Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 04:57:12 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Vụ ám sát Ngô Đình Diệm và J.F.Kennedy  (Đọc 49226 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
Russian Weapons
Thành viên
*
Bài viết: 636


« vào lúc: 29 Tháng Giêng, 2009, 04:05:34 pm »

Tác giả: Bradley S. O'Leary & Edward Lee.
Dịch giả: Phạm Viêm Phương, Mai Sơn.
Nguồn: sachhiem.



Lời tác giả


  Bạn có biết rằng John F. Kennedy (JFK) đã chuẩn bị việc lật đổ chính phủ công giáo ở Nam Việt Nam?

  Nếu bạn có kiến thức trực tiếp về các nguồn cội của chiến tranh Việt Nam, có lẽ bạn không tin vào tuyên bố trên, và có lẽ bạn không tin vào nó cho dù bạn hầu như chẳng biết gì về cuộc chiến tranh này. Quốc gia Việt Nam, sau cùng, là đồng minh của chúng ta. Vì lý do gì mà Kennedy lại phải ủng hộ việc lật đổ một lãnh tụ đồng minh?

  Chúng ta đang nói về một người có tên là Ngô Đình Diệm. Ông ta đã là tổng thống của Nam Việt Nam được chín năm. Hầu hết các sách lịch sử đều nói với chúng ta rằng JFK ủng hộ Diệm, và đã ủng hộ suốt nhiều năm. Chính vì Diệm và JFK cam kết sử dụng quân đội Mỹ, quân cụ Mỹ, và hàng triệu đô la từ tiền thuế của dân Mỹ trong một nỗ lực nhằm giúp Nam Việt Nam thoát khỏi mối đe doạ của cộng sản. Diệm là đồng minh của chúng tôi, nên thật sự vô lý khi tin rằng Kennedy muốn lật đổ ông ta. Thế nhưng Diệm đã bị lật đổ và lập tức bị giết chết.

  Ba tuần sau cái chết của Diệm, chính Kennedy cũng bị ám sát. Bây giờ có một chủ đề mà tất cả chúng ta đều nghe nói tới: cái chết của JFK, một sự cố có lẽ là ám sát bí ẩn nhất của mọi thời đại. Hàng chục giả thiết đã phát triển quanh vụ ám sát Kennedy trong gần bốn mươi năm qua, tuy rằng chỉ có hai cuộc điều tra chính thức đã được tiến hành.

  Những uỷ ban điều tra này của Chính phủ Mỹ đã nói với bạn nhiều chuyện. Bạn được nghe nói rằng chỉ một tay súng đơn lẻ có tên Lee Harvey Oswald là kẻ ám sát. Bạn cũng nghe nói là chỉ có hai phát súng trúng đích vào ngày 22.11.1963 đó, và có một phát bắn hụt. Bạn đã nghe nói rằng những phát đạn bắn ra ngày hôm đó đều xuất phát từ tầng sáu của Kho sách Giáo Khoa Texas. Bạn đã nghe nói rằng JFK bị giết bởi vì ông đang chuẩn bị rút toàn bộ quân đội Mỹ ra khỏi Việt Nam

  Tất cả những điều mà bạn được nghe nói đó đều sai sự thật, nhưng cuốn sách này sẽ tiết lộ sự thật đích thực. Sách này sẽ giải thích rằng Robert Kennedy không muốn cho điều tra về cái chết của ông anh mình vì việc đó có thể phơi bày chuyện ông ta, JFK, và toàn bộ Nhà Trắng dưới thời Kennedy, đã vạch ra các kế hoạch hành động nhằm ám sát Fidel Castro sau vụ xâm nhập Vịnh Con Heo, nhưng chỉ vài ngày trước khi bị ám sát, tổng thống đã bí mật lập kế hoạch tiến hành việc lật đổ và sau cùng hạ sát các lãnh tụ theo đạo Thiên chúa giáo của Nam Việt Nam và trao chính quyền cho một tập đoàn tướng lĩnh theo đạo Phật. Bạn sẽ thấy rằng bộ não của JFK – một vật chứng quan trọng có giá trị pháp lý – đã bị một Đô đốc Hải quân Mỹ đánh cắp, theo lệnh của Robert Kennedy.

  Chúng tôi hy vọng bạn biết ra nhiều điều do đọc cuốn sách này.

  Những tài liệu được giải mật gần đây liên quan đến chiến tranh Việt Nam, KGB, Mafia Mỹ, Mật vụ Pháp, và tập đoàn ma tuý quốc tế đã rọi một luồng sáng mới đáng quan tâm vào những sự kiện chung quanh vụ ám sát JFK ngày 22.11.1963. Những tài liệu này đưa ra vô số những mảnh rời mới khớp với câu đố có từ gần bốn mươi năm qua đã kết thúc cuộc đời của vị tổng thống được yêu thích nhất của nước Mỹ.

  Sau đây là một số điều mà bạn sẽ biết được từ cuốn sách này:

  Đích thân trùm Mafia Carlos Maecello đã gặp Jack Ruby và Lee Harvey Oswald, và y ta, Marcello, đã nói lộ ra một cách có thể xác minh với các quan chức Liên bang rằng y đã trực tiếp dính líu vào vụ ám sát Kennedy.

  Mỹ và Liên Xô đều báo động quân sự khẩn cấp ngay sau cái chết của JFK, tránh cho nhân loại một cuộc huỷ diệt hạt nhân trong đường tơ kẽ tóc.

  JFK đã đích thân yêu cầu một sĩ quan cao cấp trong Quân đội Mỹ tiến hành ám sát Tổng thống Diệm.

  Nhưng quan trọng hơn tất cả nhiều điều đó, cuốn sách này sẽ cho bạn thấy một tài liệu của CIA mà nó có thể là bằng chứng gây chấn động nhất từng nảy sinh từ mớ bòng bong quanh cái chết của JFK.

  Tài liệu này xác định rằng một tay ám sát quốc tế đã bị chính quyền Dallas, bang Texas bắt giữ trong vòng chưa tới hai ngày sau khi Kennedy bị bắn, và thay vì tống giam người này, các cơ quan công quyền đó đã bí mật đưa tay ám sát đó ra khỏi lãnh thổ Mỹ và trả tự do cho y.

  Chúng tôi sẽ trình cho các bạn thâý tài liệu đó cùng nhiều thứ khác nữa, và rồi chúng tôi sẽ trình bày giả thiết của mình cùng tất cả những mối liên hệ đáng tin đã nối kết chặt chẽ những thông tin trên để kết luận rằng hợp đồng giết tổng thống Kennedy không xuất phát từ CIA hay liên minh quân sự – công nghiệp mà từ một sự hợp tác giữa Mafia Mỹ, tập đoàn bạch phiến Pháp, và chính quyền Nam Việt Nam.


Tháng 7.2000

BRADLEY S.O’LEARY & EDWARD LEE


Logged
Russian Weapons
Thành viên
*
Bài viết: 636


« Trả lời #1 vào lúc: 29 Tháng Giêng, 2009, 04:08:56 pm »

MỘT CHÀNG TRAI HỐI HẢ

“Đừng đòi hỏi tổ quốc làm được gì cho bạn…” - JOHN F.KENNEDY


  Những năm đầu thập niên 60 là những năm đầy biến động đối với nước Mỹ. Chỉ cách bờ biển Florida chín mươi dặm, Cuba nằm trong tay một nhà cộng sản lập dị. Một cuộc chiến tranh “lạnh” mới lạ giữa Mỹ và Liên Xô đang xảy ra, Thế chiến thứ 3 có vẻ như chực bùng nổ. Kinh tế biến động, và những bất ổn chủng tộc đang sục sôi. Nước Mỹ không ổn

  Vào năm 1960, một Thượng nghị sĩ trẻ trực tính của bang Massachusetts tên là John Fitzgerald Kennedy trở thành tổng thống thứ 35 của nước Mỹ. Ơû tuổi 43 ông là người trẻ tuổi nhất, người Thiên chúa giáo đầu tiên và duy nhất từ trước đến nay được bầu vào cương vị này. Kenned hứa hẹn với dân chúng Mỹ một Biên cương mới, và trong một nghĩa nào đó ông đã cho họ đúng điều đó. Ông cho nước Mỹ cái mà nó cần nhất lúc đó : hy vọng.

  Vụ ám sát ông ở Dallas, ngày 22.11.1963 sẽ trở thành cái mà hầu hết mọi người đều coi là tội ác của thế kỷ, nếu không muốn nói đó là vụ ám sát gây biến động lớn nhất trong lịch sử. Nhưng cũng chính vụ ám sát đó đã gieo quá nhiều bóng tối lên cuộc đời thực của con người này. Khi một người bình thường nghĩ tới Kennedy, trong đầu họ lập tức hiện lên vụ ám sát. Nhưng chúng ta hãy để cho họ có cái quyền đó trước đã. JFK đạt được nhiều thành công trước và trong suốt 1.037 ngày làm tổng thống, nhưng đa số những thành công này đã bị che khuất bởi cái chết chấn động của ông.

  Ngay cả trước khi bắt đầu sự nghiệp chính trị, Kennedy đã chứng tỏ tài năng quyết đoán và lãnh đạo của mình trong Thế chiến thứ 2. Khi chiếc tàu ngư lôi tuần thám của Kennedy bị một tàu khu trục của Nhật đánh chìm gần đảo Solomon, JFK đã dũng cảm đưa thuỷ thủ đoàn sống sót về đến bến an toàn. Do hành động anh hùng này, vị tổng thống tương lai được tặng các huy chương của Hải quân và Thuỷ quân lục chiến.

  Trên phương diện chính trị, Kennedy là người chống cộng kiên định, mặc dù ông công khai chỉ trích – rất ngược lại với những ý muốn của cha ông – chủ trương “Tìm và Diệt bọn Đỏ” của Thượng nigh sĩ bang Wisconsin Joseph McCarthy, người đã trở nên nổi danh với những chiến dịch khai trừ đầu những năm 50. JFK là tác giả có sách bán chạy nhất; cuốn sách triển khai luận văn đại học của ông, Why England Slept (“Tại sao nước Anh ngủ”), xuất bản năm 1940, đưa ra tài liệu cho thấy Vương quốc Anh không có khả năng thích hợp trong việc chuẩn bị tham gia Thế chiến 2. Cuốn sách bán rất chạy và đưa chàng trai John Kenendy vào danh sách best-seller. Một thành công không nhỏ cho một cậu thanh niên hăm ba tuổi.

  Cuốn sách tiếp theo của JFK, Profile in Courage (“Những chân dung của lòng dũng cảm”), thậm chí còn thành công hơn vào năm 1957 khi nó được trao giải thưởng cao quý Pulizer. Cuốn sách miêu tả các lãnh tụ chính trị đương thời, và phần lớn cuốn sách được JFK viết trong thời gian tập luyện hồi phục sau lần mổ lưng nguy kịch.

  Kennedy đắc cử vào Hạ nghị viện Mỹ ba nhiệm kỳ liên tiếp (1947-53), và rồi tiếp tục giành được ghế thượng viện ở Massachussetts, hoàn toàn đánh bại ứng cử viên Đảng Cộng hoà Henry Cabot Lodge, một người chống đạo Công giáo và rất cứng rắn. JFK có vẻ là một mẫu người chinh phục mới , quật ngã tất cả các đối thủ ngay tại chỗ bằng tài nói chuyện hùng biện sắc gọn, và sự thành thạo các vấn đề được cử tri quan tâm nhất. Một nhà báo thậm chí đã mô tả ông là “Một chàng trai hối hả”(1) [(Encyclopedia Britannica, Kennedy, John Fritzgerald)] một cách nói không thể nào thích hợp hơn : Jack Kennedy dấn thân vào sự nghiệp chính trị như một người chạy nước rút vượt qua mọi chướng ngại, không bao giờ giảm tốc độ để quay nhìn lại. Tiếng tăm càng ngày càng lên cao, và năm 1958, ông đắc cử Thượng nghị sĩ nhiệm kỳ thứ hai tại Massachussets với số phiếu chênh lệch lớn nhất so với bất kỳ cuộc chạy đua nào vào Thượng viện năm đó.

  Quả thật Kennedy chưa bao giờ thất cử.

  Trong vai trò tổng thống, ông luôn đối đầu với những vấn đề gai góc, ông tán thành việc cải cách quyết liệt các quyền dân sự, ủng hộ Mỹ chạy đua vào không gian, gây sức ép buộc Pháp trao trả độc lập cho Algeria. Ông tuyên chiến với những kẻ thù chung của con người: “…độc tài, đói nghèo, bệnh tật, và bản thân chiến tranh”(2) [(sđd)] và không một người Mỹ nào quên được bài diễn văn “Đừng đòi hỏi” lừng danh của ông.

  Những công trạng nào nữa? Đa số những độc giả am hiểu đều biết rằng JFK là người lập ra Đội Hoà Bình, nhưng mấy ai biết ông cũng chính là người lập ra Liên Minh Vì Sự Tiến Bộ, một tổ chức lôi cuốn công chúng giành sự giúp đỡ và khích lệ cho Châu Mỹ La Tinh? Bạn có biết Kennedy cũng đã ký hiệp ước đầu tiên cấm thử vũ khí hạt nhân? Và bạn có biết, dù là người của Đảng Dân Chủ phóng khoáng, Kennedy vẫn coi một trong những việc mạo hiểm lớn nhất của mình là chương trình cắt giảm thuế một cách sâu rộng? Thậm chí người ta còn cho rằng chiến dịch cắt giảm thuế trên quy mô rộng lớn của Kennedy, dẫn đến sự tăng trưởng kinh tế kỳ lạ, cuối cùng đã tỏ ra là một kiểu mẫu cho trước những luận thuyết cắt-giảm-thuế bảo thủ của những năm đầu thập niên 80 vốn đã giảm hẳn lạm phát và thất nghiệp, và trên thực tế, nó đã tạo thêm nguồn thu cho chính phủ bằng cách tăng thêm nhiều việc làm. (Rất tiếc, mặc dù cố vận động cho biện pháp này tại Quốc hội, Kennedy đã chết trước khi nó trở thành luật, và hầu hết những công trạng lịch sử của bước đi táo bạo này – cũng như cải cách về các quyền dân sự của Kennedy – sẽ rơi vào tay người thừa nhiệm không thích hợp của ông, Lydon Baines Johnson).

  JFK thực sự là “một chàng trai luôn hối hả.” Nhưng điều duy nhất mà ông thực sự hối hả hướng đến lại là cái chết của ông ta, vì với tư cách tổng thống, ông sẽ phải thừa kế một gánh nặng gay go hơn bất cứ điều gì khác....Việt Nam
Logged
Russian Weapons
Thành viên
*
Bài viết: 636


« Trả lời #2 vào lúc: 29 Tháng Giêng, 2009, 04:12:21 pm »

NGUỒN GỐC CỦA HỖN LOẠN


“Tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng.
Tạo hoá ban cho họ một số quyền bất khả nhượng” - HỒ CHÍ MINH, 1945



  Thực sự là có nhiều cuộc chiến tranh Việt Nam, và nếu từng có một nền văn minh nào đã sớm nếm trải xung đột bạo lực, thì đó là văn minh Việt Nam. Chiến tranh là một phần của cuộc sống cứ như việc sinh ra và chết đi vậy. Xuất xứ của người Việt có lẽ là ở gần Đồng bằng Sông Hồng, ngày nay gọi là miền bắc của quốc gia này, cách đây khoảng ba ngàn năm. Sự cố kết của nền văn hoá nguyên thuỷ của họ, theo nhiều nhà nhân chủng học, có thể nhận dạng được qua nghệ thuật sơ khai, tục xâm mình, và thói quen ăn trầu (một chất kích thích như cà phê), đến nay vẫn còn và để lại những vết ố trên răng. Tự điển Encyclopedia Britanica nêu rõ:

  “Mặc dù văn minh Trung Quốc về sau trở thành một ảnh hưởng chính, nhưng việc người Trung Quốc đã không đồng hoá được người Việt Nam đã cho thấy những yếu tố mạnh mẽ của văn hoá bản địa xác thực đã xuất hiện ở thung lũng Sông Hồng từ rất lâu trước khi Trung Quốc thiết lập nền đô hộ một ngàn năm của họ ở Việt Nam”.

  Thật vậy, chính Trung Quốc đã tiến hành những cuộc chiến tranh đầu tiên xâm lăng Việt Nam; Trung Quốc rất quan tâm đến đất đai màu mỡ của đồng bằng Sông Hồng và việc sử dụng nó như một thương cảng. Lúc ấy người Trung Quốc đã dại dột tìm cách nô lệ hoá người Việt Nam vì những mụch đích riêng của họ đồng thời tìm cách thay thế văn hoá và tín ngưỡng Việt Nam bằng văn hoá và tín ngưỡng riêng của họ. Nỗ lực này không thành, và vào năm 40 sau công nguyên, hai chị em người Việt – Trưng Trắc và Trưng Nhị – đã khởi binh đánh tan các đạo quân Trung Quốc chiếm đóng và giành độc lập trọn vẹn cho Việt Nam trong ba năm. Đó không phải là một thành tích tồi đối với một nền văn hoá nhỏ bé đương đầu với con rồng vĩ đại Trung Quốc.

  Cuộc nổi dậy đầu tiên chống lại nền chuyên chế của một nước lớn đó chỉ là khởi đầu cho nhiều cuộc nổi dậy khác. Qua nhiều thế kỷ. Trên thực tế, sau này nhân dân Việt Nam sẽ bị Trung Quốc đô hộ…nhưng họ không bao giờ ngừng tranh đấu giữ gìn bản sắc riêng của mình, cũng không bao giờ chịu thống trị hoàn toàn trước nền thống trị của Trung Quốc. Sự yêu chuộng tinh thần Việt Nam đích thực đã bắt đầu như thế. Dù bị đàn áp nặng nề tới đâu, họ không bao giờ thôi chiến đấu chống lại những kẻ áp bức, họ không bao giờ đầu hàng. Gia đình và văn hoá của họ là những ưu tiên hàng đầu, và ngay cả khi bị người Trung Quốc cai trị hà khắc, họ vẫn trui rèn kỹ năng đề kháng của mình. Chính những kỹ năng này sẽ được mài sắc thêm mãi cho đến khi họ giành được độc lập hoàn toàn hai ngàn năm sau đó.

  Họ không bao giờ đầu hàng.

  Vào cuối những năm 1850, một thế lực đàn áp mới xuất hiện. Nước Pháp, với vũ khí tối tân và chiến lược quân sự tốt hơn, đã tuyên bố quyền cai trị của mình trên quốc gia này, họ dùng tới danh Chúa Trời để tìm kiếm thương trường cực kỳ cần thiết ở nước ngoài. Nước Pháp đã mất mười sáu năm để áp đặt thành công quyền lực đế quốc lên những vùng đất mà họ gọi là thuộc địa Đông Dương, ngày nay là Việt Nam, Campuchia và Lào. Tuy nhiên, Việt Nam là nơi người Pháp cai trị cứng rắn nhất, và họ đã cố tình chia cắt quốc gia này thành những vùng thuộc địa tách rời nhằm làm tiêu tan tính bản sắc văn hoá của dân chúng. Những toàn quyền người Pháp tàn bạo đến đây để Aâu hoá nền văn hoá “man rợ” và khai thác những tài nguyên của vùng đất này – tất cả vì “Nước Pháp Toàn Cầu”. Nơi đây là món nợ của người da trắng : nạn cưỡng dâm, cướp bóc, nô dịch, làm việc tới chết để tìm cao su và ngà voi. Bất cứ nơi nào có sự phản kháng, quân Pháp liền được phái tới để “bình định”, để lại những mặt đường đẫm máu. Người dân địa phương nào không chết vì súng đạn sẽ bị đối xử như những kẻ phản bội và bị xử trảm nơi công cộng. Không có gì là thành kiến khi nói rằng người Pháp rất đáng chê trách trong việc đối xử với người “Đông Dương”. Người Pháp đã tự cho thấy họ là những kẻ tra tấn ghê tởm đối với một dân tộc chỉ muốn sống và được tự do như những dân tộc khác, nhưng rồi dân tộc đó chỉ được nhồi nhét giáo lý Công giáo và chết đói vì không đạt được những chỉ tiêu xuất khẩu qua Pháp. Từ những năm 1860 đến những năm 1940, hàng ngàn người chết trong khi làm đường bộ, đường xe lửa, xưởng tàu, và kênh đào. Hàng ngàn người khác chết trong các hầm mỏ, những cánh đồng và kênh mương thuỷ lợi. Những người Việt Nam chết vì đói khát hay kiệt sức trên những đồn điền cao su thường được chôn gần các gốc cao su – một thứ phân bón không tốn tiền – và khi những người nông dân van xin giảm thuế trong lúc đói kém, người Pháp đã từ chối. Đau ốm trong các nhà máy xi măng và xưởng dệt, người công nhân thường bị bỏ mặc cho chết không thuốc men chữa trị, người ta sẽ thay họ bằng người làm công mới, và đó được coi là hiệu quả cao.
Những người Pháp bóc lột không ngừng quất ngọn roi của chủ nghĩa thực dân một cách tàn nhẫn lên lưng người dân Việt Nam… cho đến khi một kẻ mạnh hơn chen chân vào.

  Quân đội Nhật.

  Tháng 9. 1940, sau khi Pháp đầu hàng Phát xít Đức, vị toàn quyền Pháp ở Việt Nam cho phép Nhật đưa 30.000 quân vào tiếp quản các sân bay để sử dụng vào mục đích quân sự chống lại các nước Đồng minh (3) [(Encyclogpedia Britannica, Vietnam, History)]. Khi người nông dân van xin giảm thuế vì hạn hán, người Pháp đã từ chối, còn người Nhật thì nhún vai bởi vì hợp đồng cộng tác giữa họ với người Pháp không dính dáng đến bất cứ chuyện cai trị nào đối với dân bản xứ. “Hãy mang đơn kiện tới chỗ người Pháp,” họ nói vậy với nông dân. Cuối cùng thì hạn hán đã dẫn tới nạn đói làm chết gần hai triệu người Việt Nam trong lúc người Pháp và người Nhật vẫn ăn uống ngon lành. Lượng gạo dư thừa có thể cứu sống những người đang hấp hối đã được đem xuất khẩu sang Nhật, và người Pháp không phản đối. Chừng nào người Nhật còn được sung sướng, quyền cai trị của Pháp vẫn không bị sứt mẻ. Nói cách khác, bằng cách nhân nhượng người Nhật ở Việt Nam, người Pháp đã trực tiếp ủng hộ một cường quốc phe Trục có liên minh với Phát xít Đức, cũng chính là guồng máy quân sự đã diễu hành đắc thắng trên các đường phố Paris.

  Nói rằng người Pháp khom mình liếm gót thì quả cũng không ngoa chút nào. Và họ sẽ tiếp tục liếm gót cho tới khi cuộc chiến tranh sắp sửa kết thúc, lúc ấy người Nhật, nhận ra tình thế khó khăn cuả mình, sẽ tống tất cả lính tráng Pháp vào tù để đề phòng một cuộc nổi dậy. Nhưng vào lúc này có nhiều người khởi nghĩa hơn – những người khởi nghĩa bản xứ – chống lại sự áp bức của cả Pháp lẫn Nhật. Việt Minh là tên gọi của một nhóm dân quân du kích được tổ chức tốt và lập tức được cả nước đứng sau lưng. Đứng đầu nhóm là người sau này trở thành vị lãnh tụ duy nhất từng giành thắng lợi trong một cuộc chiến tranh chống lại người Mỹ: Hồ Chí Minh.


Logged
Russian Weapons
Thành viên
*
Bài viết: 636


« Trả lời #3 vào lúc: 29 Tháng Giêng, 2009, 04:13:23 pm »

  Thế nhưng có một sự thật ít người biết rằng, vào cuối Thế chiến 2, Hồ Chí Minh là bạn đồng minh của nước Mỹ, hoặc ít nhất ông ta đã đi đến chỗ tin rằng như thế. Đầu tiên, Tổng thống Roosevelt tuyên bố mạnh mẽ chống lại chủ nghĩa đế quốc và sự áp bức ở Châu Á, và Hồ Chí Minh tin ông ta. Hãy nhớ rằng, Hồ Chí Minh lúc bấy giờ chưa phải là một người cộng sản thực sự, nhiệt tình của ông là tinh thần ái quốc thuần tuý, là tìm cách lật đổ hoàn toàn nền thống trị đế quốc trên đất nước, giành lại Việt Nam cho người Việt Nam. Ngay cả khi chiến thắng của phe Đồng minh trong thế chiến 2 đã trở nên chắc chắn, thì sự hiện diện của quân Nhật tại Việt Nam cũng gây ra nhiều vấn đề, và các gián điệp Mỹ, Anh được gởi đến để giải quyết. Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh chủ động đánh cắp các kho lương thực của người Nhật đồng thời giải thoát các tù nhân và những phi công Đồng minh bị rớt máy bay. Ngày nước Nhật chính thức đầu hàng sau khi hai thành phố Hiroshima và Nagasaki bị thả bom nguyên tử, vẫn còn 100.000 quân Nhật tại Việt Nam, và chính Hồ Chí Minh là người đã hết lòng giúp đỡ người Mỹ bằng cách chỉ rõ những vị trí trú đóng của quân Nhật cho nhóm OSS của Mỹ, lập tức người Mỹ thông báo điều này cho người Anh là nước chịu trách nhiệm giải giới quân đội Nhật.

  Tin tưởng là có sự giúp đỡ của chúng ta, Hồ Chí Minh chính thức tuyên bố đất nước độc lập – nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà – và thậm chí ông đã viết bản tuyên ngôn độc lập dựa trên tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ. Franklin Delano Roosevelt lúc ấy đã chết, Harry S. Truman thay ông làm tổng thống, nhưng khi Hồ Chí Minh yêu cầu Truman đưa ra sự ủng hộ chính thức của Mỹ, ông nhanh chóng nhận ra rằng những phát biểu ủng hộ Việt Nam của Franklin Delano Roosevelt mới đây bây giờ đã không còn được chính quyền mới ở Washington tôn trọng nữa. Truman phớt lờ những yêu cầu khẩn thiết của Hồ Chí Minh, và đã chỉ thị cho Bộ Ngoại Giao Mỹ phải làm mọi cách trong quyền hạn của mình để giúp phục hồi nước Pháp hậu chiến càng hiệu quả càng tốt, kể cả việc cho phép nước Pháp giành lại quyền coi ba nước Lào, Campuchia và Việt Nam là bộ phận của Đế Quốc Thuộc Địa Pháp.

  Miệng chửi tay đấm, người Anh đã rất xảo trá tái vũ trang cho quân Nhật và sử dụng họ để lật đổ chính quyền dân chủ mới tuyên bố ở một nưả phía nam của quốc gia này. Đối với Hồ Chí Minh – cũng như đa số dân chúng ủng hộ ông – đây là kịch bản cuối cùng trong trò lật lọng của phương tây. Hồ Chí Minh đã giúp chúng ta rất nhiều trước khi Thế chiến 2 kết thúc – ông đã cứu sống nhiều quân Đồng minh – vậy mà chúng ta đền đáp ông như thế. Chúng ta tái vũ trang chính những kẻ xâm lược mà ông đã giúp chúng ta tước vũ khí, và rồi chúng ta sử dụng vũ lực đó để tìm cách xoábỏ chính quyền hợp pháp của ông ta.

  Campuchia và Lào nhượng bộ; họ chấp nhận độc lập “cục bộ” trong “Liên Hiệp Pháp”. Nhưng Hồ Chí Minh không nhượng bộ. Ông chống lại nước Pháp mới hồi phục, và người Pháp cười nhạo. Người Pháp khoác lác nói rằng đội quân của ông Hồ sẽ bị quét sạch trong tám ngày.
Nhưng sau thời gian tám năm, đến năm 1954, người Pháp đã không quét sạch được cái gì khác ngoài sự ngạo mạn của họ. Cho dù có hai tỉ rưỡi đô la do Mỹ viện trợ để tái lập “thuộc địa” ở Việt Nam, người Pháp cũng đành thu xếp đồ đạc trở về nước sau thất bại thảm khốc tại cứ điểm quân sự Điện Biên Phủ. Quân Việt Minh nhanh trí hơn, giỏi chiến lược hơn, và thiện chiến hơn quân đội Pháp trên từng giai đoạn của cuộc chiến. Ông Hồ xẻo quân Pháp ra như xẻo một súc thịt. Đây là một tin chấn động, vì một trong những quốc gia chiến thắng trong Thế chiến 2 đã thất bại trước một đội quân được coi là nhỏ yếu lúc bấy giờ. Nhưng rõ ràng họ đã thất bại. Hồ Chí Minh đã phá huỷ hoàn toàn chủ nghĩa đế quốc của Pháp tại Việt Nam, thực vậy, sự kiện đó nghiêm trọng đến mức một hội nigh đa quốc gia đã được triệu tập dẫn đến Hiệp Định Geneva, theo đó nước Việt Nam sẽ tạm thời chia làm hai, lấy Vĩ tuyền 17 làm ranh giới, cho đến năm 1956 khi một cuộc tổng tuyển cử được tổ chức để quyết định quyền lãnh đạo đất nước sẽ đặt vào tay ai; một uỷ ban kiểm soát quốc tế sẽ giám sát cuộc tổng tuyển cử này và đảm bảo rằng sự thống nhất hai miền Nam và Bắc Việt Nam sẽ diễn ra công bằng, hợp pháp, và trong sạch. Hồ Chí Minh, lúc bấy giờ được coi là người lãnh đạo miền Bắc, phải chấp nhận những điều khoản của hiệp định.

  Bạn đoán được ai là người không chấp nhận?

  Chính quyền miền Nam được Mỹ hậu thuẫn (4) [(Dữ kiện lịch sử trong chương 2 lấy từ Encyclogpedia Britannica, mục “Vietnam, History and War”; Vietnam: A Televison History (1996) xuất phẩm hỗn hợp của WGHB Boston, Central Independent Televison/ Anh và Antenne-2 / Pháp và LRE Productions (VHS), tập 1)].

  Thời điểm lịch sử này của Việt Nam chính là gốc rễ mà từ đó sẽ sớm bùng phát sự hỗn loạn hoàn toàn, và hệ quả của sự bùng phát đó là một con người lập dị, độc thân, tự phụ và được Mỹ ủng hộ mạnh mẽ: Ngô Đình Diệm.
Logged
Russian Weapons
Thành viên
*
Bài viết: 636


« Trả lời #4 vào lúc: 29 Tháng Giêng, 2009, 04:25:38 pm »

CON BÙ NHÌN TỰ GIẬT DÂY


“Ngô Đình Diệm không muốn tổ chức tổng tuyển cử, và tôi cho rằng chúng ta nên ủng hộ ông ta trong chuyện này” - JOHN FOSTER DULLES.



  Ngoại Trưởng Mỹ(5) [(Tuyên bố của Ngoại trưởng J.F.Dulles, cho rằng Mỹ phải ủng hộ việc Diệm từ chối thi hành Hiệp định Geneva (điều khoản bầu cử toàn quốc năm 1956); được trích dẫn bởi Paul M.Kattenburg, nhân viên cao cấp của Bộ Ngoại Giao, trong Vietnam: A Televison History, “America’s Mandarin”)]

  Theo Hiệp Định Geneva, việc chia đôi đất nước Việt Nam được ấn định rõ ràng chỉ là tạm thời cho đến khi tổ chức một cuộc bầu cử toàn quốc. Cuộc bầu cử dự trù sẽ diễn ra hai năm sau đó (1956), đủ thời gian cho các đảng phái chính trị củng cố và tự quảng bá mình trước cử tri trong nước. Đảng cộng sản của Hồ Chí Minh ở miền Bắc kiên trì chờ đợi, trong khi đó tại miền Nam, CIA Mỹ hậu thuẫn Ngô Đình Diệm, một trí thức Công giáo; họ tin tưởng ông sẽ là một con bù nhìn hoàn hảo sẵn sàng đáp ứng mọi quyền lợi của người Mỹ. Trong lúc thịnh thời của “Chủ thuyết Domino”, đây là một việc rất hệ trọng. Hồ Chí Minh lúc này được Liên Xô và Trung Quốc ủng hộ mạnh mẽ, nên Mỹ cần một nhà lãnh đạo người Việt tương xứng ở miền Nam giúp Mỹ có được một chỗ đứng hợp pháp để tạo lực đối trọng với những người cộng sản.

  Vậy là Phái bộ Quân sự Sài Gòn được thành lập, có thể coi như một tổ chức cố vấn. Tuy nhiên trên thực tế nó là một vỏ bọc của CIA, và một trong những nhân vật chính của tổ chức đó, Đại tá Edward Lansdale, chịu trách nhiệm lo liệu sao cho Ngô Đình Diệm được dân chúng nhìn dưới một ánh sáng tích cực.

  Vào thời điểm đó, Ngô Đình Diệm là Thủ Tướng, làm việc dưới sự chỉ đạo của một con bù nhìn chính trị khác là Bảo Đại, người từng nhiều năm phục vụ cho Pháp với tư cách “hoàng đế”. Tuy nhiên Bảo Đại là một tay ăn chơi trác táng, một kẻ phàm ăn. Ông đã đốt phần lớn đời mình trong các buổi tiệc tùng ở Pháp trong khi tổ quốc ông quằn quại trong cơn hoạn lạc và đói kém. Nước Mỹ muốn rút Bảo Đại ra khỏi bàn cờ, nhưng trước khi làm được chuyện này, họ phải đối phó với những đối thủ chính trị của Ngô Đình Diệm.

  Landsdale bèn ra tay. Từng làm việc cho OSS (tiền thân của CIA), Lansdale là bậc thầy về chiến tranh tâm lý, và trong bản thành tích của ông có chuyện ông đã giúp nhà lãnh đạo Philippines, Ramon Magsaysay, dập tắt cuộc nổi loạn của cộng sản ở nước này. Landsdale là người hai mặt: bề ngoài ông tỏ ra mềm mỏng, hùng biện, điềm đạm, nhưng bên trong ông là con người hành động hung hăng và là bậc thầy về những trò lừa dối, những thủ đoạn dơ bẩn. Đặt chân đến Việt Nam vào tháng 6.1954, Landsdale đã gây ra một bầu không khí chống cộng dữ dội bằng cách tung ra nhiều tin đồn thất thiệt rằng Hồng Quân Trung Quốc đã đốt cháy nhiều xóm làng người Việt. Ông ta cũng thuê các thầy bói người địa phương để họ phán với khách hàng rằng ông Hồ Chí Minh chỉ có thể mang lại chết chóc và điêu tàn cho đất nước. (Người Việt Nam vốn rất mê tín dị đoan; chuyện họ đi tới gặp thầy bói gần nhà cũng phổ biến như đi chợ vậy) Landsdale thậm chí còn phịa ra những tài liệu Việt Minh giả để khủng bố dân chúng(6) [(Karnow, Stanley, Vietnam (Viking,1983)]

  Tuy vậy đây chỉ là những công việc nhỏ nhặt so với thành tích bí mật đáng kể đầu tiên của Landsdale. Vào năm 1955, các đối thủ chủ yếu của Ngô Đình Diệm gồm ba phái chính trị: Cao Đài, Hoà Hảo, và Bình Xuyên. Landsdale nhanh chóng ra một đòn ngầm táo bạo: dụ dỗ những kẻ chủ mưu đi ăn chơi ở Manila. Khi các nhà lãnh tụ đối lập bắt đầu tập trung lại, Landsdale liền nhẹ nhàng lấy tiền từ quỹ của CIA đưa cho họ – mỗi người trên dưới 3 triệu đôla – để họ công khai ủng hộ Diệm(7) [(Karnow, tr 222)]. Nhiều người trong số các tay sừng sỏ này – như Landsdale đã lường trước – lập tức rút lui ôm theo đống tiền đến vùng biển Riviera của Pháp. Lòng tham mạnh hơn lòng trung thành, tất nhiên. Vậy là vấn đề đã được giải quyết.

  Nhưng chưa đủ.

  Giáo phái Cao Đài và Hoà Hảo đã trở nên vô hại, nhưng vẫn còn Bình Xuyên, một tổ chức bán quân sự, nắm cảnh sát mật trong tay. Dưới quyền chỉ huy của Lê Văn Viễn (Bảy Viễn), trước đây là một gã côn đồ đường phố mù chữ, Bình Xuyên ban đầu chỉ là một lũ sống ngoài vòng pháp luật, những tên cướp cạn hình thành từ những toán thợ trốn chạy khỏi các hầm mỏ, đồn điền, xưởng máy, nơi họ bị người Pháp bắt làm việc như nô lệ. Tuy vậy, vào đầu những năm 1950, lũ cướp cạn này, dưới sự lãnh đạo của Bảy Viễn, đã lớn lên thành một mạng lưới tội phạm rất có tổ chức hoạt động khắp Sài Gòn. Bảy Viễn là Al Capone cuả thành phố này; ông ta cùng với giáo phái Bình Xuyên, một lực lượng 40.000 người, kiểm soát tât cả các nhà chứa, sòng bạc, ổ thuốc phiện trong vùng(Cool [(McCoy, Alfred W., The Politics of Heroin: CIA Complicịty in the Global Drug Trade (Lawrence Hills Books,1991); Vietnam: A Televison History, “America’s Mandarin”)]. Ngay cả khi tung ra cả khối tiền hối lộ, Landsdale cũng không mua chuộc được Bảy Viễn, người mà nguồn thu từ buôn lậu thuốc phiện có thể biến đồng tiền hối lộ của Landsdale thành mớ bạc lẻ bỏ túi.

  Và chính là Diệm, chứ không phải Landsdale, mới là người có hành động kế tiếp làm kinh ngạc Phái bộ Quân sự Sài Gòn. Cho tới lúc này, Diệm trông chẳng có gì hơn một người với bộ dạng thấp đậm, mặc bộ vét trắng và hay có nụ cười vô thưởng vô phạt. Sức mạnh thực sự của ông ta bây giờ mới bộc lộ, và với sự trợ lực của Ngô Đình Nhu, em trai ông – cầm đầu một đảng phái chính trị rất mạnh – ông quyết định tuyên chiến với Bình Xuyên. Landsdale tìm mọi cách ngăn cản ý định này (ông ta nghĩ rằng Diệm không thắng được), nhưng khi thấy Diệm không lay chuyển, Landsdale phải làm tham mưu cho Diệm. Kết quả còn ngạc nhiên hơn chính hành động. Tháng 4 và tháng 5 năm 1955, các lực lượng của Diệm giao tranh ác liệt với quân đội Bảy Viễn trên các đường phố Sài Gòn. Năm trăm người chết tại chỗ, toàn bộ các quận nội thành đổ nát thành những đống gạch vụn, và 20.000 thường dân mất nhà cửa, nhưng kết thúc cuộc giao tranh, Diệm là người chiến thắng(9) [(Karnow)]. Tất cả những đối thủ chính trị chủ yếu của ông bây giờ đã bị vô hiệu hoá hoàn toàn.

Logged
Russian Weapons
Thành viên
*
Bài viết: 636


« Trả lời #5 vào lúc: 29 Tháng Giêng, 2009, 04:28:33 pm »

  Sự hiên ngang, đầu óc tổ chức và trù liệu của Diệm đã đủ gây ấn tượng mạnh cho chính quyền Eisenhower, khẳng định một lần nữa Diệm là con bù nhìn thứ thiệt của họ. Và khi những đối thủ của Diệm bị khuất phục, Landsdale chỉ còn có mỗi một việc phải làm. Ông ta cần củng cố Diệm thành một lãnh tụ thực sự tại Nam Việt Nam, có nghĩa là phải đưa người nắm quyền lực chính thức (tay chơi Bảo Đại, người hiện vẫn ở trong lâu đài của ông tại Pháp để cai trị đất nước) ra khỏi bản đồ chính trị.

  Ám sát thì không ổn vì quá phiêu lưu mà hối lộ cũng chẳng được vì Bảo Đại cực kỳ giàu có. Thay vào đó, Landsdale thúc giục Diệm tổ chức bầu cử. Thoạt tiên Diệm tỏ ra hoang mang (vì là người Công giáo, ông không được đa số tín đồ Phật giáo biết tiếng), nhưng Landsdale hứa sẽ có nhửng biện pháp bảo đảm mà chỉ ông ta mới làm được. Quên dân chủ đi – tráo trở và gian lận hiệu quả hơn nhiều, mà trong chuyện này Landsdale rất tài giỏi. Ông ta đem hết các ngón nghề xảo quyệt ra để dàn dựng một cuộc bầu cử. Các thùng phiếu đã được dồn đầy phiếu sẵn. Cử tri bị cưỡng bức thậm chí bị đe doạ. Landsdale còn cho in hai loại phiếu khác nhau, đánh vào tâm lý mê tín dị đoan của dân chúng: phiếu bầu cho Diệm có màu đỏ (tượng trưng cho vận may) và phiếu bầu cho Bảo Đại màu xanh lục (tượng trưng cho điềm xấu). Cuối cùng, Diệm đắc cử với trên 90 phần trăm phiếu bầu, và tại nhiều quận huyện, ông còn nhận được nhiều phiếu hơn số cử tri ở đó(10) [(Karnow)].

  Chế độ của Diệm bắt đầu như vậy, và một sức mạnh kỳ lạ từ người đàn ông thấp nhỏ, cứng cỏi này sẽ sớm toả lan khắp miền Nam Việt Nam. Giờ đây, khi đã là tổng thống hợp hiến, ông liền bổ nhiệm Nhu em trai ông vào chức vụ cố vấn và giám đốc mật vụ. (Rốt cuộc thì ai cũng biết Nhu là người nắm quyền lực thực tế sau lưng Diệm và đó quả đúng là một quyền lực nhơ nhuốc). Tuy vậy vẫn còn một trở ngại trước khi Diệm có thể áp đặt quyền cai trị trên khắp đất nước.

  Hiệp định Geneva.

  Năm 1956 đến nhanh cùng với đòi hỏi của hiệp định là tổ chức bầu cử tự do trên toàn Việt Nam, cả miền Nam lẫn miền Bắc, cho phép dân chúng chọn lựa một người lãnh đạo cho một quốc gia thống nhất. Lúc này Landsdale và tổ chức CIA của ông không kiểm soát được tình hình miền bắc để có thể phá hoại cuộc bầu cử. Diệm và Landsdale đều hiểu rất rõ rằng với một cuộc bầu cử toàn quốc chính thức như vậy, Hồ Chí Minh hầu như chắc chắn chiến thắng nhờ sự ủng hộ của nông dân đang chiếm phần lớn dân số(11) [(Sheehan, Neil, A Bright Shining Lie (Vintage,1989))]. Hoàn cảnh xem chừng rất khó khăn, nhưng có một lối thoát nhanh, và đó là lối thoát được Mỹ hoàn toàn tán thành.

  Được Landsdale đảm bảo mọi việc sẽ trôi chảy, Diệm chỉ có việc từ chối thực hiện Hiệp định Geneva, từ chối tổ chức tổng tuyển cử. Cần gì một cuộc tổng tuyển cử chứ? Ông ta đã thắng cử một lần rồi, tổ chức thêm một lần bầu cữ nữa là cho phép những kẻ bất đồng chính kiến có thêm sức mạnh trong thời gian quyền lãnh đạo bị bỏ ngỏ.

  Diệm đang là người lãnh đạo quốc gia này, và với tư cách một kẻ chống cộng chưa ra mặt, Diệm hẳn nhiên được nước Mỹ hậu thuẫn mạnh mẽ. Trong khi miền Bắc được Liên Xô viện trợ, thì việc Mỹ hậu thuẫn miền Nam Diệm coi cũng công bằng.

  Bây giờ Diệm được tự do sử dụng quyền lực của mình trên khắp Nam Việt Nam. Thoạt đầu trong ván bài này, Mỹ chỉ nhìn thấy hai màu trắng và đen. Diệm là người chống cộng, do đó Diệm phải được hậu thuẫn. Nhưng điều mà chúng ta không nhận thấy lúc bấy giờ là Diệm không hiện hữu chỉ với hai màu trắng và đen – ông ta xám xịt, và khi những năm 1950 trôi qua, bản chất thật của ông ta bắt đầu lộ rõ. Chính tinh thần Công giáo cuồng tín của ông đã làm ông thay đổi thái độ. Người ta đã vẽ sai lệch cuộc xung đột Việt Nam như là cuộc xung đột giữa Chủ nghĩa cộng sản và Dân chủ, trong khi sự thật hầu như không phải vậy.

  Xung đột tôn giáo mới là xung đột dễ thấy nhất. Nam Việt Nam là đầm lầy của mâu thuẫn. Tín đồ Phật giáo chiếm phần lớn dân số, trong khi tín đồ Công giáo chỉ chiếm khoảng mười phần trăm. Tuy nhiên ngay sau khi lên nắm quyền, Diệm cho lấp đầy các chức vụ chủ chốt trong chính quyền bằng các thành viên của gia đình và những người thân khác theo đạo Công giáo. Trong giai đoạn ông gọi là “cải cách điền địa”, những dinh điền tốt nhất được giao cho người theo đạo Công giáo, trong khi những người nông dân theo đạo Phật bị đẩy ra những vùng đất kém màu mỡ. Phân bón và thuốc trừ sâu loại tốt – nằm trong chương trình viện trợ của Mỹ – nhanh chóng tìm đường đến với người theo đạo Công giáo, còn người theo Phật giáo chỉ được nhận những thứ phế phẩm hoặc đã bị cắt xén. Ơû miền Nam Việt Nam, các ngân hàng đều nằm trong tay người Công giáo, nên chỉ có người Công giáo mới được quyền vay ngân hàng. Người Công giáo rất dễ tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, còn người theo đạo Phật thì cố mà quên nó đi. Đây là cách mà Diệm khởi sự cai trị đất nước, và những kiểu bất công như thế này sẽ gây nên những làn sóng chống Diệm để rồi cuối cùng trở thành tai hoạ lớn nhất dành cho ông tổng thống.

Logged
Russian Weapons
Thành viên
*
Bài viết: 636


« Trả lời #6 vào lúc: 29 Tháng Giêng, 2009, 04:29:32 pm »

  Việt Cộng.

  Việt Cộng không nhất thiết là cộng sản; họ chỉ là những người nổi dậy chống lại sự thiên vị của Diệm dành cho thiểu số người Công giáo, một lực lượng du kích đáng gờm buộc quân đội của Diệm phải đối phó thường xuyên. Chính vì áp bức nhân dân mình Diệm đã tạo ra kẻ thù nguy hiểm nhất cho ông ta, và cũng chính kẻ thù này sẽ sớm phát động một cuộc chiến tranh rộng lớn chống lại chính quyền Ngô Đình Diệm(12) [(Encyclopedia Britannica, Ngo Dinh Diem)]

  Mỹ giúp đỡ nhiều về nhân sự và trang bị vũ khí cho tổ chức Dân Vệ của Diệm, nhưng thay vì dùng các đội quân này bảo vệ dân chúng khỏi tay Việt Cộng, Diệm lại dùng để bảo vệ Dinh Tổng Thống và các dinh thự nơi các thành viên gia đình và/ hoặc những người Công giáo được bổ nhiệm đang làm việc. Diệm hiểu rất rõ vai trò quyền lực của ông được người Mỹ dựng lên – thật vậy, nước Mỹ cần Diệm để duy trì thế mạnh chống chủ nghĩa cộng sản. Lúc ấy người Mỹ chậm hơn ông ta, và người Mỹ không biết cách thay đổi suy nghĩ cho thích hợp. Mặc dù nhiều quan chức ngoại giao trong chính quyền Eisenhower không hề ủng hộ Diệm (đặc sứ John Collins bị triệu hồi vì đã công khai nói thẳng những ác cảm của ông ta về Diệm), sự nhất trí chung vẩn là, dù Diệm không phải là nhà lãnh đạo quốc gia đáng tin cậy, ông ta vẫn là lựa chọn tốt nhất lúc này. Một câu nói cho thấy thái độ của Nhà Trắng, Tốt, chúng ta đã đưa gã đàn ông đó lên nắm quyền, bây giờ chúng ta cần phải tính toán sao cho có lợi nhiều nhất từ việc này. Nước Mỹ sẽ rất mất mặt nếu họ thay đổi thái độ về Diệm lúc đó.

  Và Diệm biết điều này.

  Diệm và em trai ông thích vũ khí và vật chất mà người Mỹ viện trợ cho họ nhưng họ sử dụng chúng theo ý riêng, không nghe theo lời khuyên của người Mỹ, điều này cũng được áp dụng cho quân đội của Diệm (Quân đội Việt Nam Cộng Hòa) – họ bị cấm không được nhận lệnh từ các chỉ huy của Mỹ(13) [(Sheehan]), hay thậm chí bị cấm xem xét những đề nghị tác chiến. Như thế là không khôn ngoan, vì Mỹ tinh thông về chiến sự hơn Quân đội Việt Nam Cộng Hoà nhiều. Thay vào đó, từ rất sớm Diệm đã sử dụng các lực lượng quân sự và cảnh sát của mình để truy lùng, bắc bớ và giết sạch những người Việt Minj “ở lại” (không tập kết ra bắc). Trong cuốn sách best-seller tại Mỹ và được giải thưởng (và gây sốc) A Bright Shining Lie (Lời nói dối toả sáng) của Neil Sheehan, một nét kinh khủng trong thái độ của Diệm đã được bộc lộ. Diệm coi tất cả những người “ở lại” hoặc cựu Việt Minh đều là “ác hoạ”. Diệm ra lệnh bắt giam bất cứ người nào chỉ vì lý do nghi ngờ – không cần xét xử, không cần điều tra. Đối với Diệm, bị nghi ngờ coi như là có tội. Những ai không bị bắn công khai sẽ bị tra tấn liên tục để họ khai ra thêm danh tánh những “tội nhân” khác, cứ thế tiến trình này tự nó kéo dài không dứt. Một người bị tra tấn khai ra vài cái tên, vậy là những người này bị bắt và bị tra tấn. Đàn bà chịu đựng gánh nặng tồi tệ nhất : họ bị cưỡng hiếp và tra tấn, vì cưỡng hiếp được xem là một phần của thủ tục thẩm vấn. Hậu quả là có hàng ngàn người Việt Nam bị giết chết, và trên 100.000 người khác bị giam giữ trong các trại tập trung(14) [(Sheehan)]

  Người ta có thể nhìn thấy ở đây một khuôn mẫu. Tra tấn, cưỡng hiếp, các trại tập trung? Diệm bức hại những người Việt Minh ở lại nhưng không hoạt động y hệt cách mà Hitler đã bức hại người Do Thái. Diệm nặn ra kẻ thù từ những con người không xâm hại gì đến mình, rồi thanh trừng họ một cách hệ thống và tàn bạo. Nhưng nếu Diệm là Hitler của Nam Việt Nam, thì Nhu là Himmler. Nhu điều hành mật vụ (quả thưc, theo lệnh của Nhu, mật vụ tiến hành một cách hăng hái việc thẩm vấn, tra tấn, và cưỡng hiếp như vừa kể trên) mà hiểu theo nghĩa nào đó nó là quân đội riêng của Diệm và Nhu – na ná như SS lúc đầu là lực lượng vệ sĩ của Hitler. Nhưng khi những người ở lại đã bị khuất phục, Diệm thấy cần phải tạo ra một vật tế thần mới để tấn công, nhằm làm cho dân chúng thấy rằng ông ta đang bảo vệ họ khỏi tay kẻ thù, dù là kẻ thù tưởng tượng. Diệm là tín đồ Công giáo sốt sắng, lập dị; năm 1950, trước khi trở thành Thủ Tướng của Nam Việt Nam, ông từng sống ở Đại chủng viện Maryknoll bang New Jersey (tại đây, tình cờ ông gặp và gây ấn tượng đúng lúc cho ông nigh sĩ trẻ, táo bạo bang Masschussetts tên là John F.Kennedy), cầu nguyện, suy gẫm, và nghĩ chuyện sống đời tu hành(15) [(Hersh, Seymour M., The Dark Side of Camelot (Little Brown, 1977)]. Rõ ràng ông ta đã từ chối viễn cảnh này để tham gia vào chính trị nhưng tuy vậy ông ta vẫn sống độc thân; và sau này trở thành tổng thống, ngay cả khi ra lệnh hành quyết hàng loạt và ném hàng chục người vào các trại tập trung, ông vẫn dự thánh lễ gần như hàng ngày. Cho đến cuối đời, và bất kể mọi sự chết chóc và bất hạnh do mình gây ra, Diệm cũng như toàn thể gia đình vẫn tự cho họ là những tín đồ Công giáo tuyệt đối thuần thành.

   Sheehan, cùng nhiều tác phẩm khác nêu trong thư mục)].
Logged
Russian Weapons
Thành viên
*
Bài viết: 636


« Trả lời #7 vào lúc: 29 Tháng Giêng, 2009, 04:30:12 pm »

  Những nhận thức kỳ dị của một con người kỳ dị. (Được biết lòng mộ đạo của Diệm chịu ảnh hưởng phần lớn từ người anh cả của ông, Ngô Đình Thục, người về sau trở thành tổng giám mục và Hồng y của Vatican ở Nam Việt Nam. Thục sẽ là người chủ mưu trong nhiều hành động và những quyết định chính trị gây tranh cãi vào những năm đầu thập niên 60).

  Và rồi, vào những năm cuối của thập niên 50, một vật tế thần mới đã được chọn : những người theo đạo Phật. Sự bất công và áp bức của Diệm dành cho những người theo đạo Phật, thành phần đa số ở Nam Việt Nam đã thực sự bắt đầu khi ông lên làm tổng thống; giờ chỉ lập lại một cách khôn khéo hơn thôi. Khi 900.000 người Công giáo Việt Nam được phép rời bỏ miền Bắc vào miền Nam (theo một điều khoản trong Hiệp định Geneva), Diệm liền cấp cho họ đất trồng trọt và công việc tốt hơn những người theo đạo Phật từng sống ở đó trước(16) [(Karnow)]. Những năm đầu thập niên 60 là khoảng thời gian tồi tệ đối với những người theo đạo Phật. Chính quyền Ngô Đình Diệm hoàn toàn không để ý tới những khó khăn của họ. Họ thờ tổ tiên, quân đội của Diệm ồ ạt kéo tới bắt họ phải đốt bàn thờ, cải đạo sang Công giáo nếu không sẽ lãnh nhiều hậu quả(17) [(Vietnam: A Televison History, “America’s Mandarin”)]. Biết rằng văn hoá Phật giáo là rất phức tạp và chi li, Diệm và Nhu thậm chí đã trắng trợn hơn nữa trong việc thể hiện sự thù ghét của mình đối với Phật giáo. Trong tín ngưỡng Phật giáo, không có gì được giữ gìn thiêng liêng hơn nghĩa trang, và không có gì quan trọng về mặt tinh thần nhiều hơn là việc chôn cất người chết đúng cách. (Suy cho cùng, tín đồ Phật giáo rất sùng kính người chết; đối với họ, người chết là thần thánh). Và theo tín ngưỡng này không có gì được coi là bẩn thỉu, tàn ác, và ghê tởm hơn việc báng bổ thần thánh nơi nghĩa trang vì không có gì thiêng liêng hơn một nấm mồ. Cho nên có thể tưởng tượng được sự căm ghét của người Phật giáo ở Nam Việt Nam khi quân đội và cảnh sát quốc gia, theo lệnh của Diệm, bắt đầu báng bổ và ra sức đào bới các đài liệt sĩ Việt Minh và các khu mộ Phật giáo(18) [(Sheehan)], rồi đái lên đó, thậm chí còn chặt đầu, chặt chân tay các thi thể. Đối với tín đồ Phật giáo, cảm giác của họ chẳng khác gì người Công giáo phát hiện thấy chính quyền của họ ra lệnh đào xác các giáo hoàng lên, băm nhỏ, và đái lên đó cho ướt đẫm.

  Chiếc ghế tổng thống càng vững chắc Diệm càng trở nên càn rỡ – hay điên rồ, như nhiều người sẽ nghĩ như thế. Tước bỏ những cơ hội bình đẳng cho người theo đạo Phật và đào bới mồ mả của họ thì cũng vui trong một lúc, nhưng đến đầu thập niên 60 Diệm và Nhu quyết định đẩy lòng thù hận đối với những con vật tế thần lên cực điểm.

  Chế độ vừa mới theo đuổi hành động quân sự chống lại những tàn dư lặng lẽ của Việt Minh, giờ thì hành động đó nhắm trực tiếp vào dòng máu của niềm tin Phật giáo ở Nam Việt Nam, và vẫn một kiểu giống nhau bao gồm việc hành hình, tra tấn, và tống giam vào các trại tập trung.

  Tất cả xuất phát từ một con người mà Lydon Johnson từng nhắc tới như là “Winston Churchill của Châu Á”(19)
[(Tư liệu tổng quát trong chương 3 và 4 về việc đàn áp Phật giáo của Diệm, những vụ tự thiêu, bất ổn dân sư gia tăng, các tuyên bố của bà Nhu, vân vân, đã được trình bày rõ trong nhiều tài liệu sử hiện đại. Nhưng chúng tôi khuyên các độc giả có quan tâm nên đặc biệt tham chiếu Vietnam: A Televison History, “America’s Mandarin” và các tác phẩm xuất sắc Vietnam: A History của Stanley Karnow; và A Bright Shining Lie của Neil
Logged
Russian Weapons
Thành viên
*
Bài viết: 636


« Trả lời #8 vào lúc: 29 Tháng Giêng, 2009, 07:31:10 pm »

TAM ĐẦU CHẾ ĐẦY THÙ HẬN


“Nếu người Phật giáo muốn có món thịt nướng khác,
tôi sẽ vui lòng cung cấp dầu lửa và diêm “ - NHU, 1963 (20) [(Sheehan)]



  Mồng 8 tháng 5 năm 1963, một ngày oi bức. Nhiều đám đông Phật tử tụ tập quanh chùa Từ Đàm tại Huế một thành phố cổ nằm gần bờ biển Vịnh Bắc bộ thuộc phần cực bắc của Nam Việt Nam. Hôm đó là ngày sinh 2527 của Phật – còn gọi là Phật đản – và những người sùng bái người hân hoan và lặng lẽ đến đây để dự lễ, giống như người Công giáo với lễ Giáng sinh của mình . Một đại lễ của cuộc sống, tín ngưỡng và tình yêu.

  Các lực lượng an ninh Dân vệ của Nhu, do một viên chỉ huy người Công giáo dẫn đầu, nhanh chóng có mặt trên những chiếc xe bọc thép, họ đóng cửa đài phát thanh địa phương, rồi tìm cách giải tán đám đông. Nếu quân đội của chính phủ xông vào nhà thờ của bạn trong dịp lễ Giáng sinh hoặc giáo đường Do Thái trong dịp lễ, vượt qua và chĩa súng vào người bạn xua bạn đi ra ngoài, bạn cảm thấy thế nào?

  Như một phần của cuộc lễ, các Phật tử cầm trên tay và phất cao những lá cờ tôn giáo của mình. Và lý do bào chữa cho việc đưa quân đội tới đã rõ: cuộc tụ họp này vi phạm một trong những điều luật của Diệm cấm giương cờ tôn giáo( mặc dù, mới một tuần trước đó, anh cả của Diệm, Tổng giám mục Ngô Đinh Thục đã tự tiện treo cờ giáo hoàng trên chiếc xe hơi sang trọng của mình) . Đám đông chống lại, và lệnh nổ súng được đưa ra. Một phụ nữ và tám trẻ em chết. Đám đông xô đẩy nhau chạy toán loạn, hơn một trăm người bị đánh đập, bị bắt và tống giam. Sau vụ đó những người biểu tình bắt đầu xuất hiện bất ngờ bằng nhiều cách hợp pháp – học sinh sinh viên biểu tình cùng với các tín đồ Phật giáo, công khai lên án chế độ Diệm, và gây nên những trận ném đá bạo động – và tất cả họ đều gặp phải sự phản ứng tức thời của quân đội Nhu.

  Vào thời điểm này, John F.Kennedy đang tự tin bước vào nhiệm kỳ tổng thống đầu tiên, và về cơ bản ông đã kiên trì quan điểm của người tiền nhiệm là hậu thuẫn cho Nam Việt Nam trong cuộc chiến chống chủ nghĩa cộng sản. Sự áp bức và bạo lực của Diệm chống người theo đạo Phật trong quá khứ dưới cái nhìn của Washington chỉ là một cuộc xung đột về văn hoá chứ không là khủng hoảng theo những thước đo quốc tế. Vâng Bộ Ngoại giao của Kennedy lệnh cho Diệm ngừng quấy nhiễu người theo đạo Phật, nhưng ngay cả khi lệnh này không được thi hành ( Diệm cho rằng Việt Cộng đã gây ra vụ bạo loạn ngày 8 tháng 5 và nổ súng vào đám đông{khi có những báo cáo khám nghiệm tử thi chứng minh ngược lại, Diệm liền cho tịch thu những bản báo cáo này) (21) ([Karnow)], Kennedy vẫn không quá lo lắng về cái được xem là một cuộc cãi cọ phản văn hoá đơn lẽ…

  Cho đến ngày 11 tháng 6, khi một chức sắc Phật giáo tên là Thích Quảng Đức ngồi điềm tĩnh trên một đường phố Sài Gòn, tự đổ dầu hoả ướt hết người, và châm lửa. Thân thể người tu hành bùng cháy thành một đống lửa nhưng ông không hề động đậy, không hề rên rỉ hay gào thét, thậm chí không hề nhăn nhó. Ông chỉ ngồi xếp bằng theo tư thế hoa sen, cầu nguyện, trong khi đống lửa thiêu cháy ông. Cuối cùng ông khẽ nghiêng người qua một bên, chết.

  Vụ tự hiến tế này thực chất là một hình thức phản kháng truyền thống của Phật giáo; các vị cao tăng, trong suốt lịch sử tín ngưỡng Phật giáo, đã tự đốt mình thành một hành động tượng trưng – họ sẽ trở thành những ngọn đuốc tự nguyện để soi ánh sáng vào bóng đêm áp bức. Tin tức về vụ tự thiêu của Thích Quảng Đức lan nhanh khắp Nam Việt Nam, nhưng có một chuyện khác không được dự đoán trước đã xảy ra .

  Tin tức cũng đã lan nhanh khắp thế giới.
Logged
Russian Weapons
Thành viên
*
Bài viết: 636


« Trả lời #9 vào lúc: 29 Tháng Giêng, 2009, 07:33:26 pm »

  Vào những ngày này, Nam Việt Nam là mảnh đất béo bở của các nhà báo, phóng viên ảnh, nhân viên điện tín. Đối với nghề báo, đây quả là một tin sốt dẻo. Ngay sau ngày Thích Quảng Đức tự thiêu, những bức hình về sự kiện này xuất hiện trên trang nhất của các tờ báo lớn trên khắp thế giới, bên cạnh những bài viết lý giải nguyên nhân của thảm kịch. Cả thế giới bị sốc, và tổng thống John Kennedy cũng vậy.
Trước khi xảy ra vụ tự sát của Thích Quảng Đức thế giới gần như không hay biết gì về những vụ ngược đãi tín đồ Phật giáo của Diệm, và mặc dù Kennedy cùng với Bộ Ngoại giao của ông – thông qua những kênh thông tin ngoại giao bí mật – đã lên tiếng chỉ trích Diệm, nhưng
Diệm vẫn coi đó là chuyện vặt vãnh.

  Nhưng rõ ràng, vào ngày 12.6.1963, đó không phải là chuyện vặt vãnh đối với JFK. Chỉ qua một đêm, nước Mỹ – vàcảphần còn lại của thế giới – biết hết sự thật về “Winston Churchill” của Châu Á, và chính phủ Kennedy không thể để bị lúng túng thêm nữa

  Với những thông tin bộc lộ toàn bộ sự tàn bạo của Diệm đối với tín đồ Phật giáo, Mỹ lập tức tự đặt ra những câu hỏi và suy đoán lôgic nhất : Tại sao chúng ta lại ủng hộ một chính phủ nước ngoài chủ trương bách hại tôn giáo? Tín đồ Phật giáo là những người ôn hoà, họ không phải là cộng sản; tôi tưởng những đồng đô la đóng thuế của chúng ta đổ vào Nam Việt Nam là để góp sức chiến đấu chống chủ nghĩa cộng sản. Tại sao Tổng thống Kennedy gửi chuyên viên quân sự Mỹ sang giúp đỡ chính phủ của một người luôn tìm cách đẩy dân chúng của mình vào trại tập trung ?

  Cho tới lúc đó, nước Mỹ vẫn nghĩ rằng số lượng người Mỹ, nam và nữ, không ngừng tăng lên được đưa tới Nam Việt Nam ( xấp xỉ 15000 người vào tháng 6.1963) cùng với khoản viện trợ 1,2 triệu đô la mỗi ngày là để giúp Nam Việt Nam chống lại kẻ thù Việt Cộng không đội trời chung. Nhưng giờ đây Diệm quan tâm nhiều hơn đến việc chống lại các vị sư sãi mặc áo choàng vàng không có vũ khí .

  Quả thật chỉ qua một đêm cả thế giới nhận ra Mỹ chỉ là kẻ vô tích sự, đã chọn đúng một bạo chúa để hà hơi tiếp sức. Kennedy tức điên; hơn thế nữa, ông và các cố vấn chính trị đang rất hoang mang. Chỉ còn hơn một năm nữa, mùa bầu cử Tổng thống lại đến; Kennedy đắc cử tổng thống nhiệm kỳ thứ nhất năm 1960 với cách biệt rất nhỏ so với đối thủ Richard Nixon – 118000 phiếu trong tổng số 68,3 triệu phiếu bầu(22) [(Encyclopedia Britannica, “John F(itzgerald) Kennedy”)]. Giờ đây, đối với cử tri Mỹ, làm sao ông có thể vô lý nhiều hơn được nữa khi đã cam kết viện trợ tiền của và xương máu của người Mỹ cho Diệm, một kẻ không khác gì Hitler? Đảng Cộng Hoà vẫn còn giận sôi gan vì thất bại năm 1960, vì ngay từ đầu họ gọi đó là “cuộc bầu cử bị đánh cắp” dựa trên việc đếm phiếu đáng ngờ ở Illinois; việc ủng hộ một người Công giáo cuồng tín cứ tập trung khủng bố những người theo tôn giáo khác đã biến JFK thành miếng mồi ngon trước miệng hổ đói trong kỳ bầu cử tới vào tháng 11.1964. Và đây là điều bạn đọc cần ghi nhớ trong khi tiếp tục đọc sách này.

  Đương nhiên, Kennedy lập tức chỉ thị cho Bộ Ngoại giao khiển trách Diệm, và yêu cầu ngừng tay lại. Chỉ riêng vụ tự thiêu ngày 11 tháng 6 này thôi đã gây cho JFK nhiều rắc rối nhất kể từ vụ Khủng hoảng tên lửa Cuba, vì vậy ông kiên quyết sửa chữa.

  Tuân theo chỉ thị, các viên chức Mỹ đã phê phán Diệm thậm tệ. Mọi chuyện mau chóng được hiểu rằng nếu tình trạng ngược đãi tín đồ Phật giáo còn tiếp diễn, Diệm sẽ mất nguồn viện trợ ưu ái của Mỹ. Chấm hết.

  Và cách hồi đáp của Diệm chỉ cho thấy ông ta là hiện thân của sự ngạo mạn. Thay vì bắt tay làm việc với cường quốc ủng hộ duy nhất, ông và em trai ông xuyên tạc biến cố này bằng một chiến dịch bôi nhọ, ngang nhiên gọi những tín đồ Phật giáo là cộng sản hoặc là tay trong cho Việt Cộng. Nhu công khai phát biểu những điều trâng tráo đến kinh tởm, đề nigh cung cấp dầu lửa và diêm quỵet cho những vụ tự thiêu khác rồi tiếp tục khẳng định những người theo đạo Phật là gián điệp cho kẻ thù. Thêm nữa, vợ Nhu, Bà Nhu gây lắm tranh cãi – cũng được gọi là “ Bà Rồng” hay “Đệ nhất Phu nhân của Việt Nam” – xuất hiện nhiều hơn để ủng hộ không chỉ những lời buộc tội vô căn cứ cho rằng người Phật giáo là cộng sản, mà thậm chí còn gieo rắc hận thù. Trong một buổi phỏng vấn có thu hình, bà tuyên bố một cách lố bịch rằng sự hy sinh đầu tiên lẽ ra đã hiệu quả hơn nếu các tín đồ Phật giáo dùng dầu hoả trong nước thay vì dầu hoả nhập khẩu(23) [(Vietnam: A Televison History, “American’s Mandarin”)]về sau bà còn phát biểu về những vụ tự thiêu tiếp theo như “Món thầy chùa nướng” và “Cứ để họ tư, về sau bà còn phát biểu về những vụ tự thiêu tiếp theo như “Món thầy chùa nướng” và “Cứ để họ tự thiêu, chúng ta sẽ vỗ tay”.(24) [(Karnow)]

Logged
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM