chienvit
Thành viên
Bài viết: 554
|
|
« Trả lời #90 vào lúc: 03 Tháng Mười Một, 2007, 07:54:11 pm » |
|
- Ồ? Cách nghĩ của anh hay lắm, nhưng... chung chung. Theo tôi, đã là người lính thì chỉ làm bổn phận của mình, đừng dính dáng đến chính trị. Tất nhiên phẩm chất hàng đầu phải là dũng cảm, sau nữa, là người giỏi. Tôi là một phi công thành thạo nghề nghiệp và độc lập, không tham gia một đảng phái nào, không lệ thuộc vào phe cánh nào. Anh biết rồi đấy! Chính trường Nam Việt những năm trước liên tục đảo chánh, vậy mà tôi không dính vào ai hết. Tôi chỉ làm công việc của mình. Và tôi giỏi, nên chả ai bắt bẻ được Tướng Thiệu, tướng Kỳ đều cần tôi, mặc dầu hai ông chẳng ưa gì nhau...
Lối suy nghĩ của ông ta đơn giản, nhưng cũng vì thế là trở nên rắc rối khó hiểu. Dĩ nhiên tôi có quan điểm của mình, nhưng dễ gì nói cho ông ta hiểu, và cũng không cần thiết. Tôi nghĩ vậy nên chỉ nói:
- Nếu nói không tham gia đảng phái nào, thì còn đúng. Chứ khi đã làm bổn phận, như cách nói của đại tá, có nghĩa là đã phục vụ cho một chế độ chính trị nhất định, ít nhất cũng cho một ý đồ chính trị nào đó. Chỉ có tụi thổ phỉ mới không theo đường lối chính trị nào, còn đại tá đang ở trong một quân đội chính quy.
Một lát im lặng, rồi ông ta hỏi tôi một câu chẳng ăn nhập gì với chuyện đang nói:
- Tôi nghe kể, anh leo lên cây bắn rớt máy bay của thằng Trà?
- Vâng! - Tôi đáp gọn lỏn.
- Vậy mà anh còn chôn cất nó và tìm cách nhắn gia đình lên đem nó về?
- Tôi làm những gì lương tâm mách bảo. - Tôi trả lời và nói tiếp - Cá ăn hết mồi rồi, đại tá mắc lại mồi đi!
Ông ta nhấc cần câu, cầm con giun nhỏ tôi đưa móc vào lưỡi câu thả xuống nước.
- Tôi cảm ơn anh về điều đói - Ông nói.
Chẳng lẽ ông ta cảm ơn về mồi câu? Tôi ngạc nhiên nên hỏi lại:
- Tôi không hiểu?...
- Ông Thành là bạn tôi. - ông Tùng trả lời - Khi thằng Trà chết, ông ấy đau đớn gần như không muốn sống, nhưng chẳng hề trách tôi một câu nào. Điều đó càng làm tôi thấy mình có lỗi với ổng. Con Thủy thì sùng sục đòi bay tìm. Còn bà nhà tôi đay nghiến tôi hoài, bả quý hai đứa nó lắm! Vì vậy tôi rất mừng khi thấy từ hôm ở đây về ông Thành tươi tỉnh hẳn lên, có vẻ như đã thăng bằng trở lại. Cả con Thủy cũng thế. Anh không biết rằng tôi đã lo như thế nào mỗi lần nó bay, dù đã bố trí để nó chỉ bay những phi vụ đơn giản, không có đụng độ. Bà nhà tôi thì mừng cuống quít, cứ như tìm được xác con bả không bằng. Hôm nhận được khúc trầm anh gửi biếu, bả ngớ cả người, rồi xoắn xuýt lấy con Thủy để hỏi chuyện. Bà nhà tôi là người nhân hậu anh à! Tôi thương quý bả ở cái tính ấy. Lúc đó tôi thấy lạ, cứ nghĩ mãi, không hiểu vì sao một người như anh lại có sức thu hút đến thế với những người thân của tôi. Giờ thì tôi hiểu, anh là một người linh giỏi và có lòng nhân từ. Một người lính Việt Cộng lại đi vuốt mắt cho kẻ thù của mình lúc đã chết, là điều làm tôi thực sự ngạc nhiên.
Ông Tùng nói những điều đó một cách chân thành, vì thế nên tôi đâm khó nghĩ, không rõ ông là người thế nào. Tôi suy nghĩ một lúc rồi hỏi:
- Nếu đại tá không phiền thì cho tôi hỏi, vì sao đại tá lại nghĩ như vậy?
- Tôi nói thẳng thắn với anh, được chứ?
- Vâng! Tôi cũng mong thế! - Tôi đáp.
- Tôi không ưa nổi Cộng sản. Xin lỗi, nếu điều đó làm anh khó chịu.
- Đại tá đừng xin lỗi, và tôi cũng vậy! Chúng ta đã thỏa thuận là nói chuyện thẳng thắn cơ mà! Nhưng vì sao đại tá lại không ưa Cộng sản? Nghe nói hồi trước gia đình đại tá cũng nghèo lắm?
- Anh tưởng cứ người nghèo thì đi theo Cộng sản sao?
- Không! Nhưng những người giàu có thường nghi chúng tôi sẽ làm cho họ nghèo đi.
- Tôi không ưa cộng sản vì họ tạo nên loại người cuồng tín. Các anh hô hào; đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã hội, như vậy khi nào mới hết chiến tranh? Chả lẽ cứ đánh giết nhau hết đời này qua đời khác ư?
- Vì thế nên đại tá thấy lạ khi một người lính như tôi lại có lòng nhân từ?
Ông ta ngoảnh sang nhìn tôi chăm chú, lát sau mới đáp:
- Điều đó tôi đã nói rồi!
Tôi ngập ngừng. Khó mà đưa lý lẽ ra để tranh luận với ông ta những vấn đề lớn đó. Hơn nữa, tôi không được chuẩn bị cho một cuộc tranh luận kiểu này. Dù có giàu óc tưởng tượng đến mấy đi nữa, cũng chưa bao giờ tôi nghĩ đến cuộc chuyện trò kỳ lạ như thế này với một đại tá ngụy ở giữa rừng già. Người đang ngồi bên cạnh tôi có hệ tư tưởng đối nghịch. Và đừng hòng tính tới chuyện thuyết phục một kẻ mà thâm niên chống Cộng lớn hơn cả tuổi đời của tôi, trừ phi chính trong bản thân ông ta đang có sự chuyển biến nào đó.
|
|
|
Logged
|
Ta không mong được đời đời kiếp kiếp, không mong được sớm tối bên nhau.
Chỉ mong được bình thản nắm tay nàng đi giữa nhân gian!
|
|
|
chienvit
Thành viên
Bài viết: 554
|
|
« Trả lời #91 vào lúc: 03 Tháng Mười Một, 2007, 07:55:32 pm » |
|
Tôi nói:
- Có thể nói, đại tá gặp tôi một cách ngẫu nhiên. Phía Quân giải phóng đâu biết trước một cuộc gặp gỡ như thế này để chọn người chờ sẵn ở đây? Còn tôi, khi tôi làm tất cả những việc như đại tá đã biết, tôi đâu nghĩ là sẽ có ngày gặp ông Thành, cô Thủy và... gặp đại tá?
- Anh muốn nói rằng, anh chỉ là một trong ngàn vạn người, và phía các anh ai cũng như vậy?
- Rất mừng vì đại tá hiểu được ý tôi!
- Tôi hiểu ý anh, nhưng đừng nghĩ là tôi công nhận điều đó! Thế anh nói sao về vụ tàn sát ở Huế năm Mậu Thân?
- Vì vậy mà đại tá nói chúng tôi là những kẻ cuồng tín?
- Tôi đưa ra một dẫn chứng!
- Nếu tôi nói đến hai từ "Sơn Mỹ”, chắc đại tá cũng đoán ra ngay sau đó tôi sẽ nói gì! Nhưng việc đó không nên, phải không ạ? Thật nhẫn tâm khi đem sinh mạng đồng bào mình ra làm vật so đo như đặt trên bàn cân, chỉ cốt tính chuyện hơn thua trong một cuộc tranh luận giữa hai cá nhân. Cho nên tôi chỉ nói, phía chúng tôi không hề có một chủ trương như vậy!
- Các anh vẫn hô hào diệt ác trừ gian?
- Đúng! Chúng tôi đấu tranh không khoan nhượng với kẻ thù. Nhưng "diệt và "trừ” ở đây không chỉ có nghĩa là giết. Đại tá nên nghĩ rằng, trong mấy chục ngày đêm Quân giải phóng chiếm giữ thành phố Huế, người dân Huế vẫn sống yên ổn. Họ còn giúp đỡ chúng tôi rất nhiều.
- Cái hố chôn xác người ở vùng ven Huế là có thật!
- Tôi không phủ nhận điều đó!
- Vậy anh định giải thích thế nào?
- Thẳng thắn mà nói, tôi không có quyền phán xét. Tôi cũng không có mặt ở đó lúc xảy ra sự việc nên... Cá lại cắn câu. Tôi giật được con nữa xỏ vào xâu cá lúc nãy và móc lại mồi thả xuống nước.
Ông Tùng vẫn ngồi im ý chờ tôi nói tiếp, mắt đăm chiêu nhìn những gợn nước tròn lan ra từ chiếc phao câu nhấp nháy, nhưng hình như không nhận thấy cá đang phá mồi. Tôi nói tiếp:
- Vụ việc ở Huế lúc đó là sai lầm của một số ít người. Tôi nghĩ sai lầm đó đã gây tổn thất rất lớn cho phía chúng tôi, nhất là khi nó bị các ông lợi dụng để kích động hận thù. Mặt trận dân tộc giải phóng đang kêu gọi toàn dân đứng về phía mình, chúng tôi đâu muốn mọi người mất lòng tin.
- Cứ cho là các anh không có chủ trương, sao việc đó lại xây ra?
- Đại tá đừng đề cao chúng tôi quá.
- Tôi đề cao các anh cái gì? Ông ta đảo mắt, ném sang tôi cái nhìn bực dọc.
- Chúng tôi đi theo Cách mạng với nhiều hoàn cảnh, nhiều trình độ nhận thức khác nhau. Và trước hết chúng tôi là những con người bình thường như mọi người khác. Trong mỗi con người đều có tính thiện tính ác. Rồi có lúc, lòng thù hận thổi bùng lên cái ác ở một số người, nhất là khi họ bị dồn tới bước đường cùng. Dưới sông tàu nã pháo, trên trời phản lực ném bom và trực thăng rỉa đại liên, ở mặt đất bộ binh vây chặn các ngả. Một số người phải dẫn giải lên căn cứ những kẻ mà họ coi là kẻ thù. Là người địa phương, trước đây bản thân họ hoặc gia đình từng phải chịu đau đớn mất mát bởi những kẻ đó. Còn lúc đó, họ đang cận kề cái chết. Rồi trong tâm trạng thất vọng bởi cuộc tổng tấn công ở vào bước thoái lui, họ đã làm những việc không được phép làm. Xin nói thêm với đại tá, số người bị giết đó tuy không mặc áo lính nhưng là những kẻ đang cộng tác với chế độ các ông ở những hình thức hay mức độ khác nhau. Đối với Cách mạng, họ là kẻ chống đối. Tuy nhiên, đáng ra họ phải được xét xử. Tôi cũng nghĩ rằng có những người chưa đáng tội chết, và có người bị oan.
- Thế bên các anh đã xử những kẻ phạm sai lầm ấy như thế nào?
- Đại tá nghĩ họ còn sống ư?
- Sao anh biết là họ đã chết?
- Tôi không nói thế Tôi chỉ hỏi thế thôi? Tình hình ở Huế lúc đó, hẳn đại tá biết hơn tôi nhiều. Tôi có người bạn nhập ngũ cùng ngày cũng chết ở Thành Nội đợt đó. Cả đại đội chỉ trở về có mấy người.
- Anh nói rất khôn, nhưng thực ra cũng chỉ nói theo lối tuyên truyền, nhằm bênh vực cho phía các anh!
- Tôi chỉ nói ra những điều mình suy nghĩ dựa vào những gì mình biết. Đó chỉ là ý kiến cá nhân.
- Như vậy là anh đồng tình với việc bắn giết những người tay không vũ khí?
- Không! Tôi hoàn toàn phản đối.
- Quanh co! Chẳng lẽ anh không nhận ra mâu thuẫn trong cách nói của mình sao?
Tôi ngẫm nghĩ rồi trả lời:
- Có lẽ cách diễn đạt của tôi không rõ. Đại tá có muốn nghe một câu chuyện để hiểu thêm ý tôi không ạ?
|
|
|
Logged
|
Ta không mong được đời đời kiếp kiếp, không mong được sớm tối bên nhau.
Chỉ mong được bình thản nắm tay nàng đi giữa nhân gian!
|
|
|
chienvit
Thành viên
Bài viết: 554
|
|
« Trả lời #92 vào lúc: 03 Tháng Mười Một, 2007, 07:57:16 pm » |
|
Đúng lúc đó, ông Thành cùng con gái đi xuống, có con báo lẽo đẽo theo sau. Tôi ngập ngừng định đứng dậy, nhưng ông Tùng đã vẫy tay gọi họ ngồi xuống bên cạnh và nói với tôi.
- Anh cứ nói đi!
- Vâng? Hơi dài dòng một chút... - Tôi tiếp tục câu chuyện - Quê tôi ở Vĩnh Linh, vùng đất mà trong cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ được gọi là cái túi bom đạn. Người quê tôi phòng tránh các cuộc oanh kích bằng cách dở nhà làm hầm chữ A và dựa vào thế các triền đồi đất đỏ để đào những địa đạo, thường là sâu trên hai chục mét dưới lòng đất Hẳn đại tá có biết việc này?
- Anh kể tiếp đi!
- Lúc có máy bay ném bom, những ai không đủ sức cầm khẩu súng bắn trả đều phải chui xuống nấp dưới địa đạo. Trong một cuộc oanh kích, máy bay Mỹ sử dụng bom khoan, loại bom nổ ngầm trong lòng đất. Phải nói là phi công giỏi! Họ đánh sập địa đạo, chôn sống trong lòng đất gần trăm con người, toàn là người già, trẻ em, phụ nữ có thai... Kết cục thế nào, chắc đại tá cũng đoán được. Người trên mặt đất biết địa đạo bị sập nhưng đành bó tay. Các loại bom phá, bom sát thương đã làm đảo lộn địa hình, không còn nhận ra của địa đạo ở đâu nữa. Mà có biết cũng chàng thể đào nổi hàng ngàn khối đất đá để moi những con người tội nghiệp đó lên.
- Lúc đó tôi đã vào chiến trường. Nói đúng hơn là vào vùng đất phía nam sông Bến Hải, chứ ở đâu cũng đều là chiến trường cả rồi. Người kể lại chuyện cho tôi nghe là một cậu trai trẻ cùng quê, học sau tôi mấy lớp, mới nhập ngũ hơn tháng. Hồi nhỏ cậu ta rất hiền, vẫn thường bị tôi bắt nạt. Cậu ấy chỉ mê đọc truyện chứ chả bao giờ tham gia vào trò chơi đánh trận giả của lũ trẻ cùng xóm. Đến bây giờ, tôi như vẫn nhìn thấy cậu ấy ngồi trước mặt mình, mặc bộ quân phục rộng thùng thình còn mới tinh, đội chiếc mũ tai bèo mới tinh, và khẩu AK tựa trên vai cũng mới. Cậu ấy ngồi dựa lưng vào vách hầm, thong thả kể chuyện, giọng dửng dưng như không hề có chút xúc cảm nào. Nhưng khi ngẩng lên nhìn cậu, tôi bỗng giật mình: trên khuôn mặt vừa qua tuổi thiếu niên đó đang giàn dua nước mắt, những giọt nước mắt lạnh vì không có tiếng khóc. Và khủng khiếp nhất là đôi mắt. Đôi mắt cậu ấy lóe lên một thứ ánh sáng kỳ lạ mà tôi không biết tả thế nào, chỉ có cảm giác là nó giống mắt của một con ác thú. Kể xong chuyện, cậu ta thề sẽ xé xác bất cứ tên giặc nào mà cậu bắt gặp... Mẹ cậu và hai đứa em..., không, ba đứa mới đúng vì còn một đang trong bụng mẹ, cả bốn mẹ con đều chết dưới địa đạo.
Sau này nhiều lần tôi cố nghĩ xem những người dưới địa đạo còn sống được bao lâu nữa sau khi cửa hầm sập, mà chịu không đoán được, và cũng không hiểu mình nghĩ như vậy để làm gì? Có thể lúc những chiếc máy bay về tới căn cứ thì dưỡng khí trong địa đạo cạn? Cũng có thể khi các phi công mở sâm banh uống mừng một phi vụ trót lọt và kéo nhau vào tiệm nhảy thư giản, thì những người dưới lòng đất bắt đầu bị ngạt? Đại tá thử hình dung xem họ làm gì lúc đó? Họ có nghĩ gì không? Những người mẹ ôm con gào thét đến điên dại? Những người già cào cấu xé rách lồng ngực? Họ giãy dụa trong lòng đất tối om như âm phủ và mãi mãi nằn lại dưới đó. Tất nhiên chẳng có ai quay phim chụp ảnh được họ, dù với mục đích gì đi nữa. Liệu có thể nói rằng bàn tay ấn nút cắt bom của những phi công đó sạch sẽ không?
Tôi ngừng lời. Mọi người im lặng. Nắng đã tràn tới gộp đá, bóng râm thu lại dưới gốc cây. Tôi rút dao găm đứng dậy:
- Để tôi đi làm cá. Loại cá này nướng ăn ngon lắm! Ông Thành kéo tay tôi:
- Anh để con Thủy nó làm. Ta ngồi vào đây cho mát!
Cô gái đỡ cây dao, xách xâu cá bước xuống bờ nước. Tôi đang ngần ngừ thì ông Tùng cuốn dây câu đi lên ngồi dưới gốc cây, ý muốn nói chuyện tiếp. Chả lẽ các vị khách không đói sao? Ông Thành và tôi lên theo, ngồi xuống vạt cỏ.
Ông Tùng khơi chuyện trước:
- Có phải anh muốn nói cậu ấy có mặt ở Huế trong Mậu Thân?
- Không! Cậu ấy chết sau đó mấy ngày. Chết vì giẫm phải mìn chứ chưa kịp bắn một phát súng thù nào. Nhưng những chuyện như thế bây giờ nhiều lắm, ở đâu cũng có. - Tôi ngưng một lát rồi nói tiếp - Không rõ câu chuyện vừa rồi có giúp đại tá hiểu thêm ý tôi nói lúc nãy không ạ?
- Tôi biết! Anh muốn đề cập đến nguyên nhân của nguyên nhân. - Ông nói, mắt vẫn nhìn đăm đăm con thác nhỏ lúc này đang chói nắng sáng lóa - Anh kể tôi nghe một câu chuyện để nói về lòng căm thù, theo cách nghĩ của các anh. Nhưng sự việc đó chỉ là rủi ro. Các trận oanh kích vào Bắc Việt chỉ nhằm phá hoại các căn cứ quân sự, ngăn chặn việc chuyển người và vũ khí của chính quyền Hà Nội vào Nam Việt. Và anh nên nhớ: lúc sử dụng các phương tiện chiến tranh hiện đại, sai số kỹ thuật là cho phép.
Tôi cười nhẹ:
- Tôi không hiểu là ai cho phép, nhưng đại tá dùng từ hay lắm! Để nói tới rủi ro trong chiến tranh, trước đây người ta thường dùng "tên bay đạn lạc", còn bây giờ đại tá lại nói: "sai số kỹ thuật"! Nhưng khi người Mỹ đánh phá miền Bắc, làm gì có sai số?
- Anh lầm! Dù phương tiện, vũ khí có hiện đại đến đâu, những sai sót là điều không tránh khỏi. Nhất là khi các mục tiêu quân sự nằm lẫn với khu vực dân cư, và phi công phải bay trên một vùng hỏa lực phòng không dày đặc.
- Tôi chưa được bay bao giờ, không biết có sợ như lúc... ngồi dưới trận bom B52 hay không? - Tôi nói, không giấu sự mỉa mai - Nhưng đại tá nói như thế, thì mấu chốt cuối cùng của vấn đề vẫn là yếu tố con người. Tôi cũng nghĩ vậy! Không thể coi khẩu AK là biểu tượng của chúng tôi, còn cây AR15 là biểu tượng của phía các ông. Chính vì thế nên tôi không lầm. Khi Mỹ đã tuyên bố "đánh cho Bắc Việt trở lại thời kỳ đồ đá", thì bom đạn ném xuống đâu cũng đều trúng tích, cũng nhằm hủy diệt, làm gì có "sai sổ” hay rủi ro?
|
|
|
Logged
|
Ta không mong được đời đời kiếp kiếp, không mong được sớm tối bên nhau.
Chỉ mong được bình thản nắm tay nàng đi giữa nhân gian!
|
|
|
chienvit
Thành viên
Bài viết: 554
|
|
« Trả lời #93 vào lúc: 03 Tháng Mười Một, 2007, 07:58:18 pm » |
|
Cô gái làm xong mớ cá, bước lên bãi cỏ ngồi xuống cạnh con báo. Ông Thành nãy giờ vẫn ngồi im chưa nói gì.
Ông Tùng thôi không nhìn ra thác nước nữa mà quay sang tôi, nói chậm rãi:
- Chẳng phải trong luận thuyết của Cộng sản các anh thường sử dụng mối liên hệ nhân quả đó sao? Nếu chính phủ Hà Nội không đổ quân vào Nam Việt thì làm gì có cuộc chiến tranh đánh phá miền Bắc? Việt Nam cộng hòa là một chính thể quốc gia được nhiều nước trên thế giới công nhận. Lúc các anh mang vũ khí vượt qua vĩ tuyến mười bảy là đã thực hiện một cuộc xâm lăng trắng trợn.
Tôi nhìn ông, cố giấu vẻ tò mò. Ông ta nghĩ vậy thật sao? Khuôn mặt có nhưng nét rắn rỏi giờ tối sầm lại dưới vành lưỡi trai của chiếc mũ thể thao màu trắng. Đôi mắt mệt mỏi và hai mí mắt dưới sùm sụp dường như đang phồng lên làm nét mặt của ông ta trở nên nặng nề khó hiểu.
Tôi nói:
- Tôi không nhớ những nước nào đã công nhận chính quyền của các ông, có phải mấy nước đưa quân chư hầu sang giúp các ông đó không? Còn vì sao họ công nhận, tôi nghĩ mình cũng đoán được... Nhưng thôi! Xin lỗi, tôi hỏi điều này hơi tò mò, đại tá quê ở đâu ạ? ông Tùng nhìn tôi ngạc nhiên, nhưng cũng trả lời:
- Tôi quê miệt Tiền Giang.
Tôi nói thong thả:
- Có một nhà thơ khi nói về những người đi mở mang vùng đất phương nam, đã viết hai câu thơ nổi tiếng: “Từ độ mang gươm đi mở cõi. Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long...". Hai câu thơ ấy rất hay, phải không ạ? Nhất là về ý nghĩa lịch sử. Không biết ông cha xưa cầm cuốc cầm phảng đi mở đất, có nghĩ rằng đến lúc nào đó thế hệ con cháu sẽ tự chia cắt đất đai bờ cõi không? Và hơn thế nữa, có vị tổng thống nào đó của các ông đã tuyên bố một câu xanh rờn: "Biên giới Hoa Kỳ kéo dài đến vĩ tuyến mười bảy...". Tôi không nhớ vị nào đã nói thế, vì có dạo phía các ông quốc trưởng, tổng thống thay đổi xoành xoạch. Nhưng chỉ có những kẻ như vậy mới coi việc người Việt Nam đi đánh giặc ngay trên đất nước mình là xâm lược. Thế đại tá nghĩ sao về việc quân Mỹ cùng các phương tiện chiến tranh hiện đại từ bên nước Mỹ kéo sang đây?
Ông Tùng bực bội cau đôi mày rậm. Cô gái nhìn hai chúng tôi lo lắng. Riêng ông Thành nét mặt rạng rỡ hẳn lên. Điều đó làm tôi yên tâm.
- Hoa Kỳ là đồng minh của chúng tôi. Họ giúp chúng tôi cũng như Nga Xô đứng bên các anh vậy? - Ông Tùng mệt thỏi trả lời.
- Khác nhiều chứ! Mỹ đổ vào miền Nam hơn nửa triệu quân. Trước đây có đài phương Tây đã nói mỗi tháng có từ năm đến sáu trắm lính Mỹ chết ở Việt Nam. Còn ở miền Bắc, theo tôi biết cũng có một số chuyên gia Liên Xô, nhưng không đông và phần lớn là chuyên gia về kinh tế.
- Cá nhân tôi cũng chẳng ưa gì người Mỹ, - ông Tùng nói giọng gay gắt - nhưng họ giúp đỡ chúng tôi, chiến đấu và đổ máu cùng chúng tôi. Còn các anh thì sao? Nga Xô và Trung Cộng giao cho các anh một mớ vũ khí, và thế là các anh đánh thí xác. Tôi khâm phục lòng dũng cảm của những người lính phía các anh, nhưng sao các anh không nghĩ rằng chính quyền Hà Nội đang làm tên lính xung kích cho Nga Xô ở bên bờ Thái Bình Dương, và biến những người lính các anh thành những kẻ hy sinh mù quáng? Hà Nội đã chà đạp lên hiệp nghị Giơnevơ, biến khu phi quân sự phía bắc sông Bến Hải thành căn cứ quân sự để làm bàn đạp xâm lăng Nam Việt. Anh đừng lấy làm lạ khi quê anh trở thành cái túi bom đạn...
Mặt tôi nóng ran. Tôi nghe rõ tiếng mạch đập thình thịch trong đầu và người rực như sốt. Sự phẫn nộ làm cả người tôi rung lên. Quay mặt đi để khỏi nhìn thấy ánh mắt lo lắng của ông Thành cùng nét mặt bối rồi của cô gái, tôi nhìn xuống dòng suối, tai cố lắng nghe tiếng nước chảy, mắt tìm mấy bóng cá mờ mờ khi ẩn khi hiện trong khe đá. Lát sau thì trấn tĩnh lại được. Tôi nói:
- Theo hiệp nghị Giơnevơ, cuộc tổng tuyển củ sẽ tiến hành sau hai năm. Nhưng điều đó không bao giờ thực hiện được, bởi ngay từ đầu, chính quyền Diệm đã hô hào “lấp sông Bến Hải”, gào thét "Bắc tiến”. Làng tôi chỉ cách giới tuyến có bảy cây số. Hồi đó bọn trẻ con chúng tôi nghe vậy sợ lắm! Còn người lớn thì lo lắng đào những cái hố cá nhân trong vườn nhà và dặn bọn trẻ chúng tôi, nếu có phái đoàn quốc tế tới hỏi thì nói là đào hố trồng chuối... Họ sợ mang tiếng hiếu chiến, sợ "vi phạm hiệp nghị"! Quê tôi mà là căn cứ quân sự ư? Chắc đại tá cũng biết, khi máy bay Mỹ lần đầu ném bom Vĩnh Linh, ở đây người ta bắn trả bằng những thứ vũ khí gì? Không cần đến tin tức tình báo, chỉ nhìn vào những vết đạn trên máy bay của tướng Kỳ, những ai là phi công đã trải qua chiến đấu đều biết rõ đó là đạn của các loại súng bộ binh cổ lỗ sĩ. Hôm đó chính tướng Kỳ dẫn những chiếc AD6 của không lực các ông tham gia đánh phá, dù chỉ mang tính chất tượng trưng, và đã tỏ ra rất "tự hào” về những vết đạn trên máy bay mình. Những việc này hẳn đại tá rõ hơn tôi.
Còn những điều khác mà đại tá vừa nói, đài Hoa Kỳ và đài BBC nói mãi rồi, hồi trước tôi có nghe. Thú thực là nghe trộm thôi. Ở bên chúng tôi, lính trẻ như tôi không được nghe những đài đó. Nhưng những gì người Mỹ đã làm ở Việt Nam là tội ác chứ đâu phải sự giúp đỡ? Đại tá bay trên trời, chắc chỉ nhìn thấy cảnh bom đạn chết chóc từ xa hoặc qua ảnh chụp trên máy bay, chứ chưa ngồi dưới những đợt bom B52 hay đi trong màn sương mờ mờ của hóa chất làm trụi lá từ máy bay rải xuống. Đại tá đâu phải hít vào phổi thứ mùi ghê rợn thường có sau trận bom: mùi tanh nồng của máu trộn lẫn với mùi khói bom và mùi xác người cháy khét lẹt... Đại tá bảo, quân Mỹ đổ máu cùng các ông? Quả có thế! Nhưng để làm gì? Người Mỹ thực dụng lắm mà! Nợ gì còn trả được, chứ nợ xương nợ máu lấy gì để trả? Cho nên tôi chẳng hề lấy làm lạ khi thấy trước những việc làm mờ ám của một trung tá cố vấn, mà đại tá lại nói: “Tôi biết nhưng cũng khó can thiệp"...
- Anh thật... quá quắt? - Ông ta nói như quát, mặt phừng phừng giận dừ.
Tôi điềm đạm hỏi:
- Đại tá có cần tôi phải xin lỗi không ạ?
- Không cần? - Ông ta phẩy tay
- Mà... anh định xin lỗi điều chi?
- Tôi chỉ xin lỗi vì đã làm buổi đi câu của đại tá mất vui!
Ông Tùng nhìn tôi chằm chằm, rồi bỗng cười lớn:
- Hay lắm? Tôi sẽ rất thất vọng nếu anh xin lỗi về những lời nối thẳng thắn vừa rồi...
Ông Thành và con gái thở phào nhẹ nhõm. Còn tôi mãi sau này mới hiểu vì sao ông ta lại nói như vậy.
- Nhưng hôm nay tôi chưa định tranh luận với anh đâu đấy! - Ông Tùng nói tiếp.
Tôi đáp:
- Vâng, tôi cũng nghĩ thế? Thấy đại tá nói rất ít...
Nét mặt ông giãn ra và dịu hẳn lại.
Không ai bảo ai, cả bốn chúng tôi cùng đứng dậy. Tôi giục mấy vị khách lên nhà trước, rồi chạy xuống đoạn bờ suối phía dưới chặt mấy tàu lá chuối. Lúc quay trở lại, thấy ba người đã lên gần đến nhà. Cô gái vác khẩu tiểu liên trên vai, tay xách xâu cá chân bước thoăn thoắt, mái tóc kẹp thòng đung đưa sau lưng. Giá có thêm chiếc mũ tai bèo...
|
|
|
Logged
|
Ta không mong được đời đời kiếp kiếp, không mong được sớm tối bên nhau.
Chỉ mong được bình thản nắm tay nàng đi giữa nhân gian!
|
|
|
chienvit
Thành viên
Bài viết: 554
|
|
« Trả lời #94 vào lúc: 03 Tháng Mười Một, 2007, 07:59:53 pm » |
|
Chương XX
Cha con ông Thành đã chuẩn bị bữa cơm trưa khá tươm tất. Thức ăn có một đĩa xếp đầy những lát cá thu kho, và một đĩa khác ngồn ngộn những con tôm luộc to hơn ngón tay cái, mà màu vỏ đỏ hồng cùng hương vở của nó đều hết sức xa lạ và hấp dẫn khi xuất hiện ở giữa rừng. Lái còn đĩa rau sống xanh đến mát mắt, có điểm những lát chuối chát trắng mỏng và mấy lát khế hình ngôi sao vàng hượm. Bên cạnh là chén nước mắm có thả mấy miếng ớt đỏ tươi, cùng đĩa muối tiêu lốm đốm đen trắng với mấy quả chanh vỏ vàng suộm. Còn xoong cơm thì khỏi nói, mới mở vung ra đã thơm nức hương gạo.
- Ôi! Gạo mới phải không cô Thủy? - Tôi kêu lên - Thơm quá, chỉ ngửi mùi cũng thấy ngon! Cứ như đang vụ gặt...
Ông Tùng cười hà hà, quay sang nói với ông Thành:
- Hèn chi con nhỏ sáng nay cứ chạy lòng vòng quanh chợ, gạo nào cũng chê không mua!
Tôi làm như không biết gì. Cô gái đỏ mặt nói lảng:
- Cháu đâu biết bác chê cơm gạo mới?
- Tao chê hồi nào? Tao chỉ nói mày muốn mang cả biển cả ruộng vườn lên rừng để...
Cô gái vội cướp lời:
- Có vậy nên cháu mới bỏ quên chai rượu...
- Nói gì kỳ vậy cháu? Thôi tao không nói nữa. Đem ra cho bác! Lên đây mà thiếu chai rượu nhâm nhi thì còn ra gì!
- Cháu quên thiệt mát! Lúc sáng lu bu công chuyện, lại đi gấp...
- Con nhỏ này giỡn hoài! Đâu rồi? Đem ra đây để bác mời anh Hải một ly chớ! Mấy khi có dịp ngồi giữa rừng cụng ly với Việt Cộng?
Cô gái cười lỏn lẻn, lôi từ túi xách ra chai rượu vuông nhãn đỏ và mấy cái ly nhỏ. Mắt ông Tùng sáng lên. Ông vừa mở nắp róc rượu ra ly vừa lầu bầu:
- Thằng nào sau này lấy mấy thì khổ thôi, cháu ạ!
- Bác khỏi lo! Cháu không lấy chồng đâu! Cháu đợi khi nào chú Nguyên vô đã.
- Vậy là bác không được dự đám cưới mày rồi!
- Sao bác lại nói thế!
- Chú mày mà vô đây thì tao chạy từ đời tám hoánh nào rồi!
Ông nói tưng tưng, trên mặt chẳng còn chút căng thẳng nào của cuộc nói chuyện bên bờ suối lúc nãy. Hình như trong ông có đến hai con người..., không, phải nói là hai tâm trạng thì đúng hơn.
Bữa cơm trưa rất vui vẻ. Ai nấy đều ngon miệng, một phần vì đói mềm. Đã một giờ chiều rồi còn gì! Tôi ăn ngon lành mấy món biển, còn các vị khách lại nắc nỏm khen mãi món cá lấu gói lá chuối lùi trong than hồng, tuy món cá chưa đạt yêu cầu cho lắm do nướng vội, lớp da cá cháy mà không giòn. Tôi biết họ khen thật tình, bằng chứng là ba con cá to cuối cùng chỉ còn lại chỗ xương mà báo Aga cũng chỉ đưa mũi liếc qua rồi quay đi. Tuy vậy nó không tỏ vẻ khó chịu, không hiểu vì biết nhởn miệng đãi khách hay còn no thịt bò. Cơm xong, cô gái thu dọn bát ba rồi nói với ông Tùng:
- Bác đưa cháu xuống suối!
Tôi vội nói:
- Cô cứ để đấy, chiều tôi rửa!
- Ai lại để bát đĩa dơ thế này mà ngồi nới chuyện? Đi bác! - Cô giúi khẩu tiểu liên vào tay ông.
- A...! Con nhỏ này! Ăn xong phải để tao nghỉ ngơi chút chớ!
- Lên đây bác phải làm việc, đâu như ở dưới mà có hầu cận!
Khi ông Tùng đứng dậy xách súng đi, cô quay lại nhìn tôi cười ranh mãnh.
Quả nhiên hai người mới đi được một quãng, ông Thành đã bảo tôi:
- Anh Hải này, vừa rồi tôi có vào Tam Kỳ!
- Bác vào chỗ già Lý! - Tôi hỏi.
- À! Có hẹn trước nên tôi gặp được người con trai. Anh ấy tên Nghĩa, làm ở Huyện ủy. Tôi có viết thư gửi cho chú Nguyên, trong thư kể chuyện gặp anh nên mới biết địa chỉ.
- Rồi sao nữa bác? - Tôi lại hỏi, trong bụng mừng rơn.
- Anh ấy hứa là sẽ chuyển được, và hỏi rất kỹ về chuyện của anh, chắc ông Lý có nói trước. Tôi thì cứ thiệt tình kể lại những gì biết ở đây và nghe anh nói.
- Cám ơn bác! Nếu vậy chắc rồi đơn vị cháu sẽ biết tin cháu còn sống.
- Anh có cần nhắn gì không? - Ông nói, và chắc nhìn thấy vẻ mặt phân vân của tôi nên lại nói tiếp - Xin anh tin ở tôi. Tôi rất biết ơn anh về những việc anh đã làm cho gia đình tôi, và cũng mong làm được việc gì đó để sau này còn gặp lại chú nó.
- Chính bác với cô Thủy mới giúp cháu nhiều chứ ạ. Cháu chỉ sợ lỡ có gì nguy hiểm cho hai bác.
- Không sao đâu anh. Chỗ ông Lý dân Đà Nẵng lên nườm nượp, ở đó có ông thầy thuốc nam giỏi lắm. Tôi vào đó đã quen mặt rồi.
- Vậy bác cho cháu mượn giấy bút viết mấy chữ.
Ông Thành đưa cho tôi cây bút bi với quyển sổ lịch. Tôi xé trang giấy trắng viết bức thư ngắn:
"Chú Hai kính! Mấy lần định lên thăm chú thím và các em mà chưa đi được. Mùa màng vừa xong thì ba đứa nhỏ lại ôm. Thành ra có kiếm cho chú mấy cây mai vàng, giống nở hoa sáu cánh, nhưng còn bỏ đó. Hay hôm nào chú rảnh, về chơi rồi đem lên một thể. Nghe nói giống mai này quý lắm! Vậy cháu viết ít dòng để chú khỏi trông. Kính chú thím khỏe! Cháu Tư"
|
|
|
Logged
|
Ta không mong được đời đời kiếp kiếp, không mong được sớm tối bên nhau.
Chỉ mong được bình thản nắm tay nàng đi giữa nhân gian!
|
|
|
chienvit
Thành viên
Bài viết: 554
|
|
« Trả lời #95 vào lúc: 03 Tháng Mười Một, 2007, 08:26:04 pm » |
|
Lâu ngày không cầm bút, tay cứng quèo nên nét chữ nguệch ngoạc, nhưng như vậy cũng hay. Tôi đưa tờ giấy cho ông Thành và dặn:
- Bác đưa cho anh Nghĩa, nhờ anh ấy chuyển cho anh hai Nguyên. Nếu kẹt, bác cứ hủy đi rồi nhắn miệng với nội dung như trong thư cũng được.
- Tôi hiểu! Anh yên tâm.
Ông Thành đọc bức thư rồi gấp lại, nhét trong ngăn ví và cất vào túi. Cách thức liên lạc này tôi đã từng nghĩ tới. Nếu nhận được thư, anh Hai Nguyên hoặc các cán bộ tham gia chỉ đạo TK1 sẽ hiểu ngay vấn đề. Còn lỡ nó lọt vào tay địch, thì chỉ những kẻ biết rõ việc tôi sống ở đây và biết bức thư này tôi viết, mới nghi ngờ nội dung. Nhưng tôi tin ở ông Thành và hiểu được rằng, nếu không có lòng tin ở con người thì chẳng làm nên việc gì cả.
Tôi nói với ông:
- Quả thực, cháu rất ngạc nhiên khi thấy ông Tùng lên đây!
- Ông ấy không có ẩn ý gì đâu!
- Cháu biết! Một vị đại tá không đến nỗi phải đích thân di do thám, nhưng dù sao cũng rất khó hiểu.
- Ông Tùng lên không phải vì anh, cũng không phải vì tôi hay con Thủy lôi kéo, mà chỉ vì ông ấy đang muốn tự chiêm nghiệm lại bản thân mình. Tất nhiên trong lớp người như ông Tùng, không phải ai cũng như vậy. Nhưng nội tâm con người vốn rất phức tạp. Anh cứ coi đây là một trường hợp đặc biệt. Tôi biết mấy năm gần đây ông ấy có nhiều trăn trở trong cách nhìn nhận về cuộc chiến...
Tôi còn muốn hỏi thêm nhưng ông Tùng và cô gái đã lên tới.
Mặt trời chênh chếch dọi nắng lên chỗ bàn đá. Chúng tôi ngồi xuống bãi cỏ nơi có bóng râm, tiếp tục trò chuyện. Khi nghe tôi hỏi về diễn biến hội nghị Paris, ông Tùng nói:
- Vẫn tiếp tục, nhưng chưa có gì mới. À, anh lên đây mấy năm? Hai phải không - Thấy tôi gật đầu, ông nói tiếp - đúng là chẳng có gì mới trong thời gian đó. Tướng Thiệu bắt buộc phải cử một phái đoàn sang để đối diện với Mặt trận Giải phóng. Dĩ nhiên đó là ý người Mỹ chứ ông ta chẳng vui vẻ gì!
Tôi hỏi:
- Theo đại tá, hội nghị Paris sẽ đi đến đâu?
- Thì cũng phải tiến tới một kết cục nào đó chớ! Nhanh hay chậm là còn tùy ở hai phía, Mỹ và Hà Nội. Anh biết rồi, cái gọi là "bốn bên" chỉ là hình thức. Nhưng cuộc chiến kết thúc như thế nào, theo tôi cuối cùng vẫn phải quyết định trên chiến trường. Vừa rồi, tướng Thiệu mở cuộc hành quân Lam Sơn cũng nhằm ý đó. Ông muốn tạo một hành lang chiến lược dọc theo đường Chín, cắt đứt tuyến tiếp tế của Hà Nội, cái đường... Trường Sơn đó! Nếu làm được, ông ta sẽ có tiếng nói mạnh trên bàn hội nghị, và có giá với Hoa Kỳ.
Tôi thấy ông Tùng chỉ gọi "tướng Thiệu” chứ không gọi tổng thống, nhưng không quan tâm đến điều đó, chỉ háo hức hỏi:
- Thế rồi kết quả ra sao?
- À… Tất nhiên chúng tôi phải thắng chớ! Đại tá chỉ huy hành quân bị bắt làm tù binh, nhưng chúng tôi vẫn thắng! Thắng ở trên đài trên báo! - Giọng ông chua chát - Phía các anh tham chiến với cả tăng T34 và đại pháo, còn hỏa lực phòng không thì dày đặc. Tôi thấy có vẻ lần đầu tiên các anh tổ chức tác chiến hiệp đồng binh chủng, quy mô không lớn nhưng hiệu quả...
Cũng với cách nói tưng tưng, ông kể thêm về tình hình chiến sự, tất nhiên từ góc nhìn của ông. Tôi như mở cờ trong bụng. Được biết những tin tức đó, nhất là khi nghe chính ruột đại tá ngụy nói, thật thú vị.
Ông Tùng lại vớ cái ly và chai rượu còn non nửa. Từ đầu tới giờ ông uống là nhiều, tôi với ông Thành chỉ nhấp môi gọi là.
Cô gái can:
- Bác đứng uống nữa! Hồi tới giờ bác uống nhiều rồi...
- Nhâm nhi cho vui chớ ăn nhằm chi ba cái thứ rượu ngoại này!
- Bác uống nhiều thế, làm sao bay được?
- Cái con này! Hôm nay phải để bác xả hơi chút chớ! Mày đưa tao đi thì phải lo chở về...
- Là nói... bay dài dài đó. Chớ cháu đâu dám bỏ bác lại đây? Về dưới chết với bác gái à! Mà bác gái biểu dạo này bác hay uống rượu một mình...
- Ôi nghe bả làm chi! Mà... tao hết ham bay rồi. À này, ông quay sang nói với tôi - Cái thứ cá nướng của anh đó, nhậu với ba xị đế là phải biết! Còn ngon hơn cá lóc lụi rơm. Anh nhậu thứ đó bao giờ chưa? - Giọng ông ngà ngà.
- Tôi có nghe kể mà chưa được ăn lần nào. - Tôi cười đáp.
- Chậc! Nếu có dịp, mời anh về quê tôi. Tôi sẽ tự tay bắt cá làm cho anh nhậu một bữa. Mà anh biết sao không? Phải nhậu giữa đồng, lúc sắp tắt nắng ấyl Lúc đó gió biển lồng lộng, ta ngồi giữa mênh mông trời đất, nhìn chỏm nắng trên đọt dừa, ngắm đàn cò bay về tổ, người khói đốt đồng thơm mùi rạ cháy, tay nâng ly đế trong như mắt mèo đưa lên ngang mắt ngắm qua một chút rồi mới tợp một ngụm, rồi xé miếng lóc nướng thơm phức kẹp với rau sống, thêm ngọn rau thơm, lùa vô đầy miệng nhai mới đã! Lại cắn thêm trái ớt xanh nữa... Ối! Phải biết nhá!
Cô gái cười rúc rích:
- Nghe bác kể mà bắt thèm! Hôm nào đi, bác nhớ kêu cháu theo với...
- Mày thì biết gì! Nhậu như vậy phải gặp tri âm tri kỷ mới đã à nghen! - Ông Tùng mắng cô gái rồi quay sang nói với tôi - Con người ta kể cũng lạ! Như tôi ăn uống đâu thiếu thứ gì, vậy mà vẫn thèm được một lần như thế. Đến giờ tôi vẫn còn nhớ như in cảnh ông già tôi ngồi nhậu với bạn vào những buổi chiều...
|
|
|
Logged
|
Ta không mong được đời đời kiếp kiếp, không mong được sớm tối bên nhau.
Chỉ mong được bình thản nắm tay nàng đi giữa nhân gian!
|
|
|
chienvit
Thành viên
Bài viết: 554
|
|
« Trả lời #96 vào lúc: 03 Tháng Mười Một, 2007, 08:27:27 pm » |
|
Ông ngừng lời, xoay xoay ly rượu trong tay rồi chợt nâng lên ực một cái hết cạn. Tôi nhận thấy nãy giờ ông nói đặc giọng Nam Bộ.
- Thỉnh thoảng đại tá nên nghỉ “việc binh", tổ chức một buổi nhậu như thế. - Tôi nói với ông.
- Nhằm nhỏ gì anh! Bay một chiếc trực thăng tới vùng đồng nào đó, tất nhiên là liên hệ trước với đồn binh ở đó để khỏi lo du kích bắn tỉa... Rồi đám đệ tử lăng xăng, chúng mang theo đủ thứ... Tôi đã thử mấy lần và hiểu ra là một niềm vui bình dị như vậy chỉ có được khi người ta sống mộc mạc thanh thản...
- Thế giờ đại tá còn ai ở quê không ạ?
Ông Tùng cúi xuống nghiêng chai róc rượu vào ly mình, lát sau mới kể:
- Ba má tôi bị bịnh mất lúc tôi mười bốn tuổi. Tôi dắt thằng em lên Sài Gòn nhờ ông chú họ nuôi đi học. Nhà tôi có trước mảnh vườn chưa đầy công đất, dựng xong ngôi nhà lá còn trồng được mấy hàng cau... Khi hai anh em tôi dắt díu nhau đi, ngôi nhà đã nát nhưng hàng cau vẫn còn. Sau này về cau già chết hết. Tôi nhờ bà con dựng lại nhà để đặt bàn thờ ba má tôi, và trồng mấy hàng cau như cũ, có người anh họ tới ở để trông coi. Lâu lâu có dịp, tôi về nhậu với ổng một bữa. - Ông tợp thêm ngụm rượu rồi kể tiếp, giọng ngùi ngùi - Cách đây… ờ, phải hơn ba năm rồi, tôi về quê, thấy... cháy hết. Ngôi nhà cháy rụi, ông anh họ chết cháy trong đó. Còn thấy hàng cau cây cháy sém, cây cháy đen... Bom napan! Việt Cộng các anh đâu có thứ đó! Cũng biết chiến tranh là vậy mà sao thấy... buồn quá?
Câu chuyện của ông ngừng lại ngang đó. Chúng tôi ngồi im lặng, mỗi người miên man theo ý nghĩ của mình. Tôi liếc nhìn nét mặt trầm ngâm của ông Tùng, cố đoán xem vì sao ông lại kể những điều ấy ra với tôi, một người mới gặp lần đầu, mà lại là một người lính của phe đối địch? Có phải khi ngồi giữa rừng, người ta dễ cởi mở thẳng thắn với nhau hơn? Cũng có thể khi ở giữa thiên nhiên hoang dã, không cần phải lừa lọc dồi trá toan tính, không e ngại những mưu mô cạm bẫy, con người trở nên trong sạch hơn và sống thật với chính mình...
- Anh Hải, cho em mượn chiếc lược! - Tiếng cô gái cắt ngang dòng suy nghĩ.
Tôi trả lời:
- Ở trên nhà, cô lên đó lấy!
- Em lên được không?
- Sao lại không? Có bí mật gì đâu mà cô lo?
Tôi cười đáp và hơi ngạc nhiên. Chẳng phải cô lên lấy bát đĩa xuống dọn cơm đó sao? Chắc lại kiếm cớ nói chuyện riêng đây.
Lát sau nghe tiếng cô gọi với xuống: "Anh để ở đâu em tìm không ra...". Tôi đành xin lỗi hai vị khách, chạy lên.
Bước vào nhà, thấy cô ngồi xệp giữa sàn, hai chân xếp nghiêng một bên, đang cầm lược thong thả chải tóc.
- Biết ngay là cô lại có âm mưu gì đây? - Tôi đùa.
- Đâu có! Em chỉ muốn coi anh sống thế nào. - Cô đáp dịu dàng, mái tóc dày che nghiêng nửa khuôn mặt.
- Chẳng phải cô lên đây rồi sao?
- Em lên hồi nào? - Cô ngạc nhiên.
- Lúc lấy bát đĩa xuống dọn cơm?
- Ối! Anh đa nghi quá? - Cô cười rũ - Ba em lấy đó? Em là con gái, ai lại tự tiện vô nhà con trai được. Nhưng... đúng là em có chuyện muốn nói với anh thật. - Cô bỏ lược xuống, nhìn tôi đăm đăm.
- Có gì cô Thủy cứ nói đi?
- Anh Hải! Hay là anh về dưới với em... ì, không phải! Em muốn nói là... anh về dưới đó rồi tìm cách móc để ra... Chớ ở đây anh sống cực quá hà!
- Sao trước cô nói ở đây đẹp như cõi tiên? - Tôi hỏi, cốt để có thời gian suy nghĩ.
- Thì... đẹp thiệt chớ bộ. Có điều anh sống một mình, lỡ ốm đau làm sao? Anh chẳng đã kể có lần suýt chết là gì? Mà em thấy anh còn yếu lắm, biết lúc nào mới đủ sức trở về?
Quay mặt ra cửa để tránh ánh mắt của cô, tôi nói nho nhỏ:
- Tôi có nghĩ tới điều đó, nhưng không thể!
- Sao vậy anh?
- Tôi là người lính, không quen cuộc sống đô thành, về dưới lớ ngớ là bị bắt liền. Lúc đó sẽ rất nguy hiểm cho bác và cô.
- Em biết những người như anh đâu chịu rời bỏ mục đích của mình. - Cô cúi đầu, mái tóc chảy dài xuống ngực - Em chỉ muốn làm được việc gì đó để giúp anh...
- Cám ơn cô Thủy? Mà sao bác và cô lại tốt với tôi đến vậy? Tôi cảm động.
Cô ngẩng đầu nhìn tôi lém lỉnh:
- Bộ anh nghĩ trên đời chỉ mình anh tốt thôi sao?
- Không phải như vậy, nhưng...
- Anh biết trước lúc lên đây, bác Tùng dặn em sao không
- Ông nói gì?
- Bác ấy biểu, lên hỏi anh nghĩ sao nếu có một chuyến trực thăng chở anh tới nơi nào đó gần bên... Cách mạng?
- Ông ấy nói vậy ư? - Tôi thốt lên kinh ngạc.
- Bác ấy thiệt tình đó anh! Sắp xếp một phi vụ như thế đói với bác ấy đâu có khó!
- Nhưng sao ông lại làm vậy? Cứ cho là... bác ấy có cảm tình với anh! Hoặc anh nghĩ... ông làm vậy vì em cũng được, đâu có sao? - Ánh mắt cô lại hiện lên vẻ tinh nghịch.
- Như vậy… nguy hiểm lắm!
- Anh đừng lo? Em đâu dám lừa để bắt cóc anh về dưới đê! Lỡ giữa đường anh biết, anh làm "không tặc" thì chết em à!
- Tôi không nói vậy? Nhưng... cô không sợ đạn của Quân giải phóng bắn vào máy bay ư? Bác giờ chỉ còn mình cô...
- Anh lúc nào cũng chỉ nghĩ đến người khác... - Cô thở dài.
Tôi cười:
- Không hẳn! Máy bay rồi thì tôi cũng chết. Hoặc cứ cho là không bị bắn, nhưng về lại dưới đó cô sẽ nói sao với tụi an ninh? Một chuyến bay như vậy không qua mắt tụi nó được. Lúc đó ông Tùng cũng không che chở nổi. Tôi không muốn... người khác vì tôi mà gặp nguy hiểm.
|
|
|
Logged
|
Ta không mong được đời đời kiếp kiếp, không mong được sớm tối bên nhau.
Chỉ mong được bình thản nắm tay nàng đi giữa nhân gian!
|
|
|
chienvit
Thành viên
Bài viết: 554
|
|
« Trả lời #97 vào lúc: 03 Tháng Mười Một, 2007, 08:28:43 pm » |
|
Cô gái ngồi lặng lẽ, lát sau mới nói:
- Anh biết hồi trước ba nói với tụi em sao không? Là nói có cả anh Trà đó. Ông biểu: Bây ham gì thì ham, nhưng phải ráng sống sao cho có ý nghĩa... Lúc đó em đâu hiểu hết lời ông nói, em chỉ ham bay thôi à! Em bay trên mây và tội nghiệp cho mấy nhỏ bạn đi biểu tình sinh viên bị xỉu hơi cay... Giờ em muốn làm được một việc gì đó, mà sao thấy khó quá...
Tôi tần ngần nhìn cô, định nói đôi lời an ủi nhưng cứ lúng túng mãi. Có lẽ nói ra điều gì lúc này cũng đều sáo rỗng. Cuối cùng lại chỉ hỏi:
- Cô vẫn chưa giải thích vì sao ông Tùng lại bảo như vậy?
- Em đâu biết! Anh xuống hỏi thử coi!
Lại khúc khích cười. Và chừng như nhìn thấy vẻ mặt đăm chiêu của tôi, nên cô nói tiếp:
- Thiệt tình lúc đó em cũng ngạc nhiên lắm. Em hỏi, bộ bác mê Việt Cộng rồi sao? Ông mắng em một trận te tua luôn à! Mãi sau bác ấy mới nói: "Chẳng qua tao khâm phục những người lính can đảm". Bác ấy còn biểu... Mà thôi, em không nói nữa đâu!
- Sao ông không tự nói với tôi?
- Em không biết! Có thể bác ấy cũng có tự ái chớ! Tự dưng một đại tá của không lực lại đi năn nỉ: "Anh lên đây, tôi chở anh qua bển..." Và đừng tưởng anh đã thuyết phục được bác ấy đi theo Việt... theo bên...
- Cô cứ nói đại Việt cộng, không sao đâu!
- Thì để em tập cho quen. Lỡ sau này gặp chú mà cứ quen miệng, chú mắng em chết! - Cô che miệng cười, đôi mắt đen láy cũng cười theo.
Có tiếng rào rào trong đám lá trên mái nhà. Tôi giải thích khi thấy cô nhìn lên:
- Lũ khỉ về đấy! Hôm nay chúng về sớm, chắc biết nhà có khách.
- Hay quá! Em có đem chuối lên...
Cô vớ chiếc cặp ba lá cặp vội mái tóc, lao ra khỏi nhà nhảy xuống cầu thang.
- Gì vậy con? - Ông Thành ngạc nhiên hỏi.
Cô gái không đáp, vội vã lôi từ trong túi xách ra mấy nải chuối chín vàng.
Những con khỉ lúc đầu có vẻ rụt rè, nhưng sau cũng chứng tỏ là chúng không hề khách khí, khiến các vị khách hết sức hài lòng và vui vẻ khi nhìn chúng nhảy nhót trên bãi cỏ rồi rít chia nhau những quả chuối tiêu vàng hươm. Tuy vậy hôm nay trông lũ khỉ từ tốn hẳn ra. Không phải chúng biết giữ ý trước khách, chẳng qua chuối còn nhiều, đâu có gì phải vội.
Cây ngàn lao xao trong nắng chiều vàng nhạt, vài cụm mây trắng trôi lững lờ qua khoảng trời ló ra giữa những vòm cây. Trong muôn ngàn âm thanh êm đềm của rừng chiều, thỉnh thoảng lại có tiếng chim vút lên tan vào thinh không. Thiên nhiên lúc này đủ sức làm mềm lòng bất cứ ai...
Ông Thành nhìn đồng hồ rồi nói với tôi:
- Anh Hải này! Anh cho chúng tôi đi thăm mộ và thắp hương cho các anh ấy. Hôm trước về vội quá, tôi cứ áy náy mãi...
Tôi cảm động:
- Vâng! Nhưng...
Thấy tôi ngập ngừng, ông Tùng nói ngay:
- Anh yên tâm! Tôi luôn kính trọng những người lính dũng cảm. Việc này chúng tôi đã bàn với nhau trước khi lên đây!
Tôi xem đồng hồ thấy đã hơn ba giờ chiều, bèn nói với ông Thành:
- Nếu vậy ta xuống đó, rồi bác và đại tá về luôn kẻo muộn.
Cô gái bảo tôi:
- Em có mang lên cho anh mấy thứ lặt vặt, để đem lên nhà.
Ông Thành cùng con gái đem mấy gói đồ và chiếc thùng giấy lên trên nhà. Tôi mượn lại ba chiếc túi, ra sau gốc đa chất đầy ba túi trầm khệ nệ xách vào:
- Có ít trầm biếu bác và đại tá!
Ông Thành áy náy:
- Anh cho nhiều quá!
- Có gì đâu bác! Quà của rừng mà!
Chúng tôi ra chỗ máy bay đỗ. Cô gái leo lên ghế lái. Ông Tùng bảo tôi ngồi ở ghế trước, rồi cùng ông Thành bước lên cửa hông. Tôi bồng con báo bỏ lên máy bay, nhưng nó lồng lộn tuột khỏi tay tôi, vùng chạy vào đến bìa rừng thì dừng lại, cúp đuôi đứng nhìn ra. Tiếc quá! Định để nó đi máy bay một lần cho biết, mấy khi có dịp!
Chiếc trực thăng nhớm càng bay lên. Từ trên cao, tôi ngỡ ngàng nhìn cánh rừng nơi mình ở và cố hình dung xem lúc trước, với tư thế nào mà tên lính ngồi ở vị trí này đã nhắm bắn tôi bằng khẩu súng hiện giờ tôi đang cầm trong tay. Chưa kịp nghĩ ra thì máy bay đã đến nơi. Tới chỉ cho cô gái đáp xuống bãi cỏ, cách ngôi mộ đá chừng bảy chục mét.
Chưa bao giờ tôi nghĩ rằng sẽ có lúc mình đến thăm mộ bằng máy bay. Cũng loại trực thăng như chiếc đã tấn công chúng tôi ngày nào, nhưng con người thì khác. Hôm nay họ đến đây với tư cách bạn bè, kể cả ông đại tá kia nữa.
Tôi đốt trầm rồi quỳ một chân trước tấm bia, mắt đăm đăm nhìn những phiến đá màu nâu trơ mòn mưa gió. Ba người khách lần lượt thắp hương trên mộ, kính cẩn bỏ mũ đứng cúi đầu. Dưới nắng chiều nhàn nhạt, cả vùng đồi cỏ mênh mông vắng lặng, nghe rõ tiếng gió lùa vi vu trên ngọn thủy tùng và tiếng chim vẳng ra tử cánh rừng trước mặt. Trong khoảnh khác này tôi quên hết mọi sự vật xung quanh và không còn nhớ tới nhũng người đang đứng sau lưng. Tâm trí tôi như bay theo khói hương trầm nghi ngút, trở lại với những tháng ngày chúng tôi còn bên nhau. Ước gì các anh hiện ra từ làn khói trắng mờ kia, dù cbỉ một giây thôi. Lòng kính trọng và sự ngưỡng mộ chẳng làm các anh sống lại được...
|
|
|
Logged
|
Ta không mong được đời đời kiếp kiếp, không mong được sớm tối bên nhau.
Chỉ mong được bình thản nắm tay nàng đi giữa nhân gian!
|
|
|
chienvit
Thành viên
Bài viết: 554
|
|
« Trả lời #98 vào lúc: 03 Tháng Mười Một, 2007, 08:29:45 pm » |
|
Cô gái cất tiếng nói sau lưng tôi, giọng nhẹ như làn gió thoảng:
- Mấy lần bay qua đây em đều nhìn thấy ngôi mộ, mà nghĩ mãi không biết tấm bia làm bằng gì. Có phải của chiếc trực thăng ấy?...
Tôi đứng dậy nhìn cô, im lặng gật đầu. Cô mấp máy môi định nói gì đó nhưng lại thôi, đôi mắt ươn ướt buồn bã.
Ông Tùng bước tới đưa tay rờ rẫm những dòng chữ đục trên đoạn cánh quạt, khuôn mặt như tạc bằng những nhát đẽo giờ trông tư lự và khắc khổ. Ông Thành vẫn lặng lẽ đứng cúi đầu, gió thổi những sợi tóc hoa râm rung rung. Tôi chợt nhận ra rằng, bên cạnh cây thủy tùng vươn cao đồ sộ và hùng vĩ, và trong cảnh đìu hiu của vùng sơn nguyên hoang dã mênh mông, bốn con người chúng tôi mới nhỏ bé làm sao...
Có tiếng thở phì phì bên cạnh khiến mọi người cùng giật mình. Thì ra con báo, nó chạy tới từ lúc nào chẳng ai thấy. Sao nó tài thế nhỉ? Đã đành ba cây số đồi núi đối với sức lực và tốc độ của nó chẳng đáng là bao, nhưng làm sao con báo biết chúng tôi tới đây? Chắc nó chạy lên mỏm đồi nào đó đứng nhìn theo.
Con báo tới cọ đầu vào chân cô gái, hiền như một chú mèo ngoan. Cô thụp xuống vuốt ve nó, mặt rạng rỡ, mắt ngời hãnh diện. Đâu phải ai lên đây cũng đều được con dã thú quyến luyến đến thế. Bất cứ cô gái nào có lòng yêu thương loài vật đều mong muốn có những giây phút đáng tự hào như vậy.
Thấy chiều đã muộn, ông Thành giục con gái:
- Thủy, chuẩn bị về thôi con!
Cô quay lại nói với tôi:
- Để em đưa anh lại nhà!
- Không cần đâu! Cô sắp xếp về kẻo muộn. - Tôi trả lời rồi cúi xuống vun cho những miếng trầm cháy hết và cắm lại mấy cây hương bị nghiêng, những cây hương lần đầu được cắm tại đây.
Lúc ngẩng lên, thấy ông Thành và con gái đã tới gần chiếc trực thăng. ông Tùng vẫn đứng đợi tôi. Tôi cùng ông bước chầm chậm qua những hố đạn ngập cỏ ông hỏi:
- Con Thủy có nói với anh rồi phải không?
- Vâng! Dù sao cũng xin cám ơn đại tá! - Tôi hiểu ông muốn nói gì nên trả lời như đang tiếp tục một câu chuyện nói dở.
- Rất tiếc là không giúp gì được cho anh? - Ông Tùng nói - Sắp xếp để anh sống ở Đà Nẵng hay Sài Gòn, điều đó tôi làm được. Nhưng những người như anh đời nào chịu như thế. Còn bố trí để anh trở về bên kia thì đành chịu. Ở vị thế tôi lúc này, không thể móc được với người bên ấy...
Rồi ông chợt nói nhanh, giọng nghiêm trang và buồn buồn:
- Trong cuộc chiến này, cuối cùng các anh sẽ thắng. Tôi biết điều đó từ khi thấy Hoa Kỳ buộc phải ngưng ném bom miền Bắc và rút dần quân về để ngồi hòa đàm. Nhưng các anh lấy đâu ra sức mạnh như vậy để tồn tại và chiến thắng, có lẽ đến hôm nay tôi bắt đầu hiểu ra, khi nhìn tấm bia mộ làm bằng cánh quạt trực thăng. Chứ những lời lẽ của anh chưa đủ thuyết phục tôi đâu!
- Vâng! - Tôi đáp gọn.
- Nói gì thì nói, tôi vẫn không ưa cộng sản. - Ông nói tiếp! Có thể tôi sai. Có thể sau này, nếu các anh tạo dựng được một xã hội tốt đẹp hơn thì thế hệ đời cháu đời chắt tôi chúng sẽ theo, chứ tôi không thể. Ở tuổi tôi những gì đã hằn sâu trong óc là khó thay đổi. - Nói đến đây ông cười buồn. Thế giờ đại tá tính sao? Tôi hỏi cho có hỏi, chứ không nghĩ là ông sẽ trả lời. Hai chúng tôi đứng lại bên mép một hố đạn. Ông nhìn tôi rồi cúi đầu trầm ngâm, lát sau mới chậm rãi nói:
- Tôi sẽ về hưu.
- Những người như đại tá đâu dễ muốn nghỉ là nghỉ?
- Việc đó không khó! Tôi có bạn bè ở quân y. Hơn nữa... Hiện giờ ông Thiệu đang chạy đua một ngựa để giành ghế tổng thống, tướng Kỳ bị đẩy ra khỏi chính trường, chỉ còn ôm chức tư lệnh không quân mà ấm ức. Vì vậy ông Thiệu muốn đưa tay chân của mình vào nắm giữ các lực lượng chủ chốt trong không lực, ổng sợ lỡ ông Kỳ nổi khùng. Tôi cùng thế hệ với tướng Kỳ, cũng lớp phi công được đào tạo tại Pháp. Nếu lúc này xin nghỉ, ông Thiệu sẽ "ô kê" ngay để thế người vào... - ông bỗng ngẩng đầu nhìn tôi - Ờ... Thiệt lạ! Sao tôi lại đi nói với anh những việc này nhỉ? Ngay cả ông Thành tôi cũng chưa nói. Còn bà nhà tôi mà nghe vậy, bả mừng phải biết!
- Lúc ở giữa rừng, con người thường cởi mở và thẳng thắn với nhau hơn. - Tôi cười, hỏi tiếp - Thế sau đó, đại tá định làm gì?
- Tôi sẽ sang Canađa với chú em. Chẳng phải tôi ưa gì cuộc sống nơi đất khách quê người, nhưng ở đây tôi đâu còn ai thân thích ruột thịt! Anh biết đó, ngay cả cái bàn thờ ông bà cha mẹ, tôi cũng không giữ được... Sang bên đó còn có mấy đứa cháu. Chả lẽ lúc cuối đời chỉ có thân già trơ trọi! Này! - ông chợt cao giọng - Anh đừng tưởng vì gặp anh nên tôi quyết như vậy đâu nghen? Đáng ra tôi đã làm điều ấy lâu rồi ông lại cúi đầu đăm chiêu.
- Tôi hiểu! Và tôi biết vì sao đại tá lại dùng dằng như thế.
- Anh nói thử coi!
- Là người linh, đại tá không muốn bị xem như kẻ chạy trốn hèn nhát. Nếu phía các ông đang thắng thế, chắc đại tá sẽ ra đi nhẹ nhõm hơn. ông Tùng ngẩn người nhìn tôi:
- Không ngờ anh hiểu được như vậy!
- Còn một điều cuối cùng, tôi sẽ nói nếu đại tá không giận.
- Anh cứ nói!
- Đại tá vào lính từ khi tôi chưa được sinh ra, vì vậy điều sắp nói chắc sẽ làm đại tá mếch lòng. Nhưng tôi cũng xin lấy hết can đảm để nói rằng, đối với người lính có lúc việc rút lui lại đòi hỏi lòng can đảm lớn hơn bất kỳ mọi sự can đảm nào, hơn cả lúc ngồi dưới những trận bom hay bay trên vùng hỏa lực phòng không dày đặc của đối phương. Theo tôi, nếu không dám làm một việc mà mình nghĩ là đúng, thì với lý do gì đi nữa, cũng vẫn là hèn nhát.
|
|
|
Logged
|
Ta không mong được đời đời kiếp kiếp, không mong được sớm tối bên nhau.
Chỉ mong được bình thản nắm tay nàng đi giữa nhân gian!
|
|
|
chienvit
Thành viên
Bài viết: 554
|
|
« Trả lời #99 vào lúc: 03 Tháng Mười Một, 2007, 08:30:21 pm » |
|
Ông Tùng cười buồn:
- Anh lại khích tôi phải không?
- Không! Tôi nói thẳng thắn vì biết đại tá thích như vậy! Nếu coi thường đại tá, tôi đã không nới. Sắp chia tay nhau và không biết có còn gặp lại nữa hay không, nên tôi đâu muốn để lại một ấn tượng xấu trong suy nghĩ của đại tá!
- Ồ không! Tôi không giận anh đâu! Nào, bắt tay anh lần cuồl, anh lính Việt Cộng!
Chúng tôi bắt tay nhau. Bàn tay ông to và cứng cáp như đã từng cầm cuốc cầm phảng.
- Về dưới đó, đại tá cho tôi gởi lời thăm... bác gái?
Tôi nói, hơi ngắc ngứ khi dùng từ. Gọi "bà nhà" thì thô lỗ, còn nói "đại tá phu nhân" lại quá trịnh trọng. Vì vậy, tôi rất yên tâm khi thấy ông Tùng tươi hẳn nét mặt. Không nói gì thêm, ông lắc tay tôi lần cuối rồi quay người đi vòng qua đầu máy bay leo lên ghế lái phụ.
Tôi tới bên ông Thành, cố giữ vẻ mặt bình thản. Ông bắt tay và ôm lấy tôi, nói giọng nghẽn nghẹn:
- Mạnh giỏi nghe anh Hải! Gắng mạnh giỏi mà trở về!
- Vâng! Cháu... cảm ơn bác? - Tôi không dám nói nhiều, sợ bật lên thành tiếng khóc.
Ông vỗ vỗ vào lưng tôi rồi buông ra, bước chầm chậm đến bên máy bay.
Cô gái nãy giờ ngồi vuốt ve con báo, lúc này mới đứng dậy, miệng cười mà như mếu:
- Anh lính Giải phóng không bắt tay em sao?
Tôi mỉm cười, chìa tay nắm lấy bàn tay nhỏ nhắn, mềm và ấm.
- Liệu còn gặp nhau nữa không anh? - Cô ngước nhìn tôi đôi mắt mọng nước.
- Sao lại không? - Tôi nói cứng, cố giữ cho giọng khỏi run - Lúc nào hòa bình, tôi sẽ vào Đà Nẵng thăm... bác và cô.
- Anh Hải nhớ nghe! Thôi, em đi đây? Đứng lại chút nữa chắc em... khóc òa lên liền à! - Cô rút tay khỏi tay tôi, đi thẳng đến bên máy bay và leo lên ghế lái.
Tôi cầm ngang cây súng, đứng dạng chân trên bãi cỏ, gió thổi đuôi tóc dài khét nắng bay lất phất ra trước mặt. Không phải tôi muốn tỏ ra ngang tàng, mà đang cố ghìm người đứng thật vững để khỏi khuỵu chân ngồi phịch xuống đất, để khỏi bật khóc trước khi chiếc trực thăng kia bay đi, đế những người trên đó không nhìn thấy giây phút yếu đuối của mình. Tôi vừa từ chối con thuyền đến đưa tôi ra khỏi trùng dương rừng rậm, chỉ vì nó không đi về hướng mình đã định. Liệu có quá dại dột khi từ chôn một sự cứu giúp chân thành như vậy? Liệu có quá mạo hiểm khi muốn tự mình vùng vẫy để thoát ra khỏi điệp trùng núi non vây bủa như lớp lớp sóng dồn trong cơn biển động?
Động cơ nổ. Từ trong máy bay có ba bàn tay vẫy chào qua lớp bụi mù mịt. Không như mọi lần, chiếc trực thăng bay sạt qua bãi cỏ rồi đột ngột vọt lên trên ngọn cây nơi bìa rừng và nhanh chóng biến mất trong tầm nhìn. Tôi thả người ngồi phịch xuống cỏ, chân tay rã rời...
Hôm đó tôi về tới nhà lúc nhập nhoạng, và bỗng ứa nước mắt khi nghĩ rằng giờ này những người khách cũng đã về đến nhà. Góc rừng vắng vẻ đang tối lại. Mấy con khỉ đã đi ngủ. Phía tây ráng chiều đỏ rực. Nhìn qua ngọn cây, cứ tưởng như có cả một góc trời đang cháy.
|
|
|
Logged
|
Ta không mong được đời đời kiếp kiếp, không mong được sớm tối bên nhau.
Chỉ mong được bình thản nắm tay nàng đi giữa nhân gian!
|
|
|
|