinh-Cung (1)

Đời vua Hoàn-đế (147-167), làm chức Thứ-Sử Giao-Châu, được mời về nhậm chức Tư-Đồ.

Trương-Bàn

Tự là Tử-Thạch, người Đan-Dương. Trong năm Diên-Hy (158-166), làm Thứ-Sử Giao-Châu.

Ngu-Thiều

Cha của Ngu-Phiên. Trong đời Hậu-Hán làm Thái-Thú quận Nhật-Nam, có ân-huệ với dân, đến khi chết, đưa quan-tài về làng, có bầy chim nhạn bay theo đến Cối-Kê, đậu trên phần mộ, chôn xong mới bay đi.

Châu-Tuấn

Tự là Công-Vỹ, người Cối-Kê. Năm Quang-Hoà thứ 4 của Linh-Đế (181), Lương-Long ở quận Giao-Châu cùng với Thái-Thú quận Nam-Hải là Khổng-Chỉ làm phản, vua Hán sai Tuấn làm Thứ-Sử quận Giao-Châu. Khi đi qua quận nhà, Tuấn chiêu mộ người nhà hợp với 5.000 quân chia hai đạo tiến vào. Trước tiên đã cho người tới quận để do thám tình hình hư thiệt của giặc và tuyên truyền oai đức để chấn-động nhân-tâm của bọn giặc, liền đó kéo các đạo quân ở bảy quận (2) áp tới đánh chém Lương-Long, rồi quân giặc đầu hàng, ước mấy vạn người. Nhân công đó, được phong tước Đô-Đình-Hầu.

Lý-Tiến

Tự là Đăng-Cao, trong thời vua Linh-đế (168-189), làm Thứ-Sử quận Giao-Châu.

Giả-Tông

Tự là Mạnh-Kiên, người Liêu-Thành, đậu khoa hiếu-liêm, bổ làm Kinh-Triệu-Doãn. Đương thời ấy ở đất Giao-Châu có nhiều của báu, các quan Thứ-Sử bổ tới, lớp trước cũng như lớp sau, không ai giữ được nết trong sạch, nên lại-thuộc và nhân-dân đều oán mà làm phản. Năm đầu hiệu Trung-Bình (184), triều-đình cử Giả-Tông làm Thứ-Sử quận Giao-Châu. Sau khi đến Quận, Tông đưa giấy hiểu thị, khiến nhân-dân đều yên nghiệp làm ăn, chiêu-mộ những người hoang-tán, tha xâu-thuế, giết những cường- hào bóc-lột, chọn những người hiền lành làm quan, trăm họ đều yên, dân trong quận làm lời ca rằng: "Giả phụ lai vân, sử giã tiên phản, kim kiến thanh-bình, bất cảm phục bạn", nghĩa là: ông cha họ Giả tới muộn, khiến chúng ta trước kia làm phản, nay thấy quan trường thanh-liêm và công-bình, không dám bội bạn nữa".

--------------------------------------------------

(1) Tịnh-bản và Anh-bản chép là: Đinh-Phú.

(2) Bảy quận là: Nam-Hải, Thương-Ngô, Uất-Lâm, Hiệp-Phố, Giao-Chỉ, Nhật-Nam và Cửu-Chân đều thuộc về Giao-Châu.
Logged
lonesome
Moderator
*
Bài viết: 1244


« Trả lời #46 vào lúc: 18 Tháng Hai, 2009, 11:01:11 pm »

Chu-Thặng

Làm chức Ngự-Sử, vì nói thẳng trái ý vua, nên bị cho ra làm Thứ-Sử Giao-Châu. Khi tới quận nhậm chức xong, dâng thơ cho vua nói rằng: "Giao-Châu là nơi tuyệt-vực, tập tục tham ô, các họ hào- cường thì gian-dối, các chức trưởng-sử thì bạo-ngược, hà hiếp bóc lột muôn dân. Tôi được ơn trên cho tới giữ chức trọng yếu, làm nanh vút cho triều-đình. Tôi muốn vì thánh-triều nghiêm-trị một địa phương cho trong sạch". Lúc đó, các thuộc quan quận Giao-Châu từ chức bỏ đi nơi khác hơn 30 người.

(Thẩm thuyên-Kỳ có câu thơ rằng: "Chu Thặng an Giao-Chỉ", nghĩa là Ông Chu-Thặng làm đất Giao-Chỉ được yên).

Kiển-Lan

Làm Thái-Thú quận Giao-Chỉ trong thời nhà Hán.

Lại-Tiên

Làm Thái-Thú quận Giáo-Chỉ. (Năm Chí-Nguyên thứ 22 (1285), có quan An-Vũ-Sứ nội-phụ triều
Nguyên tên là Lại-Ích-Quy là cháu xa đời của Lại-Tiên).

Hoàng-Cái

Làm Thái-Thú quận Nhật-Nam, về triều nhà Ngô, vì tham-lam, giả dối, bị đuổi.

Đam-Manh

Làm Thái-Thú quận Cửu-Chân, vì sự hiềm oán riêng mà giết quan Công-Tào tên là Phan-Hâm, rồi người em của Hâm lại giết Manh.

Chu-Phù

Trong năm Kiến-An thứ 5 của Hiến-Đế (200), làm Thứ-Sử quận Giao-Chỉ, chính-sách bóc lột và ngoan ngược, bị giặc đánh đuổi, giết chết.

Trương-Tân

Tự là Tử-Vân, người Nam-Dương. Trong năm Kiến-An thứ 6 (201), làm Thứ-Sử Giao-Châu. Nhân có sự hiềm-khích với Lưu-Biểu, năm nào cũng dấy binh đánh, sau bị bộ-tướng là Khu-Cảnh giết chết.

Lại-Cung

Người Linh-Lăng, được Lưu-Biểu sai làm Thứ-Sử quận Giao-Châu, tính người nhân-từ, cẩn-thận, không thạo việc đời, bị Thái-Thú quận Thương-Ngô là Ngô-Cự đuổi đi. Lưu-Tiên-Chúa (Lưu-Bị) dùng làm chức Thái-Thường.

Ky-Vô-Hạp

Người Cối-Kê, được Lưu-Biểu sai làm Thứ-Sử quận Giao-Châu.

Chu-Trị

Tự là Quân-Lý, người Đan-Dương. Trong năm Kiến-An thứ 7 (202), Tôn-Quyền dâng biểu cử Trị
làm Phò-Nghĩa Tướng-Quân, giữ chức Thái-Thú quận Cửu-Chân, đánh yên quân mọi và Việt.

Sĩ-Nhiếp

Tự là Ngạn-Oai, nguyên trước tổ-tiên là người Vấn-Thượng, nước Lỗ, gặp thời Vương-Mãng làm loạn, lánh nạn qua ở Giao-Chỉ được 6 đời. Trong thời Hoàn-đế, (147-167) thân sinh của Nhiếp là Sĩ-Tử làm Thái-Thú quận Nhật-Nam. Nhiếp lúc còn nhỏ, theo học với Lưu-Tử-Kỳ ở Dĩnh-Xuyên, học sách Xuân- Thu, Tả-Truyện, làm lời chú-giải, sau đậu khoa hiếu-liêm, được bổ làm chức Thượng-Thư-Lang. Nhân vì việc công, phải cách-chức, sau lại đậu khoa Mậu-Tài, làm chức Thái-Thú quận Giao-Chỉ. Trong thời loạn Đổng-Trác, Chu-Phù làm Thứ-Sử Giao-Chỉ bị quân giặc giết. Nhiếp tới quận nhận chức, thái-độ rộng rãi, trung-hậu, lại hay khiêm-nhượng thành kính trong lúc đối đãi với các sĩ-phu, cho nên người trong nước thêm phần kính trọng. Các bậc nhân-sĩ Trung-Quốc lánh nạn qua ở đất Việt, đến nương nhờ Sĩ-Nhiếp. Em của Nhiếp là Sĩ-Nhất làm Thái-Thú Hợp-Phố, còn anh em khác, mỗi người cai-trị một quận.

Sĩ-Nhiếp hùng cứ một phương, khi đi ra đi vào, thì có hiệu-lệnh chuông khánh, trống kèn, xe ngựa chật đường, quân lính theo hầu hai bên xe, xông trầm hương, có vài mươi người. Vợ hầu đều đi xe có che màn, con em cỡi ngựa, có lính đi theo hộ vệ, đương lúc đó, quí trọng không ai bằng, trăm giống mọi thảy đều khiếp phục, so với Triệu-Đà ngày trước cũng không hơn được. Khi trước Chu-Phù và Trương-Tân đều bị giết, châu, quận nổi loạn, vua nhà Hán ban chiếu thư nói: "Đất Giao-Châu là xứ xa ngút, phía Nam lại cách trở nhiều sông, biển, ơn trên không thấm xuống dân, tình dân không thấu đến triều-đình, ta biết nghịch-tặc là Lưu-Biểu sai tên Lại-Cung qua cướp lấy Nam-thổ. Nay ta cho Sĩ-Nhiếp làm chức Tuy-Nam Tướng-Quân, coi cả bảy quận mà lãnh Thái-Thú Giao-Chỉ như cũ". Nhiếp sai người lại-thuộc là Trương-Dục qua Kinh-Sư nạp lễ cống. Lúc bấy giờ, thiên-hạ loạn lạc, đường sá đứt đoạn, mà Nhiếp không khi nào bỏ hở việc cống-hiến, nên vua Hán ra lời chiếu phong Nhiếp làm An-Viễn Tướng- Quân, Long-Độ-Đình-Hầu. Cuối niên hiệu Kiến-An (220), Tôn-Quyền sai Bộ-Chất, làm Thứ-Sử quận Giao- Châu. Chất đến, anh em Nhiếp tuân theo tiết-chế của nhà Ngô.

Quyền cho Nhiếp làm Tả-Tướng-Quân, Nhiếp sai người con là Khâm, qua Trung-Quốc dâng lễ cống-hiến. Quyền lại thăng Nhiếp làm Võ-Vệ Tướng-Quân, Long-Biên-Hầu. Mỗi lần sai sứ-thần qua chầu Tôn-Quyền, thì dâng lên các hương-liệu, châu, ngọc, san-hô, hổ-phách, chim công, sừng-tê, ngà voi, đồ lạ, của quí và các thứ quả ngon ngọt như chuối, long-nhãn, không thiếu thức gì và không năm nào không đưa qua.

Nhiếp ở quận Giao-Chỉ 40 năm, thọ 90 tuổi.

Sĩ-Vỹ

Em của Sĩ-Nhiếp, lãnh chức Thái-Thú quận Cửu-Chân.

Sĩ-Huy

Con của Sĩ-Nhiếp. Sau khi Sĩ-Nhếp mất, Huy tự lãnh chức Thái-Thú quận Giao-Chỉ, sau bị Lữ-Đại chém.

Trần-Thời

Thay Sĩ-Nhiếp tới làm Thái-Thú, bị con của Nhiếp là Huy cự tuyệt.

Đái-Lương

Làm Thứ-Sử Giao-Châu đời Ngô. Năm Hoàng Võ thứ 5 (226), nhân vì đất Giao-Chỉ ở xa, nên chia từ quận Hợp Phố trở về Bắc làm Quảng-Châu, từ quận Giao-Chỉ trở về Nam làm Giao-Châu. Vua Ngô cho Lương làm Thứ-Sử, Lương cùng Trần-Thời vào đất Giao-Châu đều bị Sĩ-Huy chống cự.

Bộ-Chất

Tự là Tử-Sơn, người Hoài-âm, tỵ loạn qua Giang-Đông làm chức Trung-Lang-Tướng cho nước Ngô, kiêm chức Chính-Nam Tướng-Quân. Nguyên trước Lưu-Biểu có đặt Ngô-Cự làm Thái-Thú quận Thương-Ngô, nhưng Cự bề ngoài phục tùng, mà bề trong thì trái lệnh. Chất dụ Cự đem chém. Tôn- Quyền thăng Chất làm Thứ-Sử Giao-Châu, Chất đến Quận, oai thanh lừng lẫy, Nam-Thổ bình yên. Sơ niên Diên-Khang Quyền sai Lữ-Đại đến thay Chất. Chất suất bọn nghĩa-sĩ ở Giao-Châu đến một vạn người ra Trường Sa, vừa gặp Lưu-Bị tiến quân sang phương Đông, bèn cùng đánh nhau tại Ích-Dương. Lưu-Bị thua chạy, nhưng các quận ở châu Linh, châu Quế, đương còn ở trong tình trạng kinh-khủng. Chất đều dẹp yên.

Lữ-Đại

Tự là Định-Công; người Quảng-Lăng. Trong năm Hoàng-Võ thứ 5 (226) nhà Ngô, làm Thứ-Sử Giao-Châu. Khi trước Sĩ-Huy ở Giao-Chỉ nghịch mệnh, Đại đốc quân vượt biển qua đánh, Huy sợ, suất cả 5, 6 anh em, giơ cánh tay trần tới hàng. Đại đem chém hết; lại khiến người đi phủ-dụ các nước ở ngoài biên giới, cho nên Phò-Nam, Lâm-Ấp đều tới cống hiến. Nhân công đó, Đại được thăng lên chức Trấn- Nam Tướng-Quân và tước là Phiên-Ngu-Hầu. Tôn Lượng lại phong cho chức Đại-Tư-Mã.

Đại người thanh-liêm, chăm lo công việc, đi đến đâu cũng có tiếng hay. Mấy năm ông ở quận Giao-Châu, không gửi gì về nuôi gia-đình, vợ con đói khát, túng thiếu. Tôn-Quyền được tin, bèn cho tiền bạc, vải lụa để tiêu dùng. Đại thọ đến 96 tuổi mới mất.

(Tôn-Thịnh nói rằng: "yên vỗ người xa, săn sóc kẻ gần, không chi bằng lòng tin. Đại giết người đầu hàng, để kể làm công; người quân-tử xem đó thì biết rằng họ Lữ không được lâu dài).

Tiết-Tông

Tự là Tử-Kỉnh, người quận Bái, lúc nhỏ, nhờ người trong họ giúp đỡ, đi lánh nạn ở đất Giao-Chỉ, đem học với Lưu-Hy, Tôn-Quyền dùng làm Thái-Thú Hiệp-Phố và Giao-Chỉ, cùng với Thứ-Sử Lữ-Đại, dẹp yên cuộc loạn Sỹ-Huy.

Lục-Duệ

Tự là Cung-Tông, em của Lục-Khải. Trong năm Xích-Ô thứ 11 (248), nhà Ngô, hai quận Giao-Chỉ và Cửu-Chân nổi giặc công hãm thành ấp, vua Ngô bèn dùng Duệ làm chức Thứ-Sử quận Giao-Châu. Khi tới nơi, Duệ dụ dỗ bằng những điều ân-nghĩa, tín thật, cho tiền của, lụa là, bọn giặc và dân chúng đều cúi đầu phục mệnh, toàn cảnh Giao-Châu yên lặng vui vẻ. Duệ bèn được thăng chức An-nam tướng- quân.

Đầu năm Vĩnh-An (258) được phong tước Đô-Đình-Hầu.

Tôn-Tư

Trong năm hiệu Vĩnh-An (258-264), làm Thái-Thú quận Giao-Chỉ, có tính tham bạo. Lúc ấy, vua Ngô sai sứ-thần qua Giao-Chỉ; Tư lại tự tiện trưng-cầu 30 con Khổng-tước, bắt dân đem tới Kiến-Nghiệp. Dân sợ đi xa làm việc mệt nhọc, bèn khởi loạn, tên lại-thuộc trong quận là Lữ-Hưng giết Tư rồi qua hàng phục với nhà Tấn, cả hai quận Cửu-Chân và Nhật-Nam đều hưởng ứng theo Hưng.

Trần-Tập

Người Lâm-Hoài. Trong năm Vĩnh-An thứ 7 (264), làm quan Mục ở Giao-Châu. Lúc đó, sau khi chính sách hà khắc của Tôn-Tư, nhà Ngô lại chia bốn quận phía đông bờ biển làm Quảng-Châu, dùng Hùng-Mục làm Thứ-Sử, ba quận phía Nam bờ biển làm Giao-Châu, dùng Trần-Tập làm Thứ-Sử, đời quận- lỵ qua Long-Biên.

Ngu-Phiếm

Tự là Thế-Hồng, con của Ngu-Phiên. Trong năm đầu hiệu Kiến-Hoành (269), đời vua Ngô là Hạo, Phiếm giữ chức Giám-Quân Sứ-Giả, cùng các tướng là Tiết-Hủ, Đào-Hàng, Lý-Miễn và Từ-Tồn, đánh Giao-Chỉ, bắt giết các tướng do nhà Tấn phái sang, nhân đó, quận Cửu-Chân, quận Nhật-Nam lại thuộc về Ngô. Nhân thành-công đó Phiếm được thăng chức Thứ-Sử Giao-Châu, được phong tước là Dư-Diêu- Hầu.

Cốc-Lãng

Tự là Phụng-Tiên, người Quế-Dương, theo nhà Ngô, làm quan Thái-Thú quận Cửu-Chân.

Ky-Vô-Hậu

Làm quan Thứ-Sử quận Giao-Châu, nhà Ngô.

Tu-Tắc

Cha của Tu-Trạm, làm Đô-Đốc Giao-Châu, nhà Ngô, bị quan Mục quận Giao-Chỉ của nhà Tấn là Dương-Tắc chém.

Lưu-Tuấn
Làm Thứ-Sử Giao-Châu của nhà Ngô, bị Mao-Quýnh (Theo Đường-Vận "Cổ quýnh thiết".) giết.

Hấn-Tông

Nhà Thục sai coi việc quận Giao-Châu, có sách chép Tống làm Thứ-Sử Giao-Châu nhà Tấn.

Mao-Quýnh

Làm Thái-Thú Giao-Chỉ nhà Thục, có sách chép Quýnh là tướng-quân nhà Tấn.

An-Nam Chí-Lược Quyển Đệ Thất Chung
Logged
lonesome
Moderator
*
Bài viết: 1244


« Trả lời #47 vào lúc: 19 Tháng Hai, 2009, 10:30:11 pm »

An-Nam Chí-Lược
Quyển Đệ Bát

Cổ - Ái Đông-Sơn Lê-Tắc Biên


Các Đô-Đốc, Thứ-Sử Giao-Châu, các Thái-Thú ở các quận Giao-Chỉ, Cửu-Chân và Nhật-Nam trong thời Lục Triều


Đổng-Nguyên
[/b]

Làm Thái-Thú Cửu-Chân nhà Tấn (265-316).

Soán-Cốc


Làm Thái-Thú Giao-Chỉ.

Mã-Dung

Thay Soán-Cốc.

Dương-Tắc

Làm Thái-Thú quận Giao-Chỉ, nhà Tấn.

Mạnh-Cán

Bộ thuộc của tướng-quân Hoắc-Dặc, theo Mao-Quýnh từ nước Thục qua Giao-Chỉ, bị nước Ngô bắt, sau qui thuộc nhà Tấn, bày cho nhà Tấn những kế-hoạch đánh nước Ngô, vua Võ-Đế nhà Tấn dùng làm Thái-Thú quận Nhật-Nam.

Đào-Hoàng

Tự là Thế-Anh, người Đan-Dương, làm chức Thái-Thú quận Thương-ngô, thuộc nhà Ngô. Khi trước Lữ-Hưng giết Tôn-Tư đem quận ấy thuộc về nhà Tấn, Tấn Võ-Đế (265-290), phong Hưng làm Thái-Thú quận Giao-Chỉ. Về sau Hưng bị Lý-Thống giết, vua lại khiến Soán-Cốc và Mã-Dung ở đất Ba-Tây kế tục thay thế, nhưng mấy ông kể trên đều bị đau chết cả. Khi ấy vua dùng Hoắc-Dặc và Dương-Tắc điền thết, hợp với Mao-Quýnh, Đổng-Nguyên, Mạnh-Cán, Lý-Tùng, Vương-Nghiệp và Soán-Năng, từ nước Thục ra Giao-Chỉ đánh phá quân Ngô ở Thạch-Thành, chém Tu-Tắc và Lưu-Tuấn. Mùa thu năm Kiến-Hoành thứ 3, (271), vua nước Ngô sai bọn Ngu-Phiếm, Tiết-Hủ và Đào-Hoàng chống với bọn Dương-Tắc, đánh nhau ở Phần-Thuỷ. Hoàng bị bại trận, rút quân lui giữ quận Hợp-Phố. Hủ giận bảo Hoàng rằng:
"Ngươi tự xin đi đánh giặc mà không thắng lợi, thì lỗi tại ai?"
Hoàng nói: "Tôi là quan nhỏ, không làm theo ý được, các ông không đồng ý nhau, cho nên thua đấy thôi".
Đào-Hoàng muốn đem quân trong lúc ban đêm để đánh thình-lình và thẳng tiến quận Giao-Chỉ. Đổng-Nguyên kháng cự; khi sắp ra trận, Hoàn nghi có phục binh, nấp ở trong vách tường, bèn cho từng hàng quân cầm giáo dài ở đằng sau, sẵn sàng để chực. Quân hai bên vừa giáp trận, Nguyên giả thua bỏ chạy, Hoàng đuổi theo, quả có quân phục-kích nổi dậy, nhưng bị mấy lớp quân cầm giáo dài đón đánh, nên quân của Nguyên bị thua nặng. Quân của Hoàng lấy những đồ Bửu-vật đem về. Lúc đó, Hủ mới xin lỗi Hoàng. Hoàng lấy của thu được cho tướng ở đất Phù-Nghiêm là Lương-Kỳ-Chi để đền ơn đã giúp Hoàng một vạn người. Đổng- Nguyên có một người dũng-tướng là Giải-Hệ cùng ở trong thành, Hoàng dụ người em là Tượng, viết thư cho Hệ, lại khiến Tượng ngồi xe đi theo mình. Nguyên nói: "Tượng như thế, thì Hệ chắc có ý bỏ đi", nên tức thì giết Hệ. Khi ấy Hoàng đánh cướp được thành, quận Cửu-Chân và Nhật-Nam đều đầu hàng. Hoàng thành-công được thăng làm Thứ-Sử Giao-Châu. Đào-Hoàng có mưu-kế, hay giúp người cùng khổ, ưa làm việc bố-thí, rất được lòng mọi người, những bọn mọi phiến-nghịch đều bị Hoàng đánh dẹp yên hết. Sau Hoàng bị triệu về, thì người ở Giao-Châu, ước chừng 30 bọn xin lưu lại, nên Hoàng được ở lại giữ chức cũ. Khi Tôn-Hạo đầu hàng nhà Tấn, tự tay viết thơ bảo Hoàng qui thuận nhà Tấn. Hoàng được thơ khóc đến mấy ngày, rồi sai người đưa cả đồ ấn-thọ (1) tới Lạc-Dương, vua nhà Tấn ra lời chiếu cho làm lại chức cũ và phong cho tước Uyển-Lăng-Hầu, lại cải chức là Quán-Quân tướng-quân.

Đào-Hoàng ở phương Nam 30 năm, đến khi chết, nhân-dân cả châu đều thương khóc.
-----------------------------------------------------------------------------------
(1) Ấn-thọ (tức là dãi) chế-độ nhà Hán:

a) Các vua chư-hầu, chức Ngự-Sử đại-phu, chức Thừa-Tướng, Tướng-quân, đều được cho ấn vàng, có khắc chữ chỉ định chức tước và địa-điểm của mình.

b) Có một cái dãi bằng tơ, dài một thước hai, thêu rất đẹp để đeo ngọc.
Logged
lonesome
Moderator
*
Bài viết: 1244


« Trả lời #48 vào lúc: 19 Tháng Hai, 2009, 10:40:42 pm »

Ngô-Ngạn

Tự là Sĩ-Tắc, làm Thái-Thú quận Kiến-Bình nhà Ngô. Ngạn tài kiêm văn võ, tay không mà đánh lại cọp. Khi nhà Ngô mất, Ngạn về với nhà Tấn, làm Thứ-Sử Giao-Châu.

Khi Đào-Hoàng chết, các quân đồn thú ở quận Cửu-Chân làm loạn, Ngạn đánh dẹp yên, chém tên tướng giặc là Triệu-Chỉ, trấn-ngự Giao-Châu đến 20 năm, ân oai rõ rệt, cho nên đất Nam-Châu yên lặng.

Cổ-Bí

Tự là Công-Trực, con của Cổ-Khải, tướng quân của nhà Ngô. Bí thay Ngô-Ngạn làm Thứ-Sử Giao-Châu.

Cổ-Sâm

Con của Bí. Khi Bí chết, người trong châu cưỡng bách Sâm lãnh việc Giao-Châu.

Cổ-Thọ

Em của Sâm. Khi Sâm chết, thì Thọ xin lãnh việc Giao-Châu, người trong châu không thuận, Thọ bèn giết bọn trưởng sử là Hồ-Triệu, lại muốn giết cả Lương-Thạc, Thạc đem binh bắt Thọ, và bắt cả mẹ Thọ, rồi cho uống thuốc độc giết luôn.

Đào-Oai
(Có bản chép là Đào-Thành).

Con của Đào-Hoàng, khi trước Lương-Thạc giết Cổ-Thọ, rước Oai lãnh Thứ-Sử Giao-Châu. Oai làm việc, rất được lòng dân.

Đào-Thục

Em của Đào-Oai, nối theo làm Thứ-Sử.

Vương-Đôn

Làm chức Trần-Đông Đại-tướng-quân nhà Tấn, đốc suất quân-sự 6 châu là: Giang, Hoài, Kinh, Tương, Giao, Quảng.

Vương-Cơ

Tự là Lệnh-Minh, người quận Trường-Sa, tới xin Vương-Đôn cho làm quan Quảng-Châu, Đôn không cho, vừa gặp lúc người Quảng-Châu oán Thứ-Sử là Quách-Nột, nổi lên làm phản, rồi cùng Ôn- Thiệu tới rước Cơ về làm Thứ-Sử châu ấy. Vương-Đôn sai tham-quân là Cát-U, đuổi theo tới Lô-Lăng. Cơ mắng mà nói rằng: "Mầy ưng tìm chỗ chết ư?". U không dám bức Cơ nữa. Quách-Nột nghe Thiệu theo Cơ bèn phái lính đánh Thiệu, bị Thiệu đánh bại, Nột cầm cờ Mao-Tiết, chạy tránh khỏi. Cơ vào thành, sợ Vương-Đôn đánh, phải xin làm Thứ-Sử Giao-Châu. Đôn thấy Cơ khó giá ngự được, nên thuận cho. Cơ qua Giao-Châu bị Lương-Thạc chống cự, bèn qua Uất-Lâm hợp với Đỗ-Hồng hùng cứ đất Lâm-Hạ, Cơ khuyên Hồng lấy đất Quảng-Châu, từ đó cả Hồng và Cơ đều làm phản, sau bị Đào-Khản dẹp yên.

Lương-Thạc

Làm Thái-Thú Tân-Xương, tự tiện lãnh chức Thái-Thú quận Giao-Chỉ.

Vương-Lượng

Tự là Ấu-Thành, lúc nhỏ đã có tài-cán, Vương-Đôn cho tham-dự việc Phủ. Khi trước Lương-Thạc chuyên quyền ở đất Giao-Châu, Đôn dùng Vương-Cơ làm Thứ-Sử, Thạc chống lại với Cơ mà rước Tu- Trạm, là con của cố Đô-đốc Tu-Tắc, để coi lãnh việc trong Châu. Năm Vĩnh-Hưng thứ 31 (vua Huệ-Đế nhà Tây-Tấn) Đôn dùng Lượng làm Thứ-Sử Giao-Châu. Đôn nói với Lượng rằng: "Tu-Trạm và Lương- Thạc đều là giặc trong nước, ông đến thì lập tức chém chúng nó đi". Lượng tới nơi thì Trạm lui về ở quận Cửu-Chân. Thứ-Sử Quảng-Châu là Đào-Khản khiến người dụ Trạm tới, Lượng nhân gặp, bắt trị tội. Thạc nói: "Trạm là con quan Châu-tướng trước, nếu có tội thì trị tội, không nên giết". Lượng nói: "nhà ngươi có nghĩa với người cũ, điều đó không cai dự đến việc của ta", tức thì đem chém. Thạc giận bỏ đi, Lượng âm mưu giết Thạc, sai thích-khách ám-sát mà không được. Thạc tụ chúng vây Lượng nơi thành Long- Biên. Khản đem binh tới cứu, chưa kịp, thì Lượng đã bại trận rồi. Thạc mới bắt Lượng phải đầu hàng và giao cờ tiết. Lượng cố chấp, không chịu giao, bị Thạc chém vào tay mặt, một tuần nhật thì chết.

Đào-Khản

Tự là Sĩ-Hành, người Phan-Dương, tính thông minh, siêng làm việc quan, làm chức Thái-Thú Giang-Hạ, kiêm chức Long-Nhương tướng-quân. Lúc bấy giờ Vương-Cơ làm Thứ-Sử Giao-Châu, bị Lương- Thục chống lại, Cơ cùng bọn Đỗ-Hồng, Ôn-Thiệu và tú-tài ở Giao-Châu là Lưu-Thẩm làm phản, muốn chiếm cứ đất Quảng-Châu, Đào-Khản dẹp yên, chém bọn Vương-Cơ, đem đầu về Kinh-Sư. Nhân công ấy, Khản được làm Thứ-Sử Giao-Châu, rồi thăng chức Thị-Trung Thái-Úy và giữ chức Đô-Đốc các việc quân- đội bảy châu Giao và Ninh và Kinh-Châu Thứ-Sử, Chinh-Nam Đại-Tướng-quân và được phong tước Trường-Sa quận-công.

Biện-Triển

Làm Thái-Thú quận Giao-Châu, về đời nhà Tấn.

Chữ-Đào

Tự là Quí-Nhã, làm Thái-Thú quận Cửu-Chân đời nhà Tấn.

Trương-Liễn

Tự là Quân-khí. Xét sử-ký đời vua Thành-Đế nhà Tấn chép rằng: "trong mùa thu năm Hàm-Hoà thứ 3 (328), Trương-Liễn làm Thứ-sử Giao-Chỉ, cứ đất Như-Cụ làm phản, tiến công Quảng-Châu, bị Tăng-Khối đánh tan". Vương-Húc chép rằng: "Liễn làm Thứ-Sử Giao-Châu được phong Cao hầu, đi đường ngang qua núi Cư-Sơn, thấy phong-thổ lấy làm vừa ý, bèn lập chỗ ở tại đó". Điều nầy bất đồng với sách sử ký, chưa biết bản nào đúng.

Nguyên-Phóng

Tự là Tư-Độ, em họ của Phu, giữ chức Thị-Lang Bộ-Lại. Lúc Thành-Đế còn nhỏ, họ Dũ-Thị cầm quyền, Phóng xin làm quan ở Giao-Châu. Họ Dũ bèn cho làm Thứ-Sử Giao-Châu kiêm chức Dương-Oai Tướng-quân. Phóng tới Châu, đau bịnh thình lình mà chết, được truy tặng chức Đình-Uý.
1 Xét niên-hiệu Vĩnh-Hưng chỉ có 2 năm (304-305) chứ không có năm thứ 3, đây có lẽ chép sai.

Hạ-Hầu-Lãm

Trong năm Vĩnh-Hoà (345-356), đời Mục-đế nhà Tần, giữ chức Thái-Thú quận Nhật-Nam, say rượu quá độ, làm rối loạn công-việc, dân ở quận đều căm hờn. Có người tướng mọi là Phạm-Văn giết Lãm, lấy thây mà tế trời, rồi chiếm lấy Nhật-Nam.

Chu-Phiên

Trong năm Vĩnh-Hoà thứ 3 (347), làm Thứ-Sử Giao-Châu. Khi trước vua nước Lâm-Ấp là Phạm- Văn hùng cứ đất Nhật-Nam, Phiên sai quan Đốc-Hộ là Lưu-Hùng đi tuần cõi Nhật-Nam, Văn đánh hãm, rồi đánh luôn cả quận Cửu-Chân, quân lính chết trận, mười phần hết tám chín. Quan Đốc-Hộ là Đằng- Tuấn đem quân Châu Giao và Châu Quảng, đánh Văn tại nơi Lô-Dung, bị Văn đánh bại.

Dương-Bình

Trong năm Vĩnh-Hoà thứ 7 (351) làm Thứ-Sử Giao-Châu, cùng với Đằng-Tuấn hợp sức đánh nước Lâm-Ấp, vua Lâm-Ấp là Phạm-Phật-Tử đánh thua, trói mình đến cửa đồn xin chịu tội, nên Dương- Bình cùng hoà-ước rồi kéo về.

Nguyễn-Phu

Trong năm Vĩnh-Hoà thứ 9 (353), làm Thứ-Sử Giao-Châu, đánh vua Lâm-Ấp, phá được hơn 15 đồn lũy.

Ôn-Phóng-Chi

Con của Ôn-Kiểu, làm chức Hoàng-Môn Thị-Lang đổi sang làm Thứ-Sử Giao-Châu, trong năm hiệu Thăng-Bình (357-361), nhà Tấn, đem quân đánh nước Lâm-Ấp. Khi ấy, Thái-Thú Đổ-Bửu và Biệt Giá Nguyễn-Lãng không đồng ý, Phóng-Chi sợ trở ngại việc quân-sự, nên đem giết hai người ấy, rồi cầm quân đánh giặc. Vua Lâm-Ấp là Phạm-Phật-Tử đầu hàng. Ở phía đông thành Lâm-Ấp có 3 cái đồi gọi là 3 lũy Ôn-Công.

Đổ-Bửu

Làm Thái-Thú quận Giao-Châu.

Đằng-Hàm

Trong thời nhà Tấn làm Thứ-Sử Giao-Châu. Năm cuối cùng hiệu Thăng-Bình (361), lại đi đánh giặc Lâm-Ấp dẹp yên được.

Cát-Hồng

Tự là Trỉ-Xuyên, tuổi già, ưa luyện thuốc trường sinh để thêm thọ, nghe đất Giao-Châu có vị thuốc đan-sa, bèn xin làm chức lệnh huyện Câu-Lậu.

Khương-Tráng

Làm Thứ-Sử Giao-Châu nhà Tấn.

Lý-Tốn

Về thời cuối nhà Tấn, làm Thái-Thú quận Cửu-Chân, cả hai cha con Tốn đều có quyền lực, uy chế đất Giao-Châu, bị Đổ-Viện chém hết.

Phó-Vĩnh

Con của Phó-Nha, làm Thái-Thú Giao-Châu.

Đằng-Tốn

Con của Đằng-Tu, làm Thứ-Sử Giao-Châu.

Vương-Huy

Trong năm Nguyên-Gia thứ 4 (427), nhà Tống, từ chức Đình-Uý thăng làm Thứ-Sử Giao-Châu.

Lưu-Nghĩa-Khang

Trong năm Nguyên-Gia (424-453) đời vua Văn-Đế nhà Tống, làm Đô-Đốc quân-sự cả Châu Giang, Châu Giao và Châu Quảng.

Nguyễn-Di-Chi

Làm Thứ-Sử Giao-Châu đời nhà Tống. Trong năm hiệu Nguyên-Gia (424-453), đi đánh nước Lâm-Ấp. Vua Lâm-Ấp là Phạm-Dương-Mại xuất ngoại, trong khi ấy có viên tướng của Di-Chi là Nguyễn- Vô-Chi lãnh 7.000 quân-sĩ đánh úp thành Khu-Túc (?). Di-Chi vượt biển gặp gió to, đến ba ngày mà không tìm được chỗ nghĩ hơi, đêm lại gặp giặc ở bãi Thọ-Lệnh, quân thuỷ của Dương-Mại tới đánh đông đến 500 chiếc thuyền. Di-Chi bắn trúng người lái thuyền của Dương-Mại, nên thuyền giặc tan vỡ. Có chiếc thuyền nhỏ đến chở Dương-Mại chạy trốn. Di-Chi bị gió phiêu bạt hơn 100 dặm, liệu thế không thắng được, bèn trở về Bắc.

Nguyễn-Nghiên

Làm Thứ-Sử Giao-Châu về thời nhà Tống, viết chữ thảo rất tốt.

Trương-Mục-Chi

Tự là Tư-Tịnh, thân-sinh của bà Trương-Hậu nhà Lương, lúc trẻ tuổi là người đúng đắn, và hoà nhã, làm chức Tán-Kỵ Thị-Lang, ban đầu cùng Vương-Tuấn thân-thiện, sau xem thấy mối họa, bèn xin làm Thái-Thú quận Giao-Chỉ, có chính tích hay.
(Sách sử chép được ít rõ-ràng, nói Mục-Chi làm Thái-Thú quận Giao-Chỉ, e không đúng).
Logged
lonesome
Moderator
*
Bài viết: 1244


« Trả lời #49 vào lúc: 19 Tháng Hai, 2009, 10:48:28 pm »

Đàn-Hoà-Chi

Người Cao-Bình, cuối niên hiệu Nguyên-Gia (453) vua nhà Tống, làm Long-Nhượng tướng-quân, Thứ-Sử Giao-Châu, có oai danh, giặc giả đều yên lặng.

Vua nước Lâm-Ấp là Phạm-Dương-Mại làm phản. Hoà-Chi cùng Tư-Mã là Tiêu-Cảnh-Hiến và Phó- Tướng là Tôn-Xác đến đánh, Hoà-Chi làm tiên phong, đánh được thành nước Lâm-Ấp, lấy rất nhiều của quí lạ.

Hoàn-Hoằng

Tự là Thúc-Duật, làm Thứ-Sử Giao-Châu nhà Tống, tiền của kể đến hàng vạn, vì vua Hiếu-Võ nhà Tống có tính tham của cải, hễ có người nào làm quan ăn lương 2.000 thạch (Tức chức Thái-Thú) khi bãi chức về nước, thì bắt theo hạn định mà nạp của cải và đánh bạc.

Phòng-Pháp-Thừa

Trong năm Vĩnh-Minh (483-493) nhà Tề, làm Thứ-Sử Giao-Châu, chỉ ham đọc sách, thường có bệnh, không làm việc. Vì vậy, quan Trưởng-Sử là Phục-Đăng-Chi được chuyên quyền thay đổi các tướng lại. Pháp-Thừa nổi giận bỏ tù Đăng-Chi. Đăng-Chi đem của lót với người em rể của Pháp-Thừa là Thôi- Cảnh-Thúc cho được khỏi ở tù, rồi đem quân tới đánh bắt Pháp-Thừa và tâu về triều-đình, rằng: "Pháp- Thừa mắc chứng tâm-tật, không làm việc được". Vua Tề xuống chiếu cho Đăng-Chi làm Thứ-Sử.

Lưu-Bột

Ông nội của Lưu-Kỳ, làm Thứ-Sử Giao-Châu nhà Tề.

Lưu-Khải

Làm Thứ-Sử Giao-Châu, đời nhà Tề. Khi sắp tới Giao-Châu, nghe có người con của cố Thứ-Sử Hoàn-Hoằng, tên là Hoàn-Thâm, đương giữ chức Võ-Giám, người nho nhã có học thức, bèn khiến đi theo, Thâm đi chưa đến nơi đã chết.

Lý-Khải

Trong năm Thiên-Giám thứ 4 (505) nhà Lương. Làm Thứ-Sử Giao-Châu, trở làm phản.

Lý-Tắc

Làm Trưởng-Sử Giao-Châu, vì dẹp yên loạn Lý-Khải, nên được thăng làm Thứ-Sử Giao-Châu.

Vương-Nhiếp

Làm Thứ-Sử đời nhà Đường.

Tiêu-Tư

Tự là Thế-Thái. Trong năm đầu hiệu Đại-Đồng (535) nhà Lương, làm Thứ-Sử Giao-Châu, có tính nghiêm-khắc, sinh nhiều sự xích-mích, thất nhân-tâm. Thổ-hào là Lý-Bí (1) làm phản, Tư chạy qua đất Quảng-Châu. Vua nhà Lương sai Thứ-Sử Cao-Châu là Tôn-Quýnh và Thứ-Sử Tân-Châu là Lô-Tử-Hùng, đem quân đánh Bí. Quýnh lấy cớ đang mùa xuân, khí lam-chướng đang thịnh, xin chờ qua mùa thu sẽ đánh. Tư thúc dục khiến đi, rồi quân lính tan rã cả, phải trở về. Tư vu tấu cho Quýnh và Hùng có ý dung giặc, đều bị tội tử hình.

Dương-Phiêu

Làm Thứ-Sử Giao-Châu, đời nhà Lương, cùng với Trần-Bá-Tiên, đem binh đánh Lý-Bí, tiến binh đến đất Gia-Ninh, Bí chạy trốn trong động. Khuất-liệu, bị người ở động ấy chém đầu đem dâng.

Trần-Bá-Tiên

Tự là Hưng-Quốc, người Ngô-Hưng, chí-khí hùng kiệt, đọc hết kinh, sử; nhơn làm Tham-quân ở Quảng-Châu, thăng lên chức Tư-Mã Giao-Châu hợp với Dương-Phiêu đánh Lý-Bí. Phiêu tập hợp các tướng lại đất Giang-Tây, hỏi kế-hoạch đánh giặc, Bá-Tiên nói rằng: "Ông vâng mệnh đi đánh giặc, thì dầu chết, dầu sống, cũng liều mình đánh cho tới kỳ cùng, không nên để hoãn đãi cho quân giặc bành trướng, mà quân lính ta lại tan rã hư việc". Phiêu cử Bá-Tiên làm Tiên-phong. Tiên đi đến đâu là đánh tan hết. Nhờ có công ấy, Tiên được thăng Thái-Thú quận Cao-Yêu, đốc suất quân-sự cả bảy quận. Đầu năm Đại-Bửu (550) vua Giản-Văn-Đế nhà Lương, làm Thứ-Sử Giao-Châu, sau lên làm Hoàng-đế.

Âu-Dương-Hột

Trong năm đầu Thái-Kiến (569) vua Tuyên-Đế nhà Trần, làm chức Đô-Đốc, quản lãnh quân-sự 19 châu gồm cả Giao-Châu và Quảng-Châu, oai vang toàn cõi Bách-Việt hơn 10 năm. Vua Cao-Tông (2) sinh lòng nghi, ra lời chiếu vời về triều. Hột sợ, bèn làm phản.

Dương-Tấn

Làm Đô-Đốc cả hai châu Giao và Ái đời Trần, được phong tước là Võ-Khang quận-công.

Dương-Hựu-Phố

Tự là Vệ-Khanh, trong thời kỳ nhà Tấn mất nước, làm chức Đô-Đốc Giao-Châu.

Lý (?)

(?): (không rõ tên).

Trong năm đầu Nhơn-Thọ (601-604) nhà Tuỳ, làm Thứ-Sử Giao-Châu.

-------------------------------------------------
(1) Lý-Bí hoặc đọc là Lý-Bôn cũng một chữ, viết như nhau. Lý-Bí làm vua 7 năm, quốc-hiệu là Vạn-Xuân. Sử-chép: là Tiền-Lý-Nam-Đế, người ở tỉnh Thái-Bình.

(2) Xét Âu-Dương-Hột làm quan đời nhà Trần thuộc Nam-triều Trung-Quốc. Suốt cả đời Nam-triều, không có ông vua nào, hiệu là Cao-Tông, mãi đến nhà Đường mới có vua Cao-Tông làm vua vào khoảng 650-685, cách thời-đại Thái-kiến hơn 80 năm. Như vậy, có lẽ nhà chép sử nói sai.

Khâu-Hoà

Người Lạc-Dương, cuối năm Đại-Nghiệp, (605-616) nhà Tuỳ, làm Thái-Thú quận Giao-Chỉ, hết lòng giữ gìn cho nhân-dân trong quận được yên ổn.

Vua Dượng-Đế nhà Tuỳ mất, Hoà chưa kịp biết, bề tôi của Dượng-Đế như quan Hồng-Lô là Nịnh- Trường-Chân đem quận Uất-Lâm phụ thuộc Tiêu-Tiễn, Phùng-Áng đem hai quận Châu-Nhai và Phiên- Ngu, phụ thuộc Lâm-Sĩ-Hồng. Tiêu-Tiễn và Sĩ-Hồng đều sai người đến chiêu dụ Hoà, nhưng Hoà không theo. Các nước Lâm-Ấp hay cho Hoà những đồ châu báu như ngọc, sừng tê, vàng bạc, của báu thật nhiều, cho nên Hoà giàu muốn hơn vua. Tiễn nghe được, sai Trường-Chân suất quân ở Nam-Việt đánh Hoà. Hoà sợ, muốn ra hàng, Thư-Tá Tư-Pháp là Cao-Sĩ-Liêm can rằng: "đạo hùng binh của Trường-Chân đến công thành, lương-thực thiếu-thốn, xem chừng không thể ở lâu, mà quân ta trong thành còn mạnh, đủ sức chống cự, lẽ nào chịu cho người áp-chế?". Khi ấy Hoà sai Sĩ-Liêm làm chức Hành-Quân Tư-Mã, suất quân đánh Trường-Chân thua chạy. Nhà Tuỳ mất nước, Hoà về làm tôi nhà Đường. Vua Đường cho làm Tổng-Quản Giao-Châu.

An-Nam Chí-Lược Quyển Đệ Bát Chung
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM