Bác Phong Quảng đi lang thang các topic khác mà không quay về đây nữa, không lẽ Bác giận cháu à, tiếp nữa đi Bác ơi!
Tôi tiếp đây, hết chuyện hay rồi chỉ còn chuyện xấu thôi, ai ném đá thì cứ nhè Desperado_I mà ném nhé.
CHỢT NHẬN RA
Ngồi trong thư viện QĐ lật tìm từng trang của cuốn “lịch sử quân khu 4”, tôi đang muốn tìm hiểu thêm về hoạt động của đoàn Phong Quảng và f 337 trong chiến tranh biên giới phía Bắc. Đọc những trang sách tôi hiểu thêm nhiều điều về mảnh đất, con người khu 4 trong suốt những năm tháng chiến tranh..
Quả đúng mảnh đất Bắc Trung bộ này là cái nôi đã sinh ra rất nhiều đơn vị chiến đấu nổi tiếng của quân đội ta trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ như f324, f325, f304, f341, f968.v.v.
Trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc, chỉ trong mấy ngày đầu của cuộc chiến, QK4 kịp điều động các đơn vị của mình ra mặt trận cùng các quân khu biên cương chiến đấu rất hiệu quả.
F31 của bác Tài Liên Sơn ở Tây Nam, rồi nhập vào QĐ3
F316B của bác Thắng Còng ở Tây Bắc
F337 của bác lính mới ở Lạng Sơn
Tôi đặc biệt tự hào là trong số những cán bộ chiến sĩ chiến đấu dũng cảm, lập nhiều chiến công được lưu tên tuổi trong cuốn sách này có một đồng đội của tôi ở K15 ( d1, e4, f337 ) và hiện cũng là một thành viên QSVN_bác Bến Hải. Hơi tiếc vì hiện nay ông bạn tôi vẫn phải ngày đêm bươn trải kiếm sống chưa thể tham gia vào QSVN thường xuyên được.
Xem hình của các vị tư lệnh và phó tư lệnh có trong cuốn sách chợt nhận ra thiếu tướng Cao Xuân Khuông, chính là anh Khuông trung đoàn phó trung đoàn Phong Quảng của chúng tôi thời kỳ 1973_1975. Tôi nhớ lại lần đầu gặp anh ở điểm cao 330 năm 1973, cuộc gặp ấy thật không dễ chịu gì …
Tôi không thể nhớ chính xác là ngày tháng nào trong cái năm 1973 ấy, chỉ biết là sau những ngày gian nan vất vả khi chúng tôi mới về đứng chân trên đất Phong Điền. Khi trong mỗi người lính trẻ chúng tôi đã trải qua và thực sự hiểu ra thực tế chiến trường không như những gì mình đã nghĩ trước đây. Chuyện đói cơm thiếu muối, vắt sức đêm ngày làm trận địa hầm hào, vừa xong trận địa lại di chuyển sang nơi khác, rong ruổi hết 150 rồi đến 300…, chúng tôi cứ chạy quanh săn phục trực thăng địch mà chưa đánh được trận nào. Mới chỉ mìn và muỗi rừng thôi đã làm quân số chúng tôi hao hụt, thay nhau khiêng cáng đồng đội đi viện gần 3 ngày đường mới ra đến nơi. Tất cả những gian khó ấy chúng tôi cũng vượt qua và thêm từng trải, song qua nó chúng tôi cũng nhận thấy đôi điều làm đám lính trẻ thất vọng về hình ảnh một số (ít) cấp chỉ huy của mình. Trong các bài viết trước tôi đã bỏ qua nó vì cho rằng nó chỉ là chuyện nhỏ và chỉ là số ít so với hàng ngàn điều tốt đẹp vốn có của người lính. Nghĩ đi nghĩ lại tôi thấy cần phải nêu ra để các bạn trẻ hiểu và tránh được những phản ứng tiêu cực không đáng có như chúng tôi ngày đó .
Trong những lúc khó khăn ấy cả tiểu đội không còn muối phải ăn nhạt mấy hôm liền, mắt ai cũng vàng ra mệt mỏi thế mà trong bữa ăn lúc lúc lại thấy A trưởng mở bi đông làm một ngụm nhỏ như uống rượu. Anh em thấy lạ tìm hiều mới vỡ lẽ đấy là bi đông nước muối. Thất vọng biết bao về người đồng đội, người anh .
Khi tiểu đội tác chiến độc lập ở điểm cao 300, ban ngày tất cả phải lên để sẵn sàng chiến đấu nhưng về đêm cán bộ A,B kéo nhau xuống kiềng ngủ cả, để lại ba thằng lính trẻ trên trận địa. Rồi khi máy bay xuất hiện dù con xa ngoài tầm bắn đã thấy sắc mặt A trưởng tái mét, thở gấp thế thì vào chiến đấu không biết sẽ chỉ huy anh em ra sao ra sao. Ngồi lắp đạn bên vách trận địa mấy lính trẻ thấy buồn , may lúc đó còn có B phó cùng đi, ít ra con có người cho lính tráng trông cậy. Thật không may cho lính khẩu đội này, nhìn khẩu đội bạn thấy A trưởng toàn những người mạnh mẽ, gương mẫu và vui tính, luôn biết dìu dắt lớp trẻ. Nhiều khi thấy vì anh em mà mấy ông ấy to tiếng cả với trung đội, đại đội trong khi A trưởng của tôi thì ngược lại mà còn làm nhiều điều nực cười hơn. Cả đại đội thỉnh thoảng mới có làm một tờ báo tường, chưa bao giờ tôi thấy tiểu đội ( ba người ) cũng làm riêng một tờ báo tường như tiểu đội tôi. Lúc ấy tôi cũng chẳng để ý là ai qui định hay là một cách chơi trội của ông A trưởng. Ông ấy khoán mỗi thằng làm 2 bài thơ hoặc viết một bài gì đó. Chúng tôi bảo : ‘ Ối giời ! có ba ông ở tít tịt trên đồi cao, suốt ngày quần tà lỏn, nước uống tính từng giọt mà lại còn bích báo ai mà đọc.”
Chúng tôi phản ứng là không biết làm thơ và quên chữ rồi nhất định không chịu làm. Hai thằng cứ ngồi đánh cờ với nhau. Bất lực trước phản ứng phớt đời của chiến sĩ, khẩu đội trưởng lay hoay tìm kiếm bìa, giấy và một lọ thuốc đỏ quyết làm một mình. Cuối cùng tờ báo tường của khẩu đội tôi cũng ra đời. Cái tít lớn được viết bằng thuốc đỏ “ tiền phong” chữ t không viết hoa và nó loàng ngoàng hơn cả chữ Ả Rập. Bên dưới tít là dòng chữ :” tiếng nói của khẩu đội 3” còn nội dung thì được nhặt từ mấy bài thơ trong quyển văn nghệ quân đội, tôi cũng không nhớ số bao nhiêu, năm nào nữa nhưng đã cũ nát mà chúng tôi ai cũng đọc di , đọc lại ít nhất vài lần.
Hôm ấy, không nhớ vì lý do gì, khẩu đội trưởng vắng mặt. Tôi và Trạch đánh cờ chán lăn ra ngủ trong nhà âm. Giật mình, tỉnh dạy thấy trước cửa nhà âm là hai người lính, một già, một trẻ. Người lính già dong dỏng cao bên hông đeo khẩu K59, rất tự nhiên ông đi vào ngồi xuống cái ghế cố định chúng tôi làm bằng hai cây lầu ô. Người lính trẻ chạc như chúng tôi, chắc là công vụ vẫn đứng của nhà tay ve vẩy chiếc mũ tai bèo .
Mắt nhăm mắt mở chúng tôi ngồi dạy :” Chào thủ trưởng !” Chào vậy nhưng chẳng biết ông ấy là ông nào. Ông ngắm nhìn căn nhà âm khá lộn xộn của chúng tôi rồi hỏi :
- Sao chỉ có hai đồng chí mà lại ngủ hết cả thế này?
- Báo cáo thủ trưởng có ba nhưng anh khẩu đội trưởng đi đâu chúng tôi không biết._Chúng tôi cứ thủng thẳng trả lời
- Thế đồng chí làm gì ? Là số mấy_ Ông chỉ vào tôi và hỏi
- Chả là số nào cả, tôi chỉ biết trông súng thôi_Đang chán đời, bất mãn tôi cứ nói bừa cũng chẳng cần biết ông là gì trong trung đoàn
- Thế còn đồng chí ? _ Ông quay sang hỏi Trạch với thái độ bắt đầu gay gắt hơn.
- Tôi cũng thế, trông súng ạ._ Trạch cũng trả lời cho qua
- Chết ! Chết ! Máy bay đến thì các anh làm gì được đây. Hai đồng chí tên gì? _ Ghi xong rồi ông bỏ đi , cậu công vụ chạy theo ông xuống dốc về hướng tiểu đoàn bộ.
- Rách việc rồi ! _ Trạch lo lắng nói với tôi
- Kệ muốn sao thì sao, thôi nấu cơm đi, trưa đến nơi rồi._ Tôi bật nắp thùng đại liên lấy gạo mang xuống bếp.
Buổi chiều anh Định C trưởng lên trận địa chúng tôi, chưa nhìn thấy mặt đã thấy tiếng ông ấy chửi :” Mẹ chúng mày, lính với tráng bố láo, bố toét .”. Khi thấy chúng tôi anh trợn mắt lên :” Chúng mày biết ai đấy không ? Gặp trung đoàn phó mà trả lời thế à ! Ông Khuông đấy .” Anh chửi chúng tôi một thôi một hồi rồi vớ cái điếu cày , vừa bật lửa vừa nói :” Thằng PQ ngày mai chuyển xuống khẩu thằng Hòe ở Phước Tích”. Ông A trưởng im lặng không nói gì nhưng vẻ mặt vênh vênh khoái chí lắm.
C trưởng nhả hết khói htuốc lào, nhìn vào tờ bích báo lật phật đung đưa trên cột nhà âm, mắt trợn ngược lên :” Thằng nào bày trò bôi bác thế này ? Vứt mẹ nó đi !”…
Tôi đang sướng âm ỉ vì sắp được xuống khẩu anh Hòe ở đồng bằng Phước Tích nhưng chẳng dám lộ, nhân lúc C trưởng đòi vứt báo tường mới được thể cười toét, còn kích thêm :” Anh B làm đấy ạ ! Suốt ngày bắt bọn em làm cái đó làm sao mà luyện tập được.”
Sau ngày ấy tôi mới biết trung đoàn phó của tôi là Cao Xuân Khuông , năm 1975 khi tình thế dưới đồng bằng gặp khó khăn, không bắt được liên lạc với hậu cứ, nghe nói anh gom được 8 người lính gồm trinh sát và vệ binh của trung đoàn xuống tìm gom anh em đưa lên hậu cứ. Một kỷ niệm nhỏ không hay lắm với người trung đoàn phó mà tôi luôn kính phục chỉ có vậy.
Còn tại sao ngày ấy chúng tôi lại trả lời anh giọng bất cần đời như vậy, các bạn có thể tự luận ra được.