Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 07:23:05 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Bối cảnh định đô Thăng Long và sự nghiệp của Lê Hoàn  (Đọc 99841 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #110 vào lúc: 19 Tháng Hai, 2009, 10:14:37 pm »



(Nguồn Đại  Việt sử ký toàn thư, Tập 1, Nxb Khoa học Hà Nội, N. 1998)

Từ năm 980 đến năm 1005, trong vòng 26 năm trị vì của Lê Hoàn, chính quyền trung ương Đại Cồ Việt đã tiến hành 6 hoạt động quân sự lớn ở phía nam trong số 10 hoạt động quân sự lớn suốt thời gian trị vì của Lê Hoàn. Các hoạt động quân sự ở phía nam chiếm 60% các hoạt động quân sự lớn của Đại Cồ Việt thời Lê Hoàn. Trong đó, Lê Hoàn đã thân chinh 5 lần, chiếm 83% các hoạt động này. Cuộc tiến quân vào Chăm pa năm 982 kéo dài tới một năm. Và trong hai năm liên liếp (982, 983), Lê Hoàn đã tổ chức liên tục hai cuộc tiến quân vượt ra ngoài biên giới phía nam. 5 trong số 7 hoạt động quân sự trấn áp, tiêu diệt các mưu đồ cát cứ, phân tán ở các địa phương của vương triều Lê Hoàn diễn ra ở phần lãnh thổ phía nam đất nước, chiếm 71 % .

Chưa từng có vị vua nào, cả trước và sau Lê Hoàn, hoạt động ở biên giới phía nam lâu như vậy!  Những sự kiện và số liệu phân tích trên cho thấy, nhà nước Đại Cồ Việt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Lê Hoàn dành sự quan tâm to lớn đối với phần lãnh thổ phía nam và biên giới phía nam đất nước. Lê Hoàn và nhà nước Đại Cồ Việt tỏ thái độ kiên quyết, cứng rắn đối với các hoạt động ly khai, cát cứ, những yếu tố phân tán ở phần lãnh thổ phía nam (châu Hoan, châu Ái), sẵn sàng kiên quyết dùng sức mạnh quyền lực để giữ gìn khối cộng đồng quốc gia - đần tộc thống nhất vừa xác lập.

Những hành động mạnh mẽ của Lê Hoàn đã kế tục xứng đáng và phát huy thành quả dẹp loạn 12 sứ quân của Đinh Bộ Lĩnh, giữ gìn, củng cố khối đoàn kết thống nhất như một nguyên tắc bất khả xâm phạm của quốc gia-dân tộc Việt Nam.  Những việc làm đó đã góp phần kiến tạo, gìn giữ một vùng lãnh thổ phía nam hòa hợp, đoàn kết, gắn bó trong khối đại đoàn kết quốc gia - dân tộc thống nhất. Điều này như một cơ sờ trọng yếu cho công cuộc lãnh thổ về phía nam của cộng đồng Việt.
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #111 vào lúc: 19 Tháng Hai, 2009, 10:19:20 pm »

3. Đối với quá trình lãnh thổ về phía nam, Lê Hoàn và nhà nước Đại Cồ Việt đã có những hoạt động đầy ý nghĩa, không chỉ trong lĩnh vực quân sự.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ’ nhất (980-981) và cuộc chinh phạt Chăm pa năm 982 đã khẳng định sức mạnh, củng cố vị trí, và nâng cao tầm vóc của quốc gia Đại Cồ Việt trong khu vực. Hành động bành trướng của chủ nghĩa bá quyền phương bắc bị bẻ gãy. Tham vọng bắc tiến của vương quốc Chăm pa bị chặn đứng. Vua quan nhà Tống ngại việc chinh chiến”. (1)

Hoàng đế Đại Cồ Việt có thể “ngạo mạn” mà nói với sứ thần của vị thiên tử Trung Hoa rằng: “Việc cướp trấn Như Hồng (chỉ cuộc đụng độ giữa quân Đại Cồ Việt và quân Tống ở vùng biên giới Khâm Châu năm 995 - H.D.B) là do bọn giặc biển ở cõi ngoài, hoàng đế có biết đó không phải là quân của Giao Châu không? Nếu Giao Châu có làm phản thì đầu tiên đánh vào Phiên Nhung, thứ đến đánh Mân Việt, há chỉ dừng ở trấn Như Hồng mà thôi?” (2).

Câu nói đó hàm chứa niềm tin sâu sắc vào sự vững mạnh của quốc gia-dân tộc, cũng là hoài bão lớn lao về một đất nước cường thịnh. Với niềm tin và hoài bão đó, Lê Hoàn đã lãnh đạo quốc gia Đại Cồ Việt tiếp tục xúc tiến công cuộc mở rộng không  gian sinh tồn của cộng đồng Việt, vốn lâu nay đã bị ách thống trị ngoại Bạng Trung Hoa. tham vọng mở rộng lãnh thổ của Chăm pa và nạn cát cứ, phân tán trong nước ngáng trở. 

Thế kỷ X, quốc gia độc lập tự chủ và thống nhất được khôi phục. nhà nước trung ương tập quyền được xây dựng vững vàng. Tất cả đang mở ra cơ hội phát triển mới. Cơ hội đó đòi hỏi một tầm nhận thức và hành xử chiến lược, để có thể bắt đầu và kế tục trong một quá trình lâu dài và bền vững.

Đến cuối thế kỷ X, biên giới phía nam của Đại Cồ Việt mới dừng lại ở dải Hoành Sơn - Đèo Ngang (phía bắc tỉnh Quảng Bình hiện nay). Năm 982, khi Lê Hoàn cầm quân đi đánh Chăm pa, “qua núi Đồng Cổ (ở xã Đan Nê huyện Thiệu Yên tỉnh Thanh Hoá – (chú thích của người dịch) đến sông Bà Hòa (sông chảy qua xã Bà Hoà, sau đổi là xã Đồng Hoà, nay thuộc huyện Tĩnh Gia tỉnh Thanh Hoá – (chú thích của người dịch), đường núi hiểm trở khó đi, người ngựa mỏi mệt, đường biển thì sóng to khó đi lại, bèn sai người đào kênh.

Đến đây (năm 983 - H.D.B) làm xong, thuyền bè đi lại đều được thuận tiện”. (3) Đến mùa thu năm 992, Lê Hoàn lại sai Phụ quốc Ngô Tử An - người từng đi sứ Chăm pa năm 982-đem 3 vạn người đi mở đường bộ từ cửa biển Nam Giới đến châu Địa Lý (4).

Có thể nhìn nhận rằng: trước những khó khăn về giao thông bộc lộ trong cuộc tiến quân vào phía nam năm 98 Lê Hoàn đã sáng suốt, kịp thời tổ chức đào kênh, sau đó tiếp tục nạo vét các kênh đào - mở con đường thuỷ từ Ái Châu (Thanh Hoá) vào phía nam với ý định tạo một trục đường thuỷ xuyên bắc-nam bằng cách nối kết các dòng sông bằng những con kênh đào (5), đồng thời xây dựng con đường bộ từ biên giới Đại Cồ Việt Chăm pa, tức là cửa biển Nam Giới (6), vượt qua Đèo Ngang vào sâu trong châu Địa Lý: lúc đó vẫn thuộc lãnh thổ Chăm pa.


_________________________
(1) Đại việt sử ký toàn thư, Tập 1, Sđd. tr. 228
(2) Đại việt sử ký toàn thư, Tập 1, Sdd. tr. 229
(3) Đại Việt sử ký toàn thư. Tập 1. Sđd. tr. 222
(4) Đại Việt sử ký toàn thư. Tập 1. Sđd. tr. 227
(5) Xem thêm Nguyễn Đình Thực, Công trình đào kênh thời Lê Hoàn.  in trong kỷ yếu Lê Hoàn và 1000 năm chiến thắng quân Tống xâm lược (981-1981). Sở Văn hoá thông tin Thanh Hoá xuất bản năm 1985, tr. 148
(6) Gs.Trần Quốc vượng trong bài Miền trung Việt Nam và Văn hoá Chămpamột cái nhìn địa văn hóa) cho biết: thế kỷ X và đầu thế kỷ XI. ranh giới phía nam của Đại Cồ Việt - Đại Việt là Đèo Ngang - Hoành Sơn hay Nam Giới (vùng Cửa Sót Hà Tĩnh ngày nay, bên bắc Đèo Ngang một chút). “Xem  Việt Nam cái nhìn địa - văn hoá, Nxb Văn hoá dân tộc. Hà Nội 1998. tr.310). 
« Sửa lần cuối: 19 Tháng Hai, 2009, 10:27:34 pm gửi bởi UyenNhi05 » Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #112 vào lúc: 19 Tháng Hai, 2009, 10:30:29 pm »

Những con đường này được mở ra sẽ kéo theo các luồng di dân, các hoạt động giao lưu, tiếp biến về cư dân, kinh tế và văn hoá. Những hoạt động quân sự, khi lớn khi nhỏ, dọc theo các tuyến đường này càng thúc đẩy hơn nữa quá trình lãnh thổ của người Việt về phía nam.

Những việc làm trên của Lê Hoàn và quốc gia Đại Cồ Việt dưới sự lãnh đạo của ông, dù được nhìn nhận ở góc độ nào, quân sự, kinh thay văn hoá, cũng là những hoạt động chuẩn bị mang tính chiến lược trong nhận thức và hành xử đã phát huy tác dụng to lớn, làm thay đổi hẳn tiến trình lãnh thổ về phía nam của dân tộc Việt Nam. Một bước tiến dài trong quá trình lãnh thổ về phía nam của người Việt đã được thực hiện!

Trong tiến trình lịch sử, có thể thấy kết quả những động thái của Lê Hoàn trong vòng chưa đầy một thế kỷ sau đó. Từ sau cuộc tiến quân vào phía nam của Lý Thánh Tông năm 1069, phần đất thuộc 3 châu Địa Lý (khoảng huyện Lệ Ninh tỉnh Quảng Bình), Ma Linh (khoảng huyện Bến Hải tỉnh Quảng Trị) và Bố Chính (khoảng các huyện Bố Trạch, Quảng Trạch, Tuyên Hoá tỉnh Quảng Trị) của Chăm pa được sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt. (1) Trung tâm vương quốc Chămpa chuyển dần về phía nam. Biên giới Đại Việt tiến tới khu vực tỉnh Quảng Trị hiện nay.

*

*        *

Từ một võ quan cao cấp của triều Đinh, được suy tôn vị trí lãnh đạo đất nước, Lê Hoàn đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử của mình trước dân tộc và thời đại. 26 năm trị vì của Lê Hoàn là một giai đoạn oanh liệt trong lịch sử Việt Nam, với những chiến công “phá Tống bình Chiêm” rực rỡ.

Có ý kiến cho rằng, chính Lê Hoàn là người khai phát tư tưởng “tiên phát chế nhân” khi tiến quân vào Chăm pa năm 982, và mấy chục năm sau, khi Lý Thường Kiệt đem binh tiến vào đất Tống (1075) chỉ là vận dụng sáng tạo một tiền lệ mà Lê Hoàn đã tạo ra ở phía nam để ứng phó trên mặt bắc (2) Đây là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng, cần có những nghiên cứu đầy đủ và sâu sắc hơn nữa.

Song đối với quá trình lãnh thổ về phía nam của cộng đồng dân tộc Việt Nam thời kỳ quốc gia độc lập tự chủ. Lê Hoàn đã thực sự có những đóng góp quan trọng. Với những hoạt động quân sự lớn vượt ra ngoài biên giới Lê Hoàn đã xác lập, khẳng định bằng hành động cụ thể chủ trương, chính sách kiên quyết, cứng rắn, không khoan nhượng của vương triều ông, đất nước ông trước mối nguy ngoại xâm từ phía nam trong quan hệ với quốc gia láng giềng phía nam (vương quốc Chăm pa).

Lê Hoàn cũng đã thực hiện một chính sách kiên quyết giữ gìn khối đoàn kết, thống nhất dân tộc, gìn giữ vùng lãnh thổ phía nam đất nước hoà hợp, gắn bó trong khối đại đoàn kết quốc gia - dân tộc thống nhất, làm cơ sở cho những hoạt động “lãnh thổ” ở phía nam.

Và đặc biệt, nếu coi rằng cuộc tiến quân vào Chăm pa năm 1069, tiếp sau đó vào năm 1075, và hệ quả của nó là biên giới Đại Việt mở rộng về phía nam, vượt qua Hoành Sơn - đèo Ngang là bước mở đầu cho quá trình lãnh thổ về phía nam của người Việt (theo các quan điểm của Phan Khoang và Trần Quốc Vượng (3), thì cần phải coi các hoạt động của Lê Hoàn ở phần lãnh thổ phía nam và vùng biên giới Đại Cồ Việt - Chăm pa trong các năm 982- 1003 là những bước chuẩn bị mang tính chiến lược cho quá trình đó. Thậm chí, suy xét một cách kỹ lưỡng những việc làm của Lê Hoàn trong thời gian nắm quyền lãnh đạo quốc gia Đại Cồ Việt (980- 1005 ), có thể mạnh dạn nhận định rằng chính Lê Hoàn là người khai mở quá trình lãnh thổ về phía nam của dân tộc Việt Nam trong thời kỳ quốc gia tự chủ với nhiều bước đi thật ý nghĩa.


_________________________
(1) Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 1. Sđd. tr. 275
(2) Văn Lang. Thế kỷ X - một đặc điểm quân sự và quân sự học in trong Thế kỷ X những vấn đề lịch sử. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 1984.  tr. 119.
(3) Xem Phan Khoang: Việt sử xứ Đàng Trong 1558- 1777 (Cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam). Sđd. tr.47: và Trần Quốc Vượng.  Vài suy nghĩ về văn hóa Quảng trị cổ in trong Việt Nam cái nhìn địa - văn hóa, Sđd. tr.361
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #113 vào lúc: 19 Tháng Hai, 2009, 10:32:00 pm »

Lê Hoàn - nhà lãnh đạo đất nước thế kỷ X - XI được ghi công trong lịch sử dân tộc như một nhà hoạch định chính sách, người tổ chức và chuẩn bị chiến lược trong quá trình lãnh thổ về phía nam của cộng đồng quốc gia - dân tộc Việt Nam thời kỳ độc lập tự chủ.

Đặt trong bối cảnh định đô Thăng Long, những đóng góp của Lê Hoàn từ khía cạnh quân sự cũng có ý nghĩa đáng ghi nhận. Chỉ 5 năm sau thời gian trị vì của Lê Hoàn, vào năm 1010, Lý Công Uẩn đã dời kinh đô từ Hoa Lư- một căn cứ quân sự vững chắc, ra vùng Đại La-một vùng đất trống bằng phẳng. Tầm nhìn chiến lược của vị vua đầu triều Lý cho sự phát triển dài lâu của vương triều và đất nước là không thể phủ nhận.

Song cũng cần phải khẳng định những công lao “phá Tống bình Chiêm”, chặn đứng âm mưu bành trướng của các thế lực ngoại bang phương bắc và phương Nam, giữ gìn và củng cố khối đoàn kết dân tộc thống nhất, xây dựng chính quyền trung ương vững mạnh của Lê Hoàn như là những điều kiện đặc biệt quan trọng làm cơ sở cho quyết định của vị vua Thái Tổ triều Lý.

Và điều đó càng có ý nghĩa hơn nữa, khi mà các vị vua triều Lý đã tiếp tục thực hiện những chủ trương, chính sách, những việc làm của Lê Hoàn trong xây dựng và bảo vệ đất nước, tạo nên một vương triều sáng giá bậc nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam.


LÊ HOÀN VÀ BUỔI ĐẦU CỦA NỀN NGOẠI GIAO
ĐỘC LẬP ĐẠI CỒ VIỆT

PGS. TS. Phạm Xuân Hằng
Trường Đại học KHXH&NV. Đại học Quốc gia Hà Nội

Lịch sử Việt Nam thế kỷ X mở đầu với cuộc nổi dậy của Khúc Thừa Dụ giành nền tự chủ năm 905 . Trong vòng hơn một trăm năm, đến năm 1009, khoảng thời gian không dài, nhưng có đến hai họ (họ Khúc, họ Dương), ba nhà (nhà Ngô, nhà Đinh, nhà Tiền Lê) nối tiếp nhau. Cũng khó có thể khác được, vì đây là thế kỷ mang tính chất quá độ.

Tuy nhiên, bên cạnh tính chất quá độ, thế kỷ X, quan trọng hơn, rõ rệt hơn, là tính chất bản lề. Đó là thế kỷ tạo lập nền móng của ngôi nhà độc lập Đại Cồ Việt - Đại Việt và của kỷ nguyên phục hưng và phát triển rực rỡ của quốc gia - dân tộc Việt Nam. Từ Khúc Thừa Dụ, Dương Đình Nghệ, Ngô Quyền đến Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, mỗi người một cống hiến lịch sử, một vai trò nền móng.

Với Lê Hoàn, vai trò của người anh hùng dân tộc vĩ đại này, ngoài sự nghiệp giữ nước, ở một khía cạnh khác, là người mở đầu và xác lập những nguyên tắc cơ bản của nền ngoại giao Đại Cồ Việt - Đại Việt

1. Năm 979, Đỗ Thích giết Đinh Tiên Hoàng và con trưởng là Đinh Liễn. Triều đình Hoa Lư nhất thời bất ổn. Tống triệt để lợi dụng cơ hội này, quyết tâm mở cuộc chiến tranh xâm lược Đại Cồ Việt. Vận nước nguy nan. Không câu nệ, quần thần và Dương Thái hậu cùng nhất trí tôn quan Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên ngôi vua, thay Vệ vương Đinh Toàn còn quá nhỏ, để toàn quyền tổ chức và lãnh đạo cuộc kháng chiến.
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #114 vào lúc: 19 Tháng Hai, 2009, 10:34:04 pm »

Tống muốn không mất hòn tên mũi đạn nào mà vẫn đạt được mục đích, giở bài gây sức ép ngoại giao. Tháng 8 năm Canh Thìn (980), vua Tống sai sứ đến triều đình Hoa Lư mang theo một bức thư dài, như một tối hậu thư, rất ngang ngược, rất hống hách, ép Đại Cồ Việt phải đầu hàng: “. . . Nay ta đang chỉnh đốn xe cộ quân lính, truyền hiệu lệnh chiêng trống. Nếu chịu theo giáo hoá, ta sẽ tha tội cho, nếu trái lệnh, ta sẽ sai quân đánh. Theo hay chống, lành hay dữ, tự ngươi xét lấy” (1). 

Vua Tống đã lầm khi tưởng rằng với mấy lời đe doạ đó có thể khuất phục được quân dân Đại Cồ Việt. Lê Hoàn một mặt động viên toàn quân, toàn dân chuẩn bị sẵn sàng kháng chiến, mặt khác, đã rất khôn khéo, lấy ngoại giao đáp lại ngoại giao, sai sứ sang Tống, giả thư của Vệ vương Đinh Toàn, xin được  chính thức lĩnh mệnh, đủ được dự hàng phiên bang, để yên ủi tấm lòng tận trung của kẻ tôi mọn, nêu cao thịnh điển ban khen của thánh triều” (2), thực chất là để kéo dài thời gian, không hẳn đã khiến nhà Tống tin, nhưng ít nhất cũng khiến đối phương nhiều ít mất tập trung.

Vua Tống lập tức sai sứ đưa thư sang, hứa cho Đinh Toàn làm Thống soái, cho Lê Hoàn làm Phó Thống soái. Lê Hoàn đương nhiên từ chối. Tống phát đại binh sang xâm lược. Lê Hoàn tổ chức và lãnh đạo quân dân loại Cồ Việt đánh tan tác quân Tống, chém Hầu Nhân Bảo, bắt sống Quách Quân Biện, Triệu Phụng Huân.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Tống năm 981 đã đưa Lê Hoàn vào hàng những anh hùng dân tộc vĩ đại nhất, những nhà quân sự kiệt xuất nhất trong lịch sử Việt Nam.  Đồng thời, từ trong cuộc kháng chiến này, Lê Hoàn cũng đã bộc lộ những phẩm chất của người tạo lập nền móng nền ngoại giao độc lập Đại Cồ Việt - Đại Việt trong kỷ nguyên mới. 

2. Đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của Tống khi Trung Quốc đã được thống nhất, nền độc lập dân tộc của người Việt được khẳng định và bảo vệ vững chắc. Thế và lực của Đại Cồ Việt lúc này khiến phong kiến Trung Hoa phải kiêng nể. Đây chỉnh là thời cơ thuận lợi cho chúng ta xúc tiến các hoạt động ngoại giao, một mặt nâng cao vị thế của Đại Cồ Việt, mặt khác xây dựng quan hệ hoà hảo, duy trì hoà bình với Trung Quốc.

Ta biết rằng, mặc dù chính thức giành được nền tự chủ từ Khúc Thừa Dụ năm 905, xưng vương từ Ngô Quyền năm 939, nhưng mãi đến năm 954 mới thấy sử chép về một sứ bộ nhà Ngô sang Nam Hán, rồi bẵng đi, đến nhà Đinh, hơn mười năm trị vì, sử chép cũng chỉ có bốn lần sứ ta sang Tống, hai lần sứ Tống sang ta. Nhưng những hoạt động ngoại giao Việt - Tống đã diễn ra dồn dập dưới thời Tiền Lê, với mười ba lần sứ ta sang Tống và mười lần sứ Tống sang ta, riêng dưới thời Lê Hoàn, mười một lần sứ ta sang Tống và tám lần sứ Tống sang ta.

Chủ động đẩy mạnh quan hệ ngoại giao trong điều kiện thế và lực của Đại Cồ Việt được nâng cao, nhưng Lê Hoàn cũng ý thức sâu sắc được những khó khăn của một nước nhỏ tồn tại bên cạnh một nước lớn lại luôn có tham vọng bành trướng. Trên cơ sở hiểu mình, hiểu người, Lê Hoàn đã rất mền dẻo trong quan hệ với nhà Tống sau chiến tranh.

Trên con đường tiến đến mối quan hệ hoà hảo với nhà Tống, Lê Hoàn đã chấp nhận một số nhượng bộ. Mùa xuân năm Quý Mùi (983) ông sai sứ sang Tống thông hiếu, năm 985 sai sứ sang xin lĩnh chức “Tiết trấn”. “Tiết trấn” là Tiết độ sứ ở phiên trấn, quá khiêm nhường, nhưng đó là động thái khôn ngoan, để thoả kiêu căng cho kẻ luôn tự coi mình là bề trên và cũng là để “thiên triều’ bớt xấu mặt sau thất bại năm 981 , chứ thực thì ông vẫn xưng hoàng đế, tự sánh mình ngang hàng với vua Tống.


______________________
(1) Đại Việt sử ký toàn thư. Tập 1. Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội. 1998. tr. 217-219
(2) Đại Việt sử ký toàn thư. Tập 1. Sđd. tr.219.
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #115 vào lúc: 19 Tháng Hai, 2009, 10:36:19 pm »

Năm 986, khi sứ Tống đến triều đình Hoa Lư mang theo chế sách sang phong, Lê Hoàn đã tỏ ra cung kính khi nhận, tiếp sứ rất hậu. Năm 990, Lê Hoàn đưa cả một đoàn gồm chín thuyền với 300 người vượt biển đến Liêm Châu (Quảng Đông) long trọng đón sứ Tống về kinh đô Hoa Lư. Như thế là mềm dẻo, nhún nhường, nhân nhượng. Một biểu hiện khác nữa của thái độ này là chấp nhận “triều cống” dưới hình thức “biếu sản vật,, có khi dắt theo cả voi sang biếu vua Tống.

Mềm dẻo và nhượng bộ nhưng Lê Hoàn trước sau vẫn kiên trì những nguyên tắc bất di bất dịch, là độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền và danh dự quốc gia.

Sau thất bại năm 981, nhà Tống chưa dám có bất kỳ hành động nào xâm phạm đến chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Đại Cồ Việt. Nhưng thái độ trịch thượng, nước lớn thì vẫn còn.  Lê Hoàn đã thông qua con đường ngoại giao mà khiến người Tống phải bớt kiêu căng.

Cuối năm 986 vua Tống cử một sứ bộ do Tả bổ khuyết Lý Nhược Khuyết và Quốc tử giám bác sĩ Lý Giác cầm đầu sang phong Lê Hoàn làm An Nam đô hộ Tĩnh hải quân Tiết độ sứ. Lê Hoàn kính cẩn nhận. Để tỏ rõ sự giàu có và sức mạnh của Đại Cồ Việt, Lê Hoàn thết đãi sứ giả rất hậu, hàng ngày cho bày những thứ quý lạ chật cả sân, lại hỏi ướm: “Nước tôi bé nhỏ, sông núi xa xôi, nghìn dặm cách trở, ở lánh góc đất, sứ thần đi lại, lặn lội núi sông, há chẳng khó nhọc lắm ư” (1). Ý của Lê Hoàn là, lần sau nếu có việc, không cần phải phiền sứ thần đến tận kinh thành Hoa Lư, phiền sứ mà cũng phiền tôi.
   
Năm 987 nhà Tống lại sai Lý Giác sang, sử không chép rõ là để làm gì. Lê Hoàn đã bố trí một cuộc đón tiếp độc đáo.  Để tỏ rõ văn hiến của Đại Cồ Việt trước Quốc tử giám bác sĩ Lý Giác, Lê Hoàn bố trí nhà sư Pháp Thuận, một trí thức Phật giáo uyên bác, giả làm người chủ đò, qua sông Thương đón khách. Trên chuyến đường thuỷ lai kinh, chợt thấy đôi ngỗng bơi lội trên sông, Lý Giác cảm xúc ngâm rằng:

Nga nga lưỡng nga nga,
Ngưỡng diện hướng thiên nha.
(Ngỗng ngỗng hai con ngỗng,
Ngửa mặt nhìn chân trời.)


Pháp Thuận lập tức làm nối:

Bạch mao phô lục thuỷ,
Hồng trạo bãi thanh ba.
(Nước xanh phô lông trắng
Chèo hồng sóng xanh bơi)


Thế là, một sứ, một chèo đò, hợp lại thành bài thư hoàn chỉnh (và không kém phần hoàn bích, dù cả hai chỉ là sửa lại cho hợp cảnh tác phẩm của Lạc Tân Vương đời Đường). Lý Giác quá ngạc nhiên, về đến sứ quán đã làm một bài thơ thất ngôn gửi tặng, trong đó có câu Thiên ngoại hữ thiên ưng viễn chiếu, nghĩa là: ngoài trời lại có trời soi nữa.

Lê Hoàn - Đại Cồ Việt đã mở mắt cho Lý Giác. Trong thế giới này không phải chỉ có một Trung Hoa. Mà dẫu Trung Hoa có là mặt trời thì đó cũng không phải là mặt trời duy nhất. Người Việt, Đại Cồ Việt phương Nam trong con mắt của Lý Giác cũng là một mặt trời.  Đại sư Ngô Chân Lưu (Ngô Khuông Việt) xem thư xong nói với Lê Hoàn: “Thư này tôn bệ hạ không khác gì vua Tống”. 


_________________________
(1) Đại  việt sử ký toàn thư. Tập 1, Sđd, tr.223 .
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #116 vào lúc: 19 Tháng Hai, 2009, 10:38:36 pm »

Năm 990, nhà Tống sai Tả chính ngôn Tống Cảo và Hữu Chính ngôn Vương Thế Tắc sang triều đình Hoa Lư mang chế sách sang phong thêm cho vua hai chữ “Đặc tiến”. Hai nhà ngoại giao này ngạo mạn và hống hách. Lê Hoàn đã chuẩn bị sẵn một kế hoạch nhằm uy hiếp tinh thần. Lê Hoàn sai Nha nội chỉ huy sứ là Đinh Thừa Chính đem 9 chiếc thuyền cùng 300 quân đến Liêm Châu (Quảng Đông) đón, lênh đênh trên biển, trên sông non hai tháng trời mới đến kinh đô Đại Cồ Việt.

Lê Hoàn thân ra ngoài thành đón tiếp, cho bày “thuỷ quân và chiến cụ”, dưới sông trên bờ, trên đường vào kinh, thuyền chiến san sát, quân sĩ tỳ hổ gươm giáo sáng loáng, cờ xí rợp trời. Lê Hoàn và Tống Cảo cưỡi ngựa cùng đi. Tiếp chế thư, Lê Hoàn bưng đặt lên điện, không lạy, nói thác là mới bị ngã ngựa đau chân. Sứ Tống buộc phải tin. Lê Hoàn nhân đó nói với Tống Cảo: “Sau này có quốc thư thì nên cho giao nhận ở đầu địa giới, khỏi phiền sứ thần đến tận đây nữa” (1).
 
Tống Cảo về tâu vua Tống phải đồng ý. Không lạy chiếu thư mà nói dối là đau chân, Tống Cảo biết mà phải làm ngơ. Đề nghị nghi thức đón nhận quốc thư của “thiên triều” làm ở biên giới chứ không ở kinh đô, vua Tống không muốn mà..phải đồng ý. Tống đã hạ mình. Một thắng lợi ngoại giao vô cùng có ý nghĩa của Đại Cồ Việt.
 
3. Chính sách ngoại giao mềm dẻo nhưng kiên quyết của Lê Hoàn và triều đình Hoa Lư đã buộc nhà Tống phải từng bước nhìn nhận Đại Cồ Việt với thái độ ngày càng tôn trọng.  Tất nhiên, đó là kết quả của gần một thế kỷ nỗ lực phấn đấu của toàn dân tộc trong khôi phục và bảo vệ nền độc lập dân tộc của những thắng lợi quân sự mà trực tiếp là thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Tống năm 981 . Những thắng lợi ngoại giao quan trọng mà Lê Hoàn và Đại Cồ Việt đạt được là:

Thứ nhất, việc trao đổi sứ đoàn theo kiểu có đi có lại cho thấy tính chất bình đẳng trong quan hệ ngoại giao Việt - Tống dưới thời Tiền Lê. Đầu năm 983 Lê Hoàn sai sứ “sang thông hiếu’, năm 985 nhà Tống sai sứ “sang thăm”. Từ đó, thường đoàn đi đoàn đến hơn kém không đáng kể.

Thứ hai, việc phong tước cho Lê Hoàn được nâng dần từng bước cho thấy nhà Tống ngày càng phải thừa nhận sức mạnh, thế và lực của quốc gia độc lập Đại Cồ Việt. Sau một số trao đổi ngoại giao, năm 986 nhà Tống sai Lý Nhược Thuyết và Lý Giác sang phong cho Lê Hoàn làm An Nam đô hộ Tĩnh hải quân liệt độ sứ Kinh triệu quận hầu. Mới chỉ là chức Tiết độ sứ nhưng đó là theo yêu cầu khiêm tốn của Lê Hoàn. Đến năm 988 sai Ngụy Tường và Lý Độ sang gia phong cho Lê Hoàn làm Kiểm hiệu thái uý. Năm 990 sai Tống Cảo và Vương Thế Tắc sang gia phong cho Lê Hoàn thêm hai chữ “Đặc tiến”.  Năm 993 sai Vương Thế Tắc và Lý Cơ Giản sang phong cho Lê Hoàn làm Giao Chỉ quận vương, năm 997 phong làm Nam Bình vương.

*

*          *

Trải các đời họ Khúc, họ Dương, nhà Ngô, nhà Đinh, sau những thắng lợi quân sự vĩ đại, từ hai lần kháng chiến chống Nam Hán năm 931 và 938 đến kháng chiến chống Tống năm 981 , tới nhà Tiền Lê, nền độc lập dân tộc của người Việt ngày càng vững chắc, quốc gia độc lập của người Việt ngày càng lớn mạnh.

Lê Hoàn là người đã góp phần quan trọng vào công cuộc này, đồng thời cũng là người buộc phong kiến Trung Hoa phải nhìn nhận nền độc lập đó, quốc gia độc lập đó như một thực thể bình đẳng, dù vẫn danh nghĩa nước lớn với nước bé, “thiên triều’ với “chư hầu’, nhưng đó chỉ là vẻ bề ngoài.  Thắng lợi quân sự của quân dân Đại Cồ Việt dưới sự lãnh đạo của Lê Hoàn đã được chính ông nhân lên bằng thắng lợi trên mặt trận ngoại giao, góp phần củng cố và tăng cường uy thế của Đại Cồ Việt. Cũng chính Lê Hoàn đã mở đầu một thế ứng xử trong đường lối đối ngoại với phong kiến phương bắc, có mềm dẻo, nhún nhường nhưng cương quyết về nguyên tắc.


_____________________________
(1) Đại Việt sử ký toàn thư. Tập 1. Sđd. tr.226.
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #117 vào lúc: 19 Tháng Hai, 2009, 10:40:17 pm »

LÊ HOÀN VÀ MỘT GIAI ĐOẠN MỚI
TRONG CUỘC BANG GIAO VỚI NHÀ TỐNG

PGS. TS. Trần Thị Băng Thanh
Viện văn học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam 


Năm 938, tiếp nối họ Khúc, họ Dương, Ngô Quyền chính thức giành được quyền tự chủ. Mười sáu năm sau, 954, Ngô Nam Tấn vương Xương Văn mới sai sứ đặt quan hệ bang giao với nhà Nam Hán, được Lưu Thạnh, vua Nam Hán phong cho tước Tĩnh hải quân tiết độ sứ kiêm đô hộ. Dưới thời nhà Đinh, các đoàn sứ giả được cử sang bắc quốc nhiều hơn. Năm 970 (An Nam chí lược ghi là 971), bắt đầu sai sứ sang giao hảo với nhà Tống, bởi nhà Nam Hán đã bị diệt.

Hai năm sau, 972, Đinh Liễn đích thân sang thăm nhà Tống. Năm sau về, Đinh Liễn được phong Kiểm hiệu thái sư Tĩnh hải quân Tiết độ sứ An Nam đô hộ, Đinh Tiên Hoàng được phong Giao Chỉ quận vương. Lời chế đại lược nói: “Họ Đinh đời đời là vọng tộc, gìn giữ được phương xa, chí hâm mộ phong hoá Trung Hoa, thường nghĩ đến việc nội phụ. Nay chín châu hợp nhất, miền Ngũ Lĩnh sạch quang, bèn trèo non vượt biển đến dâng đồ cống. Khen ngươi làm con biết giữ lễ phiên thần, vậy ban cho cha ngươi theo lối cắt đất phong tước, xếp phẩm trật cho vào hạng được cầm quân, được hưởng mức “tỉnh phú”. Như thế là để khen thưởng đức tốt của người già, há chỉ bó hẹp trong điển chương thường lệ đâu?”.

Theo các nhà chú giải “tỉnh phú” là chế độ quy định các địa phương phải đóng góp 1/5 binh mã cho chính quyền trung ương. Có lẽ do lệ đó mà dưới thời nhà Đinh cống sứ qua lại khá “rộn ràng”. Năm 975 mùa xuân sai Trịnh Tú đem vàng lụa, sừng tê, ngà voi sang cống; mùa thu năm ấy Tống sai Hồng lô tự khanh Cao Bảo Tự dẫn đầu bọn Vương Ngạn Phù đem chế sách sang phong Việt vương Liễn chức Khái phủ nghi đồng tam ty, Kiểm hiệu thái sư, Giao Chỉ quận vương, đại diện cho nhà Đinh trong việc giao thiệp với thiên triều. Năm 976 vua Đinh sai Trần Nguyên Thái sang nhà Tống đáp lễ; năm 977 lại sai sứ sang mừng Tống Thái Tông lên ngôi.

Việc bang giao với nhà Tống đang có chiều thuận lợi thì năm 979 nội bộ nhà Đinh xảy ra chuyện tranh giành ngôi kế vị, mùa xuân Đinh Liễn giết em nhỏ là Hạng Lang, vì Lang được phong làm Thái tử, đến mùa đông thì cả hai cha con Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn đều bị Đỗ Thích giết hại. Đinh Toàn mới sáu tuổi nối ngôi, Thập đạo lường quân Lê Hoàn nhiếp chính; lòng người hoang mang nghi ngờ, một số nhóm dấy binh đánh Lê Hoàn.

Nhà Tống nhân cơ hội muốn thôn tính nước ta, định đem quân “đánh úp” tạo thế bất ngờ “sét đánh không kịp bưng tai”. Trong tình thế bối rối Lê Hoàn được một số đình thần suy tôn lên ngôi vua thay thế nhà Đinh. Dương Thái hậu cũng thuận tình, đem trao cho áo long bào. Nhà Tống chưa nắm rõ tình hình, tập trung quân, sai Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng, Hác Thủ Tuấn, Trần Khâm Tộ, Thôi Lượng, Lưu Trừng, Giả Thực. Vương Soạn điều binh chia đường sang đánh.

Bức thư tuyên chiến do Lư Đa Tốn đem sang do Vương Vũ Xứng, một nhà văn nổi tiếng của nhà Tống viết, thể hiện tư tưởng nước lớn kỳ thị dân tộc và lời lẽ rất ngạo mạn. Đại ý bức thư nói: Trung Hoa và tứ di như thân thể và tứ chi. Tứ chi vận động là do tim chỉ huy. Nếu một bộ phận nào hoạt động không thông suốt, thì phải thuốc thang thậm chí châm chích để chữa cho khỏi, biệt là đau đớn nhưng phải làm để giúp các rợ được hưởng nền giáo hoá. Nhà Tống đã làm thế với các miền đất Kinh, Thục, Tương, Đàm, Quảng, Việt, Ngô, Sở. Giao Chỉ “ở xa cuối trời”, với Trung Quốc chỉ như ngón chân ngón tay đối với thân thể người ta, nhưng “tuy chỉ một ngón bị đau, bậc thánh nhân lại không nghĩ đến hay sao? Cho nên phải mở lòng ngu tối của ngươi để thánh giáo của ta được trùm toả, ngươi có theo chăng?... Nay thánh hiền lòng nhân trùm khắp muôn nước, cơ nghiệp thái bình kể cũng đã thịnh. Lễ phân phong đã sắp đặt sẵn, còn đợi ngươi đến chúc sức khoẻ của ta. Ngươi đừng ru rú trong bốn góc nhà, khiến ta buồn phiền, phải giao ấn phù cờ tiết, làm cỏ nước ngươi, hối sao cho kịp...”.
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #118 vào lúc: 19 Tháng Hai, 2009, 10:41:18 pm »

Lê Hoàn cần có thời gian để củng cố nội bộ, chuẩn bị lực lượng và có thể gây thế bất ngờ với quân địch, đã lấy danh nghĩa Đinh Toàn gửi thư xin được nối ngôi cha, cốt để hoãn binh. Lời thư rất nhún nhường, vừa nêu “lòng thành thờ bề trên”, vừa trình bày tình thế “bất đắc dĩ phải tự tiện” nối ngôi khi chưa được phép thiên triều. Đại Việt sử ký toàn thư và An Nam chí lược chép tờ biểu đại để giống nhau:

 “…Trước kia cha thần là Bộ Lĩnh, anh là Liễn, đều được ơn vua, phong cho chức tước. Kính cẩn giữ gìn bờ cõi, không hề trễ nải. Nhưng chưa lập được công lao, bỗng đã xảy ra biến cố. Lúc y cửa nhà sắp sụp đổ, thần đang cư tang, mà quân dân tướng lại, kỳ lão họ hàng đã kéo đến chỗ nằm rơm gối đất, cùng xin thân tạm coi việc quân lữ. Thần từ chối ba bốn lần: nhưng họ nài ép khẩn thiết. Thần muốn đợi tâu bày. nhưng lại lo nếu để chậm trễ, bọn mọi rợ nơi khe động hung tợn tráo trở, trái ý họ sẽ sinh biến. Cho nên thần đã kính quyền giữ chức Tiết chế hành quân tư mã, trông coi việc quân trong châu. 

Cúi mong được chính thức lĩnh mệnh, đủ được dự hàng phiên bang, để yên ủi tấm lòng tận trung của kẻ tôi mọn, nêu cao thịnh điển ban khen của thánh triều...”.

Nhà Tống đang muốn nhân cớ vua tự tiện xưng đế đổi niên hiệu để đem quân thôn tính nước ta nên sai sứ sang đưa ra hai giải pháp, yêu cầu chọn một, đó là hoặc Đinh Toàn thống soái, Lê Hoàn làm phó, hoặc đưa mẹ con Đinh Toàn sang quy phục, nhà Tống sẽ trao tiết việt cho Lê Hoàn. Cả hai cách đều nhằm ép Lê Hoàn vào thế phải chịu sự điều khiển của nhà Tống.

Lê Hoàn không chịu, vì thế tháng ba năm 981 quân Tống đánh sang. Như sử sách đã ghi chép, lần này quân Tống đại bại, tướng tá kẻ bị chết, kẻ bị bắt, kẻ về được cũng bị xử tội, thậm chí như Tôn Toàn Hưng bị bêu đầu ở chợ. Tính ra mười tướng chỉ huy trong chiến dịch này thì 2 tướng bị bắt, 1 tướng chết trận, 4 tướng bị xử tội chết, 2 tướng còn lại cũng bị tội, quân lính thương vong rất nhiều.

Mặc dù chiến thắng rất lẫy lừng nhưng hai năm sau, 983, Lê Hoàn lại sai sứ sang nhà Tống thông hiếu, cống các sản vật quý như vàng bạc, tê ngưu và voi. Năm 985 lại sai sứ sang cống rùa vàng, hạc, lư hương, ngà voi và một vạn cây lụa trắng để mừng tiết Càn minh đồng thời xin được lĩnh chức Tiết độ sứ ở phiên trấn.

Tháng mười âm lịch năm 986 theo Đại Việt sử ky toàn thư nhà Tống sai Tả bổ khuyết Lý Nhược Khuyết và Quốc tử giám bác sĩ Lý Giác mang chế sách sang phong cho Lê Hoàn làm An Nam đô hộ Tĩnh hải quân Tiết độ sứ kinh triệu quận hầu. Về chức tước cụ thể, An Na chí lược ghi kỹ hơn và có khác chút ít: kim tử Quang lộc Đại phu, Kiểm hiệu thái uý, Sử Trì tiết, Đô đốc chư quân sự, An Nam đô hộ, sung Tĩnh hải quân Tiết độ, Giao Châu quản nội Quan sát xử trí đẳng xứ, Thượng trụ quốc, Kinh triệu quận, Khai quốc hầu, thực ấp ba ngàn hộ, vẫn mang hiệu là Thôi Thành công thần.

Lời chế viết :“Đấng vương giả dựng ngôi cao, vỗ yên chư hầu. Dựng phủ đệ tại kinh sư, cho lễ hội đồng được long trọng; chia đất phong ở các nơi, để quyền tiết chế được nêu cao. Huống nay  từ cõi đất diều rơi đến dâng đồ cống lông chim trả. Lúc đang đổi tướng, dịp đáng phong hầu, không quên lòng cung thỉnh mệnh, bèn ban ân điển thưởng công. Nay Quyền Tri tam ty Lê mỗ, tư cách gồm nghĩa dũng, bẩm tính vốn trung thuần, được lòng người trong nước, kính giữ tiết phiên thần. Vừa rồi Đinh Toàn đương tuổi trẻ thơ, không biết cách vỗ yên dân chúng, ngươi là tâm phúc chỗ thân, giữ quyền coi quân lữ, hiệu lệnh ban phát, uy ái đều gồm. Họ Đinh bỏ quyền ba đời tiết sứ, chiều theo ý muốn mọi người. Người xa tỏ lòng thành, xin ban tiết việt Hãy như Sĩ Nhiếp sáng suất, đổi tục Việt đều hay; Uý Đà cung kính thuận lòng, vâng chiếu Hán chẳng trái. Nên xứng chức đứng đầu cõi xa, cùng dự hàng chư hầu tôn quý. Vỗ yên man di bộ lạc, tuyên dương đức tốt vương triều.”
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #119 vào lúc: 19 Tháng Hai, 2009, 10:43:14 pm »

Như vậy trên mặt trận ngoại giao, Lê Hoàn cũng đã thắng lợi, nhà vua đã đạt được mọi yêu cầu của mình, nhà Tống không còn có thể mượn danh nghĩa “bảo vệ” phiên thần là nhà Đinh, bảo vệ kỷ cương trung nghĩa “chữa ngón tay đau’ như lời Vương Vũ Xứng, để thực hiện dã tâm xâm chiếm nước ta nữa. Đương nhiên để có được kết quả này điều cốt yếu là do trận đại thắng bốn đạo quân xâm lược của nhà Tống năm 981. 

Lê Hoàn là nhà cầm quân đại tài đồng thời cũng là một nhà ngoại giao “sừng sỏ”. ông nhìn nhận rất rõ những vấn đề nào thuộc về nguyên tắc không thể nhượng bộ dù chỉ là một ly, nhưng điều nào thứ yếu, thậm chí chỉ là cái danh hão bề ngoài thì ông hào phóng chấp nhận, biếu cống còn rất hậu hĩnh. Có thể nghĩ “của nhiều nói ngọt” cũng là một kế sách của Lê Hoàn trong cuộc đấu trên trận tuyến không có gươm khua ngựa hý này.

Đặc biệt trong lần tiếp sứ Lý Giác và Lý Nhược Chuyến năm 986 Lê Hoàn đã bố trí rất bài bản. Một mặt ông tiếp đãi sứ rất hậu vừa để tỏ thịnh tình vừa để khoe sự giàu có của đất nước, “hàng ngày đem những thứ quý lạ bày chật cả sân”. Mặt khác cũng cố ý cho sứ giả thấy sức mạnh quân sự và sự hiểm trở của non sông mình. ông an ủi sứ giả: “Nước tôi bé nhỏ, sông núi xa xôi, nghìn dặm cách trở, ở lánh góc đất, sứ thần đi lại lặn lội núi sông, há chẳng khó nhọc lắm ư?”

Ông cho trao trả hai tướng Quách Quân Biện và Triệu Phụng Huân bị bắt từ năm 981 rồi sai sứ sang đáp lễ, lại cống vàng bạc thổ sản. Năm sau 987, nhà Tống lại sai Lý Giác sang, không rõ mục đích của chuyến đi này, (An Nam chí lược cũng không thấy ghi?). Vì Lý Giác là một học quan, kiến thức uyên thâm nên vua Lê Đại Hành cũng đặc biệt chú trọng việc gây ấn tượng với sứ giả, rằng An Nam là một nước văn hiến.

Đại Việt sử ký toàn thư ghi nhà vua đã bố trí sư Pháp Thuận giả làm người chở đò ra đón Lý Giác. Câu chuyện hai người đã mượn bài thư Vịnh ngỗng của Lạc Tân Vương đời Đường để nối vần đối đáp với nhau nhân có hai con ngỗng bơi trên mặt sông, đã khiến Lý Giác rất thích thú và bị chinh phục đã trở thành giai thoại thú vị trong bang giao và văn học. Sau đó, về sứ quán Lý đã làm một bài thư gửi tặng ngỏ ý “tôn bệ hạ không khác gì vua Tống” như lời giải mã của Khuông Việt đại s. Bài thư như sau:

Hạnh ngộ minh thì tán thịnh du,
Nhất thân nhị độ sư Giao Châu
Đông Đô lưỡng biệt tâm lưu luyến,
Nam Việt thiên trùng vọng vị hưu
Mã đạp yên vân xuyên lãng thạch ,
Xa từ thanh chướng phiếm trường lưu
Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiêú,
Khê đàm ba tĩnh kiếm thiềm thu.


(May gặp thời bình được giúp mưu,
Một mình hai lượt sứ Giao Châu.
Đông Đô mấy độ còn lưu luyến,
Nam Việt nghìn trùng vẫn ước cầu.
Ngựa vượt khói mây xuyên đá chởm,
Xe qua rừng biếc vượt dòng sâu.
Ngoài trời lại có trời soi nữa,
Sóng lặng khe dầm bóng nguyệt thâu.)


Khi Lý Giác từ biệt ra về, vua lại sai Khuông Việt làm một bài từ theo điệu Vương lang quy để tiễn:
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM