Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 08:16:49 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Ký Sự Chiến Tranh - Tập 2  (Đọc 55659 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« vào lúc: 05 Tháng Mười Hai, 2008, 04:43:20 pm »

Thông tin về sách :
KÝ SỰ CHIẾN TRANH - Tập 2
Nhiều tác giả.
Nxb Văn học 2006
Khổ : 13.5 x 20.5. Số trang : 392
Số hóa : ptlinh, hoi_ls




MỤC LỤC :

Dòng ký sự viết về chiến tranh (Bích Thu)
Tháng Ba ở Tây Nguyên (Nguyễn Khải)
Bắc Hải Vân xuân 1975 (Xuân Thiều)
Ký sự miến đất lửa (Nguyễn Sinh - Vũ Kỳ Lân).




DÒNG KÝ SỰ VIẾT VỀ CHIẾN TRANH

     Giai đoạn văn học 1945- 1975 có một ý nghĩa quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại. Đây là giai đoạn hình thành và phát triển của nền văn học mới, một nền văn học phục vụ công cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong bối cảnh chiến tranh và cách mạng, cùng với những loại hình văn học khác, ký đã tỏ rõ ưu thế và sức mạnh của thể loại trong phản ánh hiện thực và con người thời đại. Thể ký thường nở rộ và thịnh hành vào các thời kỳ văn học ứng với những thay đổi lớn lao, những bước ngoặt trọng đại của đời sống dân tộc. Nếu yêu cầu nhà văn là người thư ký trung thành của thời đại và tác phẩm là bức tranh chân thật về đời sống thì ký là thể loại giúp chủ thể sáng tạo hoàn thành sứ mệnh của mình một cách thuận lợi nhất. Với đặc trưng thể loại là tính thời sự, năng động, ký có khả năng ghi nhận và chuyển tải sự kiện đời sống và con người một cách nhậy bén và nóng hổi nhất. Dòng ký chiến tranh đã xuất hiện và đã góp một tiếng nói đầy hiệu quả trong việc phản ánh hiện thực lúc bấy giờ. Nhiều tác phẩm ký có giá trị lần lượt ra đời, góp phần tạo nên diện mạo đa dạng của đời sống văn học. Đó là những sáng tác phản ánh kịp thời, nhiều mặt của hiện thực đời sống bề bộn và phong phú, xứng đáng là đội quân xung kích của văn học nghệ thuật. Trong đó, ký sự là một tiểu loại thuộc loại hình ký đã làm tròn chức năng nghệ thuật của mình và đã gặt hái những thành tựu đáng ghi nhận.

     Ký sự ghi chép và tái hiện một sự kiện, một câu chuyện tương đối hoàn chỉnh, đưa một lượng thông tin nóng, cập nhật và giàu giá trí biểu cảm đến với người đọc. Từ những sự việc cụ thể và sinh động toát lên chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Ký sự có quy mô tương ứng với truyện ngắn, truyện vừa hoặc tiểu thuyết nhưng viết về người thật, việc thật mà tác giả là người trong cuộc, trực tiếp chứng kiến hay được nghe kể lại, được nắm giữ tư liệu một cách tường tận, tỉ mỷ về sự việc và con người ở một thời điểm, một không gian và địa danh cụ thể. Ký sự cũng gần với truyện nhưng có quan điểm của thể loại: tôn trọng sự thật khách quan của đời sống. Bởi vậy, người viết ký luôn có ý thức đẩy người và việc lên phía trước, đưa những xung đột tính cách và hoàn cảnh lùi lại ở phía sau, đảm bảo tính xác thực của hiện thực đời sống được phản ánh trong tác phẩm. Sự việc diễn biến theo trình tự thời gian làm nên tình huống và kết cấu của thiên ký sự. Thực tế của đời sống cách mạng và kháng chiến của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã tạo nhiều chất liệu cho ký sự phát triển.

     Hàng loạt ký sự xuất hiện đã ghi lại khá đầy đủ diện mạo và tiến trình, các thời đoạn và sự kiện chủ yếu của đời sống đất nước và con người Việt Nam trong ba mươi năm chiến tranh và cách mạng. Những ký sự : Trong rừng Yên Thế, Trận Phố Ràng (Trần Đăng), Trận Thanh Hương (Nguyễn Khắc Thứ), Ký sự Cao Lạng (Nguyễn Huy Tưởng) v.v... đã ghi chép rất chân thật những diễn biến phức tạp, gay go của các trận đánh, các chiến dịch của quân và dân ta với kẻ thù trong kháng chiến chống Pháp. Tiếp đến những ký sự Chúng tôi ở Cồn Cỏ (Hồ Phương), Sóng Hòn Mê (Hoàng Văn Bổn), Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu (Hoàng Phủ Ngọc Tường), Ký sự miền đất lửa (Nguyễn Sinh - Vũ Kỳ Lân), Tháng Ba ở Tây Nguyên (Nguyễn Khải), Bắc Hải Vân xuân 1975 (Xuân Thiều) v.v... đã ghi lại một cách trung thực, đầy xúc động những diễn biến của sự kiện vĩ đại vào bậc nhất trong lịch sử chống xâm lược của dân tộc, giành lại độc lập và thống nhất đất nước của đồng bào và chiến sĩ cả nước trong kháng chiến chống Mỹ. Dòng ký sự ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt của đất nước kể trên, mang đậm cảm hứng lịch sử và dân tộc hoà quyện với âm điệu hùng tráng, lãng mạn đã thực sự khẳng định vị trí của ký sự viết về chiến tranh trong thời kỳ lịch sử đầy kỳ tích và bi tráng của dân tộc.

     Loại hình ký bao gồm nhiều tiểu loại ký. Ở đây, chúng tôi mới chỉ đề cập tới một trong những mũi nhọn của ký là thể ký sự. Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc tập ký sự viết về chiến tranh, tuyển chọn những tác phẩm ký sự tiêu biểu của giai đoạn văn học chiến tranh và cách mạng (1945 - 1975), như là một tập hợp bước đầu, chưa thật đầy đủ nhưng ở một mức độ nhất định cũng đã mang ý nghĩa đại diện cho các sáng tác ký sự của giai đoạn này.

BÍCH THU
« Sửa lần cuối: 25 Tháng Giêng, 2021, 05:00:32 pm gửi bởi ptlinh » Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #1 vào lúc: 05 Tháng Mười Hai, 2008, 04:47:59 pm »

NGUYỄN KHẢI

THÁNG BA Ở TÂY NGUYÊN


Chương I

MỘT CÁCH NGHĨ CÒN RỤT RÈ TRƯỚC MỘT TÌNH THẾ ĐÃ BAO LA

Bài viết đầu tiên của năm 1975 đáng nhẽ phải được bắt đầu từ đêm 29 tháng Ba. Suốt một đêm ấy tôi không ngủ, cứ đứng sững ở tầng lầu hai của khách sạn HB, nhìn xuống đại lộ Trần Hưng Đạo đếm từng đoàn xe từ phía bắc thành phố Huế ào ào chạy qua mặt đường ướt đẫm ánh điện, vượt cầu Tràng Tiền, trở ra quốc lộ 1, đổ xuôi xuống Đà Nẵng vừa được giải phóng trong ngày. Xe vận tải quân sự, xe ca chở khách thường chạy trên các đường hàng tỉnh của miền Bắc, xe bọc sắt, xe tăng, xe chuyên chở cầu phà, xe chở xăng dầu, xe kéo pháo, xe kéo tên lửa, xe con chở cán bộ chỉ huy và cơ quan của các bộ tư lệnh. Tiếng động cơ của hàng ngàn cỗ máy nổ, xích sắt lăn nghiến trên mặt đường, một đoạn hợp ca bay lơ lửng, tiếng người chỉ huy hướng chạy cho đoàn xe lảnh lói ở một góc phố. Cái vệt dài vừa ồn ào vừa lặng lẽ, đoạn sáng đoạn tối, chuyển động đều đặn và trật tự như mãi mãi, như vô tận. Cái dòng người và xe và súng đạn bắt đầu từ đâu, chỗ bắt đầu của nó là ở đâu, khối người và xe đầu tiên xuất phát từ địa điểm nào, gồm những đơn vị nào, đi trong thời gian nào, và đâu là đoạn cuối của nó, những đơn vị sau cùng của nó? Người đi đầu tiên và người đi sau cùng khoảng cách là bao lâu, đoạn dài là bao xa? Cứ cho là đơn vị đầu tiên xuất phát từ ngày mồng 1 Tết năm Ất Mão? Không đúng! Có những đơn vị đã hành quân từ trước Tết, ăn Tết dọc đường. Hãy tính xa hơn : Đơn vị đầu tiên đã lên đường vào mùa xuân năm Giáp Dần? Vẫn chưa đúng! Họ đã đi từ Tết năm trước. Họ đã ra đi từ Tết những năm trước nữa. Tôi được biết có những bạn bè trở lại chiến trường cũ từ năm 1960. Đã là mười lăm năm! Thật ra khoảng cách và dặm dài của cuộc hành quân này phải tính theo chục năm, tính theo thế hệ, phải nhìn vào những cột số của Lịch sử. Là tháng 9 năm 1945! Là tháng 12 năm 1944! Là tháng 2 năm 1930! Quãng giữa là những tháng ngày, những sự kiện, những nhân vật lừng lẫy, phi thường.

Đứng phơi mặt ngoài trời cả đêm, đứng không đổi chỗ, ý nghĩ mờ mờ ảo ảo, vừa là chính mình, vừa là người khác, quen thuộc vô cùng mà cũng ngỡ ngàng vô cùng. Việc tin chắc trước sau rồi cũng phải xảy ra đúng như thế, mà lại chưa hẳn tin sao lại có thể xảy ra gọn ghẽ, lẹ làng đến thế. Biến động lịch sử là gì? Là như thế đó! Là khi những dấu hiệu đầu tiên của những tháng ngày vĩ đại đã xuất hiện thì ta vẫn còn phân vân tự hỏi : đó là loại hiện tượng gì? Là khi những sự việc xảy ra có vẻ giống như trước đây, như là sự lắp lại những cái trước đây, nhưng ý nghĩa của nó thật ra đã thuộc về một giai đoạn hoàn toàn mới, đòi hỏi phải có ngay những phản ứng mới, những hành động mới. Là khi đã được tắm mình trong biến động đó bỗng chốc ta chợt nhận ra, như lần đầu tiên, cái ý nghĩa then chốt những việc đang làm và cả những việc đã làm, là ta cũng sẽ nhận ra, như là lần đầu tiên, tầm vóc của chính ta và cái tập thể to lớn bao quanh ta. Là khi sự lớn lên của mỗi người gần như có phép mầu, tài giỏi hơn cả bao giờ, táo bạo hơn cả bao giờ, uốn lượn theo sóng gió của lịch sử một cách tài ba, quyết định trong phút chốc những việc vô cùng ghê gớm mà không hề có mảy may sai trật.

*
*    *

Đi theo bộ đội vào chiến dịch lần này không phải không nhận ra những dấu hiệu của một năm quan trọng, nhất là với tôi lúc ra đi đã quá muộn. Chúng tôi ra đi khi chúng ta đã có trọn vẹn ba tỉnh Tây Nguyên, đã tổ chức một cuộc bao vây truy kích tài tình nhất ở Cheo Reo, Củng Sơn, dọc con đường 7. Khi chúng ta đã giải phóng toàn tỉnh Quảng Trị, đã vượt sông Mỹ Chánh và đang vây hãm Huế. Đã giải phóng Quảng Ngãi, giải phóng Tam Kỳ, dồn ép địch co rút về Đà Nẵng và khu vực xung quanh. Vẫn biết là đang đi vào một năm khác thường, nhưng vì sao lại có thể là trong năm nay, lại bắt đầu từ cái tháng Ba này thì chưa hiểu. Chưa thể hiểu do đâu sức kháng cự của địch lại đột nhiên quá yếu ớt, sự rút chạy của chúng quá hoảng hốt, quá hỗn loạn. Chúng ta đã gặp được may mắn chăng? Kẻ địch đã rơi trượt vào một sai lầm rất đỗi nghiêm trọng chăng? Hoặc giả một yếu tố nào đó rất kỳ lạ, rất khác thường, vượt khỏi dự tính đã xuất hiện? Nghĩ tới cái khác thường, bởi vì quân địch còn đông, vũ khí chưa thiếu, tuy đang gặp nhiều khó khăn rất nan giải, đâu đã đến nỗi tan vỡ quá dễ dàng. Chúng tháo chạy như có một cái đích để nhắm hẳn hoi. Chúng tháo chạy như muốn nhứ dử chúng ta bước sâu vào một cạm bẫy ác hiểm nào đó. Vì rằng suốt ba chục năm chiến đấu, có bao giờ được chứng kiến một kẻ địch tháo chạy dễ dàng. Vốn quen tính mỗi thước đất một vệt máu, nay lướt xe hàng trăm cây số mà máu đổ không nhiều nên không khỏi có chút ít ngờ vực. Xét cho cùng, thì sự rút chạy nào cũng đều do bị ép buộc, bị thúc bách. Rút chạy một bộ phận để cứu gỡ cái toàn thể. Phải có cái đã đổ vỡ và cái còn có thể vớt vát thì mới nghĩ ra cái kế rút chạy. Ấy là nói nếu như có một cái kế rút chạy thật. Không dưng ai muốn chạy. Không cảm thấy bị đe dọa, bị tiêu diệt, việc gì phải bày đặt ra cái trò rút chạy. Dầu là rút chạy trong chủ động, trong kế hoạch, trong trật tự và an ninh tuyệt đối thì vẫn cứ phải để lại cho đối phương một nửa những cái đã có. Nếu không để lại thì cũng phải hủy đi. Vẫn cứ là một sự mất mát nặng nề. Đằng này chúng không chỉ “để lại” hầu như trọn vẹn của cải mà còn cả những đội quân cũng gần như trọn vẹn. Mất của còn mong bù đắp lại được, mất đất còn mong đánh chiếm lại được, chứ đã để mất đi những đội quân vào hàng tinh nhuệ thì bù đắp bằng cách nào? Mà đã mất đi những đội quân thì chẳng thể có mưu đồ nào được thực hiện, nếu như bọn chúng còn nuôi dưỡng một mưu đồ. Vậy thì ta thắng là do bộ đội ta mạnh, mạnh về mọi mặt, mạnh hơn cả mọi năm; quân ngụy thua là do chúng yếu, yếu hơn ta nghĩ nhiều, yếu trong mọi mặt. Nhưng chúng ta đã mạnh lên như thế nào, mạnh bên trong gian nan, trong thiếu thốn, trong vô vàn khó khăn của một cuộc kháng chiến kéo dài? Chúng đã yếu đi như thế nào, yếu đi giữa những kho bom, kho đạn, những sân bay, những quân cảng, những xa lộ? Yếu đi giữa những hàng hóa, của cải do Mỹ trút vào để trang điểm cho một mặt hàng? Giữa những lon, ngù, mũ, gậy do Mỹ cấp phát để tô vẽ cho một thể chế?

Đó là những bí mật mà lần đi này phải tìm ra những căn cứ xác thực để hiểu được đến cốt lõi. Một nhiệm vụ kể ra cũng là dễ dãi vì lời giải đâu có giấu kín. Dễ dãi nhưng không phải là ít hứng thú. Còn như bạn đọc lại không cảm thấy hứng thú thì hiển nhiên phần trách nhiệm phải thuộc về kẻ thuật chuyện rồi.

*
*    *

Ra khỏi vùng ngoại ô phía nam Hà Nội là đã nhận ra ngay cái cảnh tượng hội hè của chiến dịch sau chót. Còn nhớ một lần được đọc một câu thơ, đại ý : đi đánh Mỹ vui như đi trẩy hội. Cảm thấy ý thơ lãng mạn quá. Những năm đánh Mỹ là những năm cực nhọc, gian nan khôn xiết, tự hào hơn cả bao giờ, mà chịu đựng cũng vô cùng. Vẫn có tiếng cười, vẫn có tiếng hát, nhưng ngắm kỹ từng khuôn mặt không ai không có những nếp nhăn của ưu tư. Trung ương lo việc cả nước, cán bộ lo việc từng ngành, từng đơn vị từng địa phương. Trong mỗi gia đình cũng kẻ ở người đi sum họp chia phôi mấy bận, tháng này nhận được tin vui tháng sau đã phải nhận tin buồn, chăn chiếu, mùng màn mỗi người cầm đi một mảnh, bà nuôi cháu, chị địu em, hạt gạo cắn ba, hớp canh sẻ nửa, con mặc áo của bố, mẹ nhường quần cho con, nước mắt lúc vắng người, nụ cười lúc đông người, an ủi nhau, nâng dắt nhau năm này qua năm khác cho mãi tới mùa xuân của năm này. Mùa xuân năm 1975, chợt nhớ lại câu thơ ngày nọ, tưởng đâu như tiếng reo tự nhiên của lòng mình, chính mình đã từng viết nên câu thơ đó. Chiếc xe con của chúng tôi đã khôn ngoan vượt lách hai đoàn xe vận tải quân sự với hy vọng sẽ được chạy thênh thang trên đường 1. Nhưng sự khôn ngoan ấy đã lỗi thời! Vượt qua được đoàn xe này thì trước mặt đã là một đoàn xe khác, rồi một đoàn xe khác, lại một đoàn xe khác, xe chạy như vô tận, xe bịt bạt, đuôi bạt căng gió kêu như trống đập, xe cuốn bạt hai bên chật ních những khuôn mặt căng đỏ, tươi sáng, mũ mới, quần áo mới, súng đạn mới. Thị xã Vinh xanh lè những màu mũ, màu quần áo và ba lô của người ra đi. Rồi cũng vẫn là xe, là súng, là người. Xe con nối theo xe lớn, chen vào giữa đoàn xe lớn, chạy trước họ, rồi tụt sau họ. Người ngồi xe con nhìn lên người ngồi xe to, người ngồi xe to nhỏn nhoẻn cười, hỏi người ngồi ở xe con :
- Các chú ơi, bây giờ mới được đi có muộn quá không?
- Gặp nhau ở Đà Nẵng nhá!
- Hẹn gặp ở dinh Độc lập!

Xe vẫn chạy. Tiếng gọi hỏi bay lươn lướt bên tai của xe này, của xe kia. Dừng lại với nhau mươi lăm phút đợi phà, mùi quần áo mới, mùi da thịt trẻ bọc quanh nồng nàn, ngây ngất.
- Em quê ở Hải Hưng à?
- Bọn cháu đều ở Hà Bắc.
- Các em sinh năm nào?
- Cháu sinh năm 1956.
- Cháu sinh năm 1957.

Hưng Yên? Có Hải Hưng không? Đấy, đấy, bọn nó đều là dân Hải Hưng cả. Tiên Lữ? Chúng nó đi trước rồi? Khoái Châu, hả? Thanh niên phủ Khoái! Xin chào các đồng chí! Chúc các em lên đường may mắn, lập được nhiều công! Chúc đồng chí nhà báo lúc đi biết một, lúc về biết mười! Hẹn gặp! Lại gặp nhau trong đó nhé!
Sáng sớm, ngồi trong xe bàn nhau sẽ ăn trưa ở Hà Tĩnh. Đến Hà Tĩnh còn sớm quá, lại hẹn đến Đồng Hới. Đã đến Đồng Hới tội gì dừng lại ăn cơm, qua Quán Hàu thôi, ở đó có phà, đợi hàng ngàn xe qua phà thì hết đêm chưa chắc đã sang được. Xe lại chạy, ăn lương khô, uống nước chè đặc cũng đã là sang lắm, ung dung lắm so với những lần đi chiến trường của những năm trước. Chạy đi thôi! Chạy nhanh lên! Chiếc xe con lao tuột xuống mố phà Quán Hàu thật ngổ ngáo, nhưng, ô kìa, đâu chỉ có một xe con mà đã vội lao lên phía trước. Đưa mắt nhìn ngang ngó dọc hàng trăm xe con đã sắp xếp thành hàng lối đợi lượt qua phà. Duy nhất có mỗi chiếc xe đến muộn lại định giở trò tranh chấp. Nhìn lại một lần nữa, hầu hết là người quen biết, là các cấp trên của mình ở các cơ quan bốn tổng cục của nhiều binh quân chủng. Đồng chí Hùng, nguyên là tham mưu phó một quân khu, vừa cười vừa gọi to, giọng khàn khàn : "Xe nhà báo còn chạy mãi đâu thế?". Cả mọi người đều nhìn bọn tôi mà tủm tỉm cười. Thế đấy! Mấy thằng nhà báo đến hay giở cái trò láu vặt. Đành vậy, đành phải phơi mặt ở mố phà này cả đêm nay thôi. ăn chiều nay ở đâu? Trưa mai ở đâu? Nhanh ra cũng phải trưa mai mới tới lượt sang phà. Phà đã quay sang. Các xe đến lượt được qua nổ máy. Các anh sướng nhá! Qua được đoạn sông này là cứ phóng thẳng đến tận bờ sông Thạch Hãn. Nghe nói công binh đã bắc được cầu phao ở đó rồi. Họ sẽ ăn bữa trưa mai trong thành cổ Quảng Trị. Có thể ăn bữa trưa ở bờ nam sông Mỹ Chánh. Trời ơi! Bao giờ đến lượt mình? Lại vẫn cái giọng khàn khàn quen thuộc từ đám người đứng lố nhố ở mố phà gọi với lên.
- Xe mấy cậu nhà báo đâu?
Tôi chạy vọt lại như tên bắn :
- Có tôi!
- Cho xe xuống đi?
- Xe tôi hả? Xe tôi được xuống phà à?
- Ưu tiên nhà báo!

Lại thế nữa! Những người nhường bọn tôi đều đang cầm trong tay những nghị quyết, những phương án, những mệnh lệnh, tức là những thứ nóng cả. Còn bọn tôi, chậm vài ngày nào có sự tổn hại gì, thì bọn tôi chẳng đã bị chậm cả tháng đấy ư? Hết sức biết ơn các đồng chí. Thôi! Xuống đi! Con nhà lính mà ăn nói cũng màu mè. Lúc nào có sách thì nhớ gửi cho nhau! Lại con đường 1, lại xe và súng và người. Lại gọi nhau, hỏi nhau, đùa giỡn nhau trong giây phút xe nọ chạy bám lấy xe kia, rồi vượt qua, rồi lại bám đuổi một xe khác. Mặt người mờ đi trong đám bụi đã bắt đầu đỏ. Nắng tháng Ba vàng rực như mật phết, cái nắng hanh khô, nồng đượm, nói cho văn vẻ hơn sẽ là cái nắng ngọt ngào. Đi vào chiến trường giữa lúc các mặt trận ầm ầm tiếng súng tấn công, mà đi giữa ban ngày, mà hành quân nối xe nhau suốt một chặng đường dài năm trăm cây số, mà các bến bãi toàn là người, là xe, là xăng, là các thứ binh khí kỹ thuật. Đi đánh một triệu quân ngụy được coi là con ruột của Mỹ mà không thèm để ý đến người đẻ ra nó, đến ông chủ của nó. Thì người Mỹ cứ giả đò kinh ngạc, giả đò hỏi han, rồi tranh cãi, rồi hăm dọa, mặc! Việc mình mình cứ làm, không ai ngăn được, không kẻ nào dọa dẫm được. Chúng ta sẵn sàng đương đầu với mọi biến cố có thể xảy tới. Như mùa xuân năm 1968. Như mùa hè năm 1972. Như những năm dài còn cả nửa triệu lính Mỹ ở đất liền, ở trên không, ở ngoài biển. Cái tư thế đĩnh đạc, thản nhiên của lần xuất quân năm nay đủ là một bằng chứng hiển nhiên của sự thách thức đó. Mà cũng chẳng phải chủ tâm thách thức một ai, việc của mình mà. Chẳng lẽ chúng ta lại không có quyền chăm lo công việc của chính chúng ta?


Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #2 vào lúc: 05 Tháng Mười Hai, 2008, 04:53:19 pm »

Chương II

VỐN LÀ NIỀM TIN CỦA CHÚNG TA NHƯNG ĐƯỢC DIỄN GIẢI QUA NHỮNG NHÂN VẬT RẤT BẤT NGỜ


Trong ít ngày dừng chân tại Huế, tôi ở với đại đội 1 thuộc trung đoàn Phú Xuân, đóng quân ngay tại khách sạn HB. Bộ đội vào thành phố mỗi anh có một bộ quần áo, ba lô không, màn chăn không, mũ cũng không. Chỉ có súng đạn, có bạt võng, và một bộ quần áo mặc ngoài. Tất cả đã quăng lại dọc đường truy kích quân địch. Càng nhẹ càng tốt, chạy nhanh bao nhiêu đỡ tốn xương máu sau này bấy nhiêu, vừa chạy vừa gặm lương khô, hết lương khô thì uống nước suối mà đuổi giặc. Vừa chạy vừa đánh, vừa chạy vừa ngủ, định bụng vào Huế sẽ nghỉ ngơi, sẽ ngủ bù, sẽ làm vài bữa ăn thật thịnh soạn cho bõ những ngày cực nhọc, đói khát. Nay đã vào Huế vẫn chẳng một ai được ngủ một giấc cho thỏa mắt. Một đại đội phải gác hai cây cầu bắc qua sông Hương, gìn giữ an ninh hai đường phố, một cái chợ và trăm thứ việc giời ơi đất hỡi chẳng hiểu phải gọi là những việc gì. Vào thành phố, phơi mặt ngoài nắng ngoài mưa mười mấy tiếng đồng hồ mỗi ngày, mặt anh nào cũng hốc đi, da đen cháy, tròng con mắt đỏ ngầu vì thiếu ngủ. Và mệt quá, nhưng không thể nghỉ được, không thể ngủ được, đành vươn vai ra mà gánh lấy bao nhiêu thứ việc không tên của một vùng đông dân cư vừa được giải phóng.

Cạnh nhà đại đội tôi ở có ngôi nhà nhỏ một tầng, mặt tiền là cửa hàng hẳn hoi nhưng không thấy buôn bán gì, lại dường như không được tu sửa từ lâu nên coi cũ nát quá. Chiều ngày mồng 3 tháng Tư, trước nhà lại treo một tấm biển, viết chữ to: Nhà chiếm ngụ trái phép đã được ủy ban quân quản hoàn trả cho chủ cũ. Một ông già khoảng trên dưới sáu chục tuổi, dáng vẻ như công chức, đứng ở thềm nhà nhìn tôi cúi đầu chào. Tôi chào lại, tiện dịp hỏi luôn : "Sao lại có tấm biển này, hả ông?". Ông chủ nhà tươi cười : "Xin mời ông vào chơi, câu chuyện cũng dài". Nhà hẹp và nông, nền nhà nửa gạch nửa đất, các ngăn kệ bày hàng cũ mọt, trống trơn. Một gian nhà trống rỗng, hôi hám, đến ấm tách mời khách chắc cũng là của nhặt nhạnh nhưng lại có một bộ ghế tựa bọc lụa vàng hết sức sang trọng. Ông mời tôi một chén nước trà vừa loãng vừa nguội, hút thuốc của tôi, tự giới thiệu tên là Hợp, một thương gia ở Sài Gòn.
- Cái nhà này vốn là của tôi - ông Hợp kể - Cách đây đã mươi năm tôi cho một người trong họ thuê, vì vợ tôi là người Huế. Sau người ấy dọn đi nhượng lại cho một gia đình quen biết, tất nhiên có sự đồng ý của tôi. Gia đình này có người con làm cảnh sát, đại úy chi trưởng cảnh sát quận. Họ hỏi mua, tôi không bán, vì đã có ý định nay mai xây cất thêm mở cửa hàng bán tơ lụa. Rồi tôi đòi lại, nhưng họ không trả. Mình có nhà nhưng họ có thế. Cái thế ông quận trưởng cảnh sát ở một thị xã như đây là lớn lắm, tỉnh trưởng cũng phải nể. Bên đòi, bên giữ. Cái nhà ngày một hư nát, đành phải chịu, chứ biết tính sao?. Tết ra, vợ chồng bàn nhau thu xếp hàng họ ở Sài Gòn ra Huế một chuyến, đến cửa nào thì đến, không tiếc tiền, cốt làm cho ra nhẽ, rồi có chịu mất cũng không ân hận. Vậy mà mất thật ông ạ. Tốn kém gần nửa triệu mà nhà vẫn mất. Thì vẫn là nhà của mình, nhưng mình không có quyền đòi. Hoặc là bán rẻ, hoặc chịu mất không. Tùy mình chọn.

Tôi cười, nói đỡ lời :
- Còn đang dang dở thì cách mạng đến, phải không ông?
Ông Hợp cũng cười :
- Đúng thế, cách mạng đến thế là tôi đòi ngay được nhà. Đưa đơn hôm mồng 2 tháng Tư, thì mồng 3 ban nhà đất cho gọi lên xem xét giấy tờ, rồi cấp giấy hoàn lại nhà cho chủ cũ. Một đằng chạy vạy mất năm năm, chi tiêu cả triệu bạc mà chịu mất nhà. Một đằng đi lại có hai lần, tốn kém có mỗi tờ giấy viết đơn, lập tức ngọc về chủ cũ.
Tôi nói đùa :
- Được cái xác nhà ngoài này lại mắc đám hàng họ trong kia, vẫn cứ là thiệt.
Ông Hợp cãi ngay :
- Mất thế nào? Chỉ tháng sau là tôi có cả trong ấy lẫn ngoài này.
- Ông đoán chắc như thế ?
Ông nhìn tôi, cười tủm tỉm :
- Tôi tin chắc chứ. Vì tôi đã có đầy đủ chứng cớ để tin. Châm một điếu thuốc (vẫn là thuốc của tôi vì ông chỉ còn đủ tiền ăn chứ không có tiền mua thuốc), ông Hợp nói tiếp :
- Với ông tôi chẳng dám giấu. Tôi là một thương gia có hạng ở trong ấy, tiếp xúc nhiều với các giới trong chánh phủ, trong quân đội nên tôi biết rõ họ. Vì biết họ nên tôi dám tin rằng chỉ nội tháng sau tôi sẽ trở lại Sài Gòn với tư cách là người được giải phóng đầu tiên của giới thương gia.
Nói cho đúng, tôi chưa thể tin hẳn những lời lẽ quá thuận của vị đại diện tình cờ cho giới thương mại. Tôi vốn hay nghi ngờ những thay đổi quá dễ dãi. Tuy nhiên, ông ta  cũng không có ý tâng bốc cách mạng, về phe với cách mạng bằng một tâm sự dối trá. Về sau, khi đã biết nhau hơn, ông còn thú nhận với tôi là đã trốn chạy trong ngày 21 nhưng không thoát. Hai vợ chồng, một đứa con mất bốn chục ngàn tiền vé chặng bay Huế - Đà Nẵng. Máy bay sắp cất cánh thì đạn pháo của giải phóng nổ ầm ầm khắp phi trường. Sân bay Phú Bài phải đóng cửa, hẹn hành khách đến ngày hôm sau. Sáng hôm sau hốt hoảng kéo nhau đến thì máy bay cùng toàn bộ hành lý đã biến mất tự khi nào. Tiền hết, quần áo thay cũng không có, đành là tay trắng trở lại Huế.

- Tôi không đón chờ cách mạng - ông Hợp nói - nhưng tôi cũng không sợ hãi cách mạng. Phải là phản động hoặc rất ngu dốt mới sợ các ông. Tôi chỉ không thích các ông thôi, nếu ông cho phép tôi được nói thật như thế. Tại sao không thích? Vì cách mạng là sự hợp lý. Đất nước này muốn phát triển cho hợp lý thì phải mở mang nghề nông, mở mang công nghệ, tự lập tự cường. Nếu có buôn bán cũng là làm lợi cho sản xuất, cho dân sinh. Canh nông thì tôi không thích, đã quen ở tỉnh thành rồi. Công nghệ càng không biết gì. Chỉ biết có mỗi nghề buôn. Mà nghề buôn trong này phải lấy gian manh làm thủ đoạn chính mới mong có lãi. Vả lại, chúng tôi còn là nhóm thương gia nhập khẩu vải sợi. Nhập khẩu tất phải dựa vào tiền của Mỹ. Trong tài khoản viện trợ của Mỹ hàng năm ở miền Nam có một ngân khoản dành cho hối xuất để nhập hàng hóa và máy móc nước ngoài. Số tiền đó do Bộ kinh tế đem chia cho các tổ hợp nhập khẩu. Muốn được đăng ký nhập khẩu đương nhiên phải có một số vốn nào đó, phải chịu những thủ tục nào đó. Nghĩa là phải có thế lực và kim ngân. Trước hết là kim ngân. Có kim ngân sẽ tìm ra thế lực. Tiếng là buôn vải sợi nhưng thật tình chỉ biết có mặt hàng trên bảng mẫu. Hàng vừa cập bến, tôi đã có mối bán rồi. Thậm chí tàu còn đang lênh đênh giữa biển mà hàng đã bán. Một chuyến hàng tính ra đã trả lãi cho nhà băng rồi, đã trả thuế nhập khẩu rồi, đã chi hàng trăm khoản lặt vặt khác vẫn cứ thu lợi bạc triệu. Tiền kiếm quá dễ. Nhưng đó là đồng tiền của gian trá, của bao nhiêu mưu mô lập cánh kéo phe, tôi xin thú thực với ông như thế. Đồng tiền ấy cách mạng không thể chấp nhận được, không có sự hợp lý nào có thể chấp nhận được khi cả nước đều đang vì chiến tranh mà khốn khó.

Thốt ra được lời thú tội can đảm ấy khuôn mặt ông Hợp ửng đỏ lên, ánh mắt lấp lánh sau gương kính. Một ông già đến tinh khôn, đến lợi hại. Ông ta biết lên án mình, nhưng rồi vẫn cứ làm những công việc mà mình đã lên án.
- Được gặp ông tuy tình cờ nhưng lại là sự giải thoát cần thiết đối với tôi. Không giải bày với ông, rồi tôi cũng phải tìm cách giải bày với một người nào khác, nhưng sẽ không phải là với chính quyền cách mạng. Tôi không muốn chính quyền mới hiểu nhẩm tôi, ở đời này thiếu gì kẻ xu thời.
Tôi cười :
- Thì giữa tôi với chính quyền cách mạng có gì là khác?
- Ông ở đây rồi ông lại đi, ông không giúp được gì tôi, mà tôi cũng không nhờ cậy được gì nơi ông. Chúng ta nói chuyện với nhau bình đẳng và vô tư, không vấn vương một chút tư lợi nào. Như những người bạn (!). Vả lại bạn của tôi cũng không hiểu được tâm trạng của tôi trong những ngày này. Có thể họ còn ngờ vực hoặc chế giễu. Nhưng ông thì hiểu. Tôi tin là ông đã hiểu. Tôi xin nói tiếp : Năm nọ, nhân một chuyến đi Nhật để xem mặt hàng và ký hợp đồng, ngồi ăn trưa tại một quán cơm bình dân vùng ngoại ô Đông Kinh, có một ông già cứ nhìn tôi chằm chặp. Rồi ông hỏi tôi bằng tiếng Pháp :
"Thưa ông, ông là người Việt Nam?
"Vâng, tôi là người Việt Nam.
"Ông ta lại hỏi tiếp :
"- Ông ở Hà Nội?
"Thế là tôi hiểu ngay, đành phải nói bừa :
"- Tôi ở Bắc Việt Nam.
"Tôi sinh trưởng ở vùng Bắc Ninh, kể ra cũng có quyền để trả lời như thế. Ông già liền kêu to :
"- Thật may mắn cho tôi hết sức!
"Rồi ông xin phép được ngồi cùng bàn với tôi, tự giới thiệu là hội viên của một tổ chức quyên góp thuốc men cứu trợ cho Bắc Việt Nam. Ông nhìn tôi như một thần tượng hằng tôn thờ, rồi bảo : "Các ông dám chịu nạn cho cả loài người được cứu vớt khỏi cảnh trầm luân. Cái phong độ ấy chỉ có thể ví với các bậc giáo chủ, những người đã tạo lập nên các đạo giáo lớn".

"Ông già còn nói rất nhiều, vừa nói vừa khóc. Mà người Nhật thì tôi biết, họ giữ gìn lắm, kín đáo lắm. Nhưng tôi nào có nghe thấy gì. Chỉ xấu hổ. Xấu hổ và nhục nhã. Từ bữa ấy tuy là vẫn sống rất trưởng giả, nhưng đã không còn yên tâm như trước. Tâm trí luôn luôn bị ám ảnh : mình là kẻ có tội, mình đang sống giữa một đám người mắc tội. Có tội tất phải đền tội. Mình không có dịp được đền tội, thì con cháu mình sẽ phải đền tội thay cho ông cha nó. Xưa nay đã mấy ai thoát ra khỏi cái luật nhân quả. Hàng triệu người đã chết cho nền độc lập, không nhẽ những kẻ sống bất hợp pháp như chúng tôi lại không bị trừng phạt. Trước sau sẽ có ngày bị trừng phạt. Thế là sự trừng phạt cho tất cả đã đến, riêng với tôi thì nó đến sớm hơn, từ ba năm về trước, từ cái ngày tôi được gặp ông già người Nhật nọ. Nhân đây, tôi xin kể ông nghe một câu chuyện nhỏ, theo tôi nghĩ cũng là một dấu hiệu trong vô vàn dấu hiệu báo trước cái tình thế hôm nay. Bữa ấy là tối mồng 2 Tết năm Ất Mão, mấy anh em trong tổ hợp nhập khẩu kéo lại đằng nhà tôi uống rượu. Chúng tôi rất thích những buổi tối như thế. Một căn phòng thật yên tĩnh, mấy chai rượu thật ngon, một hộp xì gà hảo hạng. Có chuyện gì thì nói, không có gì để nói thì nín lặng, hoàn toàn tự do. Thường là vẫn có nhiều chuyện để nói, để chửi, những chuyện riêng của ông bà Thiệu, của ông bà Khiêm, của các ông tướng, các bà tướng. Gọi là bàn chuyện quốc gia cũng được, vì các nhân vật điểm đến đều là những bộ mặt tiêu biểu của chính trường. Gọi là nói chuyện áp phe cũng được vì không có một chính khách nào, một tướng lĩnh nào lại không dính đến một vụ áp-phe. Người ta thường đồn tướng Ngô Quang Trưởng tư lệnh quân khu 1 là thanh liêm nhất, vợ con không được dính líu đến việc quân cơ của chồng. Nhưng theo tôi biết, ông ta đang làm một vụ áp-phe kinh thiên động địa : thay Thiệu làm tổng thống trong những năm tới. Một vụ áp-phe cỡ quốc gia như vậy nếu không có Mỹ đỡ đầu làm gì nổi? Bỏ miếng bé, ăn miếng lớn thì đúng phải. Còn bảo là vì dân vì nước thì lại quá hoang đường. Chúng tôi chửi chúng nó theo kiểu dân chạy chửi lẫn nhau. Nó có thế lớn, lực trường nên chạy được mối to : như buôn nha phiến trắng chẳng hạn. Mình thế bé, lực đoản thì chạy mối nhỏ, nhưng không phải là ít lãi. Giữa lúc chửi bới cho hả, thì một anh bạn tôi lên tiếng : "Chửi Thiệu thì chửi nhưng còn nó mình mới được ngồi đây uống uýt-ky, hút xì gà. Chứ mai kia mấy ông Việt cộng nhào vô thì bọn mình chỉ đáng đem bắn bỏ". Bao nhiêu cái miệng đã định há ra lại vội vàng ngậm chặt. Mặt mũi anh nào cũng sượng sùng, cũng ngượng ngập. Đến nhìn mặt nhau cũng khó. Cùng phường cùng cánh cả. Cùng là những kẻ có tội cả. Mình chửi nó tức tự chửi mình. Chẳng có trò đểu nào của nó mà mình không từng nhúng tay. Nó làm lớn nên tăm tiếng rộng, mình làm nhỏ nên chỉ có mấy thằng biết với nhau thôi. Mình tuyên án nó với bao nhiêu lý lẽ đanh thép, nhưng nghĩ lại, mình đâu có đứng ngoài. Chưa bao giờ chúng tôi cảm thấy thấm thía sự tự kết án như cái tối hôm đó. Một xã hội mà một nửa số thành viên, ấy là tôi muốn tìm một tỷ lệ lạc quan, đều mặc cảm có ít nhiều phạm tội, đều có thể tự kết án, một xã hội như thế thì tồn tại sao được. Nó chưa sụp đổ năm 1968, năm 1972 vì đang còn một lực lượng ngoại lai ra sức chống chọi. Năm nay, cái trụ chống ấy không còn nữa thì tất cả sẽ tan tành, chỉ sớm tối là tan tành.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #3 vào lúc: 05 Tháng Mười Hai, 2008, 04:55:59 pm »

*
*    *

Trong mấy ngày sau cùng ở lại Huế, tôi có được cái may mắn chứng kiến một vụ đánh cá giữa mấy người bạn. Việc đem ra cá nhau đã khác thường : vào tháng nào thì Quân giải phóng sẽ lấy xong Sài Gòn? Những người tham gia còn khác thường hơn : Một nhà buôn đồ sứ Đà Lạt, một cựu giáo sư dạy Pháp văn theo đạo Thiên chúa, và một thượng tọa con cháu của đức Thích Ca. Thật ra sự tính toán của họ chẳng trái ngược nhau là mấy : Cách mạng sẽ vào Sài Gòn trong tháng Năm hoặc thượng tuần tháng Sáu. Chỉ còn khác nhau : sẽ lấy Sài Gòn bằng hiệp thương hay bằng vũ lực. Khi ta đã chiếm Phan Rang, Phan Thiết thì ngay sự khác nhau chút ít ấy cũng không còn. Cả ba người đều nhận định : Quân giải phóng nhất định sẽ tiến thẳng vào Sài Gòn. Đầu hàng sớm thì đổ máu ít, đầu hàng muộn thì đổ máu nhiều. Chỉ còn thế. Họ bảo tôi : Cá nhau là khi bài toán còn chưa có lời giải. Nay lời giải đã rõ thì còn cá cuộc gì. Cả ba chúng tôi sẽ được cả. Nhân vật chính của nhóm ba người là ông Kim, trạc tuổi tôi, bốn mươi lăm hoặc bốn mươi sáu, nhưng còn trẻ lắm, ham hiểu biết, khá nhạy bén với những thay đổi của thời cuộc. Nhà buôn này đã từng cầm súng đánh Pháp trong mấy năm đầu, còn về sau... "Về sau thì như “vu” (1) biết đấy, “moa” (2) yếu hèn, “moa” thối chí nên bây giờ mới phải cúi mặt khi nhìn lại đồng đội năm xưa" (những lúc thân tình nhất, Kim thường xưng hô là “vu” và “moa”. Thoạt nghe thì ngượng, nhưng dần dần cũng quen đi).

- Anh chỉ cần nhận là đã yếu hèn, tức thì mọi tội lỗi coi như được xóa sạch?
Tất nhiên anh có quyền nghi ngờ, nhưng tôi đã ăn năn bằng sinh mạng của chính tôi, chứ không chỉ bằng một lời nói đẹp. Nói cho thật, sự ăn năn của tôi chỉ mới có từ mùa xuân năm 1968. Đường Phan Bội Châu hiện nay là mới xây cất lại chứ đường phố cũ đã bị bọn Mỹ và các trận cận chiến phá hủy sạch trơn rồi. Trận đánh đã sang ngày thứ ba tôi vẫn còn ở lại Huế. Vợ con về quê từ chiều mồng 2 Tết, riêng tôi ở lại đợi thu xếp xong hàng họ rồi cũng về theo. Sáng hôm đó, tôi còn nhớ là sáng ngày mồng 4, vừa ra mở cửa sau, tức là cái cửa ăn sang đường Phan Bội Châu - Bờ Hồ, chợt thấy một hình người nằm gọn một góc cái bậc hè xây cao của nhà trước mặt. Anh ta vận áo cánh đen, quần cộc đen, ôm trong lòng khẩu B.40 mà ngủ. Mà như còn nhỏ tuổi lắm, mà gầy yếu quá, xanh tái quá. Anh Việt cộng! Anh Bộ đội! Anh Vệ quốc! Đoàn vệ quốc quân một lần ra đi... nghĩ rằng đã trốn được quá khứ, ai dè, vâng, ai dè... Tôi nhìn trước nhìn sau rồi chạy vọt qua, khẽ lay gọi anh. Anh tỉnh ngủ rất nhanh, ngồi bật ngay dậy, nhìn tôi trừng trừng, hỏi :
"Ông là ai?
"Nhà tôi ở ngay đây, mời anh qua nhà tôi mà nghỉ.
"Anh trù trừ một thoáng, rồi đứng dậy xách súng, bước theo. Tôi nấu vội hai túi mì, múc cho anh một chén, tôi một chén, rồi cùng ngồi ăn.
"Anh hỏi tôi :
"Thím với mấy em đâu cả?
"Nhà tôi đưa các cháu về quê từ bữa trước:
"Tạm tránh đi ít ngày cũng phải. Nay, bom đạn nhiều thế chú có hãi không?
"Tôi cười :
"Ai mà không hãi, nhưng làm sao được.
"Lúc đầu thì hãi, rồi sau sẽ dạn dần, tôi cũng thế.

"Mình biết cầm súng từ năm mười bảy tuổi, năm nay đã là ba mươi tám, nay phải nghe từ miệng một cậu bé hỏi có sợ súng không, nghĩ cũng đau lòng. Mà đúng, không sợ súng sao phải trốn chạy, trốn dài suốt hai cuộc kháng chiến. Trưa hôm đó, anh lại quay về nhà tôi cùng với một cậu nữa gửi bốn quả đạn. Anh khoe hồi sáng lại bắn cháy thêm một xe tăng ở bên kia cầu Gia Hội. Đến khó tin! Con người như cái bóng ma, khẩu súng như ống thổi lửa, mà bắn cháy xe tăng Mỹ? Nói anh tha lỗi, ngày ấy mấy thằng vẫn bảo nhỏ nhau : Đã bước sang quá nửa thế kỷ 20 mà mấy ông nhà mình còn nuôi mộng hoang đường. Đánh đuổi Mỹ bằng súng đạn quả là chuyện rất hoang đường, một sức tin quá kỳ khôi. Chiến tranh còn phải kéo dài thêm ít năm nhưng rốt cuộc Mỹ nó thắng. Nó sẽ thắng mình bằng nhiều cách. Có tiền là sẽ có cách. Mình dầu khôn ngoan mấy vẫn là cái anh nghèo. Đã nghèo đừng có nói chuyện khôn ngoan. Kinh nghiệm đời tôi là thế. Nghĩ trong bụng thôi, chứ không tranh cãi. Các anh có niềm tin của các anh, chúng tôi có cái tin của chúng tôi, tranh cãi về niềm tin là vô nghĩa. Vả lại đằng nào tôi cũng sẽ về quê với gia đình. Vâng, đúng thế, lại tìm cách được xin trốn chạy các anh một lần nữa. Tôi chuẩn bị cho hai anh một tạ gạo, mắm muối, cá khô, bột ngọt, đủ thứ. Rồi xếp cả quần áo thay, bông băng và mấy loại thuốc thông dụng. Coi như đã làm tròn bổn phận một người dân vốn có cảm tình với kháng chiến. ăn cơm trưa xong, anh mang B.40 bảo tôi :
"Chú có muốn coi bọn tôi bắn xe tăng không?
"Khi nào?
"Đêm nay hoặc sáng sớm mai, xe nó thường chạy nhiều vào lúc sớm.
"Bằng cách nào?
"Đi theo chúng tôi - rồi anh cười - nhưng nguy hiểm đấy chú lại chưa quen với bom đạn.

"Đành phải ở lại thêm một ngày nữa, thêm một ngày coi Việt cộng bắn xe tăng? Một dịp may kể là cũng ít có. Đêm ấy mãi khuya hai anh mới về, nhìn anh mang đạn vẫn còn nguyên bốn quả, tôi hỏi đùa :
"Mỹ nó hết xe tăng rồi ư?
"Anh trả lời rất thật thà :
"Còn nhiều lắm chú ơi, nhưng không tìm được góc bắn tốt.
"Sáng ra được một lúc, khoảng bảy, tám giờ, tôi ngồi đọc sách chợt nghe có tiếng động cơ chuyển ầm ầm ở đầu phố. Anh giữ B.40 đang nằm trên phản vội lăn xuống đất, nằm áp tai nghe ngóng một lúc rồi xách súng đã lắp sẵn đạn nhào vụt ra. Tôi sực nhớ lời hẹn khi đêm cũng nhảy vội lên lầu trèo sang mái nhà bên cạnh, nằm dài trên đó mà nhìn xuống cái quẹo đường Phan Bội Châu - Trần Hưng Đạo. Có hai chiếc xe M.48, cái xe đầu đã chạy tới mé chợ Đông Ba, còn cái xe sau chỉ vừa qua khỏi cây cầu Gia Hội. Nhưng không thấy anh bạn bé nhỏ của tôi đâu cả. Chắc đành để lỡ xe trước, nếu muốn bắn gần như anh nói. Còn xe sau liệu nó có bị trúng đạn của anh không? Lạy trời! Anh hãy đến kịp và bắn trúng! Thì ra lá vẫn rụng về cội đến lúc ấy mới rõ thật lòng mình vẫn hướng về kháng chiến, vẫn mong mỏi chúng ta sẽ làm được cái việc lệch đất nghiêng trời là đánh đuổi thằng Mỹ bằng súng đạn. Đánh đuổi nó bằng chính cái sức mạnh mà nó thích hù dọa, khoe khoang. Nhưng dựa vào đâu mà cầu mong sự phi thường ấy. Trong lúc này chỉ còn biết dựa vào anh bạn mới được quen biết. Nếu anh không bắn trúng, hoặc tệ hơn, anh lại không bắn thì sẽ đau đớn biết chừng nào. Anh phải bắn trúng để trên đời này còn có chỗ mà tin dựa, mà hy vọng, mà yêu thương. Hành động của anh đối với tôi sẽ là tất cả. Còn đang nghĩ ngợi vẩn vơ thì một khối lửa đã chớp sáng ngay giữa ngã tư, rồi một tiếng nổ ù tai, một đụn khói đen bẩn đùn từ trong ruột cái tháp tròn gắn pháo. Khi ấy mới chú ý chiếc xe đã quay ngang, đã lùi đít về phía đường Phan Bội Châu chừng vài mét. Chỉ trong có vài giây chiếc xe đã xả khói, xả lửa dữ dội quá, tự nó phá hủy nó ghê gớm quá. Đạn cháy, xăng dầu cháy, sắt thép chảy, da thịt cháy, đến mặt đường cũng bốc cháy. Lửa và khói vít kín một đầu phố gần trọn một buổi sáng. Đêm đến, đứng trên tầng lầu nhìn xuống, cái khối thép đã biến hình vẫn còn đỏ rừng rực. Thế là tôi quyết định ở lại Huế, tự nguyện làm một chiến sĩ vô danh trong số những chiến sĩ vô danh khác chiến đấu ở khu vực này. Anh em rút đi, tôi ở lại. Rồi vợ con trở về. Rồi lại buôn lại bán. Nhưng đêm nào nghe có tiếng súng là thao thức cho tới sáng, nghĩ ngợi xa gần, thương thương, nhớ nhớ những bạn bè đang sống ở trên xanh. Ngày nào các anh sẽ trở lại? Năm này? Năm sau? Mùa xuân hay mùa hè? Năm 1972 cũng chờ đợi cả tháng, đã chuẩn bị đủ cả, thuốc men, lương thực, rồi máy ảnh, phim nhựa, rồi giấy trắng, mực in. Cái gì năm 1968 ta thiếu thì năm 1972 sẽ có đủ. Và lần này nữa, cũng vẫn như trước đây, vợ con lại về quê còn tôi với thằng nhớn ở lại đón mấy chú Giải phóng. Có điều chưa kịp chuẩn bị gì, đến gạo ăn của hai cha con cũng thiếu. Nhanh quá phải không anh? Vì đã chín quá rồi. Đến như tôi, thuộc loại người làm giàu dưới chính quyền này mà còn mong các anh về, thì sự thể đã chín lắm rồi.
- Còn Sài Gòn?
- Rất mong chờ cách mạng. Nhưng là một cuộc cách mạng giữa họ với nhau. Một cuộc cách mạng không có người cộng sản..
- Vậy sẽ kết thúc như thế nào?
- Sẽ kết thúc đúng hệt như ở đây. Cách mạng thật đã đến Phan Rang thì còn đâu có thì giờ làm một cuộc cách mạng giả.

------------------------------------------------------
(1, 2) Tiếng Pháp là anh, tôi
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #4 vào lúc: 05 Tháng Mười Hai, 2008, 04:58:57 pm »

*
*    *

Nhà sư mà Kim giới thiệu với tôi trụ trì tại một ngôi chùa cách Huế khoảng hai cây số. Tôi thích những ngôi chùa ngoài Bắc hơn, mái thấp và tối, lối đi có những vệt gạch vỡ và nhiều đám rêu, mặt người, mặt Phật nhòe lẫn trong cái tranh tối tranh sáng, mùi nhang, mùi hoa, mùi ẩm ướt vướng đọng trong từng nếp áo, ở mỗi bước đi. Chùa chiền ở trong này, từ ngoài vào trong, từ trong ra ngoài đều thơm tho, đều bóng láng, trang điểm, bày biện như một tủ hàng. Nghĩ đến tủ hàng lại nghĩ đến thương mại, lại nghĩ đến cõi tục, lại nghĩ đến vô vàn sự  dối trá ở cảnh đời này. Ấy là theo cách nghĩ riêng của tôi thôi, chứ không phải cách nghĩ của nhiều người. Nhiều người vẫn khen chùa trong này đẹp, các sư trong này thù tiếp lịch sự, ăn nói ngọt ngào, kiến thức uyên bác. Thầy Hạnh tiếp tôi rất lịch sự nhưng xa xôi, thầy nhìn tôi rất ưu ái nhưng xa xôi, giọng thầy thật dịu và ngọt nhưng vẫn cứ xa xôi thế nào ấy. Thầy đọc thơ cho tôi nghe, một bài thơ cổ của một vị thuyền ấn, bày tỏ vẻ đẹp huyền ảo của thiên nhiên và cái lẽ vô vị ở cõi thế.

Bách xích ti luân trực hạ thùy
Nhất ba tại động vạn bạ tùy
Dạ tĩnh thủy hàn ngư bất thực
Không thuyền mãn tải nguyệt minh quy.
(1)

Rồi thầy kể cho tôi nghe những công cuộc cứu trợ dân tị nạn trong mấy ngày khói lửa ở cố đô do các ni cô và phật tử đảm nhận. Xa hơn là những cuộc đấu tranh đẫm máu của giới phật tử chống lại các chính quyền tay sai của Mỹ. Thầy Hạnh kết luận :
- Thằng Mỹ có thể hoành hành ở đâu đó, chứ riêng dân chúng khép nép lắm. Phong trào Phật tử ở Huế vốn rất mạnh.
Tôi chỉ xin chữa lại một chút :
- Vâng, phong trào cách mạng ở Trị-Thiên vốn rất mạnh.
Thầy Hạnh nhìn tôi một thoáng, rồi nói tiếp :
- Anh em ông Diệm đã có một thời bài Phật giáo đấy, nhưng kết quả thế nào? Chính anh em ông ấy bị người ta giết, còn đạo Phật vẫn ngày thêm mở rộng.
- Họ bị thất bại là phải vì họ muốn tiêu diệt một tín ngưỡng để độc tôn một tín ngưỡng.

Thầy Hạnh cười mỉm :
- Nói thế này kể có hơi sỗ sàng, nhưng tôi muốn hỏi thật : vậy chính sách các ông sẽ là thế nào?
- Mỗi người đều có quyền tin theo niềm tin của mình, nhưng khi hành động thời phải tuân theo nghĩa vụ của một công dân.
- Thì tôi vẫn thường nói với anh em phật tử rằng : chỉ mấy ông cộng sản mới có đủ sự khôn khéo để tiêu diệt tất thảy các đạo giáo cùng một lúc.
- Nếu chúng tôi đã được gọi là khôn khéo thì không bao giờ lại dúng tay vào những việc dại dột như vậy.
Thầy Hạnh rót nước trà mời tôi. Tôi đưa mắt ngắm nhìn vườn hồng trước nhà khách hết lời khen ngợi. Có tới mấy chục loại hồng, phần lớn phải mua giống tận nước ngoài. Mà đắt lắm, chăm sóc nó cũng phiền toái lắm, có cây hồng trị giá tới hàng trăm Mỹ kim. Câu chuyện như dễ dàng hơn, vì tôi là người thích hỏi và cũng biết nghe. Tôi hỏi thầy :
- Thưa thầy, sao thầy lại quyết định không di tản?
- Ô hay! Đi đâu? hớt hải chạy vào Sài Gòn để tháng sau lại lặn lội từ Sài Gòn ra Huế?
- Mọi việc lại có thể xảy ra nhanh đến thế ư?
- Không phải là hôm nay và trước mặt ông, mà đã từ lâu trước phật tử, tôi đã từng khuyến cáo rằng : “Cách mạng rất mạnh, họ muốn làm gì cũng được, không ai đủ sức cản họ đâu”.
- Bằng lý lẽ hay còn bằng kinh nghiệm riêng mà thầy quyết đoán như vậy.
Thầy Hạnh hơn tôi khoảng chục tuổi, là giảng sư, là nhà hùng biện, là người tổ chức các cuộc đấu tranh chính trị trước đây, nói tóm lại là một người hoạt động tôn giáo có bản lĩnh.

- Bằng kinh nghiệm riêng, bằng nhiều kinh nghiệm riêng. Chỉ một mẩu chuyện sau đây cũng chứng tỏ sự nhận xét của tôi là đúng. Anh em Giải phóng vào Huế ngày trước, thì trưa ngày sau ở vùng này xuất hiện một nhà cách mạng. Là người ở đây, tên ngày nhỏ là An, về sau quen gọi là anh Xồm, vì hắn để râu quai nón. Trước kia hắn có đi lính, sau bỏ lính về nhà mở tiệm sửa chữa xe gắn máy. Giữa năm 1972, hắn đi đâu biệt, có kẻ nói đã bị Việt cộng giết ở chân đèo Hải Vân, nhưng nhiều người lại phao tin thằng Xồm đã đi theo Giải phóng. Chẳng rõ hư thực thế nào. Đùng một cái, anh Xồm trở về với một cây súng M.16, tự giới thiệu là cán bộ cách mạng của tỉnh Thừa Thiên. Trước năm 1968, xã này có một tổ chức cộng sản, nhưng từ sau năm 1968, thì không thấy hoạt động gì. Giải phóng đã được một tuần ở đây mới lập được chính quyền mới, không có người, người của chính quyền cũ thì nhan nhản, nhưng người của cách mạng thì không có. Anh Xồm về được ngày trước thì ngày sau đã có mấy người ra chùa gặp tôi. Chính tôi cũng đang thắc mắc tại sao anh Xồm đi làm cách mạng về lại không thèm đến thăm anh thầy chùa. Dầu tôi không có chức vị gì trong xã hội, nhưng được cái dân chúng mến, có làm gì cũng hay đến bàn, và những lời khuyên của tôi thường được mọi người lưu tâm. Mới băn khoăn thế, chứ chưa tiện nói với ai. Chỉ hỏi thăm anh Xồm hiện còn ở nhà không? Bà lão được gặp lại con chắc hẳn rất mừng, mừng con còn sống là một nhẽ, nhưng còn mừng hơn là con đã đi làm cách mạng. Nhưng không thấy ai trả lời sao. Họ còn nhìn nhau tủm tỉm cười. Rồi một người thưa : "Bạch thầy, như ý chúng tôi thì hắn không phải là cách mạng đâu”. Tôi rất kinh ngạc : “Ai bảo thế”. “Không phải ai bảo, nói chuyện một lúc là biết”. “Các ông đã gặp người cách mạng thật bao giờ chưa?”. “Bạch thầy, chưa gặp ai, nhưng chưa gặp vẫn phân biệt được thật với giả”. Tôi càng tò mò : “Bằng cách nào?”. “Hắn vừa khoe khoang, vừa đòi hỏi. Người cách mạng họ khiêm cung, họ vị tha, chứ đâu như hắn”. Lại một người khác nói thêm : “Ngay cái cách hắn mang súng cũng không phải cách mạng rồi. Hệt như mấy chú lính cộng hòa”. Tôi nói đùa : “Mang súng ai chẳng giống ai, làm gì có sự phân biệt”. “Bạch thầy có, mũi súng của hắn khi mô cũng nhắm bụng mình. Cách mạng đâu có thế”. Cách mạng đâu có thế, vậy cách mạng sẽ phải là thế nào? Không chỉ người lớn tuổi nhận xét vậy, mà ngay lứa thanh niên mười chín, đôi mươi cũng nói với tôi họ sẽ đi báo cho anh em Giải phóng biết ở xóm này có một kẻ khả nghi, có một kẻ giả làm cách mạng. So sánh với ai mà biết được kẻ này là khả nghi, là không cách mạng, là cách mạng giả? Đến lạ lùng? Mà càng lạ lùng hơn là sự hồ nghi ấy lại hoàn toàn đúng? An về được ba ngày thì anh ruột của hắn là Phúc cũng về. Phúc đi theo cách mạng từ ngày mặt trận Huế vỡ, tức là đã hăm chín năm. Năm 1953, hắn ra Bắc học có viết thư báo cho tôi, chúng tôi thân nhau từ năm còn nhỏ. Năm 1968, cũng cho người nhắn tin về, không được rõ làm gì, cấp tước gì chỉ biết hắn là cách mạng thật, cách mạng chân chính. Ông anh về tất nhiên phải biết rõ hành tung cách mạng của người em. Nhưng ông em đã trốn biệt mang theo cả khẩu M.16. Khi nghe chúng tôi thuật chuyện lại, Phúc hắn vừa cười vừa bảo : “Cách mạng gì cái thằng ấy, tôi được tin nó đi theo một gánh hát bội trong Quảng Nam kia mà”. Rồi hắn hỏi lại tôi : “Làm sao thầy biết được nó là cách mạng giả?”. Tôi hết sức lúng túng: “Thấy tất cả mọi người bảo hắn là giả”. “Đã ở với cách mạng được mấy ngày mà phân biệt được thật giả?”. Lứa tuổi ba mươi xấp xuống quả là chưa ở với cách mạng một ngày nào thật. Chưa được sống một ngày nào với cách mạng, nhưng hàng giờ hàng ngày vẫn nghe nói về cách mạng và những người làm cách mạng. Ai nói? Toàn là kẻ thù của các ông nói. Đài Sài Gòn nó nói. Rồi trong sách  giáo khoa, trong bài hát, trong phim ảnh, trong báo chí, trong sách truyện đều ít nhiều có mô tả người làm cộng sản cùng chủ thuyết cộng sản. Đó là những hình ảnh khủng khiếp nhất, mất nhân tính nhất. Vậy mà khi xét đoán cách mạng, người dân vẫn dành cho các ông những hình ảnh hết sức lý tưởng. Đâu phải chỉ do các ông biết cách tuyên truyền. Ở đây, đã nhiều năm, đến một tờ truyền đơn của Việt cộng cũng không nhặt được. Không có người đi tuyên truyền, không có cả tài liệu để tuyên truyền, nhưng mọi người vẫn hiểu về các ông đúng như các ông muốn. Đó là thế nào? Đó là sức mạnh ghê gớm của cách mạng, của các ông. Có vậy thôi. Tôi cũng đã có dịp trình bày nhận định này với một vị giáo sư bạn thân của tôi nhưng ông tỏ vẻ không tin : “Nếu đúng như lời thầy nói, thì cộng sản họ phải thắng hoàn toàn từ năm 1954 hoặc từ năm 1965 kia?”. Tôi đã trả lời như sau : “Tại sao chúng ta không thể nói là : Vì họ mạnh thế nên họ mới đuổi được người Mỹ năm 1973, và sẽ đuổi được chính quyền ông Thiệu năm 1975”.

-----------------------------------------------------
(1) Tạm dịch :
Buông sợi dây câu xuống mặt sông
Một vòng sóng động tiếp muôn vòng
Đêm sâu, nước lạnh cá không cắn
Quay chiếc thuyền không, chở đầy trăng.

Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #5 vào lúc: 05 Tháng Mười Hai, 2008, 05:02:22 pm »

*
*    *

Bữa bọn tôi đến thăm nhà giáo sư Bích ở P, có một chi tiết nghĩ lại không khỏi tự cười. Chúng ta đã vào Huế được một tuần, tình hình trị an nói chung là tốt đẹp. Nhưng ai mà biết trước ở một nơi nào đó, vào một lúc nào đó có một kẻ tuyệt vọng đang muốn tự hủy hoại cùng với  những người khác. Cho nên khi được biết phải qua nhà  thờ P, mới đến nhà cụ Bích thì không khỏi có chút ít nghi ngại. Cũng chưa có chuyện gì đáng tiếc đã xảy ra để mình phải nghi ngại. Nhưng tôi vẫn cứ nghi ngại. Thì ra những chuyện bực mình từ hai chục năm về trước ở vùng Bùi Chu, vùng Phát Diệm đã để lại trong tôi một ấn tượng khá nặng nề. Nhưng đã hẹn thời không thể không đến. Đã đến không thể không qua cái địa điểm rất đáng nghi ngại kia. Tính toán như vậy rồi vẫn cứ đi. Có khi lại là chuyện vui thì sao? Nếu là chuyện vui thì cũng giúp mình gột xóa được một ấn tượng, thay đổi được một quan niệm. Mấy anh em chúng tôi đã bước vào nhà cụ Bích hoàn toàn bình an vô sự. Như ở mọi nơi. Cụ giáo sư đã gần bảy chục tuổi, là một nhân vật có uy tín trong số đồng bào theo đạo Thiên chúa ở Huế, các cha ở P. đều coi cụ như bậc huynh trưởng. Cụ sống vừa đủ cho một tuổi già cần sự thanh thản và yên tĩnh : một vườn lan, một nhà sách, dăm ba người bạn thân thỉnh thoảng tới viếng thăm. Cụ rót một lượt nước trà ướp sen, bưng mời từng người rất trân trọng, rồi nói nhỏ nhẻ :
- Các anh vào đây kể cũng là nhanh. Nhưng nghĩ cho cùng cũng chẳng phải là nhanh. Non ba chục năm đấy nhỉ?
- Dạ, phải.
- Tôi có thằng cháu ruột tên là Lân, nay nó cải tên là Việt Tiến, bộ đội ta còn đang đánh nhau ngoài cửa Thuận An, thì nó đã vào tận đây rồi, vào một mình, vào tay không, đến con dao giắt lưng cũng không có. Nó vào thẳng nhà xứ, gặp cha chánh xứ, trình : “Thưa cha, con tên là Lân, cháu ông Bích đây ạ”. Cha bảo : “Tôi có nghe nói, nhưng anh về đây có việc chi?”. “Thưa cha, con có nhiệm vụ vô giải phóng P. xin cha cho biết con phải làm cách răng chừ?”. Thật là can đảm, thật là khôn ngoan, mà lại rất thành tâm. Không phải nó là cháu tôi mà tôi khen. Khen đây là khen chung, khen các anh. Các anh lấy cả miền Nam này là nhờ vào những cái đó. Nếu một khẩu súng chọi với một khẩu súng, dẫu biết chắc là thua vẫn cứ chống chọi, kéo dài được phút nào hay phút ấy, thời các anh chưa thể vào Huế trong tháng vừa rồi. Nhưng các anh đâu chỉ có súng, mà còn có lòng người. Được lòng người là cái được bền nhất trong mọi cái được. Tôi nói vậy, các anh nghe có cho là phải không?

Chúng tôi hoàn toàn đồng tình với cách nghĩ của cụ. Cụ nói tiếp :
- Chuyện này xảy ra đã lâu. Một bữa tôi vào nhà xứ có việc tình cờ gặp sáu vị linh mục đang ngồi chơi. Toàn người quen cả. Bạn thân có, học trò có, người trong họ có, nên mình dễ sinh chớt nhả. Tôi mới hỏi đùa : “Làm cách răng mà chống được cộng sản hả các cha?”. Cha xứ phải nói chặn : “Thằng này nó nói khó chịu đó”. “Dạ tôi nói khó chịu thật, vì đã chê người ta vô thần thì mình phải sống cho có hữu thần, sống theo hình ảnh của Chúa. Bây chừ, trai du đãng, gái điếm đàng, chỉ mong cộng sản họ sớm vô để họ chấm dứt nhanh cho”. Nói vậy để các anh hiểu rằng lòng người đã về các anh ngay cả ở chốn này.
Trước khi gặp cụ Bích, tôi đã được nghe nói ít nhiều về cụ. Cụ là người rất khó tính, người ta nói thế, rất ít khi tiếp khách lạ tại nhà, muốn gặp ai thì tự đến, nói vừa đủ câu chuyện là xin cáo lui ngay. Bạn đánh cờ, bạn chăm lan và bàn chuyện thế sự trong khoảng hai, ba người. Trong mấy chục năm vẫn chỉ là hai, ba người ấy, không thêm một ai, cũng chưa bớt một ai, vì cả mấy ông lão đều còn sống. Qua nửa giờ tiếp xúc, tôi cũng nghĩ rằng nói chuyện với cụ quả là khó. Mọi cử chỉ của cụ đều dịu dàng, gần như rón rén, cái nhìn ngượng ngập, nụ cười mơ hồ, giọng nói rụt rè, chữ nghĩa cân nhắc. Nhưng cách nghĩ, cách phân tích của ông cụ lại hết sức táo bạo, hết sức trung thần, gây ấn tượng mạnh. Cái vỏ ngoài buộc mình dè dặt, cái ruột trong lại xui mình tranh cãi. Nó khó là thế. Chưa nói tới tranh cãi, chỉ cần tỏ ý tán đồng một cách thái quá, hoặc gợi chuyện rõ ràng quá, hoặc nhân đấy mà bình luận thêm hay mở ra những vấn đề mà cụ chưa muốn bày tỏ ý kiến, lập tức cụ ngồi nín lặng, mắt nhìn xuống như hết sức ngượng nghịu vì những ý kiến quá bộc trực của mình. Cũng là may mắn, trong lần trò chuyện bữa ấy về phía chúng tôi thì ít phạm “sai lầm”, còn riêng cụ giáo lại hoạt bát, tin cậy hơn bao giờ hết, theo như nhận xét của anh bạn dẫn đường.

- Tôi muốn nói với các anh một điều này, phải đã rất tin mới dám nói, vì các anh có thể chưa bao giờ nghĩ tới cũng khó mà nghĩ được tới. Hôm anh Kim, là chỗ quen biết với gia đình, lại bảo có mấy anh Giải phóng làm báo muốn gặp tôi, tôi rất khó nghĩ. Được gặp các anh là một điều may mắn chứ sao lại khó nghĩ? Ấy vậy mà khó nghĩ. Các anh là người chiến thắng, có đúng không? Còn chúng tôi tuy không cầm súng, không có một chức tước gì trong chánh quyền cũ, chỉ là một anh giáo học đã về hưu, nhưng cũng vẫn là người dân ở trong này, một “công dân” của cái thể chế này. Nay quân đội họ thua trận, chánh quyền bị hủy bỏ, chúng tôi mặc nhiên cũng có chút ít liên can. Nói cho rõ hơn, chúng tôi cũng tự xem như mình là kẻ bị đánh bại, kẻ sẽ phải làm tôi cho người chiến thắng. Nay một kẻ trong cái đám bại trận lại được người chiến thắng đến nhà, tỏ ý quý mến thì không khỏi tự thấy đã trút bỏ cái hôm xưa quá nhanh chóng, đã quên đi cái thân phận của mình quá dễ dàng. Các anh đừng nói gì vội, vì tôi biết có bao giờ các anh lại nghĩ được cái tâm lý kỳ quặc đó. Nhưng là một tâm lý có thật. Cái mặc cảm tủi nhục, tội lỗi ấy là có thật. Vì đất nước chúng ta đã bị phân chia từ hai chục năm rồi. Với chánh quyền trong này, lúc đầu còn ghét nó, còn khinh nó, rút cuộc vẫn phải ăn chung ở đụng, rồi sinh con đẻ cái? lâu dần hóa quen, hóa thân, hóa ra ruột thịt. Nó vui mình cũng được vui. Nó lo mình cũng phải lo. Nó ăn nên làm ra thì mình cũng ít nhiều dễ thở. Nếu hỏi : Có còn ghét nó không? Có còn khinh nó không? Vẫn ghét, vẫn khinh. Nhưng bảo : Hãy cầm dao mà giết nó đi, thì ít ai dám làm. Nó là đứa gian manh thật, nhưng ở với nó lâu nên đã biết cách xử sự. Còn các anh là chính nhân quân tử nhưng nào đã biết cần phải chiều chuộng ra sao? Vả lại sống với đứa gian manh có cái dễ của nó. Nó gian thì mình cũng gian. Nó chửi mình, mình chửi lại. Nó bỏ tù mình, mình mít tinh, biểu tình chống nó. Còn sống với người quân tử, xét đến cùng, thậm khó. Sống cho có trên có dưới, có kẻ này người nọ, có việc trước việc sau, có hôm nay ngày mai, có tín nghĩa, có danh dự là thậm khó. Quen ăn xổi ở thì, nay phải sống cho quy củ nên khó. Quen sống không cần có trách nhiệm với một ai, nay phải có trách nhiệm với tất cả nên khó. Xưa nay ít ai lấy gái điếm làm vợ là thế. Có sung sướng mấy vẫn cứ luyến tiếc cuộc đời con điếm. Ban ngày ăn ở với anh, nhưng đêm đến vẫn nghĩ về những người tình cũ.

Tôi mời cụ một điếu thuốc Điện Biên mang từ Hà Nội vào. Cụ cầm điếu thuốc, ngắm nghía một lúc, rồi bảo :
- Các anh có để ý những quầy bán thuốc ở đây không? Họ đã bắt đầu bán những bao thuốc của ngoài Bắc rồi. Dân ghiền họ chê : vỏ bao chưa đẹp, tàn thuốc chưa trắng, điếu cuốn không đều. Rồi còn chê nhiều, với cái tâm lý “gái hoàn lương vẫn còn nuối tiếc những kẻ tình xưa”.
Tôi mỉm cười nghĩ thầm: “Bảy chục tuổi mà còn nghĩ được những hình ảnh đến là hóm”. Chỉ nghĩ thôi chứ không dám khen. Hình như ông cụ rất e ngại sẽ bị dẫn dắt  bởi những lời khen. Cụ muốn giữ cho mình sự độc lập. hoàn toàn. Cụ nói tiếp :
- Tại sao tôi lại vui lòng mời các anh lại chơi? Mời các anh lại nhà, cho tất cả mọi người ở đây biết là tôi có mời và các anh đã có lại. Là vì, tôi còn là kẻ chịu ơn nay muốn được gặp mặt những người đã đem lại cho mình cái ơn đó. Tôi vẫn tâm niệm rằng : Không có người cộng sản thì không thể có Cách mạng tháng Tám. Chúng ta có thể xin được nền độc lập bằng sự thức thời của những chính phủ Pháp sau này, nhưng chúng ta sẽ không có Cách mạng tháng Tám, cũng không thể có Ngày Độc Lập. Không có người cộng sản chúng ta cũng sẽ không có hiệp định Ba Lê, lính Mỹ cũng sẽ không chịu rút về nước Mỹ. Mà người Mỹ còn ở đây, bằng cách này hay cách khác, thì một nửa nước sẽ bị hư hỏng mất. Trí thức sẽ hư, thầy tu cũng hư, người lao động rồi cũng hư nốt. Không ai muốn hư, nhưng tình thế buộc họ phải hư. Cha viết bài báo chửi Mỹ, nhưng con gái vẫn đi với lính Mỹ. Biết cả, nhưng đành nhắm mắt làm ngơ, coi như không biết. Đi làm cho sở công hoặc sở tư một tháng vài chục ngàn, nhưng, nói các anh tha lỗi, chỉ ngủ với lính Mỹ một đêm là đã được xấp xỉ với số tiền đó. Có tiền mới có tiện nghi. Mà tiện nghi lại quá rẻ, rẻ hơn bất cứ nước nào, có chút ít tiền dư ra là mua được. Vì chỉ cần chút ít dư ra là mua được nên ai ai cũng muốn có được chút ít thừa dư ra. Trong hoàn cảnh miền Nam này muốn có sự thừa dư thì chỉ bán mình cho tội lỗi. Người lớn bán theo cách lớn. Kẻ bé bán theo cách bé. Mỗi người đều biết cách làm cho mình hư hỏng dần đi. Chửi Mỹ vẫn chửi, cả miền Nam này đều biết chửi Mỹ. Nhưng hàng miễn thuế của nó thì tranh nhau xài như điên. Xài mãi hóa ghiền. Mà đã ghiền rồi có bỏ được nhau cũng khó. Tự mình dứt bỏ chắc là không nổi rồi. Nhưng có kẻ ruột thịt tới dứt bỏ giúp chưa hẳn đã hàm ơn. Các anh đuổi hẳn thằng Mỹ đi chúng tôi rất hoan nghênh, nhưng các anh có gì cho chúng tôi xài không, những thứ mà trong này vẫn ghiền ấy mà? Không, hả? Lạy chúa! Vậy thì chúng tôi sẽ sống ra sao? Sẽ lấy gì mà thay thế? Cho nên được làm người tự do mà không lấy làm vui, mà mặt mũi lại rầu rĩ, ủ dột hơn cả thời còn mang kiếp nô lệ. Bởi rằng những kẻ nô lệ đã chót mắc phải cái bệnh ghiền rồi.

Tôi vốn là người hay nói hay hỏi, gặp vấn đề hay lại càng muốn hỏi, muốn nói. Nay ngồi tiếp chuyện với ông lão, lưỡi phải cuốn lại, không được hỏi, không được tranh luận, đến bình luận cũng không được nói, cảm thấy bứt rứt quá. Nhưng làm sao được, mỗi người đều có cái tật của mình. Vả chăng, đến đây là để nghe người ta nói, dẫu là chưa đúng hẳn với ý mình, nào có sao, vì nếu cốt nghe những ý kiến giống hệt đâu cần tìm đến những người vốn rất khác mình. Huống chi, chỉ có thể được nghe những điều quan trọng nhất vào đúng lúc này, vào đúng cái thời điểm này. Trước đây họ không nói, nhưng họ đã nghĩ, nghĩ từ nhiều ngày và nhiều năm, nhưng chưa gặp được ai để có thể nói. Sau này có khi lại không muốn nói, vì đã thiếu đi sự kích thích mạnh mẽ của buổi đầu, của lúc đổi đời, của giây phút hừng đông.

Cụ Bích cười rất khẽ, nín lặng một lúc, rồi lại nhỏ nhẻ nói, chỉ có một mình cụ nói, còn chúng tôi vẫn đóng vai trò ngồi nghe :
- Còn bao giờ cách mạng sẽ lấy Sài Gòn? Trong tháng này? Hoặc trong tháng sau? Anh em Giải phóng cứ tiến bọn họ cứ lùi. Không còn chỗ lùi nữa là mọi sự kết thúc. Chính phủ không còn ra chính phủ, quân đội không còn ra quân đội, mạnh ai nấy chạy, giẫm đạp lên nhau mà chạy, thì vài trăm cây số có bao xa.
Tôi không thể tự ghìm nén được nữa :
- Thưa cụ, chiến sự vẫn còn rất ác liệt...
- Đánh chác gì, ngón tay để lên cò nhưng con mắt đã láo liên : chắc là ông Thiệu đã lên máy bay rút chạy rồi; chắc  ông đại tướng Viên cũng chạy rồi. Lại còn bao nhiêu mối lo : Vợ con hiện đang ở đâu? đã thoát ra khỏi vùng có chiến sự chưa? Ai còn ai mất? Rồi của cải? Rồi công ăn việc làm sau này? Kẻ thù của các anh hiện nay là như thế đó.
- Vâng, cái thế chung đã vỡ.
- Nếu có còn băn khoăn là ở cái chỗ này : Các anh sẽ giải độc chúng tôi bằng phương thuốc gì? Bởi chúng tôi là dân ghiền lâu năm nên phải được giải độc mới trở lại thành người bình thường. Các anh biết đấy, ghiền dễ bỏ khó, muốn bỏ được cơn ghiền cũng phải vật vã lắm, cũng phải đau đớn lắm. Thuốc của cách mạng dẫu đắng mấy vẫn là thuốc cứu người, nhưng chưa dễ đã nghĩ được ngay đó là thuốc cứu người. Có khi còn ngờ là thuốc giết người. Thật ra, còn có thứ thuốc nào độc hại hơn là thứ thuốc mà người Mỹ đã trích vào mạch máu trong bấy nhiêu năm. Tự hủy hoại mà vẫn ngỡ được lên cõi phúc. Nó đau đớn là thế. Tuy nhiên tôi vẫn xin với các anh một lời thỉnh cầu sau đây.
Cả mấy chúng tôi đều nói :
- Vâng, chúng tôi xin nghe...
- Chúng tôi tự xét : bệnh rất trầm trọng nhưng cơ thể lại quá suy nhược. Trị được bệnh, cứu được người, việc ấy quá phi thường, ngoài ra các anh không ai có thể làm nổi. Chỉ xin các anh bền lòng một chút, rủ nhiều lòng thương một chút. Còn phần người bệnh thời phải can đảm, phải quả quyết phải thành tâm. Một bên thương, một bên gắng, tất mọi sự sẽ mỹ mãn. Tôi chỉ cẩu nguyện sao cho được sống đến cái ngày đó, cái ngày đêm nằm không phải trở mình, mở mắt ra là cảm tạ Thượng đế đã cho mình được sinh ra, được sống trong sự đùm bọc của non sông, của đồng bào, của con cháu. Chắc là còn sống được, phải không các anh, cũng mới vừa chẵn có bảy chục thôi mà.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #6 vào lúc: 05 Tháng Mười Hai, 2008, 05:03:29 pm »

*
*    *

Tôi thấy cần thiết phải viết thêm một đoạn này cho câu chuyện của cụ giáo được trọn nghĩa.
Ở Sài Gòn tôi có quen biết một gia đình giáo sư. Bà dạy tiếng Anh, ông nghiên cứu luật, cùng trạc tuổi tôi cả, nhưng còn trẻ và đẹp lắm. Nếu vạch vòng khoanh cái gia đình ấy lại, trong phạm vi ngôi nhà riêng của họ, không dính dáng gì đến số phận một dân tộc, một đất nước thì phải tin rằng : đó là một thiên đàng thu nhỏ! Có nghề nghiệp, có tiền của, lại có cả con cái, con cái lại gái lớn, trai nhỏ nên không phải lo chuyện lính tráng, lo chuyện chiến tranh. Chiến tranh diễn ra ở trên báo chí, trên ti-vi, qua những câu chuyện được nghe lại, nghĩa là đang diễn ra ở đâu đó chứ trong cái nhà này không ai nghĩ nhiều đến chiến tranh, không ai nói nhiều đến chiến tranh. Công việc của họ cũng không dính líu gì đến người Mỹ, đến chính phủ, đến quân đội. "Chúng tôi chỉ biết có tình yêu, có bạn bè và người thân" bà chủ nhà nói với tôi thế. Mà tôi cũng tin rằng hình như là thế thật. Lại còn một cậu lái xe và một cô nấu cơm nữa. Thoạt quen, tôi cứ ngỡ cô là em gái bà giáo sư. Chính cô ta cũng cố gây cho tôi cái ấn tượng đó. Xinh đẹp và lịch sự. Quá đỗi lịch sự. Còn lịch sự hơn bà chủ nhà. Buổi sáng đi chợ, cô ta xin phép được dùng xe hơi của ông bà vì ông bà dậy muộn, có đi đâu cũng là tám, chín giờ. Xe đậu một góc phố, cô cậu dắt tay nhau đi mua hàng. Cậu xách một quai túi, cô xách một quai túi, quần ống rộng, áo thun màu, tóc bỏ dài, mắt đeo kiếng to ai dám nghĩ họ là những người đi ở. Đó là một cặp vợ chồng trẻ, một cặp uyên ương tự do, không đi làm công cho một kẻ nào hết, chỉ có biết ăn và biết chơi, ăn thì kén chọn và chơi cũng thanh lịch. Nhưng riêng tôi thì biết họ là người ở, là kẻ làm công, họ vẫn bị ông chủ bà chủ la rày, nho nhỏ thôi, nhưng không kém phần độc ác. "Tôi còn không dám dùng xe mà anh chị cứ lấy cớ phóng xe bạt mạng. Là vì các người có phải bỏ tiền túi ra mua xăng đâu tiền là của tôi mà", có lần tôi được nghe bà chủ đã đay nghiến một cách dịu dàng cặp uyên ương giả vờ nọ. Nhưng bữa ấy cô ta có ý giận. Mọi lần cô chỉ cúi đầu, nói rất đáng thương : "Dạ, em xin lỗi bà", nhưng bữa ấy cô lại nặng mặt ra, con mắt gườm gườm, rồi bỏ đi ngúng nguẩy. Bà chủ có vẻ ngượng với tôi : "Con bé này trái chứng hay sao. Rồi tôi cũng phải mời cô ta về nhà thôi. Túi tiền của bọn tôi bây giờ nuôi sao nổi hai người làm". Tôi trả lời : “Cô ấy vẫn rất trung thành với chị. Chỉ tại chị mắng cô ta trước mặt tôi. Tôi là người lạ trong cái nhà này”. Đến bữa cơm, tôi chạy xuống, nói với cô ta bằng cái giọng lịch thiệp nhất : "Xin mời quý cô lên nhà dùng bữa". Cô ta nhướn cao cặp lông mày vẽ, đưa con mất tô xanh nhìn tôi đầy vẻ biết ơn và cảm động : “Dạ, em xin mời quý ông cứ tự nhiên, em còn mắc bận chút xíu”. Tôi vốn có tính thích đùa bỡn, nên đã thuật lại sự mời mọc nọ cho ông bà chủ nghe. Ông chủ không nói gì, nhưng bà chủ bảo tôi : "Anh cũng bày vẽ, đối với người làm mà cũng phải mời". Tôi chỉ cười nhỏ, bởi tôi đã có một sự so sánh hết sức ngộ nghĩnh. Người ngoài không thể biết cô gái xinh đẹp, lịch sự nọ là người ở, cô ta là em gái của bà giáo sư. Đã là em gái, là người trong gia đình, là người có máu mủ với ông bà chủ thời không thể là người ở. Chỉ có tôi là người quen của ông bà chủ thì mới biết cô ta là người đi ở. Cũng như, vâng, sự so sánh bắt đầu từ đây cũng như ông bà giáo sư không thể nghĩ rằng mình cũng là kẻ đi ở cho một ông chủ nào đó. Xưa kia, những người đi ở may mắn đâu tự nhận mình có họ hàng với ông chủ, có chút ít ruột thịt với ông chủ, đã là ruột thịt, là người nhà thì không thể gọi là đứa ở. Ví như ông An-be Ất, ông Pôn Giáp, ông Ăng-đrê Bính, vân vân. Lũ người nô lệ sang trọng hiện nay không có ai lấy tên là ông Giôn hay ông Uy-liơm hết. Cũng không ai tự nhận là có ruột già với Mỹ cả. Toàn là những người chống đối nó, chế giễu, chửi bới nó. Là những người yêu nước! những người tự do! (Cũng giống như cô gái đáng thương nọ mỗi lần về xóm ấp thăm gia đình, nếu có ai hỏi : "ở Sài Gòn con mần ăn ra sao?", cô bé sẽ kiêu hãnh trả lời "Dạ, cháu mở tiệm may". “Dạ, cháu làm thơ ký cho một sở tư”. Ai mà không tin, ăn mặc sang trọng thế, ăn nói lịch sự thế đâu phải là người đi ở). Nhưng người Mỹ vẫn có thể trách mắng những người tự do : "Bọn tôi còn phải tiết kiệm xăng mà các người dám sài phá dữ vậy. Các người có phải bỏ tiền túi đâu mà...". Và những người tự do sẽ bẽn lẽn nhận lỗi : "Dạ... Chúng tôi có lỗi chúng tôi..." . Giả thử có một người nào đó, ví như tôi chẳng hạn, lại nói với các vị mũ cao áo dài ngồi uống uýt-ky trong những căn phòng hết sức trang nhã, và lại đang chửi Mỹ, rằng họ là lũ nô lệ của Mỹ, thì họ sẽ cười đến đứt ruột. Họ sẽ giơ những ngón tay trắng nõn, lấp lánh mặt xoàn mà giỡn chọc : "Chúng tôi là kẻ nô lệ? Còn các anh là người giải phóng cho bọn tôi?". Người giải phóng thì đi dép cao su, mặc quần đũng rộng, đôi khi bỏ cả áo ra ngoài quần, ngồi co một chân lên ghế, cười nói rất to, chẳng tế nhị, chẳng bạt thiệp một chút nào! Lại không biết tiếng nước ngoài, không biết mở một chai sâm-banh, thậm chí còn nói ngọng nữa! Những người như thế mà đi giải phóng chúng tôi? Ha! Ha! Các anh giải phóng chúng tôi mà chúng tôi lại không được biết là đã được giải phóng! Ha! Ha! Họ kinh ngạc thành thật đấy? Họ chế giễu thành thật đấy! Chứ không có ý che đậy cái sự đi ở như cô Sen hoặc cậu Bồi. Vì cái khoảng cách giữa ông bà chủ với người làm có một gian nhà, từ phòng ăn đến nhà bếp. Nhưng khoảng cách giữa ông chủ lớn với họ thì xa quá, phải qua một chính phủ, một hiến pháp, những nghị viện, với bao nhiêu ngóc ngách bày vẽ rườm ra ở quãng giữa nên họ cứ ngỡ họ là người tự do của một quốc gia tự do. Khác nhau là như thế. Nhưng ông chủ của họ thì biết họ là người ở. Bạn của ông chủ cũng biết họ là người ở. Cũng như tôi biết cô gái, cậu trai kia là những người đi ở. Nếu như tôi có nói với cô gái duyên dáng : "Thưa quý cô...", thời không phải là tôi tôn trọng thật sự. Tôi nói cho cô ấy vui, cho tôi được vui. Còn nếu cô ấy lại làm phật ý tôi, có lẽ tôi sẽ trừng mắt mà bảo : "Tôi không thích, tôi mong rằng...". Cứ thế mà suy ra. Nhưng ông bà giáo sư mà tôi có cái hân hạnh được quen biết thì chưa bao giờ họ tự nhận đã là nô lệ. Họ là người tự do, có những ý tưởng rất tự do. Có thể cả miền Nam bị làm nô lệ, nhưng riêng vợ chồng và con cái họ vẫn cứ là con người tự do. Họ hỏi tôi rất tin cậy, rất chân thành : "Các anh bảo rằng đem lại tự do cho chúng tôi, xin hoan nghênh, nhưng các anh có gì cho chúng tôi xài không? Không, hả? Vậy chúng tôi sẽ phải sống ra sao? Sẽ phải sống bằng cách nào bây giờ?". Thì đó lại là câu hỏi của người nô lệ! Đến bao giờ họ mới biết xấu hổ vì câu hỏi ấy? Đến bao giờ?
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #7 vào lúc: 05 Tháng Mười Hai, 2008, 05:05:36 pm »

LỜI DẪN TRƯỚC KHI VÀO CHUYỆN CHÍNH

Cho đến lúc này tôi vẫn ngờ rằng mấy nhân vật mà tôi đã gặp đã trò chuyện, chỉ trước đó một tháng chưa hẳn đã nghĩ được rằng số phận của họ rồi sẽ hoàn toàn thay đổi trong năm nay, trong mùa xuân 1975 này. Vẫn biết cái chính quyền mà họ đã ăn ở hàng chục năm khó có thể bền vững, nhưng cách mạng đã dễ gì thay thế được ngay. Còn quân đội của nó, còn cả một hệ thống cai trị ít nhiều đã có kinh nghiệm, còn các đảng phái và những lực lượng tình nguyện chống lại cộng sản đến cùng. Sau hết còn có thằng Mỹ với khả năng can thiệp ồ ạt và nhanh chóng. Họ tin rằng cái miền Nam này mãi mãi sẽ là một mảnh đất đầy rẫy những biến động nhầy nhụa, nhơ nhớp, hôm nay Mỹ đưa ra thằng này, ngày mai Mỹ đưa ra thằng khác, rồi chiến tranh, rồi lại tạm có hòa bình. Cứ thế, cứ thế, uốn lượn giữa vô vàn tai họa mà sống, trú nấp sau những đau khổ của kẻ khác mà sống, chừng nào tai họa chưa rớt trúng vào đầu mình. Vả lại sống trong thời loạn cũng có cái hay của nó. Không có luật lệ, không có trái phải, không có gian ngay, không có cả sạch và bẩn. Miễn là có tiền và chút ít sự khôn ngoan. Có tiền mới khôn được và cái khôn sẽ làm đồng tiền sinh sôi nảy nở. Còn như tai họa rồi cũng có ngày gia đình mình được nó lựa chọn. Chẳng lẽ sống giữa mọi tai họa mà lẩn tránh được mãi mãi tai họa. Với những tai họa bất thần thì sự khôn ngoan cộng với tiền bạc và thế lực cũng chẳng thể tính xiết. Đành là nhờ ở sự an bài của các đấng tối cao. Vẫn tự kết án, vẫn nhớ mong anh Giải phóng trên xanh, vẫn tin rằng cách mạng là rất mạnh, vẫn linh cảm cái hiện tại là phù du. Nhưng làm sao được, đành phải sống theo cái hiện tại, chôn chặt mọi nỗi ân hận, nhớ thương, bực dọc mà sống, và chỉ còn mong sao kiếp người không đến nỗi quá nhọc nhằn. Đó là cách nghĩ và cách sống của một số người tại miền Nam trước tháng Ba năm 1975.

Vậy mà chỉ nửa tháng sau, tất cả đã thay đổi. Mọi nếp nghĩ thay đổi, mọi sự tính toán thay đổi, mọi niềm tin thay đổi ông tư sản nhập khẩu bằng lòng tự kết án mình một lần cuối. Nhà buôn đồ sứ đã có lý do để khẳng định sự ăn năn vì đã biết tin, biết hy vọng những điều tốt đẹp. Thầy tu cả quyết rằng cách mạng vốn rất mạnh, và chưa hề thay đổi nhận định đó. Còn vị cựu giáo sư với nhiều mặc cảm tế nhị đã tính toán một cách rành rọt những khó khăn của một cuộc đổi đời. Chắc chắn là chưa phải bằng sự thuyết phục của lý lẽ mà họ dám thay đổi một cách nghĩ và một cách sống. Họ đã chẳng từ chối trước mọi sự tranh cãi về niềm tin đó ư? Họ cũng không có được sự vô tư và lòng dũng cảm để tự cải tạo theo một mục đích chính nghĩa. Vẫn biết là chính nghĩa, nhưng được cái chính nghĩa mà phải mất đi tất cả những cái đã có thì khó quá, phiêu lưu quá, và... cũng dại dột quá. Nào ai biết được đến khi nào cái chính nghĩa mới thắng? Vả lại, nếu thắng thì mình sẽ được dự phần gì trong đó? Tính đi nghĩ lại, thấy cái sẽ được vừa mơ hồ, vừa ít ỏi, khôn ngoan nhất vẫn là nên sống như cũ nhưng lại hơn người vì mình cũng đã có nghĩ tới cái chính nghĩa, cái công bằng, cái lẽ phải.

Vào mùa xuân này những con người khôn ngoan kia đều đã tự nguyện nhập vào hàng ngũ cách mạng, tung hô cách mạng theo cái cách của họ, vui vẻ chịu đựng mọi sự thử thách đang tới và còn sẽ tới. Nhà hùng biện nào, nhà văn, nhà thơ nào đã có được cái bản lĩnh thuyết phục cao siêu nhường ấy? Quả là vẫn có, luôn luôn có những con. người có sức thuyết phục phi thường. Họ là cảm hứng của văn thơ, là căn cứ để kiểm nghiệm nhiều tiêu chuẩn. Nhưng họ lại không có thì giờ để nghĩ đến những cảnh ngộ xa lạ, những tâm sự kỳ quặc. Khi tôi được nói chuyện với những chiến sĩ đã thắp sáng ngọn đuốc chân lý trong nhiều năm ở miền Nam này, rằng ngọn lửa của các anh đã từng chiếu rọi vào nhiều cảnh ngộ và số phận, thì các anh hết sức ngạc nhiên : "Lại thế nữa! Họ là những ai? Họ sống như thế nào? Họ lại nghĩ như thế ư?" Rồi các anh nhìn tôi cười ầm lên : "Nhà văn là hay bịa lắm, làm gì có những chuyện kỳ quặc đến thế!". Làm sao các anh có thể biết được! Vì các anh đâu có nghĩ cái nguyên nhân và cái kết quả lại có thể quanh co đến thế, xa lạ nhau đến thế, khó lường đoán đến thế.

*
*    *

Một vị giáo sư dạy Việt văn ở Sài Gòn, một con người đã  mất lòng tin đến tuyệt đối, nói với tôi : “Ngột ngạt lắm rồi anh ơi! Vẫn mong mỏi ngọn lửa thần diệu một ngày nào đó sẽ bùng cháy lên, thiêu hủy tất cả, làm tung vỡ tất cả. Chưa biết ngọn lửa đó sẽ cứu mình hay sẽ thiêu mình, miễn là có ngày nó bùng cháy lên, cháy thật to lên”.
Tôi muốn nói thêm : “Phải có ánh sáng của lửa mới nhìn rõ được mặt mình và nhìn rõ cả mặt nhau. Phải có sức nóng của lửa, con người mới chắt gạn được phần trong sạch để tự nhào nặn lại theo một hình ảnh hoàn hoàn mới”.

Ngọn lửa thần diệu của ao ước, của mộng tưởng, của văn chương bao giờ cũng đẹp, và ấm áp, và bay bổng, và đắm say, nếu như được một lần trong đời tắm mình trong ngọn lửa tái sinh đó. Nó đẹp, nó bay bổng, nó đắm say, nó gây thèm muốn vì thực ra nó cũng chẳng đem lại sự thay đổi nào trong thực tế ngoài nỗi ước mong. Trong đám cháy tưởng tượng đó không có ai phải kêu la thật sự, phải đau đớn thật sự, phải tuyệt vọng hoàn toàn để dần dần từng chút một sống lại, hi vọng lại. Vì nó không thiêu cháy một cái gì nên cũng chẳng tạo lập được một cái gì. Nó bùng cháy hàng đêm và tắt ngấm hàng ngày, vừa là có, vừa là không, ai cũng nói với nó nhưng rút cuộc hình thù nó ra sao thì khó có ai đoán chắc đã biết rõ.
Nhưng ngọn lửa của tháng Ba và tháng Tư thì hoàn  toàn khác, có lẽ khác rất xa với sự tưởng tượng và ao ước của nhiều người hằng mong nó sẽ bùng cháy, như vị giáo sư dạy Việt văn của tôi chẳng hạn. Ngay cả những người đêm ngày cầu nguyện nó xuất hiện cũng cảm thấy rát mặt vì sức nóng ghê gớm của nó. Bởi vì cái ngọn lửa tưởng tượng là ngọn lửa của ảo tưởng, của thoát ly, ngọn lửa trong cảnh mộng của những kẻ đã tuyệt vọng hoặc muốn tự lừa dối mình. Còn ngọn lửa sau là ngọn lửa của Cách Mạng, của Lịch Sử, ngọn lửa của căm hờn chất chứa, của sự trừng phạt đích đáng để được tái sinh thật sự.
Cái ngọn lửa được vẽ trên những trái bóng cao su màu đỏ do các nhà trí thức tiểu tư sản bơm thổi để tự huyễn hoặc, ngọn lửa siêu hình của các học thuyết cải tạo xã hội bằng tấm lòng nhân đạo, bằng sự hiểu biết lẫn nhau, hoặc còn bằng sự thức tỉnh của lương tri đã tạo ra biết bao nhiêu nhà cách mạng sân khấu, những chính khách phòng trà, những chính đảng câu lạc bộ, những báo chí, những hội thảo, những biểu tình và mít tinh, để rút lại, rút lại, mọi trật tự xã hội vẫn cứ nguyên si như cũ. Nhưng tất cả lại xem như đã hết sức hài lòng. Nhà chính khách sau khi trải qua một cơn bão táp chính trị sẽ mệt mỏi một cách kiêu hãnh, cảm thấy an tâm hơn nhiều trong sự tự chiều chuộng mình. Các thành viên thì khen ngợi, ca tụng lẫn nhau về lòng dũng cảm, về đức hy sinh, về tài năng vận động và mưu trí tranh đấu làm cho khói lửa mù mịt lên một lúc, lửa tắt, khói tan, nhìn lại mọi sự vẫn y nguyên như cũ. Lại chợt nhớ tới câu chuyện cụ giáo Bích về một nhà trí thức chuyên viết bài báo chửi Mỹ nhưng con gái vẫn đi với lính Mỹ. Khi viết bài chửi Mỹ ông đã căm giận quân xâm lược thật sự vì chúng đã đe dọa sự sống còn của một dân tộc và hạnh phúc riêng của một gia đình. Mắt ông sáng rực như bốc lửa, như bật máu, ngòi bút lia trên trang giấy sắc nhọn như giáo như gươm, mỗi chữ là một nhát đâm, mỗi câu là một lời nguyền. Một bài báo chửi Mỹ được viết từ ngọn lửa phẫn nộ. Nhưng khi bài báo đã viết xong, đã gửi đi, thì những nhu cầu hàng ngày, những thói quen tai hại của con người trong mỗi ngày lại buộc tác giả phải nghĩ khác đi một chút. Một khi đã nghĩ khác đi một chút thì cơn giận cứ tiêu tan dần dần. Nếu bỏ ra ngoài cái chuyện danh dự của đất nước, hạnh phúc của gia đình thì không có gì đáng phải phàn nàn nhiều. Sở dĩ không phải phàn nàn nhiều vì đã tự nguyện chịu mất đi cái hạnh phúc và danh dự vừa là chung mà cũng vừa là riêng. Thì ra, dầu có thiếu những cái vốn là rất thiêng liêng, con người ta vẫn cứ sống được (!). Lúc nào giận lên, tức lên lại viết bài chửi. Tôi vẫn chửi, tôi vẫn đau đớn, tôi vẫn mong chờ ngọn lửa của Lịch Sử một ngày nào đó sẽ thiêu đốt tất cả, thay đổi tất cả. Có điều cái ngọn lửa mà ông hằng mong đợi lại ào ào chụp tới vào lúc ông ít mong đợi nhất. Thêm nữa, nó dữ dội quá, nó mãnh liệt quá. Thêm nữa, sức phá hủy của nó triệt để quá, nhanh chóng quá. Người Mỹ, kẻ tử thù bấy lâu đã biến mất, bọn con buôn núp sau cái vỏ chính khách, tướng lĩnh, nhân vật nọ kia cũng đã biến mất, nhưng ngay cả cái nếp sống yên tĩnh, cái trật tự quen thuộc, những thói quen nho nhỏ cũng mất theo luôn. Vẫn mừng vui nhưng đã chen lẫn sự buồn phiền. Rượu ngon ít dần đi, thịt bò đắt hơn, bột ngọt đắt hơn, bình ga không mua được, một trăm thứ tiện nghi lặt vặt cứ khan hiếm mãi và đắt đến vô lý. Còn cô con gái thì mặt mày sưng sỉa, nhớ người tình đã đi xa có ít, mà nhớ đồng tiền của nó thì nhiều. Chửi nó vẫn chửi, nhưng không còn nó lấy gì mà tiêu xài đây? Chao ôi! Cách mạng chẳng lẽ lại thế này sao? Cách mạng mà không giống được chút nào với sự mường tượng trước đây của ông. Ông muốn một thứ cách mạng khác kia. Cái thứ cách mạng êm dịu, hiền hòa, chỉ làm mất đi những cái ông không thích, còn vẫn giữ nguyên những gì ông vốn thích. Nhưng, cách mạng chính là như thế đó. Cách mạng thật sự không chiều chuộng theo ý riêng một ai cả, kể cả người lao động. Bởi rằng người lao động cũng muốn níu giữ một số quan niệm, một số tiêu chuẩn, một số thói quen nào đó. Không một ai không phải tự thay đổi trong ngọn lửa của cách mạng, kể cả những người làm cách mạng. Cách mạng là sự cần thiết của một đất nước, là hành động sống chết của một dân tộc đâu phải việc làm tùy tiện của một số người. Con người vừa tổ chức ra nó lại vừa phải phục tùng nó; lãnh đạo nó, đồng thời phải bước cho lẹ để theo kịp nó; chỉ huy nó mà cũng luôn luôn học hỏi lại nó.

Sở dĩ tôi phải trình bày lẩn thẩn như trên vì rằng cũng không ít người muốn cách mạng tới với điều kiện chỉ làm mất đi những gì họ không thích. Họ thích các cuộc cách mạng trong diễn văn, trong cương lĩnh chính trị các đảng phái, trong âm mưu, trong các cuộc tranh luận nảy lửa ở nghị trường, trên báo chí, nghĩa là một cuộc cách mạng rất đẹp nhưng còn ở thì tương lai, ở sự hứa hẹn, ở nỗi mong chờ, ở hy vọng, ở tin tưởng, chứ không phải là cuộc cách mạng thật sự đang diễn ra trong cả nước. Cái cuộc cách mạng thật sự ấy họ gọi là của cộng sản, là công cuộc riêng của Việt cộng, là mưu đồ của miền Bắc và vân vân. Cho nên khi người làm cách mạng thật sự và người làm cách mạng trong ước mơ gặp nhau không khỏi có nhiều ít ngỡ ngàng. Chúng ta chưa bao giờ biết có họ, có nghe nói, nhưng chưa được biết một cách rành rọt, vả lại còn nhiều việc quá, vâng, đúng vậy, chúng ta làm một cuộc cách mạng thật sự nhưng lại ít nói hơn ai hết về cách mạng. Ta chỉ thấy sự cần thiết, những nhiệm vụ cụ thể, cái mục tiêu phải nhắm tới. Cũng không có gì phải bàn cãi, phải phân vân, tất cả đã rõ ràng : Sống hay là chết? Tự do hay nô lệ! Chúng ta làm cách mạng bằng máu, bằng mồ hôi, bằng những nỗ lực lớn nhất của sức lực và tài trí. Cách mạng đối với chúng ta có nghĩa là hy sinh. Cách mạng đối với những người ta chưa được quen biết có nghĩa là một sự đều được vừa lòng. Những ai vừa lòng khi phải sống trong rừng, trong hang đá, trong hầm cả chục năm, ăn cháo, ăn măng, ăn lá cây cả chục năm; xa vợ con, xa tin tức cả chục năm; tạm gác những dự định riêng, những mơ ước riêng, những thích thú riêng cả chục năm. Chúng ta tự buộc phải bằng lòng với cảnh ngộ vì lẽ rất đơn giản: muốn có cái lớn phải hy sinh cái nhỏ, muốn có cả một đất nước phải biết hy sinh cái riêng tư. Hy sinh không đòi được đền bù.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #8 vào lúc: 05 Tháng Mười Hai, 2008, 05:07:16 pm »

*
*    *

Bây giờ, tôi xin thuật chuyện về những con người đã quyết định số phận của nhiều nhân vật mà tôi được quen biết trong tháng Ba và tháng Tư ở miền Nam. Có điều chắc chắn là họ chưa từng quen biết nhau, chưa có cơ hội nào để giáp mặt nhau, xa lạ và khác biệt nhau hầu như hoàn toàn. Ấy vậy mà cách sống, cách nghĩ cùng những lý lẽ của người này lại thay đổi đến triệt để vận mệnh của người kia. Tôi xin thuật lại về những người làm cách mạng, những công việc của họ, cách tính toán của họ, niềm vui và nỗi lo của họ, cũng hoàn toàn khác xa với những “nhà cách mạng” mà nhiều bạn đọc ở miền Nam có quen biết hoặc nghe nói. Bởi vì những nhà cách mạng mà tôi được gặp và sẽ kể chuyện về họ đây không biết tranh cãi một cách bóng bảy và hùng biện, lại không có âm mưu tinh xảo mà cũng chẳng có những hoạt động khúc khuỷu ở hậu trường. Câu chuyện sẽ thiếu đi sự hấp dẫn bởi không có những tính cách độc đáo, những tính toán oái oăm, những quyết định kỳ dị cùng vô vàn tình tiết căng thẳng của những mưu mô giành giật, cắn xé lẫn nhau. Đây là những con người rất giống với chúng ta, có mọi đức tính như chúng ta, như mọi người, như một con người bình thường... như một người cách mạng theo nghĩa chính xác nhất của nó. Vì rằng mọi cuộc cách mạng đều được thực hiện bởi những con người như thế, mọi sự bí ẩn của cách mạng, thật ra, vốn cũng chỉ là như thế, mọi thành quả ghê gớm của nó, cũng chỉ được bắt đầu là như thế, như mỗi chúng ta đều có thể hình dung nổi. Bảo rằng tầm thường ư? Hoàn toàn không phải? Vì kết quả thu được đâu có tầm thường. Hãy chú ý tới cái kết quả, cái có ích nhất, cái sẽ đóng góp vào lịch sử, cái quyết định sự sống còn của một dân tộc, một đất nước. Hãy chú ý tới cái bình thường, những con người và sự việc tưởng đâu như rất bình thường. Vì rằng những biến cố trọng đại nhất đều được bắt đầu từ những cái bình thường, đến nỗi không ai chú ý đến nó, rất dễ dàng quên nó, có khi đến chính người trong cuộc cũng nghĩ là bình thường, là quá quen thuộc, là chẳng có gì đáng phải lưu tâm.

Vì lẽ gì Lịch Sử lại lựa chọn Tây Nguyên làm cửa mở để bước hẳn vào tương lai. Có rất nhiều nguyên do về chính trị và quân sự, nhưng riêng về phía người viết văn thì tự nhủ lòng : Có lẽ đây là sự đền bù của Lịch Sử. Ai gian truân nhiều thì người đó được lãnh phần trách nhiệm cao nhất. Dẫu muốn chưa dễ đã được, vì sự công bằng ở đây luôn luôn là tuyệt đối.

Nhưng khi bắt tay vào chuẩn bị cho một sự kiện phi thường không một ai ở cái chiến trường nổi tiếng ấy nghĩ được rằng mình đang tiến sâu vào trung tâm then máy của Lịch Sử, mà mỗi hành động dù là nhỏ nhặt đều có sức mạnh thúc đẩy cực kỳ mau lẹ cái nhịp đi chung. Xưa kia chậm bao nhiêu khi này sẽ là nhanh bấy nhiêu. Xưa kia đường đi một ngày phải lặn lội cả năm, ngày nay đường đi cả chục năm sẽ được thu gọn trong vòng có một ngày. Xưa kia là cái bình thường, nay vẫn công việc ấy, vẫn con người ấy nhưng đã bước sang cái lĩnh vực của phi thường. Thời gian, sự việc, con người, thậm chí đến tầm xa của đường đạn, khoảng dài của bước đi, tốc độ của ý nghĩ vào lúc này, vào cái thời điểm này đều phải đo bằng những kích thước khác. Cái kích thước của Khởi Nghĩa, của Cách Mạng, của Bão Tố, của sự Phi Thường.
Trình bày trước thế để bạn đọc khỏi thất vọng, khỏi băn khoăn khi muốn được biết ngay những bí mật của các mưu chước lạ lùng trong sự chuẩn bị vào chiến dịch Xuân 1975. Chắc chắn là ở Bộ Tư Lệnh Tối Cao đã có những tính toán hết sức xa rộng, hết sức chi ly về tình thế của cả nước trong năm 1975, những diễn biến chủ yếu khi loạt súng đầu tiên đã nổ, nhưng từ đó cục diện sẽ biến chuyển theo tốc độ nào, theo hình dạng nào thì chưa thể một lúc đã hình dung ngay thật cặn kẽ được. Chính sự xen kẽ, chen lấn của nhiều khả năng trong cùng một thời điểm mà tài trí cùng lòng dũng cảm của cấp lãnh đạo càng được tỏ rõ, càng thêm chói lọi trong những quyết định có ý nghĩa lịch sử, đó là nói ở phía trên, phía các cơ quan lãnh đạo chiến lược, phụ trách toàn bộ cuộc kháng chiến chống Mỹ của chúng ta. Còn ở phía dưới, những tổ chức đảm nhiệm chiến dịch và chiến thuật, lại càng khó lường hết cái kết quả sau cùng của những việc đang làm. Vào lúc này họ đã là những người của lịch sử, những người tạo ra lịch sử, những người đã góp phần quan trọng nhất để quyết đinh số phận của dân tộc và đất nước. Nhưng là nói vào lúc này, khi những việc lớn đã diễn ra rồi, khi tương lai của chúng ta đã được định đoạt rồi. Còn vào lúc ấy, cái lúc mà cuộc chiến đấu còn có thể kéo dài, cách biến hóa của nó còn có thể phức tạp, không một ai trong đội quân đông đảo nghĩ được rằng, mình đang bước những bước trịnh trọng nhất vào Vĩnh Viễn, vào Bất Tử. Rằng cái chiến trường gian nan nhất, thầm lặng nhất trong ít ngày nữa sẽ là bậc bước đầu tiên lên đài Chiến Thắng. Rằng những tên sông tên suối, tên núi tên non, khó đọc và khó nhớ rồi đây sẽ được loan truyền trong cả nước, sẽ được nhắc đi nhắc lại bởi nhiều thế hệ. Rõ ràng không một ai nghĩ đến những chuyện đó cả, những chuyện của một tương lai xa, của mai hậu. Vào trận đánh chỉ có đủ thì giờ nghĩ cho cái hôm nay và một tương lai gần. Còn mai sau? Sẽ có lớp người kế tiếp đảm nhiệm cho mai sau. Miễn là cái đích không bao giờ thay đổi, không được thay đổi.





Chương III

SỰ KIỆN TRỌNG ĐẠI ĐÃ ĐƯỢC BẮT ĐẦU NHƯ THẾ NÀO

Vào khoảng tháng Chín của năm 1974, những chiến sĩ của chiến trường Tây Nguyên đã trực tiếp bắt tay vào những công việc chuẩn bị cho một tương lai gần, cho cái đích trước mắt. Nói cho rõ hơn là chuẩn bị cho một trận đánh lớn có thể xảy ra mà cũng có thể không xảy ra vào mùa xuân năm tới. Nếu không xảy ra thì lại phải làm lại, cũng vẫn những công việc ấy nhưng là ở một hướng khác. Hành quân, đào hầm, lấy gạo, làm hết sức chuẩn bị cho một trận đánh, rồi lại có lệnh rút, lại hành quân, lại đào hầm, lại lấy gạo, lại làm lại từ đầu những việc đã làm, đó là công việc quen thuộc của người cầm súng.

Mời các bạn hãy giở bản đồ vùng cao nguyên miền Trung và hãy soi tìm một chấm đen ở phía tây-nam, đó, Gia Nghĩa đó, tỉnh ly của tỉnh Quảng Đức. Nhìn trên bản đồ mà cũng cảm thấy xa xôi, heo hút và hiểm trở. Nhưng cái chấm đen ấy lại là mục tiêu của mọi hoạt động : phải làm đường tới, nhiều đường, đường chính và đường phụ; phải tải gạo tới; phải tải súng và đạn và xăng tới; phải đưa những đơn vị có nhiệm vụ tác chiến tới. Viết thì dễ, nhưng làm đâu có dễ như viết, như nói. Phải có những phân đội đi trước, và những người đi trước bao giờ cũng là công binh, là hậu cần, là trinh sát và tham mưu. Hễ nói tới công binh trong lòng lại bồi hồi những thương nhớ, những kính phục nhiều đơn vị công binh đã từng đi với nhau một đoạn đường, ăn ở với nhau một ít ngày và được tận mắt nhìn một số việc. Đơn vị bạn chưa đánh thì mình đã đến rồi, đến trước cả năm, anh em rút, mình vẫn còn ở lại. Mùa nổ súng tất nhiên là rất vất vả, nhưng sang mùa mưa, thời gian im tiếng súng vẫn cứ vất vả vì lại phải bắt tay chuẩn bị cho những trận đánh vào mùa nổ súng năm sau. Lính công binh là lính mở đường. Đã là người mở đường bao giờ cũng phải gánh chịu mọi nỗi gian nan trong sự lặng lẽ hoàn toàn, với tinh thần hy sinh hoàn toàn. Ví như những việc đã làm của trung đoàn 7 công binh trong năm 1973, năm 1974, tới đầu năm 1975 tại khu vực đông- bắc Công Tum. Không phải việc thường mà là việc hết sức hệ trọng. Mở một con đường dài trên trăm cây số chạy dọc theo dãy Cu-prê-mông, độ cao từ tám trăm đến một nghìn mét so với mặt biển, tạo một thế đứng lâu dài cho mọi hoạt động quân sự của ta ở phía đông đường 14. Tháng Bảy năm 1973, trung đoàn 7 nhận lệnh mở đường 220, con đường xuyên về phía đông. Nhận lệnh mở đường vào đầu mùa mưa! Một nửa quân số làm đường còn một nửa gùi gạo, gùi đạn, gùi mìn và bộc phá. Cái số nửa được làm đường lại phải dành ra một phần người làm nhiệm vụ bảo vệ con đường. Đào khoét ầm ầm đêm ngày ngay trên chóp đỉnh thị xã Công Tum, kẻ địch ngồi im sao được. Từng trung đoàn lính bảo an và biệt động cùng với pháo và bom thay phiên nhau phá đường, bắn người, cuối cùng là phá máy. Mà cũng chỉ có mỗi cái máy húc lấy được của địch từ trận Đắc Tô, Tân Cảnh năm 1972. Tháng Hai năm 1974, đường đã mở được đến cây số 36. Tháng Tư năm 1974, mở tiếp đến cây số 41, vượt sông Đắc-bla. Đường đã qua được sông là thằng địch bị khốn khó rồi, con đường 19 bị uy hiếp trực tiếp rồi. Con đường mới tới cây số 47, chỉ trong có mười đêm, cơ quan hậu cần của quân khu đã chuyển cho trung đoàn 95A (hoạt động ở đông đường 14) hai nghìn tấn đạn, gạo đảm bảo chiến đấu tới hết năm 1974. Mùa xuân năm 1975, trung đoàn anh hùng này cùng với sư đoàn 3 của quân khu 5 đã khóa chặt con đường chiến lược 19, buộc địch phải rút chạy bằng một con đường khác, đường 7, một nấm mồ kéo dài suốt mấy chục cây số. Không có con đường xuyên đông được bắt đầu từ mùa mưa năm 1973, sẽ không có cách gì khóa chặn được đường 19, địch ở Công Tum và Plây Cu có thể rút chạy khỏi Tây Nguyên bằng nhiều ngả, có thể chúng không bị tiêu diệt một cách thê thảm như đã xảy ra, có thể các tỉnh dọc ven biển còn cố thủ được ít ngày, có thể cuộc tiến quân của chúng ta sẽ bị chậm đi, có thể mọi diễn biến sẽ không hoàn toàn giống như chúng ta đã được biết...

Tháng giêng năm 1975, một trăm lẻ tám cây số đường 220 đã làm xong. Nhưng từ tháng Mười năm 1974 nhiều đơn vị công binh đã được lệnh lần lượt lên đường làm nhiệm vụ mới. Lại thồ trên lưng mười lăm ngày gạo, một tháng muối và thực phẩm khô, rồi cuốc xẻng, rồi bộc phá, rồi súng đạn, rồi quần áo, võng bạt và lên đường. Từ đông- bắc Công Tum xuyên rừng, vượt núi, qua Gia Lai, qua Đắc Lắc xuống Quảng Đức, tỉnh phía nam của cao nguyên trung phần. Là bao nhiêu cây số? Là ba trăm, là năm trăm, hay còn dài hơn nữa? Cán bộ đến trước chụm đầu trên mảnh bản đồ đã sờn rách, vạch một đường thẳng từ A đến B, từ B đến C, rồi từ A lớn sang a nhỏ, từ B lớn sang b nhỏ, nét chì đỏ nằm đè lên rừng, lên núi, lên suối lên sông. Thiên nhiên uốn éo, lưỡng lự, lập lờ nhưng con đường cho pháo đi, cho xe đi, cho tăng đi là phải thẳng, càng thẳng được bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Bộ đội đến sau nhằm vào cái vệt chì đã vạch, xoa bàn tay dày cộm những chai sạn, những sẹo sứt lên cán cuốc, mím môi lại, bổ những nhát cuốc đầu tiên. Cứ thế, cứ thế, ngày qua đêm, đêm sang ngày, phá rừng, đục núi, bạt thác, đóng phà, xếp ngầm, một cây số, mười cây số... những đoạn đường đất đỏ mọc dài mãi ra nhằm theo cái mục tiêu đã được xác định  mà vươn tới, mà bao tròn.

Tháng Mười hành quân. Tháng Một bổ xuống những  nhát cuốc đầu tiên lên vùng đất mới. Ngày 6 tháng Chạp mạng đường bao quanh chi khu Đức Lập gồm ba mươi trục dọc và bốn trục ngang đã hoàn thành, chiều dài cộng lại là một trăm sáu mươi tư cây số. Mà địch không thể biết, không được cho chúng biết. Ngày 7 tháng Chạp họ lại lên đường đi sâu xuống nữa, xuống phía Gia Nghĩa, cùng với những đơn vị đã tới trước làm tiếp một mạng đường khác bọc quanh cái tỉnh ly đó. Cũng chỉ được trong tháng Chạp thôi. Sang tháng Giêng năm 1975, toàn bộ quân số của trung đoàn 7 công binh đã phải trở lại những khu vực tập kết quanh thị xã Buôn Mê Thuột. Họ còn một tháng Giêng, một tháng Hai, sang tháng Ba mặt trận đã phát lệnh nổ súng tấn công rồi. Hai tháng trời, sáu chục ngày, kể cả đêm nữa cho là một trăm hai chục ngày. Nhưng tính chi li hơn nữa thì vẫn là sáu chục ngày vì còn dành ra một phần quân số làm nhiệm vụ bảo đảm. Sáu chục ngày, làm vài mạng đường ở những khu vực cách xa nhau! Mỗi mạng đường lại gồm nhiều trục dọc và trục ngang, cộng lại cũng phải trên trăm cây số. Mà phải giữ được bí mật, giữ được cái thế bất ngờ cho trận đánh mở đầu. Bao nhiêu là lo lắng, là khó nhọc, là cơ mưu để loạt súng đầu tiên được nổ thật giòn giã, thật hào hứng, thật là dẹp. Chuyện ấy sẽ được thuật ở phần sau, khi kế hoạch hành động của cả mặt trận đã được chọn lựa, được quyết định, được tiến hành với nhịp điệu khẩn cấp nhất.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #9 vào lúc: 06 Tháng Mười Hai, 2008, 08:45:43 am »

*
*    *

Tôi xin thuật sang một số công việc của ngành hậu cần trong những ngày mà các phương án tác chiến mới chỉ đang hình thành, đang được chọn lựa. ý định của cấp trên tuy đã rõ, nhưng những mục tiêu cụ thể thì còn có thể thay đổi. Dầu sẽ còn thay đổi nhưng vẫn phải chuẩn bị, chuẩn bị trong một kế hoạch còn có thể phải thay đổi. Mà cũng có thể là không thay đổi. Đánh địch tức là có ta và có địch. Ta thì như vậy, nhưng còn địch? Hôm nay nó là thế này, nhưng tuần sau, tháng sau có thể nó sẽ là thế khác. Cái gian nan của sự chuẩn bị cho một chiến trường còn là như vậy.

Bạn đọc thì muốn được biết ngay những trận đánh vang dội trên chiến trường Tây Nguyên trong tháng Ba, mà người thuật chuyện hình như cố ý nói lảng sang những chuyện khác, những chuyện của sự chuẩn bị, của sự bắt đầu. Quả tình tôi chỉ muốn thuật lại có sự chuẩn bị, sự chuẩn bị của nhiều cơ quan, của nhiều cán bộ có trách nhiệm trước giờ nổ súng. Và tôi sẽ không kể gì nhiều về những trận đánh mà bạn đọc đang mong chờ. Theo tôi, sự chuẩn bị, những công việc của giai đoạn chuẩn bị là quan trọng nhất, là đáng kể nhất. Nếu nói rằng ba mươi năm đánh giặc ở miền Nam chỉ là một giai đoạn chuẩn bị dài dằng dặc cho đại thắng mùa Xuân 1975, cũng không sợ là ngoa, là sai. Chính thực là như thế. Viết về một công trình tức là viết về sự chuẩn bị cho một công trình. Ngay như một đời người, cái phần hứng thú nhất, có nhiều kinh nghiệm bổ ích nhất vẫn là những năm dài chuẩn bị.

Tôi được làm quen với anh Khoát, Cục phó Cục hậu cần của Quân đoàn 3 (trước là chiến trường Tây Nguyên) trong một buổi tối ngồi nói chuyện với anh Vũ Lăng, Tư Lệnh trưởng quân đoàn. Anh Khoát là một mẫu người rất tiêu biểu cho “ngành nghề” mà anh đã phục vụ ngay từ những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Còn là một mẫu người dễ "gợi cảm", dễ "kích thích" sức tưởng tượng của người cầm bút nữa. Anh biết nói những chuyện cần phải nói, biết gọi đích danh cái tên việc cần phải gọi, nói về người khác đã hay, mà nói về chính mình cũng rất thật thà, thật thà và táo bạo. Thật thà có nghĩa là dám nói về mình, về sự cống hiến của mình, về tài cán của mình, và rất hãnh diện có được một năng lực xoay chuyển tình thế trong nhiều trường hợp rất phức tạp. Đó là lòng tự tin. Nói chuyện với người đầy lòng tự tin chính mình cũng cảm thấy khỏe khoắn hơn, tự tin ở mình hơn. Những người đầy lòng tự tin là những người đáng yêu nhất, vì ở họ có sức cổ vũ có sức thuyết phục, có cái khả năng cải tạo tình hình. Anh Khoát thuộc loại người như thế. Khi anh Lăng giới thiệu anh với chúng tôi bằng những lời lẽ tin cẩn, bạn bè, anh Khoát liền đưa mắt nhìn cả mấy người, cười rất hóm hỉnh : “Bây giờ Tư lệnh nói năng dịu dàng thế, chứ suốt mấy tháng đánh nhau ông ấy cứ nhè cái đầu tôi mà dọa chém thôi. Cũng là may, chiến tranh kết thúc rồi, đưa tay sờ đầu thấy vẫn còn gân nguyên trên cổ”. Hôm sau tôi gặp anh Khoát để bàn một kế hoạch làm việc, anh tỏ ra hết sức băn khoăn : “Làm thì nhiều, nhiều việc lắm, nhưng gọi là có một câu chuyện cho thật hay thì hình như không có". Tôi cười : "Thì anh kể cho tôi nghe những chuyện mà anh cho là chưa hay vậy”. Anh vẫn lúng túng : "Tính toán số liệu, rồi lại tính toán, rồi hò hét, rồi quát gắt, chỉ những lo là lo đến lúc hết lo là lập tức nằm lăn ra ngủ. Nghiệp dĩ đã là thế thì thuật kể ra làm sao?". Anh kể ướm thử một việc, rồi một việc nữa, rồi lại việc khác nữa Anh cứ kể, còn tôi thì gập người trên bàn ghi ghi chép chép, hầu như không phải hỏi lại một lần nào. Một buổi, rồi một buổi nữa, thêm cả ngày chủ nhật mà vẫn chưa hết những chuyện cần phải nói.

"Tại sao các đồng chí trong Bộ tư lệnh rất thích làm việc với chúng tôi? Các ông ấy thảo ra các phương án tác chiến nhưng phương án hay đến mấy mà gạo đạn thiếu, xe xăng thiếu cũng coi như bỏ cuộc. Nên phải bàn, nên phải đêm ngày gọi bọn tôi lên mà tính toán, mà chọn lựa. Có điều không một vị nào nỡ gắt với bọn này cả. Vào họp vui vẻ, họp ra cũng rất vui vẻ. Có bí quyết đấy! Muốn làm cấp trên vui vẻ thật không khó, chỉ cần rán sức mà gánh lấy cái phần việc của mình, đừng dựa dẫm, đừng ỷ lại, cứ chạy trước, trên muốn có năm, mình phải tạo điều kiện cho trên có thể muốn thành bảy, thành tám, thành mười. Ví như, tư lệnh trưởng hỏi : "Đạn Đ.74 trên Bộ cho ta được bao nhiêu trong chiến dịch này?". Tôi đáp : "Hai ngàn viên". Ông ấy thở dài sườn sượt : "Nếu được ba ngàn thì hay quá". Thế là mình lập tức phải trả lời : “Thêm một ngàn viên thì được, tôi đã có cách rồi”. Mắt tư lệnh trưởng sáng lên,  nhưng còn hoài nghi : "Lấy đâu ra thế? Có "lương khô" hả?". "Tất nhiên là có?". “À, cái thằng này ranh thật, hồi tao ở Cục tác chiến cũng chưa nghĩ ra cái mẹo giữ đạn của bọn mày”. Tôi phải thú thật : "Đã làm cái thằng hậu cần, không có đứa nào không dự trữ đạn riêng. Báo cáo lên trên thì đưa đạn vào số tròn, cái số lẻ ra phải giữ lại làm lương khô chứ. Mỗi chốc cần đến lại ngửa tay xin trên sao? Mà vận chuyển đi về đâu có dễ". "À, ra thế! ra thế! Thôi, đạn nào thì cũng đổ xuống đầu thằng địch cả". Người chỉ huy nào cũng ao ước không phải bận tâm nhiều về đạn gạo, xe xăng trong quá trình chiến đấu. Đánh vài trận, cấp dưới đã kêu thiếu đạn, đánh thêm ít ngày nữa lại thiếu cả gạo, mà khả năng phát triển lại đang thuận thì có thể uất lên mà chết được. Phải hiểu cái nỗi khổ tâm ấy, cái uất ức ấy mà lo lắng, mà chạy vạy, mà xục xạo đêm ngày. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, tư lệnh quân đoàn cho gọi tôi lên hỏi : "Đạn lựu pháo 155 và 105 còn bao nhiêu?". Tôi  đáp : "Hiện có hai vạn hai ngàn". Tư lệnh trưởng nói rất gọn : "Tôi cần ba vạn viên, có không?". Trời đất! Lấy đâu ra tám ngàn viên đạn? Còn chưa kịp trình bày cái sự khó tìm  của số đạn còn thiếu, thì tư lệnh trưởng đã hạ lệnh : "Tôi hẹn cho anh trước ngày nổ súng phải trao tận tay tôi ba  vạn viên đạn. Không có, anh mất đầu, hiểu chưa?". Bữa ấy đã là ngày 17 tháng Tư. Ngày N có thể là mai? là kia? Là tuần sau? Có điều chắc chắn bộ đội đã nằm sẵn ở các khu vực tập kết rồi, các cụm pháo chiến dịch đã bày biện đâu đấy cả rồi, chỉ còn chờ lệnh tấn công trên toàn mặt trận. Ngay trong đêm, chúng tôi làm một kế hoạch gồm hai điểm : thứ nhất, cho người đi sục sạo các căn cứ dịch vừa bị ta tiêu diệt hoặc bỏ chạy trên tuyến đường 13, thu đạn 155 và 105. Tin chắc là còn nhiều, có bị hủy hoại cũng vẫn còn. Thứ hai, lệnh cho hậu cứ của quân đoàn ở Buôn Mê Thuột tập trung toàn bộ xe cộ có trong tay, mượn cả xe của các cơ quan, xe tư nhân, thiếu lái xe thì lấy tù binh biết lái bổ sung, chạy một mạch đến những địa điểm có đạn, bốc lên xe đưa thẳng về các khu vực đã được chỉ định. Ba ngày sau, tức là tối ngày 20 tháng Tư tôi đã có thể đến báo cáo với đồng chí tư lệnh trưởng rằng, số đạn đồng chí cần hiện đã có đủ. Anh Lăng hỏi tôi : "Đúng ba vạn viên chứ?". Tôi trả lời : "Thưa đồng chí, đúng bốn vạn viên".

"Đầu tháng Mười năm 1974 đã có hàng ngàn quân nhận lệnh đi chuẩn bị chiến trường. Từ chỗ họ đi tới chỗ họ đến cách nhau bốn, năm trăm cây số. Lương ăn mang theo nhiều lắm cũng chỉ được hai chục ngày, đến nơi lấy gì mà ăn? Chân gạo ở một đầu, chiến trường phải chuẩn bị ở một đầu. Trời vẫn còn mưa, đường đang nhão ướt, sông suối nước đầy, mặc anh! Anh muốn làm sao thì làm! Nếu bộ đội đói ăn thì anh mất đầu. Cũng đã có trù liệu từ  trước, nhưng tính chưa xiết nên anh em vẫn bị đói. Bộ đội được lệnh hành quân bọn tôi đã gửi điện vào Miền, hỏi vay một trăm tấn gạo. Các anh trong ấy đồng ý ngay. Chính tôi cũng không ngờ chỗ vướng víu nhất lại được giải quyết chóng vánh đến thế. Ngoài này cứ việc chuẩn bị thật chu đáo dứt cơn mưa là xe đạn, xe gạo sẽ lập tức lên đường. Vậy là yên tâm chứ gì. Chỉ vì quá yên tâm nên mới sinh ra lắm chuyện rắc rối. Vừa vặn được một tháng thì Bộ tư lệnh cho gọi sang, hỏi : "Gạo ăn ở trong ấy ra sao?". Tôi trả lời rất đàng hoàng: “Đã chuẩn bị đẩy đủ”. "Tại sao họ lại kêu đói, đói đến mức không thể làm đường được". Chính tôi cũng ngạc nhiên : "Đói thế nào, vừa ăn vừa đổ cũng không thể hết một trăm tấn gạo?". "Đói đấy, đói một tuần nay rồi, các anh kiểm tra lại xem". Về hỏi han lại, quả nhiên bộ đội bị đói thật. Kho gạo của Miền ở Bu-prăng, phía nam Ngã ba biên giới. Từ chỗ bộ đội đứng trụ tới chỗ lấy gạo vừa vặn một trăm cây số, tức thị là sáu ngày đường cả đi lẫn về. Có gạo mà đói vì đường vận chuyển xa quá. Lại mưa, lại lũ, qua suối, qua sông. Đi chuyển gạo mà gặp lũ lớn thì gạo mang chỉ vừa đủ để ăn rải dọc đường. Cái tai hại của việc tính toán từ xa là thế. Phải đi thôi! Phải đến tận nơi mà quyết định tại chỗ mọi việc. Tôi đưa theo một tiểu đoàn xe ba cầu, có cả xe tời, chở gạo luôn vào tạo một chân gạo cho bộ đội. Nơi xuất phát là Ngã ba 90, bắc Công Tum, qua sông Pa-kô, qua đường 19, qua các con sông Ya-đrăng, Ya-lốp, Ya-súp, Sê-rê-pốc, ấy là chưa kể cả trăm con suối, tính trên bản đồ cũng đã là bốn trăm cây số. Đến binh trạm 5, tức Đức Cơ, nước sông Ya-đrăng  lên cao quá. Mùa khô xắn quần lội qua được. Gặp cơn lũ mặt sông trắng đục, mênh mông, nhìn cũng đủ khiếp. Làm sao đây? Chờ nước rút thì không chờ được. Không chờ được vậy sang sông bằng cách nào? Công binh báo rằng sâu tới bảy, tám mét nước. Nhìn nước chảy xem chừng cũng sâu. Tôi hỏi cậu tiểu đoàn phó phụ trách đoàn xe : “Liệu vượt qua được không?”. Cậu ta ngần ngừ một lúc rồi trả lời : "Công binh họ đã nói thế thì mình nên ở lại một ngày mai". Dầu sao cũng không thể quyết định đi hay ở chỉ bằng con mắt nhìn hay bằng lời khuyên của người khác. Tôi chọn hai cậu bơi thật giỏi cho qua trước, đèn pin chiếu theo vừa soi sáng mặt sông, vừa định hướng cho  người bơi. Cả trăm người đứng ở bờ sông hồi hộp theo dõi,  người đồng tình thì ít, kẻ phản đối có nhiều. Vì họ đã mệt. rồi, lại không muốn lao đầu vào một cuộc mạo hiểm xét ra cũng chưa thật là cần thiết. Nhanh chậm gì mươi tiếng đồng hồ nằm lại, mà an toàn hơn, đỡ phiền phức hơn. Nhưng kìa, cả hai người chỉ mới lội chứ chưa phải bơi, cứ lội mãi, lội mãi, nước chấm đến ngang mông rồi lại rút dần xuống, cho tới sang bờ bên kia. Tôi quay lại hỏi cậu tiểu đoàn phó : "Thế nào?". Cậu ta mỉm cười, đáp khẽ : "Vâng, sang được". Cho một xe qua trước, nước chỉ vừa ngập hết bánh, nhưng sang được, cũng nhẹ nhõm, cũng dễ dàng. Từ cái đứng nhìn, dầu là đã đứng ở bờ sông mà nhìn, đến cái cởi quần lội qua khác nhau là thế.

"Tôi lại xin kể anh nghe câu chuyện làm kho của chúng tôi trong chiến dịch vừa rồi. Có ba vùng kho cơ bản : Kho xăng dầu, kho quân nhu, quân giới và kho quân y. Mỗi cụm kho phải chứa được thường xuyên từ năm ngàn đến một vạn tấn hàng. Mỗi đêm ra vào hàng trăm xe, mà không được chờ nhau, xe dệ đít vào, đổ hàng xuống là ra được luôn Rồi làm những cụm kho đó ở đâu? Làm kho đang còn mùa mưa, nhưng rồi đây sang hẳn mùa khô, sông suối sẽ cạn, lá cây sẽ rụng, người thiếu nước, kho lộ thiên chẳng lẽ lại di chuyển một lần nữa. Địa điểm tốt nhất là ven sông Đắc-đam, nhưng quanh đó đã có lực lượng của Bộ rồi. Làm nơi khác thì nước đâu? Đường vận chuyển đâu? Từ đó đến hướng đánh chính có xa không? Chiến trường Tây Nguyên đã được cấp trên đặc biệt chú ý trong năm 1975, điều ấy là chắc. Vì hàng của Bộ giao xuống nhiều hơn cả mọi năm, khoảng ba vạn tấn hàng. Nhưng sẽ đánh ở hướng bắc hay hướng nam. Ở đông hay ở tây? Có khu vực tác chiến chủ yếu, có khu vực tác chiến quan trọng, rồi hướng phát triển, hướng phối hợp, hướng nghi binh, hướng nào hậu cần cũng phải vươn tay tới. Mà xe có hạn, xăng dầu có hạn. Kho đặt không khéo, vận chuyển rối mù, tình hình phát triển ngoài dự kiến là rồi lại được nghe : Chém đầu! Chém đầu! Sở dĩ chúng tôi phải lo lắng nhiều khâu làm kho, khâu vận chuyển vì bấy giờ là đánh lớn, đánh hợp đồng nhiều binh chủng, cùng một thời gian đánh địch ở nhiều điểm, nhiều hướng. Có trận đánh phải kéo dài, có trận đánh chỉ được diễn ra trong vài tiếng, đánh thật nhanh nhưng uy lực phải thật mạnh. Nhà văn các anh được viết một câu cho khoái, cho hay, thì bọn này phải nằm bò ra trên các con tính cả tuần. Xin giới thiệu với anh vài con số, để anh khỏi nghĩ là chúng tôi cũng mắc phải cái tật thích nói quá đi công việc của mình. Chỉ tính cái số đạn phải dùng trong các trận đánh là như sau: Đánh Buôn Mê Thuột : 330 tấn; Đánh Đức Lập : 109 tấn; đánh Thuần Mẫn : 25 tấn; đánh truy kích trên đường 7 : 38 tấn; đánh cắt giao thông trên hai con đường 19 và 21 : 58 tấn. Trong ba chục ngày chiến đấu từ ngày 4 tháng Ba đến ngày 3 tháng Tư mỗi ngày tiêu đi khoảng 23 tấn đạn. Ai bảo chúng ta không phải đánh, vì địch nó chạy ào ào, còn ai mà đánh? Không đánh mà phải chi dùng cả ngàn tấn đạn chẳng lẽ bọn hậu cần chúng tôi chia nhau nuốt chửng trừ cơm.

"Một ngàn thứ việc phải chuẩn bị cho một chiến dịch mà việc nào cũng phải tính đến chi ly. Chẳng hạn cách thức làm nhà kho. Có thể anh đã tính được mọi nhẽ nhưng lại quên đi hoặc không chú ý làm đến đường vào của xe, cái cách xe sẽ đổ hàng xuống và số phút bốc dỡ của mỗi xe là rồi anh sẽ chết. Vì cách tổ chức mà thiếu chính xác, lập tức xe sẽ bị ùn lại, hàng dỡ xuống không kịp, chuyển vào kho càng không kịp. Chỉ cần xe bị ùn một đêm là kế hoạch vận chuyển của một đợt bị vỡ. Đùng một cái, Bộ tư lệnh yêu cầu vài chục xe chở bộ đội, thì anh chỉ còn có giựt tóc kêu trời! Mà là do anh thôi, do anh tính toán không xiết, do anh dám coi thường những chi tiết vụn vặt, do anh có thói quen bàn mưu lược từ xa. Cho nên bọn tôi mới phải chia nhau xuống tận các đội làm kho, bày cách và đôn đốc làm đường xương cá, tức là nhà kho phải vuông góc với đường vào của xe. Lại phải nghiên cứu phần việc của các bộ phận thông tin, công binh, vận tải, cốt sao xe đến đúng giờ, đúng đường, nháy đèn đỏ chỉ một lần là dệ hẳn đít vào cửa kho, đổ hàng xuống, rồi lập tức phóng đi luôn. Trong vòng bốn, năm tiếng đồng hồ của mỗi đêm, hàng trăm xe phải trả đủ hàng và thoát nhanh ra khu vực được bảo vệ. Chậm trễ một chút, tức thị phải nằm lại, phải thổi nấu, phải tắm giặt, phơi phóng thế là vùng kho sẽ lộ, thế là biệt kích sẽ đến, pháo nó sẽ đến, bom nó sẽ đến, mọi chuyện không may đều có thể đến. Lại nới một chuyện nhỏ nhặt khác, chỉ vì không ai chú ý mà cả trăm xe chở hàng bị lạc trong rừng vừa đúng một ngày một đêm. Đó là cái biển chỉ lối rẽ vào các cụm kho. Cắm biển lúc còn sáng trời, cái biển bằng cái nong ai nhìn cũng thấy. Nhưng họ quên mất rằng đêm đến xe đi bằng đèn gầm, phàm vật gì cao trên bảy mươi phân là không thể nhìn thấy. Cắm biển là chuyện thật nhỏ, có thể giao cho bất cứ ai. Nhưng cả trăm xe bị mất tích một ngày một đêm lại là chuyện đau đầu cho cả Bộ tư lệnh.

“Nói thế, để khoe với anh rằng sự chuẩn bị về hậu cần trong trận đánh Buôn Mê Thuột đã đến mức chuẩn xác gần như hoàn toàn, có thể hài lòng hoàn toàn. Ấy vậy mà vẫn còn một chi tiết... suýt chết. Vẫn là một việc nhỏ nhặt, tuy không quên, nhưng đã chót lười nhác một chút, muốn ỷ lại vào cấp dưới một chút mà suýt nữa bị chém đầu. Lần này không phải do ông Lăng đòi chém, mà Chính ủy mặt trận đòi chém....”.
Logged
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM