Đời lính khi thực hiện nhiệm vụ của mình gặp không ít trở ngại, khó khăn. Là người lính thì phải tìm mọi cách để hoàn thành nhiệm vụ, có lúc phải " vượt rào" vi phạm chút ít nguyên tắc, kỷ luật quân đội. Chuyện viết giấy bướm cấp cả trăm bình điện thời kỳ rút quân ở K, chuyện trộm hom sắn của đồng bào miền Tây Thừa Thiên là thế, nay thêm một chuyện nữa, các bác xem và gộp ngần ấy tội lại xem đã đủ gỡ " sao " Phong Quảng này được chưa
Một lần với biên giới phía BắcĐầu những năm 80 thế kỷ trước, khi hai đầu đất nước là chiến tranh , Việt Nam còn đang bị cấm vận cộng với một số sai lầm trong cải tạo và xây dưng kinh tế, khiến đời sống của dân ta vô cùng khó khăn.
Cái thời ở hậu phương là “Đêm ấy là đêm nào” , còn lính biên cương thì “ Canh toàn quốc, nước chấm đại dương”.
Tôi còn nhớ , một sĩ quan cấp úy như tôi, ở cơ quan TCHC , mà đến kỳ quân trang cũng chỉ giữ đủ 2 bộ cần thiết để đi làm còn lại may ô, áo hè, áo đông cho ra chợ trời hết, bán đi nhặt nhạnh ít tiền về mua sữa nuôi con. Chưa có khi nào chị em lại “ hạ giá “ đến thế :
Một yêu anh có may ô
Hai yêu anh có cá khô ăn dần
….
Tiện thể tôi kể cho anh quân sử biết về công tác bảo đảm hậu cần thời kỳ đó vì hầu hết các bác là lính chiến, có thế nào dùng thế, no đói thì biết thế chứ ai quan tâm vì sao.
Để bảo đảm cái ăn cho bộ đội tuyến trước, TCHC đã tổ chức các trạm quân lương trên từng tuyến như trạm 2 ở Vôi chuyên lo cho hướng Lạng Sơn, trạm 4 Phú Thọ lo cho tuyến Lào Cai, Hà Giang, trạm 6 lo thu gom hàng ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng . Ở phía Nam có trạm 9 ở Sài Gòn và vài trạm ở khu 7, khu 9 v.v. Các trạm có nhiệm vụ thu gom lương thực, thực phẩm tại địa phương do nông dân đóng góp theo nghĩa vụ và tiếp nhận lương thực, thực phẩm từ các tỉnh ở hậu phương lên rồi đẩy hàng lên biên giới. Thường thì hàng đưa lên chủ yếu là thịt lợn rim, ruốc mặn, cá khô, lương khô..v.v.
Không biết các bác đã được xơi mấy thứ đồ do ngành quân lương ta làm chưa, chứ tôi thì ruốc mặn được xơi từ ngày đánh Mỹ , cá khô thì thỉnh thoảng cũng được phân phối nội bộ một ít còn thịt rim thì chưa biết nó thế nào vì chỉ để dành cho tuyến trước.
Nhưng trên cũng yêu cầu phải đưa thực phẩm tươi lên được tuyến trước, một trong số thực phẩn tươi trong đó có lợn sống. Khả năng vận tải của cục quân lương không đáp ứng được và quân đội chưa có xe chuyên dùng chở lợn nên vẫn phải dùng zin130 chở hiệu suất rất thấp mà hao hụt nhiều. Nhóm kỹ thuật chúng tôi được giao nhiệm vụ nghiên cứu cải biên loại xe này từ những chiếc xe ca Hồng Hà đã thanh lý ( xe cơ sở là loại xe Giải Phóng của TQ).
Tôi được giao chạy thử nghiệm và viết báo cáo đánh giá kết quả . Nói chung kết quả tạm tạm các bác ạ, sau trên cũng cho cả nhón cái giấy khen. Tôi xin kể các bác nghe kỷ niệm một chuyến đi biến giới năm đó.
Nhóm chạy thử nghiệm “ Xe chở lợn” của tôi còn thêm 2 người nữa là Thọ và X đều là lái xe và thợ sửa chữa kịch bậc. Rong ruổi trên tầng cây số bằng cái xe hình thù chẳng giống ai, đầu xe ca, đít xe tải, mầu nâu đỏ do chỉ có một nước sơn chống gỉ, trông nó xù xì tối om.Vi vu trên đường nay trạm quân lương này mai trạm quân lương khác cũng vui. Nhất là cái thời ngăn sông cấm chợ, làm anh lái xe còn oai hơn cả ông tiến sĩ. Ngược thì chở lợn lên biên giới, xuôi thì ( sau khi đ ã rưửa sạch xe) chở người tất tật cả cán bộ công tác lẫn con buôn. Tất nhiên là cũng thu tiền nhưng hữu nghị theo giá ngồi sàn, sau mỗi chuyến đi về thế nào cũng có được bữa nhậu, khá hơn còn mua được hộp sữa ngoài KH mang về cho con.
Cung đường đi Cao Bằng phải qua một loạt đường đèo dốc như đèo Giàng, đèo Gió, đeo Tài Hồ Xìn, tôi đề xuất chở lợn từ Nam Định lên giao trực tiếp cho sư đoàn 346 cũng để xem khả năng vượt đèo dốc của xe đến đâu. Dự kiến chuyến đi có thể có trục trặc kỹ thuật, chúng tôi phải chuẩn bị khá kỹ từ đồ ăn, dụng cụ bếp nước cho người và cám trên đường cho lợn.
Đêm đầu lên trạm 3 Thái Nguyên, nghe anh em lái xe trạm 3 nói :” xe này chở 3,6 tấn lợn qua đèo Gió căng đấy” . Tôi đâm lo và đề nghị cho xuống bớt 1 tấn nhưng anh Truyền trạm trưởng không đồng ý, đành liều.
Sáng hôm sau đi sớm, trưa đến thị xã Bắc Cạn thì một con lợn lừ đừ có triệu chứng chán sống, chúng tôi tranh thủ hóa kiếp cho nó, cả con lợn được sát muối treo trên xe, còn nội tạng lấy mấy bộ phận chính nấu chín làm thực phẩm vừa đủ đi đường, còn lại biếu chủ nhà nơi chúng tôi nghỉ trưa.
Vượt qua đèo Giàng, đến chân dèo Gió trời còn chưa tắt nắng, chúng tôi dừng chạy tranh thủ kiểm tra phanh, điện nước và làm thêm can xăng treo dự phòng bơm xăng hoạt động kém. Rồi con bò già ì ạch mãi cũng đến đỉnh dèo Gió, nhiều khi tưởng tụt hơi may nhờ có tài già lão luyện chúng tôi vượt qua được.
Đến Ngân Sơn thì khuya lắm rồi, cả thị trấn tối mù trong sương nhưng lạ là vẫn nghe văng vẳng tiếng hát đối đáp như hát lượn năm nào tôi gặp ở Lạng Sơn. Chúng tôi dừng xe trước căn nhà có tiếng hát , tò mò muốn xem họ làm gì phía trong. Hóa ra chợ phiên Ngân Sơn vừa tan khi chiều, trai gái hát hò chưa có kết quả, đám con trai theo mấy cô gái về nhà trọ hát tiếp. Hai cô gái ở trong buồng trong hát ra, đám trai tráng năm sáu anh tụ cả xuống bếp nhờ một ông già mù đọc mớm lời cho để đối đáp với hai cô. Cả ba chúng tôi cùng ngồi trong bếp nghe hát, song không hiểu gì vì không ai biết tiếng dân tộc. Nhưng cũng tò mò xem kết quả nó ra sao và cũng nóng ruột khi muốn được nhìn thấy những cô gái bên trong căn buồng ấy. Họ hát cho đến sáng và hình như đám con trai dù được ông già mớm lời vẫn không chiếm được trái tim mấy cô nàng, khi nhìn rõ mặt người thì chẳng còn anh chàng nào. Chúng tôi rềnh ràng chờ bớt sương mới chạy nên cũng được chiêm ngưỡng mấy em Ngân Sơn, họ nói chuyện với chúng tôi bằng tiếng kinh rất sõi. Sau mới biết là mấy em học trung cấp sư phạm trên tỉnh, rủ nhau đi chợ, hèn gì mấy trai làng có sư phụ phải thua. Tiếc là chúng tôi không có thời giam để tìm hiểu thêm về họ, về chợ phiên, về nhưng đêm thức trắng đối đáp đầy cuốn hút.
Xe chúng tôi leo dèo Tài Hồ Xìn thì gặp lính ta đi chơi thị xã ngày chủ nhật bám vào xe chúng tôi như ong. Biết làm sao được! Ì ạch lên đến đỉnh tôi cho xe dừng lại, xuống thuyết phục đám lính trẻ rằng : xe đổ dốc, tốc độ lớn rất nguy hiểm. Nhưng không ông nào chịu xuống cho. Nhìn anh em thấy cũng thương nhưng không thể chạy được, cuối cùng tôi phải đề nghị :
- Anh em có muốn ăn thịt lợn không ?
Tôi vừa dứt lời, mắt lính ta sáng lên nhưng chưa hiểu cái ông trung úy này sẽ làm gì.
- Anh em cử cho hai người biết làm thịt lợn, ngồi lên xe, xuống chân đèo tôi cho mổ lợn, biếu anh em bộ lòng, có nồi, muối và cả rượu nữa ta làm bữa tươi. Còn tất cả bây giờ phải chịu khó đi bộ.
Xe xuống chân đèo, chọn chỗ có con suối tôi cho dừng xe và tìm con lợn yếu nhất ra làm thịt. Phải nói hai ông lính trẻ thạo tay nghề chỉ một loáng đã sử lý xong bộ lòng, đem ra luộc rồi ngồi chờ đại quân xuống đánh chén.
Một bữa liên hoan thịnh xoạn , tất cả thức ăn bầy trên những tàu lá chuối, rượu uống bằng bát và ăn bốc. Chúng tôi ngồi vui cùng họ một lát rồi chia tay. Đám lính trẻ tươi rói đáp lại : Cảm ơn thủ trưởng !
Được làm anh thủ trưởng bất đắc dĩ ngẫm cũng vui vui nhất là khi nhìn thấy anh em trong bữa ăn hôm đó. Buổi trưa xe đến sư bộ, tiếp chúng tôi là chủ nhiệm hậu cần f . Leo lên được chỗ ban hậu cần giữa cái nóng oi ả đã mệt hết hơi, nhìn trên bàn thấy 2 chai rượu trắng nút lá chuối và đĩa lạc rang khô khốc tôi phát hoảng. Làm xong thủ tục bàn giao, tôi ngồi cùng anh em hậu cần f uống mấy chén rượu cay nồng giữa trưa nắng biên cương mới thấm cái khó khăn một thời đã trải của người lính biên cương phía Bắc.