Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 18 Tháng Tư, 2024, 02:31:44 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Danh tướng Việt Nam - Tập 1  (Đọc 67785 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #10 vào lúc: 02 Tháng Hai, 2009, 11:06:04 pm »


Đinh Tiên Hoàng có ba người con trai được sử sách chép tới. Con trưởng là Đinh Liễn, người từng cùng Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn mười hai sứ quân. Tháng năm (nhuận) năm Kỉ Tị (969), Đinh Liễn đã được phong làm Nam Việt Vương. Năm Nhâm Thân (972) Nam Việt Vương Đinh Liễn được cử làm sứ giả sang nhà Tống. Năm Ất Hợi (975) Nam Việt Vương Đinh Liễn được nhà Tống phong làm Khai Phủ Nghi Đồng Tam Ti, hàm Kiểm Hiệu Thánh Sư, tước Giao Chỉ Quận Vương. Tóm lại, việc kế vị trong tương lai của Đinh Liễn đã rất rõ. Nhưng, tháng giêng năm Mậu Dần (978), Đinh Tiên Hoàng vì quá yêu mến người con út còn nhỏ tuổi là Hạng Lang nên đã lập Hạng Lang làm Thái Tử. Việc này khiến cho Đinh Liễn uất ức. Đầu năm Kỉ Mão (979), Đinh Liễn đã giết chết Hạng Lang. Và đến tháng mười năm ấy, thì cả Đinh Tiên Hoàng lẫn Đinh Liễn đều bị bề tôi nhỏ là Đỗ Thích giết hại.

Con thứ của Đinh Tiên Hoàng là Đinh Toàn, do bà Hoàng Hậu Dương Vân Nga sinh hạ vào năm Giáp Tuất (974). Năm Mậu Dần (978), khi Hạng Lang được phong làm Thái Tử thì Đinh Toàn được phong làm Vệ Vương. Cuối năm 979, khi Đỗ Thích giết hại cả Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn, triều đình bèn tôn Đinh Toàn (lúc này mới 5 tuổi) lên ngôi Hoàng Đế. Tháng 7 năm Canh Thìn (980), trước nguy cơ bị quân Tống xâm lăng, triều đình bèn tôn quan Thập Đạo Tướng Quân là Lê Hoàn lên ngôi Hoàng Đế. Đinh Toàn bị giáng làm Vệ Vương như cũ và được Lê Hoàn thương như con đẻ của mình. Năm Tân Sửu (1001), Đinh Toàn mất khi cùng với Lê Hoàn di đánh dẹp ở Cử Long (vùng người Mường, nay thuộc huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa.), hưởng dương 27 tuổi.

Người con út là Hạng Lang, bị giết khi còn quá nhỏ, không để lại chính tích gì đáng kể.

Như vậy là Lê Hoàn được tôn lên ngôi Hoàng Đế trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn của đất nước. Bá quan văn võ đã tin ở Lê Hoàn và Lê Hoàn cũng đã thực sự xứng đáng với niềm tin lớn lao đó. Từ đây, triều Lê được dựng lên. Để phân biệt với triều do Lê Lợi dựng lên sau này, sử gọi triều Lê mở đầu từ Lê Hoàn là triều Tiền Lê. Ngay sau khi lên ngôi, Lê Hoàn đã lãnh đạo cả nước đập tan hoàn toàn cuộc xâm lăng của quân Tống vào năm 981, và ngay năm sau (982) lại trừng trị đích đáng hành vi quấy phá của Chiêm Thành. Khi biên giới mặt Bắc và mặt Nam đều đã được ổn định, Lê Hoàn đã tiến hành xây dựng và củng cố sức mạnh của đất nước. Lê Hoàn ở ngôi 25 năm (980 - 1005) và trong thời gian ở ngôi, đã dùng ba niên hiệu khác nhau:

- Thiên Phúc (980-988) vốn là niên hiệu cũ của Đinh Toàn.

- Hưng Thống (989 - 993).

- Ứng Thiên (994 - 1005).

Tháng 3 năm Ất Tị (1005), Lê Hoàn mất vì bệnh, hưởng thọ 65 tuổi. Người đời và cả một số ít sử sách vẫn gọi Lê Hoàn là Lê Đại Hành, nhưng các sử thần lỗi lạc, cũng là các bậc danh Nho thuở xưa thì không đồng ý như vậy. Bảng Nhãn Lê Văn Hưu (1230 - 1322) nói:

“Thiên Tử và Hoàng Hậu, khi mới băng, chưa chôn vào sơn lăng thì gọi là Đại Hành Hoàng Đế hoặc Đại Hành Hoàng Hậu. Đến khi đã táng vào sơn lăng yên ổn đâu đó rồi thì họp bầy tôi lại để bàn định đức hạnh hay dở mà đặt thụy hiệu, không gọi là Đại Hành nữa. Nhưng, Lê Hoàn thì lấy Đại Hành làm thụy hiệu rồi truyền mãi đến nay là vì sao? ấy là vì (Lê) Ngọa Triều là đứa con bất tiếu, triều đình lại không có bề tôi Nho học để bàn giúp việc đặt thụy hiệu nên mới đến nỗi như thế” (Đại Việt sử kí toàn thư, bản kỉ, quyển 1, tờ 25-a).

Lê Hoàn có 12 người con trai, gồm 11 người con ruột và 1 người con nuôi. Tiếc thay, nếu Lê Hoàn là biểu tượng nổi bật của tinh hoa lịch sử trong thế kỉ thứ 10, thì các con trai của ông lại chỉ có đức hạnh rất tầm thường. Đó chính là nguyên do dẫn đến sự cáo chung của triều Tiền Lê vào cuối năm 1009.

Triều Tiền Lê do Lê Hoàn sáng lập truyền nối được ba đời, kéo dài tổng cộng 29 năm, gồm: Lê Hoàn (980 - 1005), Lê Trung Tông (ở ngôi 3 ngày của tháng 11 năm 1005) và Lê Long Đĩnh tức Lê Ngọa Triều (1005-1009). Tất cả sự nghiệp lớn của triều Tiền Lê đều do Lê Hoàn tạo lập nên. Cống hiến của Lê Hoàn trải rộng trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, tên tuổi của Lê Hoàn sở dĩ trở nên bất diệt với lịch sử, trước hết và chủ yếu là nhờ ở tài thao lược tuyệt vời. Lê Hoàn là một trong những vị danh tướng của nước nhà.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #11 vào lúc: 02 Tháng Hai, 2009, 11:08:14 pm »


2. LÊ HOÀN VỚI TRẬN ĐẠI PHÁ QUÂN TỐNG XÂM LĂNG NĂM 981

Quân Tống xâm lược nước ta

Năm 960, Triệu Khuông Dận đã thống nhất được phần lớn lãnh thổ Trung Quốc và lập ra nhà Tống. Thời Ngũ Đại Thập Quốc của Trung Quốc chấm dứt kể từ đó. Nhà Tống kéo dài trước sau tổng cộng hơn ba trăm năm (960 - 1278). Tuy cơ đồ cũng lắm phen thăng trầm nghiêng ngửa, nhưng chính triều đại này đã hai lần xua quân sang xâm lược nước ta. Lần thứ nhất là năm 981, bị Lê Hoàn đánh cho đại bại và lần thứ hai là năm 1077, bị Lý Thường Kiệt đánh cho tan tành.

Khi ở nước ta, nội bộ triều Đinh liên tục khủng hoảng và xung đột, thì ở Trung Quốc, triều Tống đã trải hai mươi năm xây dựng và củng cố. Tham vọng bành trướng xuống phương Nam ngày càng rõ rệt và mãnh liệt hơn. Sách Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 1, tờ 9 a-b) chép về mưu đồ của nhà Tống như sau:

“Mùa hạ, tháng 6 (năm Canh Thìn, 980 - NKT), quan giữ chức Tri Châu của Châu Ung bên nước Tống là Thái Thường Bác Sĩ Hầu Nhân Bảo, dâng thư tâu lên vua Tống rằng:

- An Nam Quận vương (chỉ Đinh Tiên Hoàng - NKT) và con của hắn là (Đinh) Liễn đã bị giết, nước ấy sắp đổ, có thể nhân cơ hội này mà cho quân sang đánh lấy. Nếu bỏ qua việc mưu tính lúc này, sợ lỡ mất cơ hội. Vậy, xin cho thần được về cửa khuyết để tâu bày trực tiếp chuyện có thể đánh lấy được.

Vua Tống định sai người theo đường dịch trạm, đến gọi Hầu Nhân Bảo về, nhưng bề tôi là Lư Đa Tốn nói:

- An Nam hiện đang rối loạn từ bên trong, đó chính là lúc trời khiến phải mất, triều đình ta nên bất ngờ cho quân sang đánh úp, nhanh như người đời vẫn nói là sét đánh không kịp bịt tai. Nay, nếu cứ gọi Hầu Nhân Bảo về bàn định trước thì mưu này nhất định sẽ bị bại lộ, khiến cho kẻ kia (chỉ nước ta - NKT) biết được rồi dựa vào núi ngăn biển cách mà phòng bị, thì cái thế được thua chưa biết sẽ ra sao. Vậy, chi bằng hãy giao cho Hầu Nhân Bảo ngầm đem quân sang, theo lệnh mà lo liệu việc ấy, cho được chọn tướng và đem ba vạn quân Kinh Hồ (quân đội lấy người ở các tỉnh Hồ Nam và Hồ Bắc ngày nay. Thời Tống, đất này gọi là Kinh Lộ và Hồ Lộ (Lộ là đơn vị hành chính địa phương – NKT)) thẳng tiến sang, tạo ra cái thế vạn toàn, chẳng khác gì bẻ cành khô hay xô cây gỗ mục, không lo gì tốn người hao tên cả.

Vua Tống cho là phải.

Mùa thu, tháng bảy (năm Canh Thìn, 980 - NKT), ngày Đinh Mùi (ngày 16 - NKT), nhà Tống lấy Hầu Nhân Bảo làm Giao Châu Lục Lộ Thủy Lộ Chuyển Vận Sứ, Tôn Toàn Hưng làm Lan Lăng Đoàn Luyện Sứ, Hác Thủ Tuấn làm Tất Tác Sứ, Trần Khâm Tộ làm An Bí Khố Sứ, Thôi Lượng làm Ung Châu Lộ Binh Mã Đô Bộ Thự, Lưu Trừng làm Ninh Châu Thứ Sử, Giả Thực làm Quân Khí Khố Sứ, quan giữ chức Cung Phụng Quan Cáp Môn Chi Hậu là Vương Soạn làm Quảng Châu Binh Mã Đô Bộ Thự... Tất cả cùng họp quân và hẹn ngày sang đánh nước ta”.

Như vậy là, từ quan trấn giữ biên ải như Hầu Nhân Bảo đến quan hầu cận trong triều như Lư Đa Tốn, rồi cả đến vua Tống cũng đều quyết chí xâm lược nước ta. Chúng gặp nhau trong âm mưu bất ngờ tấn công ta khi mà nội bộ nước ta đang gặp những bế tắc không nhỏ.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #12 vào lúc: 02 Tháng Hai, 2009, 11:12:27 pm »


Lê Hoàn đại phá quân Tống.

Khi quân Tống chuẩn bị xâm lược nước ta, Lê Hoàn đang là phó Vương, lo việc Nhiếp Chính thay cho nhà vua lúc bấy giờ là Đinh Toàn mới 5 tuổi. Thực tế này khiến cho Định Quốc Công là Nguyễn Bặc, Ngoại Giáp là Đinh Điền và Phạm Hạp nghi ngờ rằng Lê Hoàn sẽ cướp ngôi. Họ hợp mưu dấy binh, quyết giết Lê Hoàn. Sách Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 1, tờ 7-b) chép rằng:

“Thái, Hậu (chỉ bà Dương Vân Nga - NKT) nghe được tin ấy lo sợ báo với Lê Hoàn rằng:

- Bọn (Nguyễn) Bặc dấy binh làm loạn, khiến cho cả nước phải kinh hoàng. Nay vua còn nhỏ tuổi, chưa thể kham nổi việc trừ nạn, vậy, các ông nên sớm liệu đi, chớ để tai họa về sau.

Lê Hoàn đáp:

- Thần ở chức Phó Vương, giữ quyền Nhiếp Chính, dù tai họa sống chết thế nào cũng đều phải đảm đương trách nhiệm.

Nói rồi, (Lê Hoàn) chỉnh đốn quân ngũ, đánh nhau với (Đinh) Điền và (Nguyễn) Bặc ở Tây Đô1. Bọn (Đinh) Điền và (Nguyễn) Bặc thua chạy. Sau, họ lại đem thủy quân ra đánh, nhưng lại bị Lê Hoàn nhân chiều gió thuận mà phóng lửa đốt hết (Đinh) Điền bị chém tại trận còn (Nguyễn) Bặc thì bị bắt đóng cũi đem về kinh sư (chỉ Hoa Lư, Ninh Bình - NKT). (Lê Hoàn) kể tội (Nguyễn Bặc) như sau:

- Tiên Đế (chỉ Đinh Tiên Hoàng - NKT) gặp nạn, thần nhân và người trong thiên hạ đều vừa thẹn vừa căm. Người là kẻ bề tôi, vậy mà nhân lúc bối rối lại dấy binh bội nghĩa. Phận làm tôi có đâu lại thế?

Nói rồi bèn đem (Nguyễn Bặc) chém đầu.

(Đinh) Điền và (Nguyễn) Bặc đã chết, quân của Phạm Hạp cũng mất hết cả khí thế, tan tác chạy về làng Cát Lợi ở Bắc Giang (nay thuộc Hà Bắc - NKT). (Lê) Hoàn đuổi theo, bắt sống được Phạm Hạp, giải về kinh sư”.
___________________________________
1. Nguyên bản chú thích: Lê Hoàn người Ái Châu nhưng về sau lên ngôi lại đóng đô ở Hoa Lư, cho nên sử vẫn gọi Ái Châu là Tây Đô.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #13 vào lúc: 02 Tháng Hai, 2009, 11:14:17 pm »


Khi Lê Hoàn vừa dẹp xong sự phản kháng của Đinh Điền, Nguyễn Bặc và Phạm Hạp thì quân Tống cũng vừa áp sát biên giới nước ta. Tình hình rất nguy cấp. Sách trên (tờ 9-b và tờ 10-a) chép tiếp:

“Thái Hậu sai Lê Hoàn chọn dũng sĩ để đi đánh giặc, lại lấy Phạm Cự Lượng người ở Nam Sách Giang (nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Hưng - NKT) làm đại tướng. Khi triều đình đang họp bàn kế xuất quân, Phạm Cự Lượng cùng các tướng, mặc nguyên áo trận, đi thẳng vào Nội Phủ, nói với mọi người rằng:

- Thưởng người có công, giết kẻ trái mệnh là phép sáng để làm việc quân. Nay, Chúa thượng còn trẻ thơ, chúng ta dẫu có hết sức liều mạng để đánh ngoại xâm rồi lập được chút công lao thì ai sẽ là người biết cho? Chi bằng trước hãy tôn lập quan Thập Đạo Tướng Quân (chỉ Lê Hoàn - NKT) làm Thiên Tử rồi sau mới xuất quân thì tốt hơn.

Quân sĩ nghe vậy liền hô vang: Vạn Tuế!
 
Thái Hậu thấy lòng người quy phục, bèn sai lấy tấm Long Cổn (áo thêu hình rồng cuộn, dành riêng cho nhà vua - NKT) khoác lên người Lê Hoàn và mời Lê Hoàn lên ngôi Hoàng Đế”.

Sự kiện này xảy ra vào tháng 7 năm Canh Thìn (980). Ngay sau khi lên ngôi, Lê Hoàn lập tức bắt tay vào công cuộc kháng chiến chống Tống. Để có thêm thời gian hòa hoãn hết sức cần thiết cho việc chuẩn bị, Lê Hoàn đã nhân danh Đinh Toàn, gởi thư cho triều đình nhà Tống “xin được làm phiên thần” của nhà Tống, lời lẽ rất mềm dẻo. Nhưng vua Tống không nghe, lập tức gởi tối hậu thư cho Lê Hoàn, bắt phải đầu hàng.

Và cuộc đối đầu lịch sử giữa quân Tống xâm lăng với quân sĩ nước ta do Lê Hoàn cầm đầu đã diễn ra vào tháng 3 năm Tân Tị (981). Sách Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 1, tờ 14-a) chép về diễn biến của cuộc đối đầu này như sau:

“Mùa xuân, tháng ba, bọn Hầu Nhân Bảo và Tôn Toàn Hưng đến Lãng Sơn (tên một hòn đảo, cũng là tên một vùng đất thuộc Quảng Ninh ngày nay. Nhiều sách vở đã nhầm Lãng Sơn ra Lạng Sơn - NKT), Trần Khâm Tộ đến Tây Kết, Lưu Trừng đến sông Bạch Đằng. Vua (đây chỉ Lê Hoàn - NKT) tự làm tướng cầm quân đi đánh giặc. Trước hết, (Vua) sai quân sĩ đóng cọc để ngăn sông. Quân Tống rút lui về sông Chi Lăng (tức sông Thương - NKT). Đến đây, Vua sai quân sĩ giả vờ hàng để dụ Hầu Nhân Bảo, nhân đó, bắt được Hầu Nhân Bảo rồi đem chém. Bọn Trần Khâm Tộ nghe tin thủy quân đã thua trận, cũng vội rút về. Vua đem các tướng tới đánh. (Trần) Khâm Tộ thua to, quân sĩ bị giết đến quá nửa, thây người la liệt đầy đồng. Các tướng giặc như Quách Quân Biện và Triệu Phụng Huân đều bị bắt giải về Hoa Lư. Từ đó, nước nhà mới được yên. Bầy tôi vui mừng, xin dâng tôn hiệu (cho Vua) là Minh Càn Ứng Vận Thần Vũ Thăng Bình Chí Nhân Quảng Hiếu Hoàng Đế”.

Tuy chỉ được chuẩn bị trong một thời gian hết sức ngắn ngủi và trong một điều kiện cực kì khó khăn, nhưng, với quyết tâm cao độ, với năng lực chỉ huy tuyệt vời, Lê Hoàn đã quét sạch quân Tống bằng một trận kết hợp tài tình giữa thủy binh với bộ binh. Trận thắng kiệt xuất này đã khiến cho nhà Tống vừa căm giận, vừa rất kính nể Lê Hoàn. Sau, hai bên giao hảo, vua Tống đã tấn phong cho Lê Hoàn, thế mà nhận chiếu thư, Lê Hoàn không lạy, sứ giả cũng không dám bắt lỗi, Lê Hoàn bảo sứ giả nhà Tống cứ dừng ở biên cương rồi chuyển đạt công văn đến chứ đừng bước vào sâu trong đất ta, chúng cũng đành phải nghe lời. Lê Hoàn từng rửa hận bằng cách thi thoảng lại cho quân sang cướp phá Như Hồng (tên một trấn của Trung Quốc – NKT). Sứ giả của nhà Tống là Lý Nhược Chuyết đến nước ta vào năm Bính Thân (996) có tỏ ý trách cứ việc này, Lê Hoàn liền nói: “Việc cướp bóc trấn Như Hồng là do bọn giặc ở cõi ngoài, chẳng hay Hoàng Đế (chỉ vua Tống - NKT) - có biết rằng đó chẳng phải là quân của Giao Châu hay không. Còn như nếu Giao Châu (chỉ nước ta - NKT) mà muốn làm phản, thì đầu tiên sẽ đánh vào Phiên Ngung, thứ đến đánh Mân Việt (cả hai đều ở phía Nam của Trung Quốc ngày nay - NKT), chớ đâu có chịu dừng lại ở trấn Như Hồng mà thôi!”.1.

Vua Tống đã phải dồn căm giận lên đầu những viên bại tướng của nhà Tống. Vương Soạn bị giết chết ở Ung Châu, Tôn Toàn Hưng bị chém bêu đầu ở chợ, Lưu Trừng thì hoảng sợ rồi ốm mà chết.
_________________________________
1. Đại Việt sử kí toàn thư, bản kỉ, quyển 1, tờ 22-b
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #14 vào lúc: 02 Tháng Hai, 2009, 11:17:15 pm »


Tên tuổi Lê Hoàn trong tâm tưởng của các cây đại bút.

Với thắng lợi trọn vẹn của mình, Lê Hoàn đã có công giữ vững độc lập và chủ quyền của quốc gia. Tên tuổi của ông được đời đời ghi nhớ, sự nghiệp của ông (được trăm họ tri ơn. Các cây đại bút, cũng là những sử thần lỗi lạc thuở xưa đã trân trọng chép những lời tôn kính Lê Hoàn. Các tác giả của bộ Đại Việt sử kí toàn thư viết: “Vua trừ được bọn gian thần trong nước rồi được tôn lên ngôi, đuổi giặc ngoài để yên dân, khiến cho quốc gia thanh bình, Bắc Nam vô sự”.1.

Bảng Nhãn Lê Văn Hưu (1230 - 1322) viết:

“Lê Đại Hành giết Đinh Điền, bắt Nguyễn Bặc rối tóm bọn (Quách) Quân Biện, (Triệu) Phụng Huân dễ như lùa trẻ con, như sai lũ nô lệ, chưa đầy vài năm mà đã định yên được bờ cõi, công đánh dẹp và thắng trận, cho dẫu là nhà Hán hay nhà Đường (tên hai triều đại lớn của Trung Quốc - NKT) cũng không thể hơn được”2.

Trong Lịch triều hiến chương loại chí (nhân vật chí), sử gia lỗi lạc thời Nguyễn là Phan Huy Chú (1782 - 1840) đã viết về Lê Hoàn như sau:

“Vua phá Tống, bình Chiêm, khiến cho cả Hoa Hạ và man di đều sợ hãi. Trung Quốc đã mấy lần sách phong khen ngợi Vua, khiến cho tiếng tăm của Vua trở nên lừng lẫy. Nói về việc trị nước thì Nhà vua luôn chăm lo đến những điều cần của dân, dốc lòng lo cho chính sự, trọng nông nghiệp, cẩn trọng nơi biên cương, quy định pháp chế tuyển dân làm lính, lại còn đổi chia các trấn… quả là rất cố gắng chăm chỉ”.

Năm 1981, giới sử học Việt Nam đã long trọng tổ chức hội thảo khoa học và lễ kỉ niệm 1.000 năm ngày Lê Hoàn đại phá quân Tống. Một lần nữa, tên tuổi của Lê Hoàn lại được kính cẩn đề cao, sự nghiệp của Lê Hoàn được hậu thế tưởng nhớ.
_________________________________
1. Bản kỉ, quyển 1, tờ 13-a.
2. Đại Việt sử kí toàn thư, bản kỉ, quyển 1, tờ 14 a-b
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #15 vào lúc: 02 Tháng Hai, 2009, 11:24:28 pm »


05 - PHẠM CỰ LẠNG (? ~?)

Thời Ngô Quyền (938-944), ở đất Chí Linh (nay thuộc tỉnh Hải Hưng), có người tên là Phạm Chiêm, nổi danh võ nghệ cao cường và sức mạnh khó ai địch nổi. Phạm Chiêm theo Ngô Quyền đánh quân Nam Hán, được Ngô Quyền tin dùng, bổ làm quan và phong dần lên tới chức Đông Giáp Tướng Quân.

Con trai của Phạm Chiêm là Phạm Man cũng lừng danh không kém gì cha. Ông được con của Ngô Quyền là Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn1 cho làm quan, và cũng phong dần lên đến chức Tham Chính Đô Đốc.

Con của Phạm Man có hai người được sử sách chép tới, đó là Phạm Hạp và Phạm Cự Lạng. Phạm Hạp là một trong những võ tướng, có tài của Đinh Tiên Hoàng, được Đinh Tiên Hoàng phong tới chức Vệ úy. Sinh thời, Phạm Hạp là người cố chấp và cực đoan. Sau khi Đinh Tiên Hoàng mất, ông ngờ Lê Hoàn sẽ lập mưu thoán đoạt, bèn cùng với Đinh Điền và Nguyễn Bặc, nêu danh nghĩa tôn lập con của Đinh Tiên Hoàng là Đinh Toàn để đem quân đánh Lê Hoàn. Việc ấy chẳng những không thành mà rốt cục, ông cùng với Đinh Điền và Nguyễn Bặc đều bị Lê Hoàn giết.

Em của Phạm Hạp là Phạm Cự Lạng thì suy tính khác hẳn. Ông công khai đứng về phía Lê Hoàn, và bù lại, ông cũng được Lê Hoàn rất tin cậy.

Bấy giờ, chính sự nước nhà rất rối ren. Ngay khi Đinh Tiên Hoàng vừa qua đời, nội bộ triều đình đã chia bè kết cánh. Vua mới nối ngôi là Đinh Toàn thì còn quá bé nhỏ2, chưa thể đủ sức để lo toan bất cứ việc gì. Đúng lúc đó, nhà Tống cũng đã thống nhất được Trung Quốc3 và đang nuôi tham vọng bành trướng xuống phương nam. Quan trấn giữ miền biên ải phía Nam của nhà Tống ra sức xúi giục vua Tống nhanh chóng thực hiện tham vọng này.

“Mùa hạ, tháng 6 (năm Canh Thìn, 980 - NKT), quan giữ chức Tri Ung Châu của nhà Tống là Thái Thường Bác Sĩ Hầu Nhân Bảo, dâng thư tâu với vua Tống rằng:

- An Nam Quận Vương (chỉ Đinh Tiên Hoàng - NKT ) và con là (Đinh) Liễn đều đã bị giết, nước ấy kể như sắp đổ, cho nên, có thể nhân lúc này đem một cánh quân sang đánh chiến lấy. Nếu bỏ qua, không mưu tính ngay lúc này thì sợ sẽ lỡ mất cơ hội. Thần xin được đến cửa khuyết để trực tiếp tâu bày rõ thực trạng có thể đánh lấy này.

Vua Tống sai người chạy trạm đến gọi (Hầu) Nhân Bảo: nhưng (cận thần là) Lư Tốn can rằng:

- Nội tình An Nam rối loạn, đó là lúc trời sắp bắt phải mất, triều đình nên bất ngờ cho quân sang đánh úp, làm đúng như người đời nói “sét đánh không kịp bịt tai”. Nay nếu cho gọi (Hầu) Nhân Bảo về thì mưu ấy kể như đã bị lộ, kẻ kia nhờ đó mà biết được sẽ dựa núi cao biển sâu mà phòng bị, khiến cho cái thế được thua chưa rõ ra sao. Chi bằng, hãy giao cho (Hầu) Nhân Bảo ngầm lo việc đưa quân sang, theo lệnh mà liệu, rồi lại chọn tướng đem thêm ba vạn quân Kinh Hồ4, thăng tiến sang, tạo ra cái thế vạn toàn, (việc sẽ) dễ như bẻ cành khô, như xô cây gỗ mục, không phải tốn một mũi tên.

Vua Tống cho là phải”5.
__________________________________
1. Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn làm vua từ năm 951 đến năm 965. Ngay sau khi lên ngôi, Nam Tấn Vương đã sai người đến đón anh ruột của mình là Ngô Xương Ngập về làm vua. Đó là Thiên Sách Vương. Đây là thời nước ta đồng thời có hai vua.
2. Đinh Toàn sinh năm 974, lên nối ngôi lúc mới 5 tuổi.
3. Tống Thái Tổ thống nhất Trung Quốc vào năm 960.
4. Tên đất đời Tống, tương ứng với hai tỉnh Hồ Nam và Hồ Bắc của Trung Quốc ngày nay.
5. Đại Việt sử kí toàn thư (Bản kỉ, quyển 1, tờ 9 a-b).
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #16 vào lúc: 02 Tháng Hai, 2009, 11:27:19 pm »


Tháng 7 năm 980, vua Tống hạ lệnh cho Hầu Nhân Bảo gấp rút chuẩn bị lực lượng sang xâm lược nước ta. Hầu Nhân Bảo được cử làm Giao Châu Thủy Lục Lộ Chuyển Vận Sứ. Một loạt tướng lĩnh khác cũng được trao chức mới, cùng với Hầu Nhân Bảo gấp rút lo việc xâm lược nước ta. Tướng Tôn Toàn Hưng được giao chức Lan Lăng Đoàn Luyện Sứ. Tướng Hác Thủ Tuấn được giao chức Tất Tác Sứ. Tướng Trần Khâm Tộ được giao chức Yên Bí Khố Sứ Tướng Thôi Lượng, nguyên là Tả Giám Môn Tướng Quân, nay được giao chức Ung Châu Lộ Binh Mã Đô Hộ Thự. Tướng Lưu Trừng được giao chức Ninh Châu Thứ Sử. Tướng Giả Thực được giao chức Quân Khí Khố Phó Sứ. Tướng Vương Soạn, nguyên là Cung Phụng Quan Cáp Môn Chi Hậu, nay được giao chức Quảng Châu Binh Mã Đô Hộ Thự...v.v.

Giặc cố sức tạo ra và giành lấy thế chủ động bất ngờ, nhưng, mọi hành vi của chúng đều không qua khỏi con mắt tinh tường của Lê Hoàn. Lê Hoàn đã kịp thời vạch kế hoạch đối phó một cách hữu hiệu với quân Tống xâm lăng. Người đầu tiên được Lê Hoàn tin cậy cất nhắc và trao phó trọng trách là Phạm Cự Lạng. Sử cũ chép rằng:

“Khi (triều đình) đang họp bàn kế hoạch xuất quân thì (Phạm) Cự Lạng cùng các tướng quân khác đều mặc áo trận, đi thẳng vào Nội Phủ và nói với mọi người rằng:

- Thưởng người có công, trị người có tội là phép sáng của việc quân. Nay Chúa Thượng còn trẻ thơ, thì dẫu chúng ta có chút công lao khi liều chết chống đánh giặc ngoài, cũng không rõ là ai sẽ biết cho. Thế thì chi bằng, trước hết hãy tôn lập quan Thập Đạo (chỉ Lê Hoàn - NKT) lên làm Thiên Tử rồi sau hãy xuất quân thì hơn.

Quân sĩ nghe vậy thì hô vạn tuế!”1

Nho gia xưa chê hành vi này của Phạm Cự Lạng là “bất trung”, nhưng rõ ràng, đó là hành vi đáng kính. Hành vi đó tỏ rõ, Phạm Cự Lạng đặt lợi ích và vận mệnh sống còn của quốc gia lên trên hết. Vấn đề đặt ra cho đất nước lúc ấy không phải là giữ gìn “giềng mối của nhà Đinh” mà là giữ gìn độc lập dân tộc. Trong điều kiện cụ thể của lịch sử lúc bấy giờ, ai đủ năng lực và uy tín để chỉ huy cuộc chiến tranh giữ nước thì người đó xứng đáng làm vua.

Ngay khi vừa được tôn lên ngôi, Lê Hoàn đã sai Phạm Cự Lạng gấp rút đi chỉnh đốn lực lượng vũ trang, chuẩn bị một cách có hiệu quả cho cuộc đối đầu với quân Tống. Vai trò của Phạm Cự Lạng trong giai đoạn chuẩn bị kháng chiến là rất lớn lao. Thắng lợi trọn vẹn của nhân dân ta trong việc đập tan hoàn toàn những đạo quân xâm lăng của nhà Tống vào năm 981 gắn liền với công lao chuẩn bị này.

Khi quân Tống tràn sang, Phạm Cự Lạng là người chỉ huy lực lượng thủy quân và chính thủy quân do Phạm Cự Lạng chỉ huy đã lập được chiến công xuất sắc nhất. Kế thừa kinh nghiệm của Ngô Quyền, Lê Hoàn đã cho đóng cọc gỗ vạt nhọn xuống sông rồi nhử địch vào khu chướng ngại vật bất ngờ và nguy hiểm để tiêu diệt chúng. Người chỉ huy thực hiện thành công mưu kế này của Lê Hoàn cũng chính là Phạm Cự Lạng. Thủy quân Phạm Cự Lạng đã liên tục tấn công quân Tống khắp vùng ven biển đông bắc2.

Các tướng giặc như Trần Khâm Tộ và Lưu Trừng không sao vượt qua nổi sức cản phá quyết liệt của thủy binh Phạm Cự Lạng. Khi chủ tướng của giặc là Hầu Nhân Bảo mắc mưu Lê Hoàn, bị Lê Hoàn bắt giết, thì bọn Trần Khâm Tộ và Lưu Trừng cũng hốt hoảng chạy trốn. Lê Hoàn cùng Phạm Cự Lạng dốc toàn lực ra truy đuổi. Các tướng giặc như Quách Quân Biện và Triệu Phụng Huân đều bị bắt sống. Quân Tống bị bắt và bị giết không biết bao nhiêu mà kể.

Sau trận đại bại này, vua Tống nặng lời quở trách. Lưu Trừng sợ đến phát bệnh mà chết, Vương Soạn bị giết, Tôn Toàn Hưng bị chém và bêu đầu ở chợ.

Sau những chiến công xuất sắc này, Phạm Cự Lạng được Lê Hoàn phong tới hàm Thái úy. Sinh thời, ngoài vũ dũng hơn người, Phạm Cự Lạng còn được coi là tấm gương sáng về sự thanh liêm và chính trực. Nhiều triều đại sau đã phong ông làm Thượng Đẳng Thần để thành kính thờ phụng.
____________________________________
1. Đại việt sử kí toàn thư, (Bản kỉ, quyển 1, tờ 9a-b).
2. Trước đây, do chỗ nhầm lẫn Lãng Sơn (tên một hòn đảo ở Hạ Long) ra Lạng Sơn, nên nhiều người lấy làm khó hiểu rằng tại sao Lê Hoàn lại sai đóng cọc gỗ... Ở khu núi non hiểm trở. Thủy binh ta lúc này có ngược sông Lục Nam và sông Thương để đánh giặc, nhưng bãi cọc gỗ thì cũng ở khu vực sông Bạch Đằng mà thôi.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #17 vào lúc: 05 Tháng Hai, 2009, 11:52:15 am »


06 - LÝ THƯỜNG KIỆT (1019 – 1105)

                                                               “Ông là người giàu mưu lược, có biệt tài làm tướng súy,
                                                                làm quan trải thờ ba đời vua, phá Tống, bình Chiêm, công
                                                                lao đức vọng ngày một lớn, được vua sủng ái, là người
                                                                đứng đầu các bậc công hầu vậy”.


                                                                                               Phan Huy Chú
                                                                          (Lịch triều hiến chương loại chí - Nhân vật chí)


1. Quê hương và cuộc đời

Đúng như Phan Huy Chú nói, Lý Thường Kiệt là “người đứng đầu các bậc công hầu” của triều Lý. Nhưng, ông lại không phải là người họ Lý chính tông. Hầu hết các tài liệu cổ đều nói rằng Lý Thường Kiệt vốn người họ Ngô, tên húy là Tuấn. Ngô Tuấn người làng An Xá, huyện Quảng Đức. Đất huyện Quảng Đức nay thuộc Hà Nội, làng An Xá nằm ở phía Nam của Hồ Tây. Về sau, do việc mở rộng đê Cơ Xá (tức đê sông Hồng), làng An Xá dời đến bãi Cơ Xá. Bãi này, sau vì dân đến lập nghiệp đông, lập một xã mới, đó là xã Phúc Xá. Gia đình Ngô Tuấn ở trong thôn Bắc Biên của xã này. Thôn Bắc Biên xưa, nay là xã Ngọc Thụy, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội. Tuy nhiên, đó chỉ là nơi sinh và là đất sống thuở hàn vi của Ngô Tuấn mà thôi. Sau này, khi đã có danh vọng lớn trong triều, ông dời nhà về phường Thái Hòa (nay thuộc nội thành Hà Nội).

Ngô Tuấn tự là Thường Kiệt, sau vì có công, được vua sủng ái nên được ban quốc tính (tức được lấy theo họ của nhà vua), do đó, người đời vẫn quen gọi Ngô Tuấn theo cách ghép giữa quốc tính với tên tự là Lý Thường Kiệt. Sử cũ cũng chép theo cách này, vì vậy, hậu thế phần lớn chỉ biết đến tên gọi phổ biến là Lý Thường Kiệt, ít ai biết đến họ và tên thật của ông là Ngô Tuấn.

Lý Thường Kiệt sinh năm Kỉ Mùi (1019), tức là năm Thuận Thiên thứ 10, đời vua Lý Thái Tổ (1010 - 1028). Sử cũ chép rằng, lúc còn trai trẻ, ông là người có vẻ mặt “tươi đẹp lạ thường”, cho nên, năm 23 tuổi, được tuyển làm Hoàng Môn Chi Hậu, tức là một chức hoạn quan nhỏ ở trong triều. Nhưng cũng từ đây, Lý Thường Kiệt bắt đầu một quá trình lâu dài và liên tục, tỏ cho thiên hạ thấy rằng, ông không phải chỉ có vẻ mặt “tươi đẹp lạ thường” mà còn có cốt cách và tài năng phi thường.

Lý Thường Kiệt làm quan trải thờ ba đời vua là Lý Thái Tông (1028 - 1054), Lý Thánh Tông (1054 - 1072) và Lý Nhân Tông (1072 - 1127). Từ một chức hoạn quan nhỏ, Lý Thường Kiệt được thăng dần đến chức Phụ Quốc Thái Phó, Dao Thụ Chư Trấn Tiết Độ, Đồng Trung Thư Môn Hạ, Thượng Trụ Quốc, hà Thái Úy, tước Khai Quốc Công và được nhận làm Thiên Tử Nghĩa Đệ (em kết nghĩa của Thiên Tử).

Sinh thời, Lý Thường Kiệt có ba cống hiến lớn. Một là không ngừng nêu cao tấm gương sáng ngời về tinh thần đoàn kết vì nghĩa cả, không ngừng nêu cao phẩm giá trung quân ái quốc tốt đẹp của bậc đại thần khi vận nước lâm nguy cũng như khi non sông được thái bình. Hai là, góp phần đắc lực cùng vua và triều đình trong sự nghiệp xây dựng đất nước, đặc biệt là góp phần củng cố sức mạnh của guồng máy nhà nước đương thời. Ba là, vạch kế hoạch chiến lược và trực tiếp chỉ huy những trận đánh lừng danh nhất của thế kỉ XI, đập tan hoàn toàn mưu đồ xâm lăng nguy hiểm và xảo quyệt của quân Tống, bảo vệ vững chắc nền độc lập của nước nhà. Trong khoảng thời gian chừng hơn một chục năm sau khi Lý Thánh Tông qua đời (1069), Lý Thường Kiệt thực sự là linh hồn của đất nước, là người chịu trách nhiệm lớn nhất trong sự nghiệp điều khiển vận mệnh quốc gia. Ở một chừng mực nào đó, cũng có thể nói rằng, Lý Thường Kiệt gần như là vua của nước nhà trong giai đoạn khó khăn nhất của đất nước ở thế kỉ XI.

Về mặt văn hóa, Lý Thường Kiệt cũng đã có những đóng góp to lớn. Ông đã để lại cho đời một số áng văn thơ, trong đó, nổi bật nhất là bài tứ tuyệt không đề, được hậu thế chọn bốn chữ đầu trong câu đầu làm đề để dễ truyền tụng, đó là bốn chữ Nam quốc sơn hà. Nam quốc sơn hà là một trong những áng thiên cổ hùng văn, có giá trị như bản tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất của nước nhà.

Lý Thường Kiệt qua đời vào tháng sáu năm Ất Dậu (1105) thọ 86 tuổi. Điều đáng nói là trước khi qua đời một năm (năm 1104, tức là năm đã 85 tuổi), Lý Thường Kiệt vẫn còn là tướng tổng chỉ huy quân đội, đã đánh và đánh thắng một trận rất lớn ở phía Nam đất nước.

Năm 1126 (tức là 23 năm sau khi Lý Thường Kiệt qua đời) nhà sư Thích Pháp Bảo có soạn bài Ngưỡng Sơn Linh Xứng tự bi minh (bài minh, khắc trên bia, đặt ở chùa Linh Xứng, núi Ngưỡng Sơn), trong đó có đoạn:

          Việt hữu Lý công,
          Cổ nhân chuẩn thức.
          Mục quận ký minh,
          Chưởng sự tất khắc.
          Danh dương hàm hạ,
          Thanh chấn hà vực.


Đoạn này đại để có nghĩa là:

          Nước Việt có người họ Lý,
          Theo đúng phép của người xưa.
          Đã cầm quân là tất thắng lợi,
          Đã trị nước thì dân được yên.
          Danh lẫy lừng thiên hạ,
          Tiếng vang khắp xa gần.

Đền thờ Lý Thường Kiệt được lập nên rất nhiều nơi trong khắp đất nước ta. Và ngày nay, không ít những ngôi đền này vẫn còn được lưu giữ.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #18 vào lúc: 05 Tháng Hai, 2009, 12:00:56 pm »

2. Vận nước lâm nguy

Vào khoảng giữa thế kỉ thứ XI, bởi những cuồng vọng của nhà Tống, một lần nữa, vận nước lại lâm nguy. Triều Lý và Đại Việt chỉ có thể tồn tại và phát triển khi giành được toàn thắng trong cuộc chiến đấu chống quân Tống xâm lăng.

Bấy giờ ở trên đất Trung Quốc, triều Tống điêu đứng bởi một loạt những mâu thuẫn và xung đột khá gay gắt. Trước hết là về mặt đối ngoại, uy danh của nhà Tống càng ngày càng bị suy giảm mạnh mẽ, đặc biệt là đối với hai nước Đại Liêu và Tây Hạ ở phía Bắc của nhà Tống.

             Liêu (hay Đại Liêu) là quốc gia của người Khiết Đan, thành lập trong thời Ngũ Đại
             Thập Quốc của Trung Quốc. Lúc đầu, nhà Tống đánh giá rất thấp tiềm lực của Đại Liêu, nhưng
             đến khi đánh giá đúng thì đã quá muộn. Nhà Tống từng hai phen đem quân đánh vào Đại Liêu
             (năm 979 và năm 986) nhưng cả hai phen đều bị đại bại. Năm 1004, đến lượt Đại Liêu chủ động
             đem quân tấn công nhà Tống. Quân Đại Liêu đã tiến đến sát kinh đô của nhà Tống và buộc nhà
             Tống phải kí hàng ước, nạp cho Đại Liêu mỗi năm 200.000 tấm lụa và 100.000 lạng bạc. Năm
             1042, Đại Liêu bắt nhà Tống phải nạp thêm lụa và bạc nhiều hơn trước nữa. Đỉnh cao nhất là sự
             kiện năm 1075. Năm đó, Đại Liêu bắt nhà Tống phải cắt dâng 700 dặm đất.

             Tây Hạ là quốc gia của người Đảng Hạng, nằm ở phía Tây Bắc Trung Quốc. Quốc gia này
             thành lập năm 1032. Khi mới thành lập, Tây Hạ tuy bề ngoài thì tỏ ra thần phục nhà Tống nhưng
             bên trong thì tích cực lo chuẩn bị lực lượng để tranh hùng với nhà Tống. Đến giữa thế kỉ XI, nhà
             Tống phải công nhận Tây Hạ là một nước hoàn toàn độc lập chứ không phải là phiên bang của
             nhà Tống nữa. Và, sau nhiều lần đụng độ, nhà Tống cũng buộc phải kí hàng ước với Tây Hạ,
             nhục nhã không kém gì với Đại Liêu. Theo đó, mỗi năm nhà Tống phải nạp cho Tây Hạ 72.000
             lạng bạc, 153.000 tấm lụa và 3.000 cân trà. Những năm 1068 và 1085, nhà Tống đã đem quân
             đi đánh Tây Hạ, cốt để rửa nhục, nhưng rốt cục lại bị thua và bị Tây Hạ tiêu diệt mất đến sáu
             chục vạn quân.


Những cuộc xung đột triền miên với Đại Liêu và Tây Hạ đã khiến cho tiềm lực của nhà Tống ngày một yếu hẳn đi. Trong khi đó triều đình nhà Tống còn phải đối phó với không ít những khó khăn khác. Trước hết, một bộ phận khá lớn của triều đình nhà Tống vẫn ôm nỗi hận thất bại ở nước ta năm 981. Năm đó, dù quyết ồ ạt tấn công một cách bất ngờ, quân Tống xâm lăng vẫn bị Lê Hoàn đánh cho tan tành. Khi thất bại trong việc rửa nhục ở mặt Bắc, không ít quan lại của triều Tống chủ trương phải rửa nhục ở nước ta. Ngoài ra, triều Tống còn phải đối phó với một loạt những vấn đề phức tạp khác, như: sự chia bè kết cánh trong đội ngũ giai cấp thống trị, những cuộc nổi dậy đấu tranh của nhân dân Trung Quốc đương thời... v.v.

Thực tế cho thấy rằng, cần có một nhà cải cách đủ uy tín và đủ năng lực để đưa nhà Tống thoát khỏi những bế tắc trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Và, nhà cải cách đó cũng đã xuất hiện: Vương An Thạch.

             Vương An Thạch là một trong những bậc đại danh Nho của Trung Quốc đời Tống. Ông cũng
             là một trong số không nhiều những nhà cải cách táo bạo và có tầm vóc lớn của Trung Quốc lúc
             bấy giờ. Từ thời trị vì của Tống Nhân Tông (1023 - 1064), Vương An Thạch đã liên tiếp dâng
             thư xin cải cách. Đến thời Tống Anh Tông (1064 - 1067), Vương An Thạch được trao chức Tể
             Tướng. Từ đây, những ý tưởng cải cách mạnh mẽ của ông được nhanh chóng thực hiện bởi cơ
             sở quyền lực mà ông được nắm giữ. Vương An Thạch đã cho thi hành một loạt những cải cách,
             mang những tên gọi như: Thanh miêu, Miễn dịch, Thị dịch, Quân du, Bảo giáp, Bảo mã... Sử gọi
             chung tất cả những cải cách ấy là Tân pháp Vương An Thạch.


Tư tưởng chủ đạo trong quan hệ bang giao của Tân pháp Vương An Thạch là trở lại thực hiện chiến lược Tiền Nam hậu Bắc (phương Nam trước, phương Bắc sau) vốn có từ thời nhà Tần và dồn mâu thuẫn từ bên trong ra bên ngoài, gây hấn ở bên ngoài để tập trung sự chú ý của dư luận ở bên trong. Tư tưởng chủ đạo đó đã đặt nền tảng cho kế hoạch chuẩn bị xâm lăng nguy hiểm và xảo quyệt của nhà Tống đối với nước ta.

Về mặt quân sự, nhà Tống chủ trương huy động một lực lượng mạnh, đủ để áp đảo Đại Việt, và lực lượng đó phải được làm quen trước với chiến trường Đại Việt. Chưa từng có mặt ở nước ta, hẳn nhiên là chúng không thể trực tiếp làm quen với địa hình cũng như đối thủ chủ yếu là quân đội nhà Lý. Để khắc phục tình trạng này, nhà Tống cho lập ba căn cứ quân sự lớn ở Châu Ung, Châu Khâm và Châu Liêm.

             Châu Ung, Châu KhâmChâu Liêm đều nằm ờ phía Nam Trung Quốc, sát với biên
             giới phía Bắc của nước ta. Nơi đây, địa hình và thời tiết nói chung là không khác biệt quá nhiều
             so với miền Bắc nước ta. Châu Ung, Châu Khâm và Châu Liêm sẽ là ba căn cứ xuất phát, cũng là
             ba địa điểm tập kết lợi hại của quân Tống. Lương thực và khí giới được tích trữ đầy đủ ở đây.
             Từ ba căn cứ này, quân Tống thường xuyên tổ chức những trận đánh thăm dò vào nước ta.
             Tình hình biên giới mặt Bắc trở nên rất căng thẳng.


Về mặt chính trị, nhà Tống chủ trương tìm đủ mọi cách để phá vỡ khối đoàn kết của nhân dân ta. Chúng dồn sức vào việc thực hiện hai mục tiêu chủ yếu. Một là mua chuộc để lôi kéo các vị tù trưởng ở biên giới, hòng thông qua đó để mua chuộc và lôi kéo đồng bào các dân tộc ít người. Đây là âm mưu phá từ ngoài phá vào. Hai là lợi dụng những vết rạn nứt trong khối đoàn kết của quý tộc và tướng lĩnh cao cấp. Đây là âm mưu phá từ trong phá ra.

             Bấy giờ, khối đoàn kết của quý tộc và tướng lĩnh cao cấp trong triều Lý cũng có nhiều vấn đề
             rất đáng quan tâm. Mối hiềm khích giữa một bên là phe của bà Thái Hậu Thượng Dương và một
             bên là phe của bà Thái Phi Ỷ Lan ngày một trở nên trầm trọng. Năm 1073, bà Thái Hậu Thượng
             Dương cùng 76 thị nữ của bà bị bức tử, quan Thái Sư là Lý Đạo Thành bị buộc phải rời kinh
             thành Thăng Long ra trấn trị ở tận Nghệ An... v. v.


Về mặt ngoại giao, nhà Tống tìm đủ mọi cách để bao vây và cô lập nước ta. Sứ giả của chúng liên tiếp đến với các vương quốc ở chung quanh ta, ngày đêm tính kế chia rẽ và xúi giục họ phối hợp hành động với quân Tống. Và, nhà Tống đã thực sự thành công ở Chiêm Thành. Vua Chiêm Thành lúc bấy giờ là Chế Củ không ngừng cho quân quấy phá. Đến đây, cả biên giới mặt Bắc lẫn biên giới mặt Nam đều trở nên căng thẳng. Đại Việt bị dồn ép bởi hai gọng kìm quân sự đến từ hai phía Bắc và Nam.
« Sửa lần cuối: 05 Tháng Hai, 2009, 12:26:48 pm gửi bởi chuongxedap » Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #19 vào lúc: 05 Tháng Hai, 2009, 12:32:13 pm »

3. Đất nước bừng bừng khí thế chuẩn bị chống xâm lăng

Điều may mắn cho đất nước là lúc bấy giờ, triều Lý đã sớm nhận ra những cuồng vọng của nhà Tống đối với nước ta. Hai nhân vật có công lớn nhất trong việc phát hiện mưu đồ của kẻ thù và chủ động tiến hành các biện pháp chuẩn bị đối phó hữu hiệu là vua Lý Thánh Tông và Lý Thường Kiệt.

             Vua Lý Thánh Tông tên thật là Lý Nhật Tôn, con của vua Lý Thái Tông (1028 - 1054). Nhà vua
             sinh ngày 25 tháng 2 năm Quý Hợi (1023) tại kinh thành Thăng Long, được lập làm Thái Tử ngày
             6 tháng 5 năm Mậu Thìn (1028), được nối ngôi ngày 01 tháng 10 năm Giáp Ngọ (1054) và ở ngôi
             cho đến năm Nhâm Tí (1072), thọ 49 tuổi.


Tuy nhiên, vì vua Lý Thánh Tông qua đời khi công cuộc chuẩn bị đối phó đang dang dở, vua nối nghiệp là Lý Nhân Tông (1072 - 1127) lúc này đang còn tuổi ấu thơ, cho nên, trọng trách lớn đều chủ yếu là do Lý Thường Kiệt đảm nhận. Ở một chừng mực nhất định nào đó, chúng ta cũng có thể nói rằng, Lý Thường Kiệt chính là linh hồn của sự nghiệp bảo vệ độc lập trong giai đoạn lịch sử cụ thể này. Lý Thường Kiệt đã để lại cho lịch sử một trong những điển hình vô giá về kinh nghiệm chuẩn bị ứng phó.

Về chính trị, Lý Thường Kiệt chủ trương nhanh chóng khôi phục và củng cố khối đoàn kết. Trước hết, ông đã nêu gương cảm động về việc hàn gắn những vết rạn nứt trong nội bộ quý tộc và tướng lĩnh cao cấp.

            Như trên đã nói, sau khi Lý Thánh Tông qua đời, cuộc xung đột giữa phe của bà Thái Hậu
             Thượng Dương và phe của bà Thái Phi Ỷ Lan đã gây nên những tác hại không nhỏ. Nhà Tống đã
             nhìn thấy và đang lăm le lợi dụng cuộc xung đột này. Trước tình thế nguy hiểm đó, Lý Thường
             Kiệt đã mời Lý Đạo Thành về kinh đô giữ chức vụ cũ, còn mình thì chỉ trông coi việc chỉ huy
             quân đội mà thôi. Bà Thái Hậu Thượng Dương thì đã mất, bà Thái Phi Ỷ Lan sau đó chẳng bao
             lâu thì đi tu theo Phật Giáo (bà tu tại gia, nhà Phật gọi phụ nữ tu tại gia là Ưu-bà-di), hiềm khích
             trong nội bộ quý tộc và tướng lĩnh cao cấp được xóa bỏ. Điều kiện tốt đẹp để củng cố khối đoàn
             kết rộng lớn của toàn dân đã được mở ra.


Đối với đồng bào các dân tộc ít người, triều Lý đã tiến hành nhiều biện pháp lôi kéo khác nhau. Nói theo cách nói hiện đại, khu vực trọng tâm để triều Lý tiến hành các biện pháp này là vùng tương ứng với Tây Bắc và Việt Bắc của nước ta hiện nay.

             Từ năm 1042, Hình thư, bộ luật thành văn đầu tiên đã được biên soạn. Thời kì cai trị bằng
             luật pháp đã bắt đầu mở ra. Tuy nhiên, triều Lý vẫn cho phép đồng bào các dân tộc ít người
             được xét xử tội nhân theo phong tục và tập quán riêng của họ chứ không nhất thiết phải hoàn
             toàn theo đúng luật định của triều đình.

             Các vị tù trưởng được triều đình ban cho nhiều đặc quyền đặc lợi được phong hàm tước cao.
             Triều đình và hoàng tộc cũng không ngần ngại gả công chúa cho các vị tù trưởng. Mối liên hệ
             cộng đồng quốc gia vì thế mà nhanh chóng được tăng cường và củng cố. Âm mưu phá hoại của
             quân Tống dần dần bị đẩy lùi.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM