ĐỒNG CẢM VÀ CHIA SẺ ( tiếp)
Sau ngày cưới, N lên làm tiểu đoàn phó tiểu đoàn 1 (K15). Cuộc sống chẳng khác trước ngày cưới là bao. Hàng tuần T vẫn đạp xe lên thăm chồng, anh em tiểu đoàn bộ dành riêng cho họ một gian nhà vách nứa mà vật dụng toàn đồ lính từ nồi niêu đến chén bát. Sáng ra T thường đi chợ mua thêm ít thức ăn làm cơm để bồi dưỡng cho N và đồng đội của anh, bữa thì có anh em trong D bộ, bữa thì anh em C2 cũ lên thăm. Sớm thứ hai T lại đạp xe về trường trong giá rét núi rừng để kịp giờ lên lớp. Mỗi lần hai vợ chồng xum họp, gọi là bữa ăn tươi cũng chỉ thêm ít tóp mỡ sốt cà chua và rau sống mà anh em đồng đội và đôi vợ chồng trẻ cũng tràn trề hạnh phúc. Thương vợ lắm, song N chưa biết phải thu xếp ra sao để vợ đỡ vất vả, pháo địch hàng ngày vẫn bắn sang, việc đi lại hết sức nguy hiểm. N tính hết ba năm vợ anh phải về Hà Nội, trước mắt mỗi năm, hai vợ chồng cũng gần nhau được hai kỳ phép là tạm ổn, rồi tính tiếp. Ở Hà Nội có gì còn có bố mẹ, bà con hàng xóm, điều kiện sinh hoạt khá đầy đủ anh cảm thấy an tâm hơn. Còn N, nếu được đi học hy vọng cũng sẽ có những thay đổi thuận tiện hơn trong cuộc sống gia đình.
Ấy vậy mà mọi toan tính đều không thành. Năm đó toàn vùng biên cương mất mùa, dân đói lắm, là người lính từng gắn bó và được dân che chở trong chiến đấu địch hậu thời đánh Mỹ, nhìn đồng bào dân tộc không có cơm ăn, N đã có quyết định động trời. Anh vượt rào, tự quyết định cấp 2 tấn gạo trong kho dự trữ chiến đấu của tiểu đoàn cứu đói cho đồng bào dân tộc hai xã ven thị trấn.
Bà con có được cơm ăn thì N bị kỷ luật, cánh cáo toàn sư đoàn, cái án kỷ luật lần đầu tiên trong đời đã tước mất cơ hội đi học của N. Giấc mộng đổi đời cũng tiêu tan, chưa biết bao giờ thực hiện được.
Nghe tin chồng bị kỷ luật, cô giáo lại tất tả đạp xe về Đồng Đăng an ủi chồng, giúp anh giữ vững tinh thần để tiếp tục công tác.
Cô giáo xin nghỉ phép, ở lại cùng đơn vị của chồng tham gia phong trào tăng gia của đơn vị, không quản ngại bụng mang dạ chửa. Hình ảnh vợ chồng tiểu đoàn phó trên nương làm rẫy đã động viên khích lệ anh em trong đơn vị tham gia tích cực và thực chất hơn. Con sơn ca lại cất tiếng hát mỗi mỗi ngày trân trận địa, vẫn tiếng hát xưa nhưng nay thêm đàm thắm, chia sẻ của người trong cuộc. Lính cả tiểu đoàn ai cũng biết và mến yêu chi T.
Đồng bào vượt qua được nạn đói, vụ tiếp theo được mùa đã mang thóc trả lại và cám ơn bộ đội D1 đã chia sẻ với dân. Vậy là trận địa lòng dân biên giới được đơn vị giữ vững, nhờ sự chịu đựng chia sẻ của anh em toàn tiểu đoàn, nhờ cái án kỷ luật của N và một chuyện nữa , chính những ngày gian khó đó, một sinh linh bé nhỏ, đứa “ con đầu ” của họ đã mất khi cô giáo bị ngã trong lúc chạy tránh pháo địch. Anh em đồng đội ai biết đều vô cùng xót xa và thương vợ chồng N..
Vẫn chưa hết, số phận hẩm hưu chưa buông tha N. Khi làm tham mưu phó trung đoàn, N lại được đi học học viện lục quân Đà Lạt. Nhưng cả lần thứ ba này nữa anh cũng không thực hiện được mơ ước của mình.
Về Hà Nội thì vợ ốm nằm viện, N ở lại ít hôm chăm sóc vợ nên lên nhập học muộn, trường trả về đơn vị. Cục cán bộ yêu cầu kỷ luật vì đã không chấp hành đúng thời gian nhập học. Trung đoàn hiểu hoàn cảnh của N nhưng không thể không kỷ luật N được vì anh thuộc diện nguồn đào tạo cán bộ chỉ huy quân sự kế cận do những chiến công trước đó. Để tránh kỷ luật N, trung đoàn quyết định cho anh về hưu non và N chấp nhận.
T nằm trên giường bệnh hay tin anh bị kỷ luật và xin về hưu thì nước mắt ứa trào . Vươn tay ôm lấy bờ vai của người lính khắc khổ đen đủi, cô thổn thức :” Anh vẫn mãi là của em !“.
Sự đời trớ trêu thay, cái vận đen đủi của N làm người ta phải ngẫm. Đành rằng N cũng có sai phạm, hai tội trên có đáng để quân đội mất đi một cán bộ suốt mười mấy năm lăn lộn nơi chiến trường, một người lính dũng cảm luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến đấu trên các cương vị được giao.
Tôi vẫn nhớ ngày bắt đầu chiến tranh biên giới, đất nước cực kỳ nguy ngập. Chỉ sau hai ngày khi tiếng súng ở biên giới phía Bắc vang lên, sư đoàn 337 từ một đơn vị làm kính tế đã chấp hành lệnh trên lên đường ra trận. Sự gấp gắp đến mức trong khi những người lính còn đang hành quân bộ ra ga Si thì các cán bộ tác chiến cấp tiểu đoàn đã đi bằng máy bay ra Lạng Sơn để kịp chuẩn bị chiến trường.
Trong đơn vị không ít người tranh thủ tụt tạt về thăm và báo cho gia đình.Nhiều người khi lên đã không kịp tham gia trận đánh và tất nhiên không ai bị kỷ luật cả, bởi lúc ấy tiền tuyến cần người, những người lính có mặt tuyến đầu đã là quí như vàng rồi.
Nhà N ngay cùng huyện Diễn Châu, cách ga Si không xa mà anh đâu có dám chạy về báo cho gia đình. Đấy không phải là ý thức của người lính khi tổ quốc lâm nguy đó sao ? Chuyện N nhập học muộn về hình thức cũng như những người lính tụt tạt thì lại bị kỷ luật, Tại sao thế
Chỉ khi đất nước một lần nữa lâm nguy thì người ta mới nhớ tới Nguyễn Hữu An, Nguyến Chuông và những người lính trận.