Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Ba, 2024, 12:29:18 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch Sử Quân Sự Việt Nam - Tập 2  (Đọc 106550 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #120 vào lúc: 02 Tháng Hai, 2009, 10:38:14 pm »

Cuối thế kỷ II đầu thế kỷ III, miền đất nước ta nằm dưới quyền kiểm soát cát cứ của cha con Sĩ Nhiếp. Sĩ Nhiếp gốc Hán nhưng lại xây dựng “triều đình riêng”. Sĩ Nhiếp ra sức đưa Nho học vào đất Việt. Nhiều trí thức Giao châu đã trở thành “nhà Nho” và có ảnh hưởng trong dân chúng. Đấy là cơ sở hình thành văn hoá Việt - Hán.

Chính quyền ở Giao châu dưới các triều Ngô, Đông Tấn, Tống, Tề, Lương thực tế là một chính quyền cát cứ, hoặc do bọn chỉ huy quân sự địa phương thao túng hoặc ở trong tay bọn thứ sử, thái thú đã “lập nghiệp” lâu đời trở thành “cự tộc” Bấy giờ trào lưu di tản của sĩ phu, quan lại và Hán dân sang Giao châu ngày càng mạnh “không bao giờ dứt” (Trương Hoa: Bác vật chí).
 
Nhà Tây Hán thi hành chính sách “di dân khẩn thực”, đem những người tù tội di cư hàng loạt sang Giao Chỉ; hoặc theo sử cũ: “sĩ phu Trung Quốc sang Giao Chỉ lánh nạn, nương tựa Sĩ Nhiếp có hàng trăm người” (Ngô chí).

Vì vậy, quá trình giao lưu và ảnh hưởng kinh tế, văn hoá, xã hội của văn minh Trung quốc đối với đất Việt cũng ngày càng mạnh mẽ hơn. Số người Hán di cư và lập nghiệp ở Giao Chỉ càng củng cố thêm cơ sở cho chính quyền thống trị ở Giao châu và đẩy nhanh xu hướng Hán hoá trên đất Việt.
 
Trong khi đó, bọn quan lại đô hộ lại bắt đi rất nhiều người tài giỏi gốc Việt sang Trung Quốc, nhằm phục vụ cho cuộc sống cung đình của giai cấp phong kiến. Việc thái thú Giao Chỉ Tôn Tư bắt hơn 1.000 thợ thủ công người Việt dâng vua Ngô xây cung Kiến Nghiệp hẳn đã ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế - văn hoá của người Việt thuở ấy. 

Nhà Tuỳ rồi nhà Đường đã chia đặt lại tổ chức hành chính ở nước ta. Đó là chế độ quận huyện hoặc châu huyện và dưới huyện là các hương xã. Đứng đầu An Nam đô hộ phủ là một viên “đô hộ” hoặc “kinh lược sứ”; đứng đầu mỗi châu là chức thứ sử và nhiều người khác làm “trưởng lại”, chỉ huy quân đội.

Nền đô hộ dưới triều Tuỳ và nhất là dưới triều Đường càng nặng nề, quỷ quyệt và thâm độc hơn. Bọn quan lại đô hộ ra sức đắp luỹ xây thành, tăng cường quân phòng thủ ở Tống Bình (Hà Nội) và các châu, quận nhằm chống phá phong trào yêu nước của nhân dân ta. Chính sách bóc lột và đồng hoá của bọn xâm lược ở An Nam - nơi chúng coi là một “trọng trấn” rất nặng nề và dưới nhiều hình thức.

Có nhiều viên tướng của nhà Đường kiêm cả nghề phù thuỷ, đạo sĩ; chúng được phái sang miền đất nước ta - trong đó tiết độ sứ Cao Biền là đầu sỏ - bày trò đi các nơi tìm các ngôi “đất quý”, có ẩn tàng “khí vượng đế vương” để “yểm long mạch” . Đó là một thủ đoạn thâm hiểm, tinh vi nhằm trấn áp tinh thần độc lập tự chủ của dân ta, gieo rắc dị đoan rằng An Nam không còn là đất “đế vương” - có nghĩa là không thể và không còn là một nước độc lập nữa.

Làm sao nói hết và hiểu hết những đau thương, tủi nhục mà nhân dân ta phải trải qua hơn ngàn năm Bắc thuộc! Kẻ thù không chỉ dừng lại ở chỗ cướp nước, xoá bỏ độc lập chủ quyền, bóc lột vơ vét tham tàn, mà còn ráo riết thực hiện chính sách đồng hoá nhằm vĩnh viễn Hán hoá đất nước này, dân tộc này. Tất cả những gì là cơ sở tồn tại và sức mạnh phục hồi của một quốc gia - dân tộc từ lãnh thổ, tiếng nói, đến phong tục tập quán, lối sống, ý thức tư tưởng, văn hoá . . .  đều bị chúng tìm mọi cách, dùng mọi thủ đoạn để huỷ hoại. 

Nhưng kỳ diệu thay, qua chặng đường lịch sử đầy gian nan ấy, trong bối cảnh phần lớn khối “Bách Việt” đã vĩnh viễn bị thôn tính, bị Hán hoá thì đất nước ta, dân tộc ta đã không bị diệt vong và đồng hoá. Người Việt Nam đã rèn luyện bản lĩnh và cá tính dân tộc qua cuộc đấu tranh chống Bắc thuộc. Và do đó, con người Việt Nam vẫn tìm thấy và khẳng định bản thân trong lịch sù của mình dưới điều kiện Bắc thuộc với tất cả mưu đồ đồng hoá vừa tàn ngược vừa thâm độc của kẻ thù.

Thuở ấy, nhân dân ta mất nước nhung không mất làng.  Sau khi cướp nước ta, kẻ thù đã thủ tiêu chủ quyền quốc gia, xoá bỏ thể chế nhà nước sơ khai của các vua Hùng, vua Thục, nhưng trong suốt thời Bắc thuộc, chúng không thể nào với tay tới và can thiệp, làm biến đổi được cơ cấu xóm làng cổ truyền của nhân dân ta.

Bám vào làng xã, đoàn kết đùm bọc lấy nhau, người Việt đã đấu tranh mãnh liệt chống lại chính sách Nô dịch và đồng hoá của người Hán. Trong , làng xã, nhân dân vẫn giữ được cốt cách làm ăn và phong tục, tập quán riêng, không chỉ bảo lưu giá trị văn hoá cổ truyền mà còn biết tiếp thụ có chọn lọc nhưng yếu tố văn hoá ngoại sinh phù hợp với cuộc sống của mình và liên kết lại trong cuộc đấu tranh giành đất nước. Các lễ hội dân gian, giỗ tết, thờ cúng tưởng nhớ tổ tiên, ý thức uống nước nhớ nguồn, suy tôn những người anh hùng có công với dân, với nước. . . là phong tục đẹp đẽ vẫn duy trì. Tiếng Việt và bản sắc văn hoá, nghệ thuật được gây dựng từ thời dựng nước vẫn được bảo tồn, phát triển.

Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #121 vào lúc: 02 Tháng Hai, 2009, 10:40:21 pm »


Ngay từ đầu công nguyên, mặc dầu bọn thống trị Hán tộc đã tăng cường chế độ cai trị quận huyện, nhưng chúng vẫn không thể với tay xuống dưới cấp huyện, vẫn không khống chế trực tiếp được đông đảo các tầng lớp nhân dân. Mã Viện đã đàn áp được phong trào Hai Bà Trưng nhưng lại vấp phải một thực tế nghiệt ngã: xã hội Việt khác xã hội Hán. “Luật Việt và luật Hán khác nhau tới hơn mười việc”, không thể bệ nguyên xi pháp độ Hán sang áp dụng ở đất Việt đó là lời tâu của Mã Viện lên vua Hán.

Áp lực của hằng số lịch sử phương Nam – những truyền thống mạnh mẽ của cơ cấu xã hội nông nghiệp trồng lúa nước với nền tảng xóm làng của người Việt trên thực tế đã hạn chế mức độ và phạm vi thống trị của kẻ địch, khiến cho chính sách thống trị của nhà Hán cũng như các triều đại phong kiến Trung Hoa kế tiếp rút cuộc vẫn chỉ có thể là một chính sách ràng buộc lỏng lẻo mà thôi.
 
Từ Hán đến Đường chính quyền đô hộ được củng cố, tăng cường ngày một mạnh và chặt chẽ hơn, thậm chí nhà Đường đã chia lập các hương, xã, nhưng trước sau không một triều đại phong kiến Trung Quốc nào nắm được làng xã và đặt nổi hệ thống xã quan trên đất nước ta. Các làng xã nông nghiệp vẫn giữ được quyền tự trị cao và tồn tại như “thế giới riêng” của người Việt.

Chính những làng xã cổ truyền mang đặc trưng của loại hình công xã nông thôn kiểu á châu ấy, với quyền tự trị rộng lớn của nó, lại là nền tảng xã hội, là cơ sở của nền văn hoá Việt Nam là nơi nuôi dưỡng, vun trồng những tinh hoa văn hoá cổ truyền.

Trong cuộc đấu tranh trường kỳ chống Bắc thuộc, những xóm làng hiền dịu, ủ ấp sau luỹ tre xanh của tuyệt đại đa số nhân dân ta đã giữ vai trò như những pháo đài xanh kiên cố chống lại một cách có hiệu quả những âm mưu đồng hoá của kẻ thù và như những đòn bẩy thần thánh dấy lên những cuộc khởi nghĩa giành lại quê hương, làng - nước.
 
Cũng dựa vào các tổ chức làng xã, nhân dân ta duy trì và phát triển sản xuất. Nhờ vậy, nền kinh tế nước ta vẫn có những bước phát triển. Những thành quả đấu tranh trên lĩnh vực kinh tế, văn hoá làm tăng thêm sức mạnh của dân tộc ta trong cuộc chiến đấu chống ách thống trị ngoại bang, giành lại chủ quyền dân tộc.
 
Bộ máy chính quyền đô hộ từ Triệu, Hán đến Tuỳ, Đường, với tất cả khả năng và cố gắng của chúng cũng không làm sao trực tiếp kiểm soát và khống chế nổi toàn bộ lãnh thổ nước ta. Nhiều vùng rộng lớn vẫn nằm ngoài phạm vi cai trị của chính quyền đô hộ. Miền Ô Hử (Đông Bắc Bắc Bộ) mãi đến cuối đời Hán bọn đô hộ mới lập được chính quyền cấp huyện thì lại bị dân nổi lên đánh phá và cho đến đời Ngô hàng mấy vạn nhà dân vùng này vẫn chưa chịu thần phục.  Miền Phù Nghiêm (Thái Nguyên) đến đời Tấn mới lập được chính quyền cấp huyện. Miền Lâm Tây (Tây Bắc) cho đến đời Đường vẫn chưa thể đặt được ách cai trị, kẻ thù vẫn phải thực hiện chính sách ràng buộc hết sức lỏng lẻo. . . Chính quyền đô hộ thực tế chỉ khống chế trực tiếp được các vùng quanh các phủ thành, huyện thành, trấn thành hoặc đồn binh của chúng và những nơi có đông các “lại dân Trung Hoa” sinh sống.

Mạng lưới đô hộ Hán - Đường ngay thời bình đã thủng nhiều mắt lưới, còn đến lúc “loạn’ thì càng dễ bị xé rách từng mảng lớn, thậm chí bị xé toạc hoàn toàn dù chỉ là tạm thời, trong một thời gian ngắn.

Nhưng một tình hình thực tế cần được lưu ý là nước ta, từ đời An Dương Vương, tồn tại bên cạnh đế chế Trung Hoa lớn mạnh, liền núi liền sông và cùng chung biên giới với nước đi xâm lược và đô hộ. Do đó, mỗi khi chính quyền đô hộ bị quật đổ thì các triều đại phong kiến Trung Quốc lại tổ chức ngay các lực lượng chi viện hoặc những cuộc đàn áp và chinh phục lại “thuộc quốc”.
 
Cuộc đấu tranh chống Bắc thuộc, vì thế đã diễn ra rất khó khăn vất vả, dai dẳng và nó cũng chứng tỏ nền đô hộ của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán là không vững mạnh và ổn định. Nền đô hộ đó chỉ có bề dài về thời gian, chứ không có bề rộng trong không gian và càng thiếu hẳn bề sâu trong lòng cấu trúc của xã hội người Việt.

Đối với lịch sử Việt Nam hơn một ngàn năm này là cả một quá trình đan xen giữa Bắc thuộc và chống Bắc thuộc, giữa bị đồng hoá và chống đồng hoá. Cả hai mặt đối lập đấu tranh quyết liệt đó chi phối toàn bộ cuộc sống của nhân dân ta, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của lịch sử dân tộc.
 
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #122 vào lúc: 02 Tháng Hai, 2009, 10:41:57 pm »


Trong cuộc đấu tranh đó, nền văn hoá cổ truyền của người Việt bị đặt trước một thủ thách lớn lao. Nền văn hoá Hán được du nhập và truyền bá vào đất Việt, có mặt ôn hoà qua một số dân di cơ Trung Quốc, song mặt chủ yếu là mang tính chất cưỡng bức qua bàn tay bọn đô hộ như một công cụ đồng hoá và Nô dịch. Trong sự giao thoa văn hoá cưỡng bức theo mưu đồ Hán hoả của chính quyền đô hộ, nền văn hoá việt tránh sao khỏi những mất mát và ảnh hưởng. Văn minh Đông Sơn vào khoảng những thế kỷ đầu công nguyên đã bị suy thoái, bị giải thể cấu trúc và những mảnh vụn được bảo lưu của nó hoà tan vào nền văn hoá dân gian trong các xóm làng Việt cổ.

Nền thống trị của Hán - Đường như “một công cụ vô thức của lịch sử” (C.Mác), đã buộc người Việt phá vỡ một số truyền thống cũ của chế độ tù trưởng bộ lạc và công xã. Đó là những cản trở không nhỏ đồi với phong trào khởi nghĩa và kháng chiến hồi đầu thời Bắc thuộc.

Phải trải qua nhiều kinh nghiệm xương máu, chủ nghĩa yêu nước và ý thức dân tộc mới chiến thắng được những tư tưởng bộ lạc và khuynh hướng tản mạn địa phương, làm cho phong trào dân tộc có độ liên kết ngày càng cao hơn. Cái trớ trêu của lịch sử là chế độ đô hộ của phong kiến Trung Hoa đã đóng vai trò như một công cụ vô thức góp phần phá vỡ những tổ chức bộ lạc và thế lực cát cứ địa phương. Xoá bỏ cơ cấu bộ lạc, giữ lại và củng cố cơ cấu xóm làng, tăng cường sự cố kết dân tộc, thích ứng với cơ cấu quận huyện là một tổ chức có tính chất hành chính - địa vực, đó là những chuyển biến lớn của xã hội Việt Nam thời Bắc thuộc.

Sự hiện diện đích thực của cơ cấu văn minh Đông Sơn - cái kỳ diệu của nền móng Việt cổ - mấy trăm năm đầu Bắc thuộc phản ánh sức sống mãnh liệt của nền văn minh ấy, tinh thần bền bỉ chống đồng hoá, chống mọi thứ pha tạp xâm nhập có hệ thống, có tổ chức của bọn thống trị phương Bắc. 

Tuy nhiên, chủ nhân của nền văn minh Việt cổ không hề bài ngoại mù quáng cũng không bắt chước để bị lệ thuộc vào nền văn hoá khác mà hấp thụ có chọn lọc những yếu tố văn hoá ngoại sinh và biến thành cái vốn của mình, làm phong phú thêm bản sắc riêng của mình và tăng thêm tiềm lực mọi mặt của đất nước. Quá trình lịch sử ấy, vẫn để mượn lời của C Mác và Ph.ăng ghen dã diễn ra một cách gần như tự nhiên.
 
Cuộc đấu tranh chống đồng hoá về văn hoá thật gian truân đòi hỏi nhiều tâm lực và trí tuệ, khôn khéo và mềm dẻo. Trước khi có cuộc tiếp xúc trực tiếp và cưỡng bức với văn hoá Hán, người Việt đã có mối giao lưu rộng rãi với các nước láng giềng gần xa. Nhiều yếu tố văn hoá ngoại sinh trong đó cả trên lĩnh vực quân sự đã được tiếp thu để làm cho văn hoá Đông Sơn thêm phong phú và đa dạng (1). Người Việt đã biết cải biên để hoà nhập, biết tiếp thu sàng lọc để bảo vệ và phát triển văn hoá. Điều đó nói lên sức mạnh của văn hoá “mở ‘ của người Việt xưa, nói lên truyền thống và trí tuệ Việt trong cuộc đấu tranh xây dựng và bảo vệ đất nước ngay từ buổi đầu lịch sử mà truyền thống đó đang được bảo tồn và phát huy trên chặng đường đấu tranh chống đồng hoá thời Bắc thuộc.
 
Trong quá trình tiếp xúc và giao lưu văn hoá Việt - Hoa đã có sự truyền bá lối sống, văn minh - văn hoá Hán trên đất Việt Sự truyền bá đó diễn ra bằng hai con đường: con đường chính thống từ triều đình và Nho sĩ, và con đường dân gian.  Đó là sự truyền bá cưỡng bức, qua bọn đô hộ hành chính quân sự và truyền bá ôn hoà qua giao lưu kinh tế văn hoá của dân cơ Trung Quốc sang sinh sống trên đất Việt.

Con đường triều đình, Nho sĩ được sử sách ghi chép khá đầy đủ là con đường “chuyển tải” có hệ thống và có chủ trương, nhưng thường hay vấp phải sự phản kháng từ phía tiếp nhận; ngược lại con đường dân gian đi từ di cư, cộng cư rồi đến hội nhập thường diễn ra âm thầm và lặng lẽ do các tầng lớp nhân dân lao động người Hán tiến hành. Đây là con đường mang tính chất tự nguyện, theo quy luật đi từ “chuyển tải” đến “hội nhập”, từ “tiếp biến” đến “đồng nhất”.


(1) Trong nhiều “mộ thuyền” có mền đại trước sau công nguyên người ta đã tìm thấy gươm đồng kiểu Chiến quốc, dao găm sắt kiểu Hán... Ngay cái gọi là “mũi tên đồng Cổ Loa” cũng có chịu ảnh hưởng mũi tên đồng kiểu Xít tư (Scythie) của vùng đồng cỏ Trung á.
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #123 vào lúc: 02 Tháng Hai, 2009, 10:44:01 pm »


Sự tồn tại song song hai lối sống, hai phương thức sinh hoạt Việt và Hán, trong đó phương thức Việt là chủ đạo, là đa số cũng như sự dung hoà và chuyển hoá lẫn nhau giữa hai phương thức đã trở thành một đặc điểm của xã hội nước ta thời Bắc thuộc. Dẫu sao sự truyền bá nói trên cũng đã biểu hiện rất phong phú với những mức độ khác nhau trong các lĩnh vực văn hoá như ăn, ở mặc, phong tục tập quán, Tôn giáo tín ngưỡng, ngôn ngữ, văn tự, nghệ thuật, kiến trúc, điêu khắc, hội hoạ, v.v..

Trong cuộc đấu tranh lâu dài, phức tạp để bảo vệ di sản văn hoá truyền thống thời Bắc thuộc, nhân dân ta đã biết tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của văn hoá ngoại sinh phù hợp với đặc tính, tâm hồn Việt Nam để làm phong phú nền văn hoá truyền thống.

Trong quá trình giao lưu, tiếp xúc, tất nhiên sẽ dẫn tới biến đổi, có giữ và có bỏ, có thêm và có bớt. Tất nhiên, giữ, kế thừa và phát triển những nét đẹp, tiên tiến và phù hợp, bỏ bớt những gì lạc hậu, kém cỏi. Trên cơ sở ý thức dân tộc và tinh thần tự cường nhưng không bảo thủ, đóng kín, nhân dân ta đã biết kết hợp giữa truyền thống và cách tân cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử, đã tiếp thu một số cái hay, cái đẹp của văn hoá ngoại sinh. Một sự tiếp nhận có chọn lọc, có ý thức có sự dung hợp.

Điều đó được thể hiện ở nhiều lĩnh vực, như từ tập quán giã gạo bằng chày tay đã chuyển sang lối giã gạo bằng cối đạp từ đầu công nguyên; từ tập tục nhà sàn dần dần người Việt chuyển sang ở nhà nền đất nện. Trong trang phục, y phục nghệ thuật cũng được làm phong phú, đa dạng và phát triển cao hơn trên cái căn bản của nền văn hoá cổ truyền.

Trên lĩnh vực ngôn ngữ - một trong những đặc trưng cơ bản của dân tộc, hơn 1.000 năm Bắc thuộc cũng là cả quá trình đơn âm tiết hoá và thanh âm hoá của tiếng Việt. Bên những âm tiết thuần Việt đã xuất hiện trong kho tàng tiếng Việt ngày một nhiều, âm tiết Hán Việt, không giống tiếng Hán cổ mà cũng không giống bất cứ phương ngữ nào của Trung Quốc, cả cấu trúc ngữ âm và ngữ nghĩa đều thay đổi đáng kể để nằm gọn trong lòng cấu trúc ngữ âm và ngữ nghĩa tiếng Việt, để làm cho tiếng Việt có khả năng diễn đạt ngày một phong phú hơn. Tiếng nói của dân tộc được giàu lên bằng việc học chữ Hán mà vẫn giữ đặc tính Việt Nam.

Trên lĩnh vực tư tưởng Tôn giáo - tín ngưỡng, Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo từ Trung Quốc đã du nhập vào nước ta, mỗi thứ đều mang theo một mô hình khác nhau. Tuy nhiên, Nho giáo chưa và không thể thịnh đạt ngay trong thời Bắc thuộc, không được người Việt hưởng ứng nhiệt tình, vì nó tượng trưng cho sự kỳ thị và áp bức dân tộc. Hán Nho với thuyết “nội Hạ, ngoại Di” đặt Trung Quốc là trung tâm thế giới; ngoài người Hán ra, tất cả các dân tộc, các quốc gia khác đều là man di mọi rợ, người Việt bị gọi là “rợ phương Nam”.
 
Ngược lại, Phật giáo từ ấn Độ và Trung Quốc truyền vào đã tìm thấy một môi trường thuận lợi để cắm rễ trong quần chúng lao khổ và đầy khát vọng giải thoát. Vả lại, Phật giáo không chống đối với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên Tôn trọng anh hùng của người Việt. Tư tưởng Phật giáo, dù thấm sâu vào tâm hồn ngườiViệt vẫn không gây ra một ý thức tiêu cực, không thủ tiêu ý chí đấu tranh giành lại độc lập tự do của người Việt. Phật giáo đã sớm tham gia vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc nên sớm đi vào tâm hồn Việt Nam, sớm thành “quốc giáo” ngay ở giai đoạn đầu của thời kỳ độc lập phật giáo thế kỷ X chủ yếu thuộc hai thiền phái Tiniđalưuchi và Vô Ngôn Thông với ảnh hưởng sâu sắc của Mật giáo. Nó dễ kết hợp với tín ngưỡng dân gian và dung hoà với đời sống công xã, tạo nên yếu tố tinh thần lành mạnh trong xã hội thời đó.

Cũng như Phật giáo, Đạo giáo được “Việt hoá” và có tác dụng hỗ trợ tinh thần dân tộc. Sống gần gũi với dân chúng và thấm nhuần ý thức dân tộc, dù là dưới màu sắc thần linh, các đạo sĩ Việt Nam có tinh thần sáng tạo và được dân chúng lưu truyền rộng rãi với những câu chuyện kỳ dị, như chuyện thần Sơn Tinh và thần sông Tô Lịch chống lại tên phù thuỷ Cao Biền. Cao Biền chôn hàng ngàn cân đồng, cân sắt trước cửa đền Bạch Mã để “yểm”, đã bị thần Tô Lịch “hô sấm sét” phá tan. Cao Biền lập đàn tràng trên đền núi Ba Vì để “yểm” thần Tản Viên, nhưng Tản Viên đã cưỡi diều bay cao trên mây nhổ nước bọt vào giữa đàn tràng của tên phù thuỷ. Cao Biền kinh hãi kêu lên: “Linh khí ở nước Nam không thể lường được! ôi cái vượng khí ở đất này đời nào hết được... ở đây lâu tất chuốc lấy tai vạ. Ta phải mau trở về đất Bắc thôi” (1).
 
Thế mới hay, ở đất nước của vua Hùng này, tất cả các loại tư tưởng hay tín ngưỡng nào từ ngoài vào muốn tồn tại và phát triển, đều tự giác là sớm hay muộn phải tuân phục theo truyền thống văn hiến Việt từ ngàn xưa.
 

(1).  Theo Vũ Quỳnh - Kiều Phú: Lĩnh Nam chích quái. Sđd.
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #124 vào lúc: 02 Tháng Hai, 2009, 10:45:13 pm »

Trên cơ sở văn minh nông nghiệp và xóm làng, nhân dân ta tiếp thu một số yếu tố văn hoá Trung Hoa, Ấn Độ và vùng biển phương Nam. Nền văn hoá Việt không co lại để tự vệ một cách bảo thủ cô lập. Nó không từ chối những đóng góp của những yếu tố bên ngoài, mà còn tỏ ra có khả năng thu nạp và dung hoá mạnh mẽ những cái hay, cái đẹp của các nền văn minh ngoại lai, kể cả của nước đang xâm lược và đô hộ mình.

Đáng lưu ý là trong văn hoá Trung Hoa được truyền bá xuống phương Nam có những yếu tố vốn là của Bách Việt được người Hán hấp thụ, hệ thống và nâng cao thêm, nên nó được người Việt tiếp nhận khá dễ dàng.

Qua Bắc thuộc và chống Bắc thuộc, nhân dân ta đã tìm biết một Trung Hoa cao cả và tốt đẹp của nhân dân lao động, thâu hoá một số thành tựu và văn hoá của nhân dân Trung Quốc, để chống lại thứ văn hoá đế chế hiểm độc, tàn bạo của giai cấp thống trị, công cụ bóc lột và nô dịch nhân dân trong và ngoài nước.
 
Đó là kết quả của quá trình “giao thoa văn hoá” - kết quả sự đan xen, hỗn dung, tiếp xúc - biến đổi, hội tụ và kết tinh văn hoá Việt cổ với các văn hoá khác để rồi sinh thành bản sắc văn hoá Kinh - Việt. Nói cách khác, đây là kết quả của sự tác động qua lại giữa những nhân tố ngoại sinh và nội sinh.
 
Người Việt Nam ở thời Bắc thuộc có ý thức về tầm quan trọng của văn hoá dân tộc trong cuộc đấu tranh chổng đô hộ Hán - Đường. Nếu để bị đồng hoá về mặt văn hoá thì dù có bám trụ kiên cường trên quê cha đất tổ, dù có giữ được dòng máu dân tộc đi nữa thì sớm muộn cũng sẽ bị mất nước, mất độc lập tự do. Người Việt trụ vững trên quê hương, quyết tâm bảo vệ và phát huy bản lĩnh, bản sắc của mình.  Những giá trị vật chất và tinh thần được cha ông sáng tạo, giữ gìn và phát huy trong suốt chặng đường tiến hóa lịch sử gắn liền với nền văn minh lúa nước sông Hồng đã thể hiện sức sống mãnh liệt, khả năng thích ứng rất cao trong mọi hoàn cảnh khó khăn, tiến hành đấu tranh có hiệu quả chống lại nền văn hoá đế chế độc hại của kẻ xâm lược.
 
Và nhờ những phẩm chất cao quý, những giá trị văn hoá của mình mà người Lạc Việt và Âu Việt có thể tồn tại như một thực thể độc lập của nền văn hoá phía nam sông Dương Tử sau hàng ngàn năm đô hộ của phong kiến phương Bắc. Việc tiếp thu văn hoá Phật giáo từ ấn Độ - Nam á là một đối trọng làm dung hoà, cân bằng với việc tiếp thu văn hoá Nho giáo từ Trung Hoa - Đông á.

Trong diễn trình văn hoá Việt Nam thời Bắc thuộc có hai khuynh hướng đối lập:

- Khuynh hướng Hán hoá là mưu đồ có ý thức của bọn đô hộ và tay sai, phần nào có tác dụng gần như vô thức về phía dân gian.

- Khuynh hướng Việt hoá nhằm giữ lại và phát huy những tinh hoa văn hoá cổ truyền đã được định tính và định hình từ thời đại dựng nước, hấp thu, hội nhập những yếu tố văn hoá bên ngoài theo yêu cầu của cuộc sống và thời đại; sắp xếp, cấu trúc lại trên nền tảng Việt.

Thời Bắc thuộc, lịch sử và văn hoá Việt Nam đã có một lần đứt gãy: cái đứt gãy nặng nề, từ Đông Sơn sang “Hán hoá”, để tạo nên Hán - Việt, một dạng thức mới của cá tính Việt Nam. Bản sắc văn hoá Việt Nam được hình thành và phát triển trong quá trình lịch sử. Nền văn hoá dân tộc, trong đó những yếu tố làm thành bản sắc riêng, luôn được tuyển chọn và thắt loe, luôn được kế thừa và đổi mới, thêm giàu có và đầy sức sống, luôn đấu tranh, vươn lên, phát triển không ngừng. Thực tế lịch sử trong hơn 1.000 năm chống Bắc thuộc đã chứng tỏ sức sống và sự vươn lên kỳ diệu của nền văn hoá - văn minh Việt cổ.

Dưới thời Bắc thuộc, việc “Hán hoá” tưởng chừng như không tránh khỏi. Nhưng kết cuộc thì Việt hoá mạnh hơn Hán hoá. Trong cả hai khuynh hướng trên, dĩ nhiên khuynh hướng Việt hoá luôn là chủ đạo và trên cơ sở đó, trong cuộc đấu tranh phong Bắc thuộc, đất nước ta không bị diệt vong, dân tộc ta không bị đồng hoá, mà còn lớn lên về mọi mặt để có đủ sức mạnh vật chất và tinh thần chiến thắng chủ nghĩa bành trướng Đại Hán, giành lại độc lập tự chủ.  Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực văn hoá tư tưởng, cuộc đấu tranh chống Hán hoá, bảo vệ di sản văn hoá cổ truyền nói trên là một bộ phận của sự nghiệp đấu tranh chống Bắc thuộc vừa là một nhân tố quan trọng thúc đẩy tiến trình đấu tranh vũ trang giành độc lập của nhân dân ta vào đầu thế kỷ X với sự toàn thắng của phong trào dân tộc.

Một sự kiện hiếm thấy trong lịch sử thế giới là các bộ tộc người Việt cổ sinh sống trên mảnh đất này đã sớm có một triết lý sống, hình thành và phát triển một nền văn hoá dân tộc mà hạt nhân là chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đấu tranh bất khuất để hoà hợp với và làm chủ thiên nhiên, hoà hợp với và làm chủ xã hội xóm làng, cố kết với nhau, tương thân tương ái, vừa dũng cảm vừa thông minh. Chính nhờ sức mạnh khôn lường của nền văn hoá ấy mà dưới ách áp bức, đô hộ hơn một ngàn năm của phong kiến phương Bắc, dân tộc ta đã không hề bị đồng hoá và cuối cùng đã vùng lên chiến thắng, giành lại độc lập tự chủ.
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #125 vào lúc: 04 Tháng Hai, 2009, 11:23:26 am »


II. VỀ TRUYỀN THỐNG VÀ NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ TRONG GIAI ĐOẠN BẮC THUỘC VÀ CHỐNG BẮC THUỘC

Từ thế kỷ II TCN đến thế kỷ X, trên đất nước ta diễn ra cuộc đấu tranh bền bỉ kiên cường của dân tộc ta, một dân tộc đang trên bước đường hình thành nhưng có một sức sống mãnh liệt chống lại ách thống trị của quân xâm lược hung bạo, nhất định không để mất nước, không chịu làm nô lệ, không để các lực lượng bành trướng xâm lược đồng hoá. Hơn 1.000 năm Bắc thuộc cũng là hơn 1.000 năm đấu tranh kiên trì chống Bắc thuộc để khẳng định quyền làm chủ đất nước của mình.

Trong lịch sử nhân loại, không một dân tộc nào như dân tộc Việt Nam, bị mất nước suốt trong hơn 1.000 năm mà lại quật khởi vùng lên giành lại được độc lập. Cái gì đã giúp nhân dân ta làm nên điều kỳ diệu ấy?

Có thể giải thích điều đó ở sức sống mãnh liệt của dân tộc bắt nguồn trước hết từ nền văn hoá, văn minh dân tộc, từ truyền thống độc lập tự cường, ý chí đấu tranh kiên cường bất khuất của dân tộc ta, một truyền thống được hun đúc từ bao đời và được tôi luyện trưởng thành trong quá trình đấu tranh chống xâm lược. Và cũng trong quá trình đó những truyền thống quân sự và nghệ thuật quân sự Việt Nam đã bước đầu hình thành, phát triển và thể hiện tính ưu việt của nó trong các cuộc khởi nghĩa và chiến tranh vì độc lập dân tộc.

Do điều kiện tư liệu lịch sử quân sự còn lại quá nghèo nàn, nên không thể trình bày được nghệ thuật quân sự của riêng từng cuộc khởi nghĩa, từng cuộc chiến tranh, dưới đây chỉ nêu khái quát một số biểu hiện bước đầu của truyền thống quân sự và nghệ thuật quân sự trong giai đoạn lịch sử này.
 
1. Các hình thức khởi nghĩa và chiến tranh chống phong kiến phong Bắc xâm lược.

 Các sử gia phong kiến Trung Hoa cố tình che giấu khi thép về cuộc đấu tranh của các dân tộc bị đô hộ, nhưng trong thực tế lịch sử thì đã nổ ra rất nhiều cuộc khởi nghĩa. “Ngươi Giao châu hay nổi loạn” (1), đó là kết luận rút ra của kẻ thống trị. Thực chất, đó là tinh thần quật khởi của nhân dân ta.  Cuộc đấu tranh vì chủ nghĩa yêu nước của nhân dân ta diễn ra liên tục, thường xuyên, lúc ngấm ngầm, lúc công khai, có khi thành công có khi thất bại, nhưng đó là cả một quá trình phát triển ngày càng cao của tinh thần dân tộc.

Cuộc đấu tranh chống Bắc thuộc diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau với hai loại hình khởi nghĩa và chiến tranh: thứ nhất là các cuộc khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng, chống ách đô hộ, giành lại độc lập; thứ hai là các cuộc chiến tranh tự vệ, các cuộc kháng chiến chống xâm lược nhằm bảo vệ nền độc lập tự chủ.

Sau thất bại của An Dương Vương (179 TCN), nhân dân Âu Lạc bị mất nước và bị chìm đắm trong đêm trường bị phong kiến phương Bắc đô hộ. Và cũng từ giai đoạn này, lịch sử quân sự Việt Nam bắt đầu xuất hiện hình thức khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng để giành lại nền độc lập tự chủ. 

Khởi nghĩa Tây Vu Vương (năm 111 TCN) là cuộc nổi dậy đầu tiên của nhân dân ta chống Bắc thuộc mà sử cũ còn ghi lại. Đó là cuộc khởi nghĩa của một bộ phận người Âu Lạc, dưới quyền lãnh đạo của một dòng họ quý tộc Âu Lại cũ, nhằm khôi phục lại quyền độc lập cho đất nước Âu Lạc.

Bấy giờ, quân Hán đánh chiếm Phiên Nhung, hạ đô thành Nam Việt (Quảng châu), nội bộ Nam Việt bị phân hoá chia rẽ, bọn quan lại Nam Việt nhiều người đầu hàng nhà Hán. Chớp thời cơ đó, Tây Vu Vương (thủ lĩnh Tây Vu - Cổ Loa) đã thống suất dân chúng nổi dậy khởi nghĩa chống bọn sứ giả nhà Triệu. Cuộc khởi nghĩa tuy bị thất bại, Tây Vu Vương bị giết, nhưng nó đã mở ra một trang sử mới về tinh thần chống đô hộ của nhân dân ta.


(1) Xin xem lời tâu của thứ sử Đào Hoàng lên vua Tấn (thế kỷ III).  “Người Giao châu... chán sự yên vui, thích gây hoạ loạn” (Tấn thư, Đào Hoàng truyện). 
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #126 vào lúc: 04 Tháng Hai, 2009, 11:25:00 am »


Từ khi nhà Hán đặt ách thống trị lên miền đất Âu Lạc, mức độ bóc lột và đồng hoá của bè lũ quan lại ngoại bang càng trở lên khốc liệt. Phong trào chống đô hộ của nhân dân ta trong buổi đầu công nguyên đã nổi dậy mà đỉnh cao nhất, chói lọi ngàn thu là cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng.

Cuộc nổi dậy oanh liệt ấy là một hiện tượng hiếm có trong lịch sử thế giới cổ đại, nó như một tia lửa nhen lên tinh thần yêu nước Việt Nam, tinh thần vùng lên khởi nghĩa, coi độc lập dân tộc là cái quý giá nhất: “Trưng Trắc, Trưng Nhị là đàn bà, hô một tiếng mà các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố và sáu mươi lăm thành ở Lĩnh Ngoại đều hưởng ứng. . . “ (Lê Văn Hưu) .

Đó là cuộc khởi nghĩa có quy mô lớn và phát triển thành chiến tranh giải phóng chống ách đô hộ của phong kiến Hán tộc đầu tiên của nhân dân Âu Lạc.

Khởi nghĩa Tây Vu Vương và khởi nghĩa Hai Bà Trưng là những cuộc khởi nghĩa và chiến tranh chống Bắc thuộc, chống Hán hoá, vì nền độc lập tự chủ, mở ra một trang mới trong lịch sử quân sự Việt Nam: lịch sử các cuộc khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng dân tộc.

Tiếp nối tinh thần quật khởi của Hai Bà Trưng, các tầng lớp nhân dân ta, từ quần chúng nghèo khổ cho tới các quý tộc và thủ lĩnh người Việt yêu nước. từ miền xuôi đến miền ngược, đã không ngừng nổi dậy đánh đuổi quân xâm lược, hết giặc Ngô, giặc Tấn, giặc Tống, giặc Lương cho đến bọn phong kiến Tuỳ - Đường.

Qua thế kỷ này sang thế kỷ khác, phong trào đấu tranh giải phóng của nhân dân ta diễn ra sôi sục, mãnh liệt với hàng chục cuộc khởi nghĩa lớn, nhỏ bùng nổ trên khắp các địa phương. Tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo của Chu Đạt ở các quận Cửu Chân và Nhật Nam những năm 157-160; của Lương Long ở nhiều quận, huyện từ Giao Chỉ cho tới Nhật Nam những năm 178- 181 ; của Bà Triệu ở Cửu Chân rồi lan rộng ra Giao Chỉ năm 248, khiến “Cả Giao châu đều chấn động”; khởi nghĩa của Lý Trường Nhân, Lý Thúc Hiến với việc giành lại được quyền tự chủ trong một thời gian (468-485).

Bước sang thế kỷ VI, phong trào giải phóng của nhân dân ta chuyển lên giai đoạn phát triển mới mà đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa thành công dưới sự lãnh đạo của Lý Bí (542-543) đưa đến việc thành lập nhà nước Vạn Xuân (544).

Từ thế kỷ VII, dưới ách cai trị bạo ngược của phong kiến nhà Tuỳ, rồi sau đó là của bọn phong kiến nhà Đường, các tầng lớp nhân dân, thế hệ nọ nối tiếp thế hệ kia, liên tục vùng lên đánh giặc. Cuộc khởi nghĩa này bị dìm trong máu lửa thì cuộc khởi nghĩa khác lại dâng lên.

Điều đáng lưu ý nhất là các cuộc nổi dậy đó chủ yếu không phải là nổi dậy của dân cày chống bọn điền chủ vì sưu cao thuế nặng, mà chủ yếu là nổi dậy của dân tộc Việt Nam chống đô hộ, giành độc lập tự chủ.
 
Ách đô hộ nhà Đường thường bị rung chuyển bởi những đòn công phá của phong trào cứu nước của nhân dân ta, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa có quy mô lớn của Lý Tự Tiên và Đinh Kiến năm 687, của Mai Thúc Loan năm 722, của Phùng Hưng những năm 766-779 và của Dương Thanh những năm 819-820. Trong số những cuộc nổi dậy mạnh mẽ đó cũng có những cuộc khởi nghĩa phát triển thành chiến tranh giải phóng, như khởi nghĩa Mai Thúc Loan (Mai Hắc Đế).

Từ căn cứ Vạn An (Nghệ An), nghĩa quân Mai Thúc Loan đã liên kết với nhiều lực lượng chống nhà Đường, tiến ra bắc, tiến công phủ thành Tống Bình. Bè lũ đô hộ Quang Sở Khách, trước khí thế ngút trời của cuộc chiến tranh giải phóng của người Việt đã bỏ thành, chạy tháo thân về nước.
 
Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa không duy trì được lâu bởi ngay sau đó vua Đường đã cử danh tướng Dương Tư Húc dẫn 10 vạn quân sang đàn áp. Tuy vậy, cuộc khởi nghĩa với hình thức đấu tranh mạnh mẽ, rộng lớn đó đã cổ vũ nhân dân ta tiếp tục đứng lên đánh đuổi quân xâm lược.

Đầu thế kỷ X, xuất hiện một hình thức khởi nghĩa mới của Khúc Thừa Dụ. Bấy giờ, triều đình nhà Đường ở Trường An và chính quyền đô hộ ở miền đất nước ta suy yếu; cuộc đấu tranh đòi độc lập của nhân dân ta lan rộng và dâng cao, bọn quan lại đô hộ bất lực. Khúc Thừa Dụ, hào trưởng có uy tín ở Hồng châu nhân thời thế, tổ chức quân sĩ, thu phục lòng người và khi thời cơ đến đã lãnh đạo nhân dân đứng lên chống bọn đô hộ, giành được chính quyền rồi tự xưng là tiết độ sứ.

Nhà Đường buộc phải chấp thuận sự việc đã rồi, công nhận Khúc Thừa Dụ là Tĩnh Hải quân tiết độ sứ, đại diện của triều đình Trường An tại An Nam. Về danh nghĩa thì như vậy, nhưng thực chất họ Khúc đã xây dựng một chính quyền tự chủ.
 
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #127 vào lúc: 04 Tháng Hai, 2009, 11:29:09 am »


Trên thực tế, từ nửa cuối thế kỷ thứ V, anh em Lý Trường Nhân và Lý Thúc Hiến cũng lợi dụng khi chính quyền phong kiến phương Bắc suy yếu đã tự “dấy nghiệp”, xây dựng một chính quyền mang màu sắc “thứ sử” với ý thức dân tộc rất cao, đẩy mạnh xu hướng ly tâm chính trị ở Giao châu đối với Bắc quốc.

Đó là hiện tượng thường xảy ra mỗi khi đế chế Trung Hoa tan ra thành nhiều mảnh vụn phong kiến cát cứ, khi mà bộ máy thống trị, đô hộ của chúng ở nước ta không còn chặt chẽ và mạnh mẽ như trước nữa. Tuy nhiên, đến thời Khúc Thừa Dụ, tinh thần dân tộc Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ và sự nghiệp của họ Khúc đã đặt nền móng vững vàng tạo nên sức mạnh dân tộc trong cuộc đấu tranh đi tới xoá bỏ hoàn toàn ách đô hộ trên đất nước ta. Họ Khúc, rồi sau này họ Dương còn giữ chức tiết độ sứ có nghĩa là chưa công khai tuyên bố nền độc lập, cố giữ thái độ hoà hoãn với đối phương để tranh thủ thời gian xây dựng chính quyền và lực lượng về mọi mặt.

Cánh ứng xử của họ Khúc quả là độc đáo mở đầu cho một truyền thống khôn khéo, mềm mỏng trong thế ứng xử đối ngoại với phong kiến phương Bắc, nhằm đạt mục đích là giành và giữ nền độc lập dân tộc.  Ở cạnh kề một nước lớn, từ sớm tổ tiên ta đã tỏ ra biết ứng xử linh hoạt để tồn tại và phát triển. Nhún nhường không phải lúc nào cũng biểu hiện yếu kém. Nhân nhượng để tránh tổn thất vô ích mà lại đạt mục tiêu. Độc lập tự chủ là mục tiêu lớn nhất của cả dân tộc ta thời đó.

Khởi nghĩa và chiến tranh giành độc lập tự chủ là hình thức đấu tranh chủ yếu của nhân dân ta trong suốt cả thời kỳ dài chống Bắc thuộc. Phần lớn các cuộc khởi nghĩa bị đàn áp thất bại; nhưng cũng có nhiều cuộc khởi nghĩa lớn ở địa phương phát triển mạnh, xây dựng được căn cứ chống giặc, giành được thắng lợi, đánh đổ chính quyền của bọn đô hộ ở từng nơi, từng lúc, từng bộ phận và thậm chí còn giành được chính quyền ở phủ thành, châu thành, khiến bọn quan lại đô hộ hoặc bị giết hoặc chạy tháo thân về nước.

Có những cuộc khởi nghĩa phát triển thành chiến tranh giải phóng có quy mô toàn quốc, lật đổ chính quyền đô hộ, thành lập chính quyền dân tộc trong một thời gian. Đó là cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng thắng lợi và đưa đến thành lập chính quyền tự chủ của Trưng Vương năm (40-43). Đó là cuộc khởi nghĩa Lý Bí thành công, đất nước được giải phóng, Lý Bí lên ngôi hoàng đế và thành lập nhà nước Vạn Xuân độc lập trong các năm 544-602. Đó là cuộc khởi nghĩa Phùng Hưng (766-779), từ Đường Lâm tiến lên bao vây và hạ thành Tống Bình, rồi tổ chức chính quyền tự chủ, dẫu nền tự chủ đó còn rất mong manh...

Thời kỳ Bắc thuộc rất dài nhưng lại bị cắt thành nhiều khúc. Trưng Vương xây dựng và bảo vệ chính quyền tự chủ trong thời gian 3 - 4 năm; Nhà nước Vạn Xuân do Lý Bí thiết lập tồn tại trong gần 60 năm (544 - 602) . . .
Các cuộc khởi nghĩa dân tộc chính là sự đối trả bằng bạo lực có tổ chức của một dân tộc bị áp bức đối với kẻ đô hộ ngoại bang. Sự đối trả đó có thành công hay không tuỳ thuộc vào những điều kiện lịch sử, những điều kiện khách quan và chủ quan nhất định. 

Đó là sự đối sánh lực lượng giữa dân tộc bị áp bức với thế lực xâm lược thống trị họ, là sự chuẩn bị của quần chúng yêu nước và tài tổ chức chỉ huy của Bộ tham mưu khởi nghĩa.  Tuy chính quyền đô hộ luôn bị lật đổ, quan đô hộ nhiều lần phải chạy trốn về nước, nhưng các đế chế phong kiến Trung Hoa ở kề ngay phía bắc đất nước, còn đang mạnh, vẫn đủ sức tổ chức những đạo quân viễn chinh lớn sang xâm lược và tái chinh phục đất nước ta.

Chính vì thế, trong hơn mười một thế kỷ Bắc thuộc và chống Bắc thuộc, nhân dân ta đã phải tiến hành nhiều cuộc chiến tranh tự vệ, các cuộc kháng chiến chống lại những đạo quân viễn chinh xâm lược của kẻ thù. Hai Bà Trưng cùng quân đội của mình đã phải tiến hành cuộc kháng chiến chống lại cuộc tiến công xâm lược tàn bạo của nhà Đông Hán trong suốt ba năm liền.

Nhà nước Vạn Xuân vừa được thiết lập, chỉ được hưởng thái bình trong hơn một năm thì đã bị quân Lương tiến công xâm lược. Nhân dân Vạn Xuân dưới sự lãnh đạo của Lý Nam Đế và Triệu Quang Phục đã anh dũng tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ giữ nước. Trải qua sáu năm kháng chiến, quân, dân Vạn Xuân chiến đấu anh dũng, kiên cường và giành được thắng lợi.

Tiếp sau cuộc kháng chiến chống Lương, nhân dân ta còn phải tiến hành cuộc kháng chiến chống quân Tuỳ xâm lược (năm 602) . Thất bại của Lý Phật Tử trong cuộc kháng chiến này đã đưa đất nước ta bị nhà Tuỳ rồi nhà Đường thống trị trong vòng ba thế kỷ. Chính quyền tự chủ của họ Khúc được xây dựng năm 905 và tồn tại trong 26 năm thì các năm 931 và 938, nhà Nam Hán liên tục hai lần đưa quân xâm lược.
 
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #128 vào lúc: 04 Tháng Hai, 2009, 11:37:01 am »


Cuộc kháng chiến của nhân dân ta do Lương Đình Nghệ (931) và Ngô Quyền (938) lãnh đạo đã đánh tan các cuộc tiến công xâm lược của quân Nam Hán, đưa đất nước vượt qua được những thử thách hiểm nghèo, chứng tỏ sự trưởng thành lớn mạnh của ý thức tự chủ và sức sống phi thường của dân tộc. Chiến công của Ngô Quyền là cột mốc lịch sử, chấm dứt vĩnh viễn nền đô hộ lâu dài của phong kiến phương Bắc trên đất nước ta.

Như vậy, trong hơn một ngàn năm Bắc thuộc và chống Bắc thuộc, lịch sừ quân sự Việt Nam đã xuất hiện hai hình thức đấu tranh chủ yếu: khởi nghĩa vũ trang giành độc lập dân tộc và chiến tranh giữ nước. Với hai hình thức đó, cuộc chiến đấu của nhân dân ta tuy gian nan, vất vả, lâu dài và đầy hy sinh, nhưng cuối cùng đã giành được thắng lợi. Nhân dân ta đã lật đổ ách thống trị ngoại bang, đã xây dựng và bảo vệ được chính quyền độc lập tự chủ của mình.
 
2. Nghệ thuật “trì cửu chiến”, xây dựng căn cứ chiến đấu, tiến hành chiến tranh du kích.

Trong điều kiện phải vừa xây dựng lực lượng vừa chiến đấu, trong thế phải “lấy ít địch nhiều’, “lấy yếu chống mạnh”, ông cha ta đã biết dùng kế “đánh lâu dài” (trì cửu chiến) và lấy đánh du kích làm phương thức tác chiến chủ yếu để tiến công địch.

Cuộc kháng chiến chống Lương thời Lý Bí - Triệu Quang Phục là một cuộc chiến tranh điển hình về sự vận dụng các hình thức đánh giặc. Đó là một cuộc chiến tranh lâu dài trong sáu năm (545-550), đã để lại những bài học đầu tiên về nghệ thuật tiến hành cuộc chiến tranh du kích đánh thắng chiến tranh xâm lược của kẻ thù lớn mạnh.

Giữa năm 545, sau khi đã đàn áp xong các phong trào phản kháng của các dân tộc ít người, nhà Lương phát động cuộc chiến tranh xâm lược nước Vạn Xuân, hòng đặt ách cai trị của chúng. Là một vương triều thống trị trên cả vùng Giang Nam rộng lớn, trù phú và đông dân, nhà Lương đã huy động một lực lượng quân sự mạnh cho cuộc viễn chinh, gồm hàng vạn quân do các tướng Dương Phiêu và Trần Bá Tiên chỉ huy.

Từ khi khởi nghĩa thành công, nhà nước Vạn Xuân được thành lập, Lý Nam Đế gấp rút xây dựng đất nước trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế và chăm lo tổ chức lực lượng quân sự để phòng chống ngoại xâm.

Số quân thường trực cả nước lên tới vài vạn người. Tuy nhiên, so với quân Lương, một đội quân được tổ chức chính quy, được trang bị, huấn luyện đầy đủ và đã trải qua nhiều năm đàn áp các phong trào khởi nghĩa, thì quân đội mới được tổ chức của nước Vạn Xuân còn thua kém nhiều mặt. Trong hơn một năm đầu của cuộc kháng chiến, Lý Nam Đế chỉ thực hành một phương thức tác chiến là tập trung lực lượng quân đội tiến hành những trận lớn trong thế phòng ngự, do đó quân đội Vạn Xuân đã bị tổn thất nặng và liên tục phải rút bỏ hết nơi này đến nơi khác. 

Trước sức tiến công mãnh liệt của quân Lương, các thành Chu Diên, thành Tô Lịch và thành Gia Ninh đã nhanh chóng bị hạ. Sau thất bại lớn ở hồ Điển Triệt, quân đội Vạn Xuân hầu như tan rã, tướng Triệu Quang Phục, người được giao quyền chỉ huy lực lượng còn lại đã thay đổi cách đánh, rút quân về lập căn cứ ở vùng đầm Dạ Trạch, lấy đó làm đất đứng chân để tiến hành một cuộc kháng chiến lâu dài.
 
Dạ Trạch là một vùng đầm lầy ven sông Hồng, rộng mênh mông, lau sậy um tùm. Ở giữa là một bãi phù sa rộng, có thể làm ăn sinh sống được. Đường ra vào rất kín đáo khó khăn, chỉ có thể ra vào bằng thuyền nhỏ. Vùng Dạ Trạch tuy có địa hình rất hiểm trở, nhưng lại nằm sâu giữa nội địa, ngay giữa miền đồng bằng đông dân, giàu lúa gạo, tức là vừa thuận lợi cho tác chiến du kích vừa thuận lợi trong việc động viên và tiếp nhận sự chi viện sức người, sức của dồi dào của nhân dân các địa phương quanh vùng.
 
Mặt khác, xét về khả năng tác chiến, quân Lương mạnh ở bộ binh và kỵ binh, còn quân ta lại thông thạo sông nước, giỏi thủy chiến. Vì vậy, chọn Dạ Trạch làm căn cứ để tiến hành cuộc chiến tranh du kích là chính xác, phát huy được sở trường của quân ta, hạn chế sở trường quân giặc.
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #129 vào lúc: 04 Tháng Hai, 2009, 11:42:13 am »


Triệu Quang Phục đóng quân ở bãi đất nổi. Ngày ngày quân sĩ thay phiên nhau luyện tập và sản xuất, tự túc lương ăn, ban ngày im hơi lặng tiếng như không có người, ban đêm cho quân kéo thuyền ra đánh úp quân thù, “làm kế trì cửu’ đánh giặc.

Bằng hình thức đánh nhỏ, đánh lén, đánh úp nhằm tiêu hao và triệt đường lương thảo của giặc, quân ta đã hãm quân Lương vào một tình thế hết sức căng thẳng, người mệt, lương tuyệt, nguy khốn đến tuyệt vọng. Sau ba năm dựa vào căn cứ Dạ Trạch để đánh du kích, quân ta vừa làm thất bại các đợt tiến công, truy kích của giặc, vừa làm cho quân địch mệt mỏi, suy yếu, trái lại, lực lượng kháng chiến được tăng cường về mọi mặt.

Đến mùa xuân năm 550, nhân khi nhà Lương có nổi loạn, tướng Trần Bá Tiên cùng một bộ phận quân Lương bị điều về dẹp loạn, Triệu Quang Phục chớp thời cơ đã tập trung lực lượng chuyển lên phản công lớn, quét sạch quân thù ra khỏi bờ cõi.
 
Về cuộc chiến tranh du kích này, sách Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Đinh Mão, Thiên Đức, năm thứ tư (1547)... Mùa xuân, tháng giêng. . . Triệu Quang Phục cầm cự với Trần Bá Tiên, chưa phân thắng bại. Nhưng quân của Bá Tiên rất đông, Quang Phục liệu thế không chống nổi, bèn lui về giữ đầm Dạ Trạch. Đầm này ở huyện Chu Diên, chu vi không biết bao nhiêu dặm, cỏ cây um tùm, bụi rậm che kín, ở giữa có nền đất cao có thể ở được, bốn mặt bùn lầy, người ngựa khó đi, chỉ có thể dùng thuyền độc mộc nhỏ chống sào đi lướt trên cỏ nước mới có thể đến được. Nhưng nếu không quen biết đường lối thì lạc không biết là đâu, lỡ rơi xuống nước liền bị rắn độc cắn chết. Quang Phục thuộc rõ đường đi lối lại, đem hơn hai vạn người vào đóng ở nền đất trong đầm, ban ngày tuyệt không để lộ khói lửa và dấu người, ban đêm dùng thuyền độc mộc đem quân ra đánh doanh trại của quân Bá Tiên, giết và bắt sống rất nhiều, lấy được lương thực để làm kế cầm cự lâu dài. Bá Tiên theo hút mà đánh, nhưng không đánh được. Người trong nước gọi là Dạ Trạch Vương” (1). “Gặp lúc nhà Lương có loạn Hầu Cảnh, gọi (Bá Tiên) về, uỷ cho tì tướng là Dương Sàn đánh nhau với vua. Vua tung quân ra đánh, Sàn chống cự, thua chết. Quân Lương tan vỡ chạy về Bắc. Nước ta được yên” (2).
 
Như vậy, cuộc kháng chiến chống Lương của nhân dân ta từ Lý Nam Đế qua Triệu Quang Phục đã có sự chuyển hướng chiến lược, tức là thay đổi phương thức tác chiến chiến lược. Nếu trong thời kỳ đầu, Lý Nam Đế chỉ dựa vào quân đội còn quá non trẻ, co cụm ở một vài thành luỹ mà cố thủ, chỉ sử dụng phương thức đánh lớn, đánh trận địa để ngăn chặn quân Lương, thì giai đoạn sau Triệu Quang Phục đã thực hành đánh lâu dài, lấy đánh tiêu hao, phục kích, đánh úp làm phương thức tác chiến chủ yếu.

Với lối đánh phòng thủ, dàn trận đối địch với giặc như ở Chu Diên, ở thành Tô Lịch ở Gia Ninh hay tại động Khuất Lão, Lý Nam Đế không thể giành được thắng lợi lực lượng quân sự nhỏ bé, non trẻ của nước Vạn Xuân không thể cản phá nổi sức tiến công hăng hái, mãnh liệt buổi đầu của gần chục vạn quân xâm lược nhà Lương.
Qua kinh nghiệm thất bại của những trận tập trung lực lượng đánh chặn địch ở giai đoạn đầu, Triệu Quang Phục đã chuyển hướng chiến lược, lui về đóng ở Dạ Trạch, thực hành cách đánh phù hợp với điều kiện đối sánh lực lượng hai bên, phát huy lợi thế bên mình, hạn chế sức mạnh của địch.

Do gặp khó khăn về địa hình, giặc Lương không thể thực thi được những trận tiến công lớn, truy kích ồ ạt, mà buộc phải chia quân bao vây quanh vùng, phải đánh nhỏ lâu dài với ta.  Đó chính là điều quân thù không muốn và không phải là cách đánh sở trường của kẻ xâm lược. Còn quân ta, với truyền thống giỏi bơi thuyền, đánh thủy, lại thông thuộc đường đi, nên chỉ bằng những lực lượng nhỏ được phân ra cơ động mau lẹ đánh chặn các ngả cũng có thể bẻ gãy các mũi tiến công của quân giặc, hoặc gặp khi tình thế bất lợi có thể nhanh chóng rút lui an toàn vào sâu căn cứ, khiến quân Lương không sao truy tìm được.

Sử chép: “Bá Tiên theo hút mà đánh, nhưng không sao đánh được’ chính là nói đến hiệu quả của lối đánh du kích của ta, cũng biểu hiện sự bất lực, thất bại của quân Lương trong các cuộc tiến công, truy quét vào khu căn cứ Dạ Trạch.

Không dừng lại ở những hoạt động tác chiến phòng ngự bảo toàn lực lượng ở Dạ Trạch, Triệu Quang Phục còn cho quân chủ động tiến công địch ở ngoài khu căn cứ bằng những trận phục kích, đánh lén với những lực lượng nhỏ nhưng thiện chiến để tiêu hao, tiêu diệt từng bộ phận, từng đồn binh giặc, tịch thu lương thảo và khí giới, gây hoang mang cho chúng.
 
Với lối đánh “trì cửu’, hàng chụt, hàng trăm trận như thế đã diễn ra hết tháng này qua năm khác, tổng số thiệt hại của địch ngày càng lớn. Đó là điều kiện thuận lợi để Triệu Quang Phục chớp thời cơ phản công thắng lợi. 


(1), (2). Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.1, tr. 181. 183.
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM