Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 20 Tháng Tư, 2024, 07:30:30 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Bối cảnh định đô Thăng Long và sự nghiệp của Lê Hoàn  (Đọc 99867 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #130 vào lúc: 20 Tháng Hai, 2009, 09:47:01 pm »

“Khi giặc Tống xâm lược, vua sai sư đến đền cầu đảo thần linh phù hộ, giặc sợ hãi tan chạy”. Sư cùng pháp Thuận được cử ra tiếp sứ, dùng tài ứng đối ngoại giao khiến Giác kính phục. Bài Vương lang quy dưới đây, thể hiện một tình cảm chân thành, một thái độ thân mật, với giọng điệu trữ tình, vừa đằm thắm, hồn hậu, vừa cứng cáp, sáng trong, vượt qua lối thư bang giao thù tạc nhiều sáo ngữ, lắm từ chương:

Tường quang phong hảo cẩm phàm trường,
Dao vọng thần tiên phục đế hương.
Thiên trùng vạn lý thiệp thương lang,
Cửu thiên quy lộ trường.
Tình thảm thiết,
Đối ly trường,
Phan luyến sứ tinh lang
Nguyện tương thâm ý vị Nam cương
Phân minh tấu ngã hoàng.


Dịch là:

Gió xuân đầm ấm cánh buồm giương,
Xa ngóng thần tiên lại đế hương.
Muôn dặm sóng xanh vượt trùng dương,
Trời xa về đường trường .
Tình thảm thiết,
Chén đưa đường,
Vin xe sứ giả vấn vương
Xin đem thân ý vì Nam cương
Tâu rõ cùng thánh hoàng.


                               Bùi Duy Tân dịch.

Lời văn của bài từ từng được bàn luận nhiều. Chữ ngã hoàng chẳng hạn, một số học giả hiểu nghĩa là vua ta, tức hoàng đế nước Việt. Nhưng, tôi và cũng không ít học giả thì lại cho rằng phải hiểu ngã hoàng là hoàng đế của chúng ta, tức hoàng đế của nhà Tống mới phù hợp với từ đế hương ở câu thứ hai. Tôn xưng vua Tống là đế, là hoàng, hay hoàng đế, về sau sẽ trở thành thông lệ trong quan hệ bang giao giữa ta và các đế chế phương bắc.

Bấy giờ, Lê Hoàn, tước vương cũng chưa được phong, thì Khuông Việt sao dám gọi vua mình là hoàng trước mặt đại diện của thiên triều. Phải gọi ngã hoàng là hoàng đế của chúng ta mới phù hợp với ngữ nghĩa, với từ chương giao tế, với sách lược bang giao của người xưa.

Bài từ, ngoài cảm xúc chân tình, làm nên giá trị như đã nói trên, còn giàu ý nghĩa về thể loại. Vương lang quy là tác phẩm mở đầu cho thể tài từ khúc trong văn học cổ, một thể tài đang thăng hoa để trở thành danh ngữ Tống từ, tiếp nối Đường thi Hán phú . . . Sư nước Việt ngâm Tống từ tiễn Tống sứ của nước Đại Tống, lẽ nào chỉ là chuyện ngẫu hứng? Huống nữa bài từ tiễn sứ Lý Giác nhà Tống, lời lẽ nõn nà, có thể vốc được, (Lê Quý Đôn).

Tác phẩm quả thực có nhiều chữ hay, tứ đẹp, vừa lụa là gấm vóc, vừa tao nhã điển chương. Tất cả nhằm thể hiện ý hướng: Dùng ngôn từ nghệ thuật chuyển tải đường lối bang giao hoà hợp Nam bắc một cách chân tình lịch lãm.  Đường lối bang giao ấy là thừa nhận vai trò bá quyền chủ tể của bắc triều Đại Tống (đế hoàng, ngã hoàng) và vị trí chư hầu, phiên quốc của nước Nam (Vị Nam Chương). Bảo vệ chính quyền tự chủ là bất di bất dịch, còn thần phục thiên triều thì có thể uyển chuyển, linh hoạt sáng tạo, cập nhật, thậm chí giả vờ.  Sứ mệnh chính trị bang giao của bài ca tiễn sứ đã được đại sư Khuông Việt thể hiện thành công.
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #131 vào lúc: 20 Tháng Hai, 2009, 09:48:20 pm »

Song, dầu Vương lang quy có là danh tác văn chương giàu ý nghĩa lịch sử đi nữa thì người ta cũng khó đồng tình với nhà văn - Giáo sư Trần Thanh Đạm, khi ông lấy bài này, sóng đôi với bài Quốc tộ, xem đó là hai tuyệt tác mở đầu lịch sử văn học Việt Nam thời cổ của hai thiền sư thi sĩ thời này. (Xem Hai thiền sư thi sĩ mở đầu văn học cổ điển Việt Nam - Hồn Việt - Nxb Văn học). Dựa vào tư liệu mà giới nghiên cứu cổ Việt Nam học, trong mươi năm gần đây phát hiện, tôi cho rằng Quốc tộ (QT) và Nam quốc sơn hà (NQSH) mới là hai kiệt tác ngang qua một đời vua: Lê Đại Hành.

Ở thời này, đề tài tập trung vẫn là những tác phẩm viết về tâm tư, tình cảm của thế hệ Lê Hoàn đối với vận mệnh của đất nước, vận hội của non sông. Bác Hồ, trong Lịch sử nước ta đã viết:

Lê Đại Hành nối lên ngôi,
Đánh tan quân Tống, đánh lui Chiêm Thành.

Chiến tích anh hùng của cộng đồng quốc gia Đại Cồ Việt thời đại Lê Hoàn thật tuyệt vời, lại gắn với sự xuất hiện của một bài thư huyền thoại: NQSH. Và điều này, với tư cách là người phái hiện, xin được trình bày cho rõ ngọn ngành.  Đầu những năm 90, nhân đi tìm tác phẩm đầu tiên của văn học dân tộc, để phản bác một ngộ nhận: Bạch vân chiến xuân hải - bài phú khoa Tiến sĩ thời Đường của Chương Công Phụ (người Việt gốc Hoa, đời thứ ba, thi đỗ lại trở về đất tổ làm quan to, có lúc ngang Tể tướng thời Đường) là tác phẩm đầu tiên của văn học Việt, tôi đã chú ý đến xuất xứ của bài thơ NQSH.

Vào cuộc tìm kiếm đầy hứng thú chưa lâu, thì được GS Trần Quốc Vượng mách cho những dòng viết của GS Hà Văn Tấn. trong bài Lịcn sử, sự thật và sử học (Tổ Quốc - 401 - 1 - 1988): “Không một nhà sử học nào có thể chứng minh được rằng bài thư Nam quốc sơn hà Nam đế cư là của Lý Thường Kiệt. Không có một sử liệu nào cho biết điều đó cả. Sử cũ chỉ chép rằng trong trận chống Tống ở vùng sông Như Nguyệt, một đêm quân sĩ nghe tiếng ngâm bài thơ đó trong đền thờ Trường Hống, Trường Hát.

Có thể đoán rằng Lý Thường Kiệt đã cho người ngâm thơ. Đi xa hơn, có thể đoán rằng Lý Thường Kiệt là tác giả của bài thơ. Nhưng đó là đoán thôi, làm sao nói chắc được bài thư đó là của Lý Thường Kiệt. Thế nhưng, cho đến nay mọi người dường như đều tin rằng đó là sự thật, hay nói đúng hơn, không ai dám nghi ngờ đó không phải là sự thật”.

Tạm quên ấn tượng Lý Thường Kiệt là tác giả bài thơ, để vô tư thâm nhập vào kho sách Hán Nôm, tìm kiếm những tư liệu ghi chép bài thơ, tên bài thơ, các tình tiết có liên quan đến bài thơ. Nhờ viện trợ của đồng nghiệp, thân hữu, trong một thời gian ngắn, tôi đã có được khoảng ba chục văn bản hữu quan, thuộc các loại sách lịch sử, địa lý, truyện ký, thơ ca. . . và nhiều thần tích, thần phả truyền thuyết dân gian. Quan sát các văn bản này, thấy rõ nhiều điều:

1. Không có một văn bản nào ghi nhận Lý Thường Kiệt là tác giả, hoặc tương truyền là tác giả bài thơ.

2. Tất cả các văn bản đều ghi nhận bài thơ là của thần. Thần đây là Trường Hống, Trường Hát, tướng lĩnh của Triệu Quang phục, bị Lý Phật Tử ép hàng không chịu khuất phục, nên tự tử, trở thành phúc thần, được thờ phụng ở gần 300 ngôi đền ven các triền sông Cầu. sông Thương...

3. Thần đọc thơ của thần, âm phù dương gian trợ quốc an dân, chống ngoại xâm, dẹp nổi loạn, trừ tai hoạ, kể đã nhiều lần. Nổi bật là hai lần thần trực tiếp đọc thơ giúp các tướng lĩnh đánh giặc cứu nước. Lần thứ nhất giúp Lê Hoàn chống Tống (981), lần thứ hai giúp Lý Thường Kiệt chống Tống (l076 ).  Văn bản bài thơ đọc hai lần khác nhau, và cũng khác nhau ở hầu hết các dị bản còn lại. Xin mở ngoặc: bài NQSH hiện hành, ở cả sách giáo khoa thấy có ở văn bản Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sỹ, Trường Tôn thần sự tích - khuyết danh . . . chỉ khác Đại Việt sử ký toàn thư đảo phận định thành định phận (xem Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam. Nxb Giáo dục. H.2004).
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #132 vào lúc: 20 Tháng Hai, 2009, 09:49:21 pm »

4. Bài thơ không hề được tuyển vào các tuyển tập thơ ca chữ Hán thời xưa, trước sau nó vẫn là thành phần cơ hữu trong truyền thuyết dân gian. NQSH chắc là do nhân sĩ thời tự chủ sáng tác, song đã được dân gian hoá, được hoàn thiện dần theo đặc trưng tập thể truyền miệng. Rồi sau được cố định trong thần tích, thần phả, truyện ký, nhưng vẫn lưu truyền trong dòng đời, qua nhiều thế hệ, âm phù con cháu đánh giặc cứu nước. Cho nên, phải coi đó là bài thơ thần, tác giả là khuyết danh cũng được, nhưng là vô danh, hoặc vô danh thị thì khoa học hơn.

5. Từ trong những văn bản đáng tin cậy trên đây, có thể thấy ngộ nhận Lý Thường Kiệt là tác giả NQSH của Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử học xuất bản từ 1919 - 1920 là do tự ý chứ không dựa vào bất kỳ một tư liệu Hán Nôm nào. Đáng tiếc là sau đó, hầu hết các học giả đều sai theo, cho mãi đến hết thế kỷ thứ XX, hoạ hoằn lắm, một Hoàng Xuân Hãn, một Đặng Thai Mai, mà cũng chỉ chút hoài nghi bất chợt mà thôi!

Các nội dung trên đây đã được viết thành dăm bảy bài bản, đăng tải trên hàng chục sách báo. tạp chí (Xưa & Nay, Tạp chí văn học, Tạp chí Hán Nôm, Tạp chí văn hoá dân gian.  Thế giới mới, Văn Nghệ, Văn hiến Hà Nội, Lý Công Uẩn và vương triều Lý, Khảo và luận, Từ điển tác gia - tác phẩm, Hợp tuyển văn học trung đại, Sách giáo khoa Văn học 9, Tư liệu văn học 10. . . ), soạn thành giáo án giảng giải ở hàng trăm giảng đường đại học và cao học, cấu tạo thành lời cho nhiều hội thảo, nhiều cuộc chuyện trò, trao đổi . . .

Tất cả đều một kết luận: NQSH là bài thơ thần, vô danh, không phải của Lý Thường Kiệt như đã ngộ nhận. Kết luận này tuy khoa học, và không kém phần thuyết phục, nhưng ngược lại một định luận, tuy không đúng nhưng từ lâu đã ăn sâu vào tâm thức đại chúng, nhất là thời gian chống Mỹ cứu nước, vì thế không dễ có ngay sự đồng thuận rộng rãi. Đành chờ đợi, chắc cũng chẳng bao xa, khi mà toàn bộ sách giáo khoa trung học bộ mới, cả sách Lịch sử và Ngữ văn đều đã khẳng định: NQSH là bài thơ thần, Lý Thường Kiệt có thể chỉ là người sử dụng bài thơ thần, để động viên quân sĩ xung trận mà thôi.

Đến đây, cần tìm thời điểm xuất hiện của bài thư NQSH cũng như truyền thuyết Trương Hống-Trường Hát, như một tác phẩm nhân gian truyền miệng. Tư liệu còn lại cho ta biết Thần phù trợ người trừ tai ngữ hoạn nhiều lần, ở nhiều nơi vào những năm tháng khác nhau từ Ngô-ầinh-lê xuống đến Lý- Trần.

Song, thần trực tiếp đọc thơ âm phù đánh giặc ngoại xâm, thì chỉ có hai lần. Lần giúp Lý Thường Kiệt, nhiều người đã biết, lần giúp Lê Hoàn được kể như sau: Năm Thiên Phúc nguyên niên (980) đời Lê Đại Hành, Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng cầm đầu đạo quân xâm lược nước Nam. Đến sông Đại Than, hai bên đối luỹ, cầm cự với nhau. Lê Đại Hành được mộng báo của thần Trường Hống-Trường Hát: nay quân Tống phạm cõi làm khổ sinh linh nước ta cho nên anh em thần đến yết kiến, xin nguyện cùng nhà vua đánh giặc để cứu sinh linh”.  “Canh ba đêm sau, trời tối đen, mưa to gió lớn đùng đùng . . . hai đạo âm binh áo trắng, áo đỏ cùng xông vào trại giặc mà đánh.  Quân Tống kinh hoàng”. Thần nhân tàng hình ở trên không, lớn tiếng ngâm rằng:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư
Như hà Bắc lỗ lai xâm phạm
Bạch nhận phiên thành phá trúc dư


Dịch là:

Núi sông nước Nam, vua nước Nam ngự trị
Điều ấy trời đã định rõ trong sách trời
Cớ sao giặc Bắc sang xâm lược .
Bay sẽ bị lưỡi gươm sắc chém tan như chẻ tre

Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #133 vào lúc: 20 Tháng Hai, 2009, 09:50:55 pm »

Dịch thơ:

Đất nước Đại Nam, Nam đế ngự
Sách trời định phận rõ non sông.
Cớ sao nghịch tặc sang xâm phạm,
Bay hãy chờ coi chuốc bại vong.


                                         Ngô Linh Ngọc dịch

Quân Tống nghe thấy, xéo đạp vào nhau mà chạy tan. . .  Đại Hành trở về ăn mừng, phong thưởng công thần, truy phong cho hai vị thần nhân, sai dân phụng thờ, huyết thực hưởng đời đời. (Lĩnh Nam chích quái - Trần Thế Pháp - Vũ Quỳnh - Kiều Phú).

Dựa vào tư liệu trên đây và nhiều văn bản truyền thuyết thần tích được ghi chép lại trong có bài thư thần NQSH một số nhà nghiên cứu cho rằng bài thơ đã xuất hiện đầu thời tự chủ. Nhưng đầu thời tự chủ, cụ thể là thời nào? Chắc không phải là thời đã giành được chính quyền, nhưng vẫn tự xưng và tự phong là Tiết độ sứ từ Khúc Thừa Dụ (905 - 907) đến Dương Đình Nghệ (931 - 937). Chắc chưa phải triều Ngô Quyền (938 - 965) đã xưng vương (939), thể hiện ý thức tự chủ, sánh ngang với các chư hầu của thiên triều, như dự đoán của cố GS Bùi Văn Nguyên: bài thơ này có sắc thái dân gian, xuất hiện thời Ngô Quyền với trận Bạch Đằng thứ nhất.

Về sau, Ngô Tuấn (tức Lý Thường Kiệt), dòng dõi Ngô Quyền nhắc lại bài đó ở trận sông Như Nguyệt. Ngô Sỹ Liên chép bài thơ này vào kỷ nhà Lý, nên có người thời sau tưởng là thơ Lý Thường Kiệt.  Nếu cần có cái tên cho bài thơ khuyết danh này, thì để Ngô Quyên, ông tổ của Ngô Tuấn có lẽ đúng hơn.” (Tổng tập văn học Việt Nam. T4. Nxb KHXH. H 1995 - tr 22).

Thậm chí cũng không thể là triều Đinh, dầu cho thời này, vua đã dám xưng là Đinh Tiên Hoàng, sánh so ngang ngửa với Tần Thủy Hoàng ngày xưa và hoàng đế trung Hoa cùng thời. Hơn nữa, thời này chưa có ngoại xâm lăm le ngoài cõi, chưa cần lời lẽ “tuyên ngôn”. Mà là ở thời hoàng đế Lê Hoàn, như PGS.TS Trần Bá Chí khẳng định: NQSH là bản tuyên ngôn độc lập, chỉ có thể ra đời sau hàng ngàn năm bắc thuộc, nhưng không phải vào thời Ngô Quyền còn loạn lạc, chưa tức vị, trước khi chống Nam Hán, mà là ở thời Lê Đại Hành chống Tống khi thể chế, ngôi vị đã vững vàng, an định (Xem: Tạp chí Hán Nôm số 4 - 2003. Bài Về mâ bài Tuyên ngôn độc lập).

THS. Nguyễn Thị Oanh trong một công trình nghiên cứu công phu, trên Tạp chí Hán Nôm (Số 1-2002. Bài Về thời điểm ra dữi của bài thơ Nam qnôc sơn hà) cũng chỉ ra rằng: bài thư NQSH vốn xuất hiện thời Lê Hoàn, như nhiều sách Lĩnh Nam chích quái đã ghi chép, nhưng nhà sử học Ngô Sỹ Liên, theo quan điểm Nho giáo chính thống, ghét cái vô luân của Lê Hoàn, ưa lòng trung nghĩa của Lý Thường Kiệt, nên đã đem thơ thần phù trợ vua Lê gán cho phù trợ tướng Lý; nay nên trả bài thư về cho sĩ dân thời đại Lê Hoàn. 

Bổ sung vào cách nhìn trên, trộm nghĩ nên là cách nhìn dưới góc độ văn hoá, nhất là văn hoá tâm linh của thời đại Lê Hoàn, có phần đã khác với thời đại Lý Thường Kiệt sau hàng trăm năm. NQSH trong truyền thuyết Trương Hống - Trương Hát là tác phẩm có tính chất tập thể, truyền miệng. Sự hình thành tác phẩm là một quá trình, dõi theo hướng thời gian tiệm tiến. Quá trình ấy đi từ huyền đến thực, từ mộng mơ đến thực tiễn. Quá trình ấy cũng thể hiện rõ, qua cách thần đọc thơ phù trợ Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt.

Thần ở cõi hư tiếp xúc với người (Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt) ở cõi thực, đã giảm dần chất siêu nhiên, linh dị, sắc thái huyền ảo, trước mung lung, nồng đượm, sau nổi nênh, nhòa nhạt, hư thực dường phân. Có cảm giác cả thiên truyền thuyết trong Lĩnh Nam cních quái chỉ để viết về huyền thoại thần điều âm binh, đọc thơ phù trợ Lê Hoàn đánh giặc. Trong truyền thuyết, không khí thần kỳ linh dị mung lung, huyền bí, thấm đậm bao trùm, hơ thực ảo huyền, âm dương hỗn độn, thần người ứng chiến, thế trận ầm trời dậy đất, mưa to gió lớn đùng đùng . . .
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #134 vào lúc: 20 Tháng Hai, 2009, 09:52:15 pm »

Còn truyền thuyết trong biệt điện u linh và Đại Việt sử ký toàn thư thì tình tiết thần đọc thơ âm phù Lý Thường Kiệt chỉ còn là một phiến đoạn, bị đẩy xuống đáy truyện, hoặc để ở cước chú, với chỉ vài câu rằng: đến đời Lý Nhân Tông, quân Tống sang xâm lược Lý Thường Kiệt lập trại ven sông chống giữ. Một đêm quân sĩ trong đền nghe được tiếng thần ngâm thơ: Nam quốc sơn hà... Rồi quả nhiên quân Tống bị thua phải rút về nước...  Tình tiết linh dị, thần kỳ của truyền thuyết bị tước bỏ, không khí huyền thoại loãng nhạt.

Nếu nói như F. Hê ghen: “Huyền thoại như là một giàn giáo nâng đỡ lịch sử. Nếu chúng ta cố tình gỡ bỏ giàn giáo đó, thì toàn bộ lịch sử sẽ bị đổ sụp:” (Dẫn lại bài: Tư tưởng – Thế giới mới 57 - 22/3/2005 - tr.l08), thì giàn giáo huyền thoại thần đọc thơ phù trợ Lê Hoàn đánh giặc còn rõ dạng hình, đến Lý Thường Kiệt đã bị gỡ bỏ dần, theo tư duy duy lý của Nho gia; không nói đến: “quái, lực, loạn, thần”.

Coi NQSH cũng như truyền thuyết lịch sử Trường Hống - Trường Hát xuất hiện vào thời Lê Hoàn. là một dự đoán giàu sức thuyết phục. Với tư liệu hiện nay, một kết luận như thế là tối ưu. NQSH được coi như bản tuyên ngôn độc lập, vừa khẳng định chủ quyền, lãnh thổ, ngôi vị Nam đế, vừa thể hiện niềm tin ta thắng, địch thua, dựa vào thiên lý và chính nghĩa, là chủ đề của bài thơ, cũng là sự thăng hoa của tinh thần dân tộc thời diệt Tống bình Chiêm của triều đại Lê Đại Hành. Nhận định như thế là phù hợp với quy luật và tiến trình phát triển của văn hoá, văn học, của lịch sử dân tộc. 

Kiệt tác thứ hai, ở triều đại hoàng đế Lê Hoàn là một bài ngũ ngôn tuyệt cú của nhà sư Pháp Thuận, danh gia đã đề cập tới ở phần trên, khi tiếp sứ Lý Giác. Theo Thiền uyển tập anh, tác phẩm duy nhất còn giữ lại được văn bản bài thơ, thì Đỗ Pháp Thuận (915-990) học rộng, có tài văn thơ, lời nói phần nhiều hợp với sấm ngữ. trong buổi đầu, khi nhà Tiền Lê mới sáng nghiệp, sư có công dựng bàn, hoạch định sách lược. Khi thiên hạ thái bình, sư không nhận chức của triều đình phong thưởng. Vua Lê Đại Hành lại càng thêm kính trọng, thường không gọi tên mà gọi Đỗ Pháp sư, thường ủy thác cho sư các công việc văn hàn . . . Vua từng hỏi sơ về vận nước ngắn dài, sư đáp:

Quốc tộ như đằng lạc
Nam thiên lý thái bình
Vô vi cư điện các
Xứ xứ tức đao binh


Dịch nghĩa:

Vận nước dài lâu như dây leo quấn quít
Ở trời Nam phải dựng mở thái bình
Nhà vua sống vô vi ở trong cung điện
Thì khắp nước sẽ tắt hết chiến tranh.


Dịch thơ:

Vận nước bền vững mãi
Trời Nam mở thái bình
Vô vi trong điện gác
Chốn chốn hết đao binh.


                                    Bùi Duy Tân dịch

Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #135 vào lúc: 20 Tháng Hai, 2009, 09:53:57 pm »

Trong văn bản chữ Hán, bài thơ không có tên. Các tập thi tuyển thời xưa không tuyển bài này. Thơ văn Lý Trần I có lẽ là tập sách giới thiệu bài thơ đầu tiên, với nhan đề: Đáp quốc vương quốc tộ chi vấn (Trả lời nhà vua hỏi về vận nước). Tổng tập văn học Việt Nam - Tập 1 xuất bản 1980, đặt tên bài thơ là Quốc tộ (Vận nước, hoặc Ngôi nước). Đây là bài thơ có tên tác giả xuất hiện sớm nhất, nên được các sách văn học sử, tổng tập, tuyển tập và cả sách giáo khoa văn học đặt vào vị trí khai sáng cho văn học cổ dân tộc.

Một số sấm thi, sấm ngữ và cả NQSH thường là khuyết danh hoặc vô danh, nên chưa thể xác định được năm tháng tác phẩm ra đời. Thơ kệ của một số thiền sư nặng về thuyết giáo, giá trị văn học có phần hạn chế và hầu hết ra đời còn sau cả Quốc tộ, nên tính chất cột mốc của tác phẩm là điều cần khẳng định.

Cũng như NQSH, QT là bài thơ giàu sắc thái chính luận, một bài thơ viết về những vấn đề chính trị xã hội hiện hành của đất nước. Để trả lời nhà vua “hỏi về vận nước ngắn dài”, nhà thơ đã lấy ngôn từ giản dị mà thâm thúy, bày tỏ chính kiến của mình: “Vận mệnh nước nhà dài lâu, bền vững khi nhà vua dựng mở được nền thái bình bằng phương sách “vô vi nhi trị,, Ba nhãn tự: quốc tộ, thái bình, vô vi vừa là điều kiện vừa là nhân quả cho nhau.

Quốc tộ có nhiều nghĩa, trong văn cảnh cụ thể này, nên hiểu là vận mệnh quốc gia. Thái bình theo Hán Việt thì điển của GS Đào Duy Anh: rất bình yên, thịnh trị, tức ruột xã hội thanh bình, yên vui, không bạo lực, xung đột, chiến tranh. Vô vi là nhãn tự có hàm ý uyên áo. Khái niệm vô vi đầu tiên được hiểu là một thuật ngữ trong sách Lão Tử, nhằm chỉ một thái độ sống thuận theo tự nhiên, không bị trói buộc trong khuôn phép đạo đức nhân vi.

Sách giáo khoa Ngữ văn 10 bộ mới, khi đặt bài này ở vị trí mở đầu cho văn học cổ trung đại, thêm cho “vô vi” nghĩa trong “vô vi pháp” của sách Phật: từ bi, bác ái, vị tha. Thậm chí có thể nghĩ rằng, với tư cách một thiền sơ, cố vấn chính sự, Pháp Thuận đã thể hiện quan niệm tam giáo trong lời thư. Vô vi ở đây gồm “vô vi” của Đạo giáo, “vô vi pháp” của Phật giáo, song chủ yếu là “vô vi nhi trị” của Nho gia.

Sách Luận ngữ Của Thiên Vệ Linh Công, có chương: “Tử viết: Vô vi nhi trị, kỳ Thuấn dã dư? Phù hà vi tai? Cung kỷ chính nam diện nhi dĩ hĩ”. Nghĩa là: cái kẻ tự mình ung dung yên tĩnh, mà khiến thiên hạ bình trị, có lẽ là Thuận đấy ư? ông ta có làm gì đâu? Nghiêm trang đoan chính quay mặt về phía nam [ý nói làm vua] mà thôi.

Cụ Cao Xuân Huy giảng rằng:Vô vi của Khổng Tử là không bày đặt ra, không khai sáng ra, không tổ chức cái gì cả. Đây cũng là thiên nhân hợp nhất, có đức thì trị được, thì người ta hóa theo. Vô vi ở bài thơ chủ yếu là thể hiện phương thức đức trị, đó là hàm y uyên áo của nhà sư.

Như vậy là, với QT, Pháp Thuận đã khẳng định giang sơn bền vững, với một nền thái bình muôn thuở, trong đó nhà vua lấy đức để trị dân. Trả lời nhà vua, bằng bốn câu thư, với nội dung như thế, Pháp Thuận là thiền sư - thi sĩ đầu tiên thể hiện lý tưởng thái bình muôn thuở của cộng đồng Đại Cồ Việt thời đại Lê Hoàn.

Như vậy, triều vua Lê Hoàn, ngoài chiến tích lẫy lừng, còn có thành tựu lớn về văn chương. Hai kiệt tác không tiền khoáng hậu Nam quốc sơn hà và Quóc tộ đều là tác phẩm mở đầu cho dòng văn học trung đại, đều là sự khai sáng của tinh thần yêu nước và tinh thần nhân đạo, những truyền thống lớn của văn hóa, văn học dân tộc.

Từ lâu, từng khẳng định NQSH có giá trị như một bản tuyên ngôn độc lập, thì nay phải khẳng định thêm QT có giá trị như một bản tuyên ngôn hòa bình. Hai kiệt tác ngang qua một đời vua - quang vinh - sang trọng và hoành tráng biết bao.
« Sửa lần cuối: 20 Tháng Hai, 2009, 11:40:00 pm gửi bởi UyenNhi05 » Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #136 vào lúc: 20 Tháng Hai, 2009, 11:42:57 pm »

LÊ HOÀN VỚI PHẬT GIÁO
VÀ VĂN HOÁ VĂN HỌC PHẬT GIÁO THỜI LÊ HOÀN

PGS. TS. Nguyễn Hữu Sơn
Viện Văn học. Viện Khoa học xã hội Việt Nam

1. Hoàng đế - danh nhân văn hoá Lê Hoàn (941 - 1005 ) sống trọn vẹn giai đoạn nửa cuối thế kỷ X và mấy năm đầu thế kỷ XI. Suốt một thời tuổi trẻ, ông thể hiện tài thao lược nên được Đinh Bộ Lệnh tin dùng và thăng dần tới chức Thập đạo tướng quân.

Sau khi Đinh Bộ Lĩnh bị sát hại, trong tình thế triều chính lâm nguy và quân nhà Tống lăm le thôn tính nước Đại Cồ Việt Lê Hoàn đã lên ngôi vua năm Canh Thìn (980) khi vừa đến tuổi 40 - lứa tuổi đã định hình đầy đủ tài năng, phẩm chất và tính cách.

Ngay sau khi lên ngôi, Lê Hoàn cầm quân đánh tan quân xâm lược Tống và ngay sau đó thân chinh đánh dẹp quân Chiêm Thành. Gắn với những chiến công này có phần đóng góp không nhỏ của các thiền sư - những bậc thiện trí thức đương thời. Trên thực tế, đến thời Lê Hoàn làm vua (980-1005), Phật giáo Việt Nam đã có một quá trình phát triển lâu dài.

Những người gắn bó với vua Lê Đại Hành và được trọng dùng có đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933- 1011) thuộc thế hệ thứ tư dòng thiền Vô Ngôn Thông; các thiền sư Pháp Thuận (915-990), Sùng Phạm (thế kỷ X-XI) và Vạn Hạnh (?- 1018) đều thuộc thế hệ thứ mười, mười một và mười hai dòng thiền Tì ni đa lưu chi ; ngoài ra còn có sự gặp gỡ với thiền sư Ma Ha (thế kỷ X-XI) thuộc thế hệ thứ mười dòng thiền Tì ni đa lưu chi. Điều này cho thấy mối quan hệ của Lê Đại Hành với giới thiền sư là nằm trong truyền thống, trong tiến trình phát triển chung của đời sống tư tưởng, xã hội thời bấy giờ. 

Xem xét các mối quan hệ cụ thể thì thấy thiền sư Pháp Thuận sớm tôn phò Lê Đại Hành và luôn được nhà vua coi trọng: “Trong buổi đầu, khi nhà Tiền Lê mới sáng nghiệp, sư có công dựng bàn hoạch định sách lược. Khi thiên hạ thái bình, sư không nhận chức tước của triều đình phong thưởng. Vua Lê Đại Hành lại càng thêm kính trọng, thường không gọi tên, mà gọi là Đỗ pháp sư, thường uỷ thác cho sư các công việc văn hàn. . . Vua từng hỏi sư về vận nước ngắn dài” (1). . .

Một người từng trải, có uy vọng như đại sư Khuông Việt: “Năm bốn mươi tuổi danh tiếng vang dội đến triều đình. Vua Đinh Tiên Hoàng vời về kinh đô hỏi chuyện. Sư đối đáp hợp ý, được vua phong giữ chức Tăng thống. Năm thứ 2 niên hiệu Thái Bình (971), sư được ban hiệu là Khuông Việt đại sư.

Dưới triều vua Lê Đại Hành, sư đặc biệt được vua kính trọng phàm các việc quân quốc triều đình, sư đều được tham dự...”. Riêng với thiền sư Ma Ha: “Vua Lê Đại Hành ba lần thỉnh sư về triều để hỏi han việc nước, sư chỉ chắp tay cúi đầu mà thôi”... Đến thiền sư Sùng Phạm: “Vua Lê Đại Hành mấy lần thỉnh sư về kinh để hỏi han huyền chỉ. Vua rất vừa ý, tiếp đãi long trọng”; hay với thiền sư Vạn Hạnh: “Vua Lê Đại Hành đặc biệt tôn kính”, đồng thời sư cũng góp phần mưu lược vào việc đánh tan quân Tống năm 981, sau lại bày kế đánh Chiêm Thành và tham dự vào việc khuông phò Lý Công Uẩn lên làm vua thay thế nhà Tiền Lê. (2)


___________________
(1) Thiền uyển tập anh (Ngô Đức Thọ - Nguyên Thúy Nga dịch, giới thiệu). Phân viện Nghiên cứu Phật học - Nxb Văn học. H, 1990. Các trích dẫn trong bài đều theo sách này.    
(2) Nguyễn Hữu Sơn . Nguyễn  Vạn Hạnh, nhà chính trị - thiền sư - thi sĩ Nghiên cứu phật học, số 3-1995. tr. 34-37.
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #137 vào lúc: 20 Tháng Hai, 2009, 11:45:09 pm »

Sau này Lê Quý Đôn đánh giá cao việc Lê Đại Hành trọng dùng các trí thức nhà Phật: “Sau đó, Lê Đại Hành kế tiếp cũng rất tôn trọng tăng đạo. Khi sứ thần nhà Tống sang nước ta, nhà sư sai pháp sư tên là Thuận đi đón và sai Ngô Chân Lưu đặt từ khúc để tiễn hành” (1)...

Toàn bộ những điều này tỏ rõ rằng, trong định hướng “nhập thế’, hướng về thế tục thì mối liên hệ với vua Lê Đại Hành đã trở thành một tiêu chí quan trọng xác nhận uy vọng và vai trò các thiền sư trong đời sống xã hội và cộng đồng quốc gia. Điều đó cũng chứng tỏ mối liên kết giữa thần quyền và vương quyền cũng như vai trò chi phối đời sống tinh thần, thế giới tâm linh của Phật giáo với tư cách là “quốc giáo” trong buổi đương thời.

Trên phương diện chống giặc ngoại xâm, thiền sư Vạn Hạnh đã sớm tham gia hoạch định việc quân cơ với nhà Tiền Lê: “Bấy giờ sư nói ra điều gì, thiên hạ đều coi như lời sấm ngữ. Vua Lê Đại Hành đặc biệt tôn kính sư. Năm Thiên Phúc thứ nhất (980), nhà Tống sai Hầu Nhân Bảo đem quân sang xâm lược nước ta, đóng quân ở gò Tử Cương núi Giáp Lãng, vua mời sư đến hỏi tình thế thắng bại thế nào. Sư đáp:

-Chỉ trong ba. bảy ngày giặc tất phải tan.

Sau quả đúng như thế. Vua muốn đi đánh Chiêm Thành, cùng bàn bạc với triều thần, nhưng chưa quyết. Sư tâu vua xin cấp tốc tiến quân, nếu không sẽ lỡ dịp. Vua bèn đem quân đi đánh, quả nhiên thu được toàn thắng”.

Cũng ở vào thời điểm đó, tiểu truyện về đại sư Khuông Việt ghi: năm Thiên Phúc thứ nhất (981), quân Tống sang xâm lược nước ta. Trước đó vua đã biết chuyện này, bèn sai sư đến đền cầu đảo xin thần phù hộ. Quân giặc kinh sợ lui về giữ sông Hữu Ninh. Đến đây bọn chúng lại thấy sóng gió nổi lên ùn ùn, giao long nhảy tung trên mặt nước, quân giặc sợ hãi tan chạy”...

Ngoài ra, xét trong quan hệ bang giao thì chính đại sư Khuông Việt cùng sư Đỗ Pháp Thuận (915-990) đều được dùng làm cố vấn, được uỷ quyền đối đáp, bàn luận với sứ giả nhà Tống; thậm chí có thể coi Pháp Thuận là một thiền sư - “tình báo viên” với nhiệm vụ hoạt động hết sức cụ thể: “Năm Thiên Phúc thứ 7 (986), sứ giả nhà Tống là Lý Giác sang nước ta. Vua sai sư thay đổi quần áo, giả là người cai quản bến đò để dò xét cử động của Giác”.

Và cả hai nhà sư này đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và có thơ xướng hoạ với sứ giả nhà Tống, có thể xem như những bài thư đầu tiên trong lịch sử thi ca bang giao của dân tộc. Nhưng với cách nhìn về các thiền sư tham gia công việc chính sự dưới thời Lê Đại Hành thì ở đây lại nảy sinh một điểm hết sức đáng lưu ý.

Xét về mặt lịch sử thì tất cả các vị đều được trọng dụng và gần cận với nhà vua tiền triều, nhưng liền sau đó lại theo về tân chúa, thậm chí còn trực tiếp khuông phò tân đế lên nắm vương quyền. Ngay như đại sư Khuông Việt từng được vua Đinh Tiên Hoàng vời về kinh đô hỏi chuyện, được vua phong chức Tăng thống và đại sư song đến năm 980 - vào chính năm Lê Hoàn vừa mới lên ngôi - ông đã cùng Đỗ Pháp Thuận ra tay giúp tân đế; hoặc như sư Vạn Hạnh từng được vua Lê Đại Hành “đặc biệt tôn kính” nhưng qua thời tao loạn Trung Tông Long Việt (1005) và Ngoạ Triều Long Đĩnh (1005 - 1009), ông đã sớm tham dự vào việc đánh đổ vương triều cũ và ủng hộ việc Lý Công Uẩn lên ngôi. 

Những điều này phải chăng là do các vị đã sáng suốt nhìn ra tình thế đất nước, đặc biệt trước yêu cầu tập hợp lực lượng toàn dân chống giặc ngoại xâm, nên đã quyết đoán ra tay phò nghiêng đỡ lệch? Hoặc giả lúc đó họ vốn là những thiền sư -  đại trí thức có uy vọng lớn lao nên các tân triều đều có ý thức lôi kéo, trọng dùng? Hơn nữa, hay là bản chất khoan dung, cởi mở của các thiền sư chưa nặng nhiễm ý thức trung quân Nho giáo nên dễ bề chuyển đổi, cứ thấy minh chúa, vua sáng tôi hiền là họ đi theo?


______________________
(1) Lê Quý Đôn: Kiến văn tiển lục, trong sách Lê Qúy Đôn toàn tập.  Tập T1 (Phạm Trọng Điềm phiên dịch và chú thích). Nxb Khoa học xã hội. N.1977 tr 387 
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #138 vào lúc: 20 Tháng Hai, 2009, 11:49:24 pm »

Đi sâu phân tích, lý giải, đánh giá những đặc điểm đó vốn thuộc về phía chủ thể hay bởi hoàn cảnh thực tiễn đất nước quy định, hay do cả sự chi phối của tinh thần Phật giáo..., dường như trên mỗi phương diện đều có thể tìm được một phần lời giải đáp hữu lý. (1)

2.Vượt ra ngoài những mối quan hệ cụ thể giữa Lê Đại Hành với các thiền sư thì chính hoàn cảnh lịch sử và điều kiện xã hội đương thời cũng tạo nên những quy định và đặc điểm của chính nền văn hoá - văn học Phật giáo thời bấy giờ. 

2.1. Xác nhận sự định hình truyền thống nhập thế của các thiền sư giai đoạn khởi đầu sự nghiệp dựng nước trước thế kỷ XI Đinh Gia Khánh viết: “Trước đời Lý, các thiền sư đã từng có vai trò quan trọng giúp đỡ triều đình việc chính trị, việc ngoại giao.
 (Ấy là chưa kể việc họ tham gia vào những quyết định về quân sự. Khi Lê Hoàn bàn cách chống lại quân Tống xâm lược thì Vạn Hạnh nói chỉ ba bảy, tức 21 ngày, tất là quét sạch được quân giặc. Lê Hoàn do đó càng quyết tâm và quả nhiên trong non một tháng đã toàn thắng - Theo Thiền uyển tập anh ngữ lục, Thư viện Khoa học, A.314, tờ 52).

Ít nhiều tách rời truyền thống “vô ngôn đốn ngộ” của Thiền tông, họ làm thơ phát biểu về các vấn đề của quốc gia và cả các vấn đề của Phật giáo nữa. Dẫu sao cũng phải đến đời Lý mới thấy thể hiện tương đối rõ nét ý nghĩa của văn học Thiền tông” (2)... 

Nhìn rộng trong sự đối sánh giữa sự áp đặt văn hoá dưới thời bắc thuộc với xu thế tự cường ở giai đoạn đầu khẳng định nền độc lập dân tộc, nhà nghiên cứu Nguyễn Lang xác định: “Tuy sự cai trị của nhà Đường đối với Giao Châu khắc nghiệt hơn bất cứ ở vào triều đại nào khác, và tuy chính quyền đô hộ tìm mọi cách để ngăn chặn sự tiến triển của học thuật và văn hoá Giao Châu, giới tăng sĩ Giao Châu hồi đó đã có phương tiện để theo đuổi sự tu học và hành đạo của mình.

Có lẽ lý do là tại nhà Đường bề ngoài đã tỏ ra tôn sùng đạo Phật. Vì chính sách ngu dân của chính quyền đô hộ mà trí thức và sĩ phu ngoài đời trở nên hiếm hoi. Cho nên ý thức về độc lập quốc gia đã được nhen nhúm trong thiền môn, và khi cơ hội đến, chính các thiền sư là những người đầu liên đứng ra ủng hộ cho việc đấu tranh giành chủ quyền và xây dựng một nền văn hoá quốc gia độc lập Điều này ta sẽ thấy rõ ở các thời Đinh, Tiền Lê và Lý”. (2) . .
 
Đặt trong dấu nối của hai triều đại Đinh - Tiền Lê, GS. Phan Đại Doãn đã nhấn mạnh những tương tác của “một dòng Phật giáo dân gian”, “các thiền phái”, “Phật nhập thể’ và khả năng định hình bản lĩnh văn hoá dân tộc “như một bực tường góp phần ngăn cản sự đồng hóa” (3).

2.2. Khảo sát tiểu truyện về đại sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu (933 - 1011) trong sách Thìền luyện tập alh - người thuộc thế hệ thứ tư dòng thiền VÔ Ngôn Thông - ngay ở phần truyện - tiểu sử có một đoạn ghi chép hết sức quan trọng như sau:


________________________
(1) Xin xem Nguyễn Hữu Sơn: Chương I- Cấu trúc các tiểu truyện thiền sư trong Thiền uyển tập anh. trong sách Loại hình tác phẩm Thiền uyển tập anh. Nxb Khoa học xã hội, N. 2002. tr. 33-108. 
(2) Đinh Gia Khánh: Chương II- Vấn học đời Lý và những truyền thống của dân tộc, trong sách Văn học Việt Nam (Thế kỷ X - nửa đầu thế kỷ XVIII) In lần thứ năm. Nxb Giáo dục. N. 2001 , tr. 47. 
(3) Nguyên Lang: Việt Nam Phật giáo sử  luận, Tập 1. In lần thứ tư. Nxb Văn học . N. 1994. tr. 131.
(4) Phan Đại Doãn: Phật giáo thần Đinh - Lê. trong sách Thế kỉ X – những vấn đề lịch sử đề lịch sử. Nxb Khoa học xã hội. N. 1984. tr. 264-273. 
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #139 vào lúc: 20 Tháng Hai, 2009, 11:52:12 pm »

“Dưới triều vua Lê Đại Hành, sư đặc biệt được vua kính trọng, phàm các việc quân quốc triều đình, sư đều được tham dự. Sư thường đi chơi ở núi Vệ Linh, quận Bình Lỗ, thích nơi đây cảnh trí đẹp, thanh u, muốn dựng am để ở. Ban đêm sư chiêm bao thấy thần nhân mặc áo giáp vàng, tay phải đỡ ngọn bảo tháp, theo sau có hơn chục tên quân hầu dáng mạo hung dữ. Vị thần bảo sư rằng: “Ta là Tì-sa-môn Thiên vương, quân hầu theo ta đây đều là bọn quỷ Dạ xoa. Thiên đế có sắc chỉ sai ta đến nước này giữ cương giới để cho Phật pháp được hưng thịnh. Ta có duyên với ngươi nên đến đây để nhờ cậy”.

Sư giật mình tỉnh dậy, nghe trong núi có tiếng gào thét thì lấy làm lạ.  Khi trời sáng, sư vào núi thấy một cây cổ thụ cao chừng mười trượng, cành lá xúm xuê tươi tốt, phía trên có đám mây lành che bóng. Sư nhân đó thuê thợ đốn cây ấy lấy gỗ tạc tượng thần theo đúng như đã thấy trong mộng để thờ phụng.
 .
Năm Thiên Phúc thứ nhất (980), quân Tống sang xâm lược nước ta. Trước đó, vua đã biết chuyện này, bèn sai sư đến đền cầu đảo xin thần phù hộ. Quân giặc kinh sợ lui về giữ sông Hữu Ninh. Đến đây. bọn chúng lại thấy sóng gió nổi lên ùn ùn, giao long nhảy tung trên mặt nước, quân giặc sợ hãi tan chạy” . . .

Trong tiểu luận nghiên cứu Tì-sa-môn thiên vương (Vaisravana, Sóc Thiên vương và Phù Đổng thiên vương trong tôn giáo Việt Nam thời trung cổ, tác giả Như Hạnh đặt vấn đề:

“Câu chuyện trên đây nếu đọc trong khuôn khổ thuyên thích (hermeneutic) đúng đắn, khai mở cho chúng ta những dữ kiện quan trọng liên quan tới một số đề tài trong văn hóa sử Việt Nam . . . Tì-sa-môn Thiên vương là ai? Tại sao Khuông Việt lại nằm mơ thấy vị thần này? Giấc mơ của Khuông Việt có thể cho chúng ta biết được những gì về tầm quan trọng của vị thần này trong tôn giáo Việt Nam?”. (1)

Nói một cách khác, vấn đề đặt ra ở đây là môtip nhân vật “thần nhân mặc áo giáp vàng” có nguồn gốc từ đâu mà lại xuất hiện được trong giấc mơ của đại sư Khuông Việt? Điều gợi mở trước hết từ trong chính văn bản là vị “thần nhân mặc áo giáp vàng” này đã tự giới thiệu mình chính là Tì -sa-môn Thiên vương.

Tóm tắt theo Từ điển Phật học Hán Việt thì Tì-sa-môn Thiên vương (Vaisrayana) có nguồn gốc xa xưa từ Ấn giáo, thần thoại và Phật giáo Ấn Độ: “Đạo Bà-la-môn cổ gọi là Thần tài, vị thần này trụ trì ở phía bắc núi Tu-di, coi giữ mạn bắc Diêm-phù-đề cai quản về của cải tài sản. còn là vị thiện thần hộ trì Phật pháp”; còn gọi là Đa-văn-thiên, là một trong 4 vị Thiên vương hộ thể. Là vị thiện thần hộ pháp kiêm bố thí phúc trong Phật giáo...

Hình tượng có nhiều loại. Tượng của Thai tạng giới Mạn-đồ-la thì mặc áo giáp, đội mũ trụ tay trái cầm cây thấp, tay phải cầm gậy báu. Thường là tượng ngồi và tương truyền còn có cả tượng đứng”; sau này, theo sách Bắc phương Tì-sa-môn Thiên vương tùy quân hộ chân ngôn mô tả: “Trong nền màu sặc sỡ không hài hoà, trên tấm thảm trắng có vẽ một vị thần Tì-sa-môn khoác áo thất bảo trang nghiêm, tay trái cầm kích, tay phải chống trên mạng sườn, dưới chân thần vẽ hai quỷ Dạ-xoa, đều sắc đen. Thần Tì-sa-môn được vẽ thành bộ mặt rất đáng sợ, đôi mắt hung dữ trợn nhìn tất cả các ác quỷ...” (1).

Cho đến nay nhìn lại có thể khẳng định đã có cả một quá trình tìm hiểu về Tì-sa-môn Thiên vương trong bối cảnh văn hoá - văn học dân gian, cụ thể hơn là mối liên hệ với truyện ông Dóng và hình ảnh giấc mơ của Khuông Việt trong sách Thiền uyển tập anh. Như Cao Huy Đỉnh đã diễn giải trong mục Cơ sở xã hội và qúa trình phát triển của truyện ông Dóng thì sự chuyển hoá thể loại của truyện ông Dóng trong lịch sử “tiêu biểu cho sự chuyển hoá của cả loại hình tự sự dân gian Việt Nam nói chung”; “Hình tượng, cốt truyện, chủ đề và ý nghĩa của nó phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến tổng hợp qua quá trình phát triển lịch sử rất lâu dài của dân tộc” (3), ở đó vừa có cốt truyện mang tính nội sinh, bản địa, vừa có quan hệ giao thoa, hội nhập, bản địa hoá hình mẫu Tỳ-sa-môn Thiên vương.


_______________________
(1) Như Hạnh: Tì-sa-môn thiên vương (Vaisravana), Sóc Thiên Vương và Phù Đổng Thiên Vương trong tôn giáo Việt Nam thời Trung cổ. Tạp chí Triết (San Jose). số 1-1995. tr. 150-162. In lại trong Nghiên cứu Phật học. số 3 -1998 và số 2 - 1999. tr. 18-23 và 21 -24.
(2) Từ điển Phật học Hán Việt. Tập 2 (Hòa thượng Kim Cương Tử chủ biên). phân viện Nghiên cứu Phật học xuất bản. N. 1994. tr. 1599- 1600. 
(3) Cao Huy Đỉnh: Người anh hùng làng Dóng. Nxb Khoa học xã hội.  H. 1969. tr. 138- 146. 
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM