Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Ba, 2024, 05:09:50 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Chiến khu Đ  (Đọc 100819 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #30 vào lúc: 01 Tháng Mười Một, 2007, 08:13:38 pm »

Trong những gian lao cực khổ ở Chiến khu Đ, bộ đội ta còn phải chịu cảnh thiếu nước?


Có lẽ không riêng gì Chiến khu Đ mà cả miền Đông Nam Bộ vào mùa khô “nước” trở thành vấn nạn. Riêng ở Chiến khu Đ, nhiều nơi thiếu nước trầm trọng dưới cái nắng như thiêu đốt hút cạn các con sông nhỏ và toàn bộ các dòng suối luồn lách trong rừng. Có những ngày hành quân xuyên chiến khu không hề gặp một khe nước, ai nấy khát cháy khô cổ họng như muốn nổ yết hầu, người sắp lả đi.

Rút được kinh nghiệm, các chiến sĩ mang theo ống bương tre đựng nước để chống khát dọc đường và đến nơi trú quân có thể nấu cơm ăn. Nhưng nước đâu có đủ khi cơn khát dày vò khủng khiếp mọi người. Những lúc như thế, anh em có sáng kiến chặt dây rừng hứng nuốt từng giọt từ trong dây chảy ra để thấm cho đỡ khô cổ. Cũng có khi may mắn gặp được bãi nước, thôi thì “trong nhờ đục chịu” uống cho thỏa cơn khát, mặc dù thú rừng đã đến uống và lội xuống quậy khiến nước đục ngầu.

Đó là chuyện hành quân, những khi đóng quân mà không có nước mới thật cực khổ. Vào cuối năm 1953 đầu năm 1954, để phối hợp với chiến trường miền Bắc và Nam Bộ, Tiểu đoàn 303 Thủ Biên đã đưa phần lớn lực lượng luồn sâu xuống vùng địch hậu để làm nòng cốt phát triển chiến tranh du kích và phối hợp với địa phương đẩy mạnh tác chiến diệt địch. Hai trung đội của Đại đội 60 được bố trí tại rừng gò Ông Mai, căn cứ Thuận An của huyện lái Thiêu. Do địa thế gò cao lại đồn bót địch bốn bề nên đơn vị buộc phải đào giếng để lấy nước ăn uống và sinh hoạt. Nhưng ác thay, các chiến sĩ đào sâu tới 20m mà vẫn không có nước, chỉ toàn là bùn. Đào sâu xuống nữa thiếu dưỡng khí có thẻ bị chết ngạt. Thế là phải bỏ phí hết bao công sức mồ hôi. Nhưng không thể bó tay chịu chết khát giữa rừng, đơn vị phải lần mò ra vùng địch kiểm soát xa hàng mấy kilomet để lấy nước. Mỗi chuyến đi như vậy phải vào buổi đêm và tổ chức chặt chẽ như hành quân chiến đấu: có bộ phận tiền vệ, trắc vệ (bảo vệ hai bên đội hình và hậu vệ. Đến nơi phải bố trí canh phòng chu đáo rồi mới thay nhau tắm giặt, xong lấy nước gùi về. Có lần bị địch phục kích, nước đổ lẫn máu, nhiều chiến sĩ hi sinh.

Những lúc giặc bao vây bố ráp, phong toả các điểm lấy nước, mọi người phải nhín từng ngụm để chia nhau trang trải cho qua những thời khắc khó khăn. Có lúc nước dự trữ hết sạch, anh em phải múc bùn nhão từ đáy giếng lên, để rất lâu mới lắng được một ít nước, dùng ống hút nhỏ chia nhau hút cho đỡ khát.

Chuyện nước muỳa khô ở Chiến khu Đ là nỗi ám ảnh với nhiều người và trở thành những kỷ niệm khó quên.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #31 vào lúc: 01 Tháng Mười Một, 2007, 08:14:01 pm »

Sự ra đời của đơn vị vận tải có ý nghĩa gì với Chiến khu Đ?


Chấp hành chỉ thị của Trung ương Cục miền Nam, ngày 1-5-1952, Bộ Tư lệnh Phân liên khu miền Đông ra quyết định thành lập Tiểu đoàn vận tải 320, làm nhiệm vụ tiếp nhận hậu cần của Trung ương do Liên khu 5 chuyển giao từ Bình Thuận vào Chiến khu Đ, để phân phối cho các đơn vị trên khắp chiến trường; giữ vững đường liên lạc giữa Nam Bộ với Trung ương, đồng thời đưa đón các đoàn cán bộ qua lại trên tuyến đường này. Tiểu đoàn vận tải 320 do đồng chí Nguyễn Văn Lung phụ trách, gồm 3 đại đội vận tải và 1 đại đội làm nhiệm vụ “đầu cầu” tiếp nhận hàng, chuyển nhập kho, xây dựng kho tàng, bảo quản vật chất, bàn giao hàng, tăng gia sản xuất.

Tháng 6-1952, tại Bà Đã, những bộ phận đầu tiên đã tổ chức lễ thành lập tiểu đoàn. Hàng trăm cán bộ, chiến sĩ các nơi, kể cả du kích dân tộc ít người như Châuro, Stiêng… cũng đến xin gia nhập đơn vị vận tải.
Hành lang vận tải dài từ 200-300km, từ Xóm Sình lên Lạc An vượt sông Đồng Nai qua Vĩnh Cửu xuống Rừng Lá, Xuyên Mộc đến Bình Châu, Bình Thuận. Thời gian mỗi lượt đi từ 7-8 ngày đêm; mỗi người tải từ 15-20kg hàng ngoài ba lô, súng đạn và lương thực ăn dọc đường. Hàng vận tải giai đoạn này chủ yếu là nguyên hóa liệu cho quân giới và một số súng lớn như đại liên, ĐKZ, đạn lõm…

Quá trình làm nhiệm vụ âm thầm của bộ đội vận tải 320 giữa rừng sâu là một cuộc chiến đấu vô cùng quyết liệt với kẻ thù, với đói rét và cả tư tưởng thoái chí trước gian khổ. Giặc Pháp nhanh chóng đánh hơi được tuyến đường vận chuyển chiến lược của ta nên tăng cường đòn bót dọc theo hành lang và dùng bọn tay sai người dân tộc thiểu số luồn rừng dẫn đường gài mìn phục kích, tập kích… Địch còn cho pháp bắn cầm canh cả ngày lẫn đêm vào tuyến đường vận tải. Các chiến sĩ vận tải vừa phải mở đường vừa phải chiến đấu diệt địch. Có lần vừa chở hàng về đến Chiến khu Đ, gặp địch càn quét, tiểu đoàn đã phối hợp với đơn vị bạn chống càn, diệt được 20 tên.

Sự ra đời của tiểu đoàn vận tải 320 đã thực hiện tốt nhiệm vụ tiếp nhận kịp thời sự chi viện của Trung ương cho Nam Bộ trong giai đoạn đầy khó khăn, thiếu thốn vật chất. Từ đây, Chiến khu Đ giữ trọng trách làm “đầu cầu” cho con đường vận chuyển chiến lược từ Trung ương vào Nam Bộ.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #32 vào lúc: 01 Tháng Mười Một, 2007, 08:14:37 pm »

Trận bão lụt lịch sử năm Nhâm Thìn (1952) đã gây hậu quả khôn lường cho Chiến khu Đ?


Đây là trận báo lụt được nhiều người nhắc tới trong mấy chục năm qua vì nó tàn phá hết sức dữ dội và rộng lớn, trong lúc cuộc kháng chiến của ta đang gặp muôn vàn khó khăn.

Cơn bão xảy ra đầu tháng 10-1952 tràn ngập các tỉnh miền Đông. Lương thực, hoa màu sắp đến kỳ thu hoạch bị hư hại nặng. Các đơn vị, cơ quan và nhân dân trong chiến khu chưa kịp khắc phục hậu quả thì đêm 18-10, một cơn bão khác lại bất ngờ ập đến với mức độ tàn phá chưa từng thấy. Cây rừng đổ ngổn ngang. Nước sông Đồng Nai dâng lên đột ngột, chảy ào ạt cuốn phăng cây cối, nhà cửa hai bên bờ và cả những thú rừng lớn như voi, cọp… Vùng căn cứ dọc sông thành biển nước mênh mông, kéo dài trên nửa tháng mới rút dần, gây úng lụt nghiêm trọng.

Vùng Chiến khu Đ bị tổn thất nặng nề. Một số ít người và tài sản bị cuốn trôi. Nhà cửa doanh trại bị đổ sập, tốc mái. Toàn bộ cây lương thực, thực phẩm, thuốc men, quân trang, sách báo… bị ẩm mốc, mục rữa. Vũ khí đạn dược bị sét rie, hư hỏng.

Lợi dụng lúc ta bị khó khăn nghiêm trọng do thiên tai, giặc Pháp âm mưu triệt phá căn cứ. Chúng liên tục hành quân càn quét, bao vây, ngăn chặn các đường vận chuyển lương thực, tuyên truyền chiêu dụ cán bộ, chiến sĩ ta ra đầu hàng.

Cuộc sống ở Chiến khu Đ gặp vô vàn gian khó. Mọi hoạt động sản xuất, huấn luyện bị gián đoạn. Hàng vạn cán bộ, bộ đội và nhân dân thiếu ăn hàng ngày. Đến nỗi không còn đủ gạo để nấu cháo cho thương bệnh binh ăn. Những ai khỏe mạnh phải đi đào củ mì đã thối do ngập nước lâu ngày, hoặc đào củ mài, củ chụp, tìm các loại rau rừng, măng tre để ăn trừ bữa. Nạn thiếu muối xảy ra thường xuyên. Bị đói, thiếu quần áo, thuốc men, phải liên tục dời cứ và chống càn nên số người đau bệnh tăng vọt, có đơn vị chiếm tới 60% quân số. Khá đông nông dân dù gắn bó với kháng chiến cũng phải tạm lánh về dùng địch. Nhiều gia đình phải gửi cha mẹ già và con nhỏ về thành phố để “bớt miệng ăn”. Một số phần tử không chịu đựng được gian khổ đã bỏ cách mạng ra đầu hàng giặc và trở thành những tên phản bội dẫn đường cho chúng trở lại ruồng bố căn cứ.

Thiên tai địch họa đã làm cho phong trào cách mạng Chiến khu Đ đứng trước những thử thách to lớn, tưởng chừng khó có thể vượt qua. Danh từ Chiến khu Đ bị gọi đùa là “chiến khu đói”, “chiến khu đâu” có lẽ xuất phát từ giai đoạn này.

Trước tình hình đó, Trung ương Cục miền Nam họp ra chỉ thị khắc phục khó khăn, phát động phong trào sản xuất cứu đói và kêu gọi đồng bào khắp nơi ủng hộ nhân dân vùng bão lụt.

Hưởng ứng lời kêu gọi của Trung ương Cục, nhân dân và bộ đội các miền không bị bão lụt đã tổ chức “tuần lễ ủng hộ miền Đông” vận động quyên góp hàng triệu đồng tiền Đông Dương, hàng chục vạn tấn gạo và thực phẩm gửi cứu trợ miền Đông và Chiến khu Đ. Các gia đình vùng địch tạm chiếm cũng tìm cách gửi vào chiến khu nhiều tiền, gạo, thuốc men, vải vóc…

Sự giúp đỡ đầy tình tương thân tương ái đã giải quyết được 50% nhu cầu về lương thực của quân và dân chiến khu trong 3 tháng sau bão lụt; biểu hiện sâu sắc, lòng tin yêu hướng về cách mạng của các tầng lớp nhân dân.

Sau trận “đại hồng thuỷ” khủng khiếp, Chiến khu Đ nhanh chóng khắc phục hậu quả: xây dựng lại lán trại, đẩy mạnh sản xuất tự túc. Nước rút đến đâu, cây lương thực, hoa màu được trồng đến đó. Đến cuối năm, khắp chiến khu, nhất là dọc sông Đồng Nai, sông Bé, Mã Đà, bà Hào… các loại cây lương thực ngắn ngày đã lên xanh tốt. Đơn vị nào cũng có gà, vịt, heo để cải thiện bữa ăn. Cuộc sống khá dần lên.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #33 vào lúc: 01 Tháng Mười Một, 2007, 08:15:20 pm »

Có phải bài ca nổi tiếng “Lên ngàn” của nhạc sĩ Hoàng Việt ra đời từ trận bão lụt năm Thìn?


Đúng như thế, trận bão lụt tháng 10-1952 gây hậu quả lớn lao cho đồng bào và bộ đội ta, khiến nhạc sĩ Hoàng Việt xúc động viết thành công bài ca “Lên ngàn”. Lúc đó Hoàng Việt đang ở tại căn cứ Tha La chiến khu Dương Minh Châu (Tây Ninh). Những tổn thất, đau xót của nhân dân và bộ đội dồn nén làm bật lên lời ca:

“Gió mưa sụp đổ mái nhà
bao nhiêu gia đình tan hoang
đau thương lệ rơi chứa chan…”

Bài ca đau thương bi tráng nhưng cũng đầy lãng mạn cách mạng, phản ánh những khó khăn gian khổ và sức vươn lên của một miền đất anh dũng kiên cường.

Lên ngàn
Nhạc và lời: Hoàng Việt

Hò… ơ… Dòng sông chảy xiết lái thuyền chèo đi.
Trên sông Vàm Cỏ Đông nước chảy ngược dòng.
Nước ngược dòng.
Hò… ơ… Em chèo thuyền đi lên rẫy Trảng Cồng cắt lúa thay chồng thay chồng… nuôi con.
Nước ngập đồng xanh lúa chết, gió mưa sập đổ mái nhà, bao nhiêu gia đình tan hoang, đau thương lệ rơi chứa chan.
Em đi cắt lúa trên ngàn, rẫy trên ngàn nắng thiêu chang chang.
Đường đi nước ngập mênh mang bàn chân dẫm gai lòng không thở than.
Người dân dưới ruộng lên ngàn tìm lúa đổ bao mồ hôi.
Gánh về từng hạt lúa vàng cùng nhau chung sống căm thù giết Tây. 
Em đi cắt lúa lên ngàn. Còn anh chiến đấu sa tràng.
Kháng chiến nhất quyết thành công!
Kháng chiến nhất quyết thành công!
Mai này kháng chiến thành công, anh về em thoả ước mong
Em… …mong
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #34 vào lúc: 01 Tháng Mười Một, 2007, 08:15:52 pm »

Trong lúc bộ đội và nhân dân lâm vào cảnh khó khăn do bão lụt gây nên, địch đã tăng cường đánh phá vùng chiến khu như thế nào?


Quả là họa vô đơn chí. Thiên tai địch hoạ đi liền với nhau như những thứ giặc đồng hành siết thòng lọng vào Chiến khu Đ.

Đang lúc nhân dân và bộ đội tích cực lao động sản xuất và chờ ngày thu hoạch thì địch điên cuồng phá hoại mùa màng. Chủ trương của giặc Pháp lúc này là phá sạch, đốt sạch. Muốn tiêu diệt kháng chiến trước hết phải triệt phá nguồn lương thực. Khẩu hiệu của chúng là “giết một con bò bằng giết 3 nông dân, giết một nông dân bằng giết 3 bộ đội”. Hàng ngày chúng cho máy bay quần đảo trên vùng căn cứ bắn chết trâu bò, người làm ruộng rẫy, tưới xăng và dùng bom napan đốt cháy cây cối, hoa màu. Trâu bò chết trương thối khắp nơi. Không những thế, chúng còn dùng xe lội nước càn qua ruộng lúa, hoa màu, cho bọn biệt kích đột nhập vào vùng căn cứ cắt lúa, nhổ khoai, mì và đốt phá nhà cửa. Trên đường 16, chúng đóng thêm một số đồn bót, thường xuyên tung các đội Commando vào càn phá vùng căn cứ, rồi nhanh chóng rút ra.

Sang đầu năm 1953, địch càng đẩy nhanh hơn các đợt càn quét, bắn phá Chiến khu Đ.

Để đối phó với hành động phá hoại của giặc, ta chuyển sang sản xuất ban đêm. Phong trào trồng khaoi mì thành rừng lan rộng khắp nơi. Phân liên khu miền Đông đề ra chủ trương nhiệm vụ: Ra sức phục hồi và bảo vệ sản xuất… Thực hành đấu tranh kinh tế với địch. Cán bộ, chiến sĩ đều tham gia hăng hái sản xuất. Đêm đêm quanh đống lửa trại, các chiến sĩ hát vang bài “Sinh sản tự túc”, “Lửa bốc cao”, ngâm thơ, ca dao, hò vè tự biên tự điển… Những câu ca dao, hò vè tự biên tự diễn… Những câu ca đầy khí thế lạc quan, coi thường gian khổ, đói rét vang lên: “chúng ta là chiến sĩ miền Đông, chiến đấu đã từng, thêm lòng kiên quyết, chiến đấu chống đói, chiến đấu chống rét, chống thú rừng, chống giặc ngoại xâm…”, “Lúa khoai ta gắng trồng sườn non đến bờ sông…”.

Các lực lượng vũ trang khắc phục để chống càn, bảo vệ mùa màng. Các đội võ trang tuyên truyền toả ra hoạt động mạnh ở cá vùng địch tạm chiếm nông thôn và thành thị. Tiểu đoàn 303 phối hợp với bộ đội địa phương và du kích các huyện diệt hàng loạt đồn bót ở Bến Tranh, Bến Thế, Trương Bình Hiệp, Trảng Bom… đốt kho xăng thị xã Biên Hoà. Các lực lượng vũ trang tại căn cứ đã chống trả quyết liệt cuộc càn kéo dài 52 ngày đêm của địch…

Những hoạt động vũ trang kết hợp với chính trị, binh vận của ta ở vòng ngoài đã buộc địch phải rút bớt lực lượng về để đối phó. Áp lực bao vây phong toả Chiến khu Đ của chúng giảm hẳn.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #35 vào lúc: 01 Tháng Mười Một, 2007, 08:16:18 pm »

Phải thường xuyên đối phó với các thứ giặc, vậy đời sống chính trị tinh thần của chiến khu có được cải thiện không?


Như ta đã biết cuộc sống của các lực lượng và nhân dân bám trụ ở Chiến khu Đ luôn căng thẳng do địch tàn phá và thiếu đói nhưng cán bộ, chiến sĩ rất lạc quan tin tưởng vào thắng lợi tất yếu của cách mạng. Lại được sự lãnh đạo thường xuyên của trên nên công tác chính trị, văn hóa tinh thần lúc nào cũng được quan tâm. Công tác xây dựng Đảng được đẩy mạnh hơn bất cứ lúc nào từ chi bộ cấp xã, chi bộ công pháo, các đoàn vũ trang tuyên truyền, các liên chi huyện đội bộ, tỉnh đội bộ đến các Tiểu đoàn 303, Tiểu đoàn 320, xưởng quân giới, nông trường sản xuất… Chi uỷ các xã Chánh Bình, Sông Lô, Cộng Hoà, Thanh Tâm được kiện toàn và phát triển thêm 20 đảng viên. Các tổ chứuc đoàn thể như nông hội, phụ nữ, thanh niên được chấn chỉnh một bước mới.

Đi đôi với công tác xây dựng Đảng, phong trào giáo dục văn hóa, văn nghệ cũng phát triển. Các căn cứ mở được 14 lớp bình dân học vụ. Đoàn văn công tỉnh Thủ Biên được thành lập, thường xuyên phục vụ các đơn vị bộ đội và sản xuất trong khu căn cứ. Hơn thế, còn tổ chức những đội xung kích đi phục bộ đội và đồng bào vùng tranh chấp. Những lời ca, điệu múa của văn công tuy mộc mạc đơn sơ, như “Mùa đông binh sĩ”, “Hành khúc Thăng Long”, “Nhớ chiến khu”… đã động viên khích lệ lòng yêu nước, chí căm thù giặc, tinh thần khắc phục khó khăn, xả thân vì cách mạng, gây niềm phấn chấn lạc quan trong cán bọ, chiến sĩ và nhân dân. Các vở cải lương “Cánh tay Vương Tá”, “Hưng Đạo bình Nguyên”… rất được mọi người ưa thích. Nghe tin có văn công chiến khu biểu diễn, nhiều bà con ở vùng du kích, vùng địch tạm chiếm cũng lặn lội tìm đường đến xem…

Trong khu, đơn vị, cơ quan nào cũng tổ chức các đội văn nghệ “cây nhà lá vườn”, các đội bóng đá, bóng chuyền. Ngoài ra, sách báo văn nghệ cũng được ấn hành rộng rãi trong khu và lan ra cả vùng tranh chấp. Trong đó, tập thơ “Chiến khu Đ” của Khu phó Huỳnh Văn Nghệ và các bài thơi của nhà thơ Xuân Miễn như “An Phú Đông”, “Nhớ miền Đông”… được cán bộ chiến sĩ yêu thích tìm đọc hoặc chép tay truyền cho nhau.

Nhìn chung cuộc sống tinh thầ là một nét văn hóa khá đặc trưng của Chiến khu Đ và nó được tiếp nối phát triển theo cuộc kháng chiến như một thứ vũ khí góp phần chiến thắng kẻ thù.
« Sửa lần cuối: 01 Tháng Mười Một, 2007, 08:18:11 pm gửi bởi ptlinh » Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #36 vào lúc: 01 Tháng Mười Một, 2007, 08:19:10 pm »

Xin cho biết tình hình nhiệm vụ Chiến khu Đ khi cả nước chuẩn bị bước vào giai đoạn phản công quân Pháp?


Từ cuối năm 1953 trở đi, cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp đi dần vào ngõ cụt. Chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” của chúng đã bị ta làm phá sản hoàn toàn. Thế nhưng chúng vẫn rất ngoan cố, tranh thủ thêm viện trợ của Mỹ, tập trung mọi cố gắng đẩy mạnh chiến tranh hòng tìm ra một “lối thoát danh dự” bằng thắng lợi quân sự.

Thực hiện kế hoạch Nava, địch ồ ạt bắt lính và xúc tiến âm mưu đánh chiếm vùng căn cứ của ta. Nhưng do bị động trên chiến trường toàn quốc, phải phân tán lực lượng đối phó nên chúng gặp hàng loạt khó khăn không thể khắc phục.

Xung quanh Chiến khu Đ, địch rút đi 3 tiểu đoàn bộ binh, 1 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn cơ giới và rút một số đồn bót, tháp canh nhỏ. Tinh thần binh lính sa sút. Lực lượng còn lại chỉ đủ sức giữ các đường giao thông, các cửa ngõ xung yếu và tổ chức phân đội thọc vào căn cứ nhằm phá hoại các cơ sở sản xuất, kho tàng, cơ quan của ta rồi nhanh chóng rút lui.

Thực hiện chỉ thị của Trung ương Cục về “chuẩn bị đón thời cơ”, khuếch trương những chiến thắng quân sự, chính trị, kết hợp với chiến dịch địch nguỵ vận để phố hợp với chiến trường miền Bắc, đầu mùa khô năm 1953, Bộ Tư lệnh Phân liên khu miền Đông đề ra ba nhiệm vụ chính:

-Giữ vững và đẩy mạnh chiến tranh du kích.

-Củng cố và mở rộng căn cứ địa.

-Đẩy mạnh công tác địch nguỵ vận.


Riêng đối với căn cứ địa Đồng Nai (Chiến khu Đ) có 6 nhiệm vụ:

-Tích cực mở rộng về phía trước, kiểm soát tới bờ sông Đồng Nai, giữ vững vùng phì nhiêu dọc sông và bảo đảm an toàn để dân chúng trở về tăng gian sản xuất, nâng cao mức sống trong căn cứ.

-Bảo đảm việc nối liền căn cứ Châu Thành và Lái Thiêu; căn cứ của Vĩnh Cửu là phá thế bao vây của địch. Phải tiến về đằng trước, tích cực sửa chữa tình trạng lùi mãi lên rừng sâu.

-Tiếp tục củng cố vùng sông Bé là chính, Lộc Ninh là phụ, tiến dần lên qua khỏi đường 14 để đảm bảo phía hậu phương vững chắc cho căn cứ và tiến tới nối thông được với cao nguêyn Trung Bộ.

-Đặc biệt căn cứ này nghèo nàn, bị địch phong toả, cần phải nắm vững chính sách và nghị quyết kinh tài. Tăng gia sản xuất, tiết kiệm, biên chế giản chính gọn nhẹ, tăng thu giảm chi đúng mức và mở rộng mậu dịch với vùng du kích và tạm bị chiếm.

-Thi hành đúng chính sách dân tộc thiểu số của Đảng và Chính phủ. Căn cứ này có 70.000 đồng bào dân tộc thiểu số ở phía hậu cứ, là một lực lượng quan trọng cần phải tranh thủ. Công tác dân tộc thiểu số cần có kết quả là giữ vững và mở rộng được căn cứ, đồng thời uy hiếp hệ thống giao thông quan trọng của giặc.

-Sau cùng là phải đảm bảo việc giao thông với căn cứ Hớn Quản, Long Nguyên và Dương Minh Châu, dần dần nối liền các căn cứ này lại với nhau.

Những nhiệm vụ này là nội dung nghị quyết chuyên sâu đầu tiên về căn cứ địa ở Nam Bộ. Sự ra đời của nghị quyết đã kịp thời uốn nắn những quan niệm chưa đủ, chưa đúng về vị trí, nội dung, phương pháp xây dựng căn cứ trước đó, chỉ dẫn công tác củng cố và mở rộng căn cứ được tiến hành thuận lợi, đúng hướng, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ tạo thế tạo lực phối hợp với chiến trường chính tại Chiến khu Đ.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #37 vào lúc: 01 Tháng Mười Một, 2007, 08:19:41 pm »

Chiến dịch địch nguỵ vận trong giai đoạn cuối ở Chiến khu Đ đã góp phần vào thắng lợi chung của cả nước?


Thực hiện chỉ thị của Trung ương Cục, phối hợp nhị nhàng với chiến trường miền Bắc, miền Trung và Lào, bộ đội và nhân dân Chiến khu Đ đã tập trung mũi tấn công địch nguỵ vận đi đôi với tác chiến đánh địch hỗ trợ phong trào chính trị, binh vận trong vùng.

Bộ đội địa phương Đồng Nai cùng với các đội binh chủng chuyên mông trinh sát, quân báo tỏa ra hoạt động vùng ven căn cứ, hỗ trợ các xã ấp, góp phần biến các vùng du kích xung quanh căn cứ thành vùng độc lập, tạo ra một “vành đệm” bảo vệ Chiến khu Đ.

Trong khi đó, Tiểu đoàn tập trung 303 phối hợp với bộ đội địa phương các huyện Tân Uyên, Vĩnh Cửu, Bến Cát, Châu Thành, Lái Thiêu, Thủ Đức sôi nổi hoạt động vũ trang với các trận chống càn ở Long Nguyên, Thanh An, Thanh Tuyền, Rừng Sác, Chiến khu Thuận An Hoà… phục kích địch trên các đường 13, 14, 16, quốc lộ 1; tập kích, pháo kích các đồn ở Lạc An, đồi Bà Cẩm, Uyên Hưng, Tân Ba, thị trấn Bến Cát, Rạch Bắp, Bến Súc, Rạch Kiến, Rinét, thị trấn Lái Thiêu, sân bay Biên Hoà.

Thắng lợi của đòn tiến công quân sự đã tạo điều kiện cho chiến dịch địch nguỵ vận thu nhiều kết quả. Tại chiến khu, bộ đội và nhân dân tham gia tuyên truyền vận động nguỵ binh bỏ hàng ngũ địch, về nhà làm ăn hoặc quay súng bắn giặc, trở về hàng ngũ kháng chiến; thực hiện 4 không: không cướp phá, không bắn giết, không bắt bớ, không hãm hiếp. Nhiều hình thức tuyên truyền vận động như treo khẩu hiệu, lập trạm thông tin ở các ngả đường có địch đi lại, cắm áp phích vào bè thả trôi trên sông, gửi thư tay, quà bán kèm theo truyền đơn… đã thức tỉnh được bọn địch trong cơn rệu rã, suy sụp tinh thần. Kết quả ở huyện căn cứ Đồng Nai, ta vận động được trên 500 lính nguỵ bỏ hàng ngũ về làm ăn, 17 tên mang 21 súng ra đầu hàng cách mạng.

Các đội võ trang tuyên truyền hoạt động ở các huyện xung quanh căn cứ thuyết phục được nhiều thanh niên không đi lính cho Pháp; phát triển cơ sở, vận động đồng bào trở về căn cứ. Hơn 300 người từ Chiến khu Đ trước đây lánh về vùng địch tạm chiếm, nay trở lại chiến khu sinh sống, tiếp tục ủng hộ kháng chiến.

Do tình hình thất bại trên chiến trường chung cả nước, nhất là ở mặt trận Điện Biên Phủ, tinh thần binh sĩ địch ở trong vùng suy giảm tệ hại. Đến mức nhiều vùng địch tạm chiếm trở thành vùng du kích, vùng du kích trở thành vùng tự do. Các hành lang từ Chiến khu Đ sang Long Nguyên, Dương Minh Châu về Vĩnh Cửu, Long Thành, Bà Rịa lên Đồng Xoài mở ra thông suốt.

Ngày 7-5-1954, tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bị thất thủ. Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng. Tin chiến thắng lan nhanh làm nức lòng cán bộ, chiến sĩ và đồng bào Chiến khu Đ.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #38 vào lúc: 03 Tháng Mười Một, 2007, 07:35:21 pm »

Có phải chiến tranh kết thúc là lúc Chiến khu Đ chuẩn bị tư thế bước vào một giai đoạn mới?


Ngày 21-7-1954, Hiệp định Geneva được ký kết, chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam và cả Đông Dương. Sau 9 năm trường kỳ gian khổ kháng chiến, quân và dân ta đã đánh bại thực dân Pháp, giành được thắng lợi vô cùng vẻ vang. Theo hiệp định, miền Bắc giải phóng hoàn toàn; miền Nam (kể từ vĩ tuyến 17 trở vào) tạm thời đặt dưới sự kiểm soát của địch. Sau 2 năm sẽ hiệp thương tuyển cử thống nhất đất nước.

Tuy nhiên, do phương tiện thông tin thô sơ, tin đình chiến đến Chiến khu Đ không đều khắp, nên mặc dù đã có lệnh ngừng bắn toàn bộ trên chiến trường, nhưng đây đó vẫn còn tiếng súng nổ. Bộ Tư lệnh Phân liên khu miền Đông và tỉnh uỷ Thủ Biên kịp thời truyền đạt những nội dung cơ bản của hiệp đinh xuống từng đơn vị cơ sở, phổ biến nhiệm vụ sắp tới, chỉ đạo kế hoạch thực hiện việc tập kết chuyển quân và cất dấu vũ khí, sắp xếp cán bộ ở lại tiếp tục lãnh đạo cuộc đấu tranh đòi địch thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Geneva, tiến tới hiệp thương thống nhất đất nước.

Chiến khu Đ trở thành một địa điểm tập trung của lực lượng vũ trang tại chỗ tỉnh Thủ Biên để sắp xếp lực lượng, từ đó hành quân xuống khu vực Hàm Tân, Xuyên Mộc, tập kết ra miền Bắc.

Huyện căn cứ Đồng Nai được giao nhiệm vụ chuẩn bị trạm tiếp đón ăn nghỉ, học tập, chờ đợi và chuẩn bị khẩu phần lương thực, thực phẩm đi đường cho hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ, thương binh, bệnh binh tập kết. Vùng Bà Đã, Nhà Nai trở nên rộn rịp tấp nập. Tiểu đoàn 320 lo việc vận chuyển thương binh, đưa đường cho các đoàn từ Chiến khu Đ về kv tập kết an toàn.

Cùng lúc đó, hàng trăm cán bộ được học tập xác định tư tưởng ở lại bám trụ địa bàn để tiếp tục cuộc đấu tranh trong tình hình mới. Công tác bàn giao các kho tàng hậu cần, tài liệu, các trại sản xuất chưa thu hoạch… được tiến hành chu đáo. Riêng về vũ khí, do Chiến khu Đ là nơi tập trung chuyển quân trong thời hạn rất ngắn, nên nhiều người chọn vũ khí tốt mang đi; việc cất dấu bị trở ngại, về sau mới được hoàn tất.

Ngày 15-8-1954, tại Bà Đã đã diễn ra cuộc mít tinh lớn chào mừng thắng lợi cuộc kháng chiến. Lần đầu tiên giữa lòng Chiến khu Đ, dưới bầu trời cao rộng, hàng ngàn con người từng gắn bó máu thịt với vùng căn cứ ác liệt này đã hát vang bài “Tiến quân ca”. Ai nấy bùi ngùi nhớ lại biết bao đồng chí, đồng bào đã ngã xuống cho thắng lợi hôm nay. Những tên đất tên người và 3 tiếng: “Chiến khu Đ” đã khắc ghi vào lòng người một biểu tượng rực rỡ tự hào, đánh dấu một giai đoạn lịch sử chống xâm lược trên miền đất anh hùng.

Sau những giờ phút chung vui đầy xúc động là cuộc chia tay vô cùng lưu luyến giữa người đi kẻ ở. Trước mắt họ còn bao nhiệm vụ nặng nề. Người ra đi hứa quyết tâm học tập để trở về xây dựng quê hương. Người ở lại xác định trách nhiệm chuẩn bị mọi mặt cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà, chắc chắn sẽ nhiều gay go gian khổ.

Ngày 2-9-1954, đoàn quân cuối cùng sau khu sự lễ quốc khánh đã rời Chiến khu Đ, xuống tàu ra miền Bắc.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #39 vào lúc: 03 Tháng Mười Một, 2007, 07:35:52 pm »

Xin cho biết tình hình sau khi lực lượng ta rời khỏi Chiến khu Đ, tập kết ra Bắc theo Hiệp định Geneva?


Có thể nói sau ngày 2-9-1954, Chiến khu Đ trở nên vắng lặng, gần như trả lại cho thiên nhiên miền sơn cước. Một cuộc chia tay không tiền khoáng hậu.

Tại Chiến khu Đ, không còn lực lượng vũ trang cách mạng, không còn chính quyền và đoàn thể quần chúng. Số còn lại đa số là cán bộ dân, chính, đảng được bố trí ở lại đều bám vào dân, sống “hợp pháp” để xây dựng cơ sở và hoạt động. Hình ảnh những ngày sống và chiến đấu gian khổ, đậm đà tình đồng chí, tình quân dân thắm thiết in sâu và ký ức của những người dân vùng căn cứ.

Với âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam thành thuộc địa, đế quốc Mỹ dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm và bắt đầu đánh phá phong trào cách mạng miền Nam.

Ngay từ khi thay chân thực dân Pháp, giặc Mỹ đã nhận thức Chiến khu Đ là một căn cứ cách mạng nguy hiểm uy hiếp trực tiếp các cơ quan đầu não của chúng ở Sài Gòn và các tỉnh miền Đông Nam Bộ. Do vậy, một trong những mục tiêu hàng đầu của Mỹ-Nguỵ là triệt phá, chia cắt Chiến khu Đ và các căn cứ quan trọng khác của ta ở miền Đông.

Sau khi lực lượng ta vừa rút khỏi căn cứ, tập kết về Ham Tân, Xuyên Mộc chuẩn bị xuống tàu ra Bắc, địch lập tức tràn vào Chiến khu Đ. Chúng nhanh chóng xây dựng bộ máy tề nguỵ, xây dựng đồn bót, tổ chức các đội bảo an, dân vệ để khống chế, kềm kẹp nhân dân trong vùng.

Trong 2 năm 1954-1955, Mỹ-Nguỵ đã cưỡng bức hơn 150 ngàn đồng bào theo đạo Thiên Chúa bị chúng lừa gạt dụ dỗ từ miền Bắc vào, bố trí định cư dọc quốc lộ 1, đường 15, 20-cửa ngõ Sài Gòn và ngoại vi Chiến khu Đ. Ngay trong vùng căn cứ, chính quyền Diệm bố trí gần 1 vạn đồng bào Thiên Chúa giáo di cư (vốn là dân 2 tỉnh Thái Bình và Hưng Yên), thành lập xã Thái Hưng (thuộc xã Lạc An, huyện Tân Uyên-vùng ruột Chiến khu Đ). Hàng loạt dinh điền được địch lập lên ở Khánh Vân, Xóm Sình, Bà Đã, Ván Hương, bàu Cá Trê, Nước Vàng… Ở phía nam Chiến khu Đ, địch cho bọn tư sản và công chức cao cấp lập nhiều trại Be (xe be chở gỗ) để khai thác lâm sản, nhưng mục đích chính là phá rừng, ủi mở đường. Nhiều lộ ủi mang tên Trần Lệ Xuân (vợ của Ngô Đình Nhu, em tổng thống bù nhìn Ngô Đình Diệm) cắt ngang xẻ dọc chiến khu nhằm phục vụ việc kiểm soát lực lượng của ta và phá huỷ vùng căn cứ kháng chiến.

Tháng 9-1959, địch thành lập tỉnh Phước Thành gồm 3 quận: Phú Giáo, Hiếu Liêm, Tân Uyên. Phước Thành cùng các chi khu, tiểu khu Châu Thành, Bình Long, Phước Long, Đồng Xoài, Lộc Ninh… tạo thành một hệ thống căn cứ quân sự liên hoàn bao vây, chia cắt Chiến khu Đ với nam Tây Nguyên, đồng thời tạo thành tuyến phòng thủ ở hướng đông và đông bắc cho “thủ đô” Sài Gòn của chúng. Đây cũng là nơi xuất phát các cuộc hành quân để đánh phá Chiến khu Đ.

Nhìn chung hình thái Chiến khu Đ sau Hiệp đinh Geneva: ta chấp hành nghiêm chỉnh các điều khoản hiệp định với thiện chí đi đến thống nhất Tổ quốc, còn địch thì ra sức phá hoại hiệp định với âm mưu đen tối là chia cắt đất nước Việt Nam; do đó ngay từ đầu thực thi hiệp định chúng đã công khai việc đánh phá Chiến khu Đ nhằm trừ “hậu họa” cho chúng sau này. Quả đối thủ của ta rất gian manh, tàn bạo, mưu lược, chứ không tầm thường, báo hiệu một cuộc chiến khốc liệt gấp nhiều lần sẽ xảy ra ở Chiến khu Đ.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM