Phong Quảng
Thành viên
Bài viết: 620
|
|
« Trả lời #25 vào lúc: 19 Tháng Hai, 2009, 11:39:56 pm » |
|
@tuaans:Quảng Trị 1975, tôi cũng chẳng biết gì hơn các bạn @linhmoi: K15 trước khi về e4 có các c2=c1,c4=c2,c5=c3 còn c7 là c hỏa lực ( cối 82, DK82,12,7 ly). và các tiểu đoàn K2,K13. Khi về trung đoàn 4 thì K15=d1,K2=d2,K13=d3 nhưng lính khi ấy vẫn quen miệng gọi nhau bằng phiên hiệu cũ. Bức anh ấy là lính d1 đấy. _Tiếp bài viết về Trị Thiên Huế 1975 Bác Xuân Thiều nói cuộc chuẩn bị ba mười ngày, rồi ba mười năm thì cũng kệ bác ấy. Tôi xin bắt đầu sự chuẩn bị của chúng tôi từ sau những trận đánh mùa mưa 1974 ấy. Tôi được đề bạt “ A bậc phó” lần thứ hai, các bạn chớ nghĩ tôi bị kỷ luật nghe. Cái lần đầu tiên ấy là do có mấy bà văn công QK về tiểu đoàn , lính tráng mừng rơn. Tôi vừa ở chốt về nghe tin cũng mừng khấp khởi, từ ngày vào chiến trường đã bao giờ được xem văn công đâu. Đùng một cái, hôm sau có lệnh quay lại chốt thay cho một cậu vừa lên thay mình, thật vô lý!. Bức xúc quá tôi lên gặp chỉ huy thắc mắc, đại đội hỏi trung đội, trung đội trả lời tôi là A phó.. Lần phong “miệng” đó kết quả là tôi lại phải lên chốt và mất một dịp được xem văn công. Mấy bà văn công diễn xong đi, tôi lại là anh xạ thủ số 1_ 12ly “vác” và vẫn binh nhất. Lần phong này khác hẳn, có quyết định Hạ sĩ đàng hoàng và lệnh đi học pháo ở Quân Khu. Các bạn ạ thế là sau 2 năm 2 tháng (8/1972_10/1974) tôi mới được lên một cấp đấy. Cùng đi học với tôi có hạ sĩ A bậc trưởng Lang Khùn ( một đồng đội người dân tộc Thái_Nghệ An, nhập ngũ 1971, đã tốt nghiệp lớp 10 PT). Chúng tôi lên gặp chính trị viên Sen trước khi rời đơn vị. Anh Sen dăn dò :” Các cậu đều có văn hóa, gắng học nắm vững kỹ thuật , về còn hướng dẫn anh em nữa.” Chết thật! học pháo xong lại về biên chế của tiểu đoàn bộ binh nghe lạ quá. Mới nghe “Pháo” là tôi đã mừng hú, chào cánh bộ binh thôi, từ nay “em” đi trận bằng xe xích, xe hơi rồi. Nghe CCV nói tôi chả hiểu là thế nào nữa(?), lên đến trung đoàn, trưởng ban pháo bảo :” Các cậu cứ lo học đi, đừng thắc mắc.” Phụ mấy lính vệ binh trung đoàn rong tám thằng thủy quân lục chiến bị bắt ở điểm cao 61 ra quân khu, đến Đông Hà thì chia tay . Chúng tôi đi nhận tân binh , nhận lớp sau đó học hơn một tháng thì xong. Cái loại pháo chúng tôi học là “ canong 57” , các bạn nào đã xem những bộ phim thời “chiến tranh vệ quốc vĩ đại” của Liên Xô cũ thế nào cũng thấy nó. Hình như cái anh CCCP này moi từ bảo tàng ra thì phải, lính tráng đùa nhau bảo còn mấy trăm viên đạn bắn rồi quang pháo đi. Chẳng biết có mặt trận nào được trang bị như thế không còn Trị Thiên thì có e4, e271, d3 Quảng Trị, du kích Do Linh mỗi đơn vị 4 khẩu. Huấn luyện chúng tôi là đại úy Vạn người của phòng Pháo QK. (Còn tiếp) Có một câu chuyện vui ngoài lề lấp chỗ trống để linhmoi đọc cho đã ( cũng là chuyện thật 100%)
Ra đến Thanh Hà ,Gio Linh thì mới biết mình học pháo mặt đất 57 ly nòng dài. Tôi buồn quá, các bạn có biết ở mỗi đại đội bộ binh lúc bấy giờ bao giờ cũng có 2 khẩu cối 60 ly, Pháo mới nòng so với lính bộ bình còn thua thì pháo phót gì, đúng là pháo “tét”. Tôi nhìn khẩu pháo , người “bạn” cùng những trận đánh sắp tới của tôi mà chẳng biết nói sao. Nòng bé tẹo,chỉ được cái dài ( 4m),hai bánh xe như hai bánh xe bò. Tôi nhớ ra là đã từng gặp nó trong các bộ phim xô viết thời chiến tranh vệ quốc. Quả đúng, nó là hung thần của các xe tăng Đức ngày đó. Càng buồn hơn khi mấy hôm sau, tôi nhận các tân binh về tiểu đội thì bên nhà bên cũng có một trung đội nữ du kích cùng tham gia lớp học với chúng tôi. Cứ nghĩ mấy thằng cùng nhập ngũ nó sang quân đoàn 2 mà thèm, vẫn tự an ủi , thôi mình cỡ lính quân khu, lính tỉnh cũng oách chán. Lo nhất học xong lại xuống lính huyện, lính xã thì chán chết. Tạm cất cái chuyện này đi đã, tôi vào ngay cái chuyện “săn bắn” ngay đây không anh em lại cho thằng này lan man. Cái trung đội nữ du kích Do Linh cùng khóa chúng tôi,hàng ngày cùng ngồi một “ giảng đường” nên không khí học cũng say sưa hơn .Chiều chiều sau giờ cơm, lính nhà ta cùng vài o bên nớ cũng thơ thẩn chuyện mây gió…Tiểu đội tôi có thằng Huấn tiểu đội phó, hắn nhập ngũ cùng tháng, quê Hải Dương.Tôi quí hắn vì trông hắn thư sinh, da trắng, tóc quăn, đẹp trai và có duyên lắm. Hắn cũng quí tôi vì cũng cao ráo, mác trai Hà Nội lại thoáng. Phải cái nó rất “máu” gái, suốt ngày sang chuyện trò với du kích. Mỗi lần hội ý tiểu đội tôi cứ phải sang gọi, lâu dần tôi mắc chứng nghiện sang “gọi” nó.Thế có chết không, ông trưởng, ông phó đồng tình.. Khi khóa học kết thúc thì hắn thân thiết lắm với một o tên B, còn tôi thân với o T. Ngày chia tay , lính hai bên lưu luyến lắm. Sau bữa liên hoan bế giảng, hai bên tràn sang nhau ghi lưu bút, tặng này tặng nọ.v.v Với ai không biết nhưng tôi với T dù đã khá thân nhau nhưng vẫn có khoảng cách. Đến hôm nay khi chia tay , chúng tôi hình như cùng thấy mối tiếc lắm lắm. Ngày mai chúng tôi xa nhau có thể là mãi mãi. Tôi hẹn T , mai sẽ đến nhà thăm gia đình cô ấy ,T đồng ý… Về gường đêm ấy Huấn thủ thỉ :” tao hẹn B tối mai gặp nhau ở cầu xi măng “ Hắn còn bảo :”về nhà làm gì mất thời gian thưa mạ, thưa cha lắm, mai hẹn ra cầu cùng tao không hơn à.”. Sáng hôm khi các o du kích trở về địa phương, tôi qua hẹn lại với T và thông báo cả chuyện Huấn và B, chúng tôi có thể cùng đến cầu xi măng . Chiều tối hôm sau, tôi và Huấn mò ra cầu xi măng. Hai thằng ngồi trên thành cầu hồi hộp chờ đợi.Trời tối hẳn, sắp tới giờ “G” , chúng tôi càng nóng ruột, cứ đốt thuốc liên tục. Mắt hai đứa nhìn xa thẳm theo con đường dẫn ra biển. Xa xa thoáng thắp ánh đèn, ngày một rõ. Tim tôi rộn lên, tôi tự nhủ lần này trước lúc chia tay phải mạnh dạn lên …Ánh đèn chập trờn trong gió, sáng dần. Chúng tôi bắt đầu nghe tiếng chân bước, hơi lạ vì tiếng bước chân nằng nặng .Không chịu nổi chúng tôi rời chỗ ngồi tiến về phía ánh đèn. Khi nhận ra được điều gì … thì bà mẹ đã kêu lên :” May quá! ..Các chú giải phóng ơi!.. Giúp mạ con tui với!..” Trước mắt tôi là một bà mẹ và một cậu bé chừng 14 tuổi.Trên vai hai người là một cáng võng. Cả hai người run run kiệt sức. Chúng tôi điếng người nhưng theo phản xạ hai thằng ghé vai đỡ cho họ.Tôi hỏi :” Bây giờ đi đâu hả mạ” Nhà hộ sanh huyện. Bà mẹ đáp Cách bao xa? Huấn hỏi Chừng sáu,bảy cây số. Cậu bé trả lời Chết chúng tôi rồi, sáu bảy cây , chúng tôi có bay cũng không kịp quay về được. B và T đến sẽ không thấy chúng tôi rồi. Thằng Huấn đi sau tôi nói như than :” mạ ơi! khổ thế…” Bà mẹ cứ nghĩ nói về mình lại bảo :” Khổ chi nữa, chừ gặp được giải phóng là sướng hung rồi.” Tiếng rên của phụ sản trên võng làm chúng tôi quên hết mệt nhọc, cứ lao về phía trước theo ánh đèn của bà mẹ.Trong đầu thì nghĩ đến B và T. Nhà hộ sinh huyện tối om, nhưng vẫn có người trực .Bên ánh đèn dầu chúng tôi cùng gia đình làm thủ tục cho phụ sản. Xong xuôi hai đứa ra cái giếng trước cửa, gột rửa bùn bắn vào quần áo. Chúng tôi buồn bã nghĩ đến chuyện hẹn hò .Giờ này còn ai trên cầu nữa, hai đứa cứ ngồi bên thành giếng chẳng biết làm gì. Trong căn phòng sáng mờ mờ bỗng nghe tiếng oa oa. Cửa phòng bật mở, o y tá cầm xô nước chạy ra giếng , nói với chúng tôi :” Con trai,các eng ơi!” .Gương mặt rạng ngời lấm tấm mồ hôi, cô xách xô nước chạy vào, bóng cô bay bay, nước trong xô sóng sánh văng trên đường chạy. Chúng tôi đứng dậy ra về, chào chú bé, công dân mới của Quảng Trị đau thương. Nghĩ đến hai o du kích ,chẳng biết nói sao nữa, không kịp rồi! Ngày mai chúng tôi phải lên đường vào trận, để lại Quảng Trị biết bao vui buồn lưu luyến.
|