Phong Quảng
Thành viên
Bài viết: 620
|
|
« Trả lời #260 vào lúc: 15 Tháng Sáu, 2009, 02:25:14 pm » |
|
SAU HIỆP ĐỊNH PARI Tháng 3/1973 đơn vị chúng tôi bàn giao các vị trí chốt ở chân điểm cao 367 cho bộ đội Quảng Trị, hành quân vào Phong Điền nhập vào trung đoàn Phong Quảng. Thực ra Phong Điền với Hải Lăng là hai huyện giáp nhau, đường chim bay từ nơi đóng quân cũ đến nơi đóng quân mới chỉ vài chục km mà chúng tôi phải đi hơn 4 ngày mới vào tới nơi. Mất 2 ngày đi xuôi về phía Nam theo đường 15N, đến Tam Dần gặp đường 71 chúng tôi bắt đầu luồn rừng, theo các đường mòn xuống vùng giáp ranh. Địa hình Phong Điền có hai vùng riêng biệt. Phần rừng núi phía Tây Nam xanh ngắt những cánh rừng đang hồi sinh lúp xúp, vượt lên mảng màu xanh ấy là hàng ngàn những cây to màu trắng ngà chết khô bởi thuốc diệt cỏ những năm 1966. Ở đây có nhiều điểm cao quan trọng như Động Chuối, 506, Kakê, 150, 146, 330, Củng Cáp, Cây Tất và 674. Từ các điểm cao này, mắt thường có thể nhìn rõ cả vùng đồng bằng Phong Điền Quảng Điền ra đến tân biển, dùng ống nhòm có thể quan sát mọi hoạt động trên quốc lộ số 1. Một số điển cao ngày trước là căn cứ pháo binh của địch như Củng Cáp, 146, Đông Chuối. Khi chúng tôi đến trên các căn cứ vẫn còn vứt vương vãi các thùng liều và đầu đạn pháo các loại, hầm tôn vòm đắp bao cát và các ván nằm còn nguyên vẹn. Từ Củng Cáp có một con đường nhựa do Mỹ làm chạy thẳng xuống ngã ba Lành Ngạnh rồi ra đường 1. Mé đông bắc là vùng đồi thấp xen xình lầy, cây cối lúp xúp trơ trọi vài bụi tre nhỏ, lau lách và những cây duối mọc ven các bờ suối.Trước kia ở đây có dân và nông trường Hòa Mỹ của Ngô Đình Cẩn. Năm 1966 Mỹ lập vùng trắng ngăn chặn hoạt động của ta nên dân bị di dồn đến các vùng quanh Huế. Để lại cả vùng đất bán sơn địa hoang tàn, cây cối ít hơn mìn. Anh em c2 và c4 chốt ở khu vực này cứ vài hôm lại có người dính mìn, bị thương và hy sinh nhiều hơn là đụng địch. Giai đoạn đầu hiệp định chúng tôi thường quan sát , chọn những địa thế có lợi xây dựng trận địa, cứ dịch dần lên phía trước cho đến khi đụng địch. Mỗi lần như vậy, hai bên cùng muốn dành lợi thế về mình nên thỉnh thoảng có nổ súng. Nó na ná như chuyện cắm cờ trước hiệp định. Dần dần chúng tôi chiếm giữ một vùng rộng lớn dưới đồng bằng và tạo một tuyến giáp ranh. C5 ban đầu được giao giữ các điểm cao, nay được lệnh xuống hết đồng bằng mà quân không đủ căng ra giữ các vị trí cần thiết. Những ngày đầu vào Phong Điền dù hiệp định đã được ký nhưng tiếng súng còn nhiều nơi chưa dứt. Địch cũng lợi dụng ta ít người và điều kiện tiếp tế khó khăn tranh thủ lấn những điểm chốt quan trọng. Các con đường 15N, 71 mới vào đến Tam Dần cà còn phải tu sửa nâng cấp. Chúng tôi phải cắt cử những người còn khỏe trong đơn vị đi lấy gạo và các nhu yếu phẩm khác. Những người yếu hơn hoặc sốt nhẹ đều lên chốt, tiêu chuẩn gạo, muối đều phải giảm. Mọi thứ đều thiếu thốn nhưng thiếu thuốc lào là căng thẳng nhất. Hồi đó lính tráng chủ yếu là dùng thuốc lào, thuốc lá chỉ hút vui những dịp lễ tết chứ dùng thường xuyên thì không hậu cần nào bảo đảm nổi. Chuyện về thuốc lào cũng rất lắm, tôi xin kể vài câu chuyện nhỏ. CHUYỆN THUỐC LÀO Tôi nhớ một lần khẩu đội tôi hành quân qua 146, cả khẩu đội đang ngồi nghỉ và chia nhau những điếu thuốc lào cuối cùng. Mỗi người vê trong tay dúm thuốc và chuyền tay nhau cái điếu cày. Nghĩa là thằng hút cuối cùng, vừa định đưa đóm vào đốt thì từ dưới dốc có một lính bộ binh chạy ngược lên hô :” Đồng hương ơi, cho tôi ké một tý”. Mắt anh ta sáng rực chắc bị nhịn đã lâu. Nghĩa thấy vậy chỉ đưa lửa rít cho thuốc chỉ cháy một bên rồi đưa cho người lính lạ. Cả khẩu đội nhìn người lính lạ rít thuốc mà phát thèm dù vừa hút xong. Thật tiếc là chúng tôi không còn. Chuyện chia sẻ điếu thuốc đã nhiều người nói đến và đó cũng là chuyện thường của người lính trong chiến tranh. Nhưng cũng không phải tất cả là như thế, có chỗ có nơi vẫn còn những điều không hay. Đó là lần khẩu đội tôi làm trận địa trên đỉnh điểm cao 330 , có nhiệm vụ bảo vệ tiểu đoàn bộ và cơ quan huyện Quảng Điền đóng ở khe suối dưới sườn Tây Nam của dãy 330. Chúng tôi ở chung với cơ quan tiểu đoàn bộ, ngày lên đào hầm, đi chặt cây làm trận địa, trưa và tối xuống ăn ngủ cạnh bếp tiểu đoàn bộ.Lúc bấy giờ chúng tôi đang ở vào tình trạng đói ăn và thiếu muối, đặc biệt là thuốc lào. Cả khẩu đội không ai còn thuốc, đã có ông phải cạo tinh tre, tẩm nước điếu hút đại cho đỡ nghiền, thèm lắm. Nghe tiếng điếu cày rít lên ở lán tay Minh quản lý bếp tiểu đoàn, không chịu nổi, chúng tôi lân la sang xin. Tay Minh mở hộp thuốc ( bằng hộp xi đánh giầy ), chìa cho chúng tôi xem và nói :” Các bạn thông cảm nhế, anh chỉ còn có ngần này , cho các bạn thì mai anh không còn gì để hút” . Nghe giọng tay Minh nói chúng tôi tức điên . Nghĩa “lùn” nói :” Còn hơn nửa hộp thuốc lào mà không cho anh em được một điếu, phải trị thằng cha này một trận! Đãi ơi! Mai mày rình hắn Minh đi vắng mày lục ba lô hắn có bao nhiêu thuốc lào lấy mẹ nó hết đi “. Đãi là anh nuôi, tính tình ỏn ẻn như con gái, bọn tôi gọi là “chị” Đãi, quê Hà Bắc. Nhà nghèo lắm không được đi học, khi ở với chúng tôi Đãi viết thư đều phải nhờ anh Huệ đồng hương viết hộ. Nghe Nghĩa nói, chị Đãi chẳng nói gì, nhưng ngày hôm sau thấy Đãi gọi tôi ra dúi vào tay hai gói thuốc lào độc lập. Khà khà , tôi khoái quá, mang vào lán chia cho anh em , tiếng rít thuốc lào lại ro ro . Tay Minh ngồi lán bên nhìn sang biết bọn tôi lấy mà không làm gì được. Hôm sau lán bên không nghe thấy tiếng rít của thuốc lào của tay Minh, biết lão hết thuốc mà không còn mặt mũi nào sang xin chúng tôi. Song, nghĩ lại thương, thằng Nghĩa lại cầm ¼ gói sang mượn điếu hút rồi vờ để quên để lão có mà hút. Lính tráng đôi khi cũng phải nhắc như vậy đấy. Nghe chuyện biên giới Tây Nam và biến giới phía Bắc, tôi có cảm giác cái chuyện thuốc lào thời các bác nó đã phai phai, ít thấy các bác nhắc đến. Toàn thấy kể chuyện thuốc rê, Mai , Đà Lạt . Bác Võ Văn Hà có nhắc đến nhưng cũng rất “ngô nghê” về thuốc lào , mà là bác nhớ ông nhà báo thì mới nhắc đến thôi. Chuyện cái nõ điếu, đúng là rất quan trọng, nó quyết định phần lớn cái độ say sưa, đê mê khi hút. Hút cái điếu mà không nghe được tiếng rít rắt réo thì còn gì là hút, phí thuốc. Ngày huấn luyện chúng tôi đóng quân ở xứ Mường Hòa Bình, ở đây đàn bà, đàn ông họ đều hút nhưng cái ông điếu nó to phải lấy hai tay bịt bớt lại mới đủ hơi. Không dùng đóm mà gắp cục than dí vào nõ, bập bập, truyền tay người này sang người khác , im lìm nhả khói. Thỉnh thoảng chúng tôi cũng hút nhưng chỉ những lúc có mấy Ủn ( em) đang ngồi hút, lấy cớ hút chung để tán chuyện thôi chứ hút loại điếu to ấy chán chết. Nhưng cũng chẳng phải về Ngọc Hà hay Đội Cấn mua làm gì, lính ta tự làm lấy được, rất đơn giản, ai cũng làm được nhưng ông nào khéo tay thì nõ sẽ kêu hơn, chúng tôi vẫn kháo nhau làm nõ bằng gỗ cây chè là ngon nhất. Kiểu hút của đồng bằng Bắc bộ là : đóm tre ngâm cháy đượm, pập pập nhẹ cho thuốc cháy đỏ, cháy hết, xì bã ra rồi kéo thật sâu, phải nghe được tiếng rít rắt réo của điếu mới đã. Buổi sớm thì các bác nên chọn ngồi cạnh cái cột để mà còn ôm không là té bổ chửng đấy. Những lúc hết thuốc phải hút chung nhau thì những người hút đầu rít nhưng không cho lửa cháy hết thuốc còn để cho người sau. Người sau cùng mới được xì bã và rít. Câu “ trâu chậm uống nước đục” không đúng trong trường hợp này.
|