Chú lixeta,
1- Trước hết, xin quay lại vấn đề viện trợ sau HĐ Pa- ri. Quê ăn tất nói như vậy xem ra không được "chuẩn" cho lắm. Mình không thần thánh hóa bác Văn nhưng mình nghĩ những gì ông viết là sự thật. Ngoài ra, nếu điểm lại tình hình lúc đó chúng ta thấy vấn đề đó hoàn toàn hợp lý:
Dạ, cháu hiểu ý chú ạ. Tuy nhiên có một thực tế là việc thu thập và công bố thông tin của ta từ trước đến nay luôn có những bất cập mà không ai không biết, từ việc "tránh nhạy cảm", đến việc công bố các con số, chi tiết khá sơ sài, không có giải thích đi kèm, gây ra tình trạng hỗn loạn về số liệu.
Cháu cứ từ vụ ông Tùng ông Thệ ông Tín ở Dinh cháu rút kinh nghiệm là rất nhiều thứ "luận ra thì hợp lý" nhưng cuối cùng thì chưa chắc.
Tạm thời cháu thấy nếu có nhiều nguồn thông tin trái ngược nhau thì ta cũng nên phân tích đối chứng, tìm hiểu các lý do tại sao lại có sự chênh lệch, chứ không nên vì "nguồn A xem ra có lý" mà sổ toẹt ngay các nguồn khác.
- Về phía TQ: Sau cuộc gặp Ních- xơn- MTĐ- VN coi như đã bị bán đứng. TQ không hề muốn ta chiến thắng. Đằng sau bản thông cáo chung công khai là những cam kết khác mà chúng ta chưa được biết. Và từ đó trở đi TQ hầu như không viện trợ VKTB cho VN nữa.
- Về Liên xô: Thời gian đó LX và Mỹ đang đàm phán về cắt giảm VKHN và có những bước đi để cải thiện quan hệ. Tuy nhiên, tronbg một cuộc gặp Ních- xơn đã từng phát biểu: "Tôi không thể chạm cốc với Brê- giơ- nép khi mà những chiếc xe tăng T54 do LX chế tại lại đang nhằm vào những đồng minh của tôi ở Nam VN". Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu của Mỹ- lượng viện trợ VKTB của LX cũng hầu như không còn.
(Cái này quê chịu khó tìm trên guc sẽ thấy thêm TL).
Dạ những thứ này cháu cũng có một thời gian tìm hiểu rồi ạ. Những nhận định trên đều có vẻ thiên nhiều về định tính mà ít có định lượng. Cái bản tổng kết hồi trước đăng trên QĐND, bây giờ còn
ở đây, là tổng kết đề tài cấp quốc gia của VLSQS thì phải, tuy còn nhiều thiếu sót, nhưng nếu nhìn vào những con số tổng kết
- Giai đoạn 1969-1972: tổng số 1.000.796 tấn,
- Giai đoạn 1973-1975: Tổng số 724.512 tấn,
thì có thể thấy khối lượng viện trợ giai đoạn 1973-1975 không hề giảm.
Cháu không nghĩ là tác giả bản tổng kết này lấy số liệu từ nguồn nước ngoài kiểu như SIPRI mà
triumf đã đưa.
2- Về số liệu: Theo mình số liệu của TL đưa ra hợp lý hơn vì đó là trích từ cuốn Lịch sử BCTTG, tr 124. Còn số liệu của triumph thì chắc không có cơ sở. Ngay chủng loại mình đã thấy không đúng rồi: T55 chỉ vào VN từ năm 1979.
Dạ cơ sở của bọn SIPRI thì chắc chỉ có thể gọi là "nghe hơi nồi chõ" thôi ạ.
Tuy nhiên nhiều cái bọn nó đưa cũng đúng. Có thể bọn nó nghe được vụ T-55 cam kết vào lúc nào đó trong năm 1973-1975 nhưng mãi đến 1979 mới giao hàng chẳng hạn.
Tương tự như vậy, cụ Giáp có thể nắm tình hình là năm sau 1973 LX không cam kết cho ta xe pháo gì nữa, nhưng những cam kết từ, chẳng hạn 1970-1972 thì 1973-1974 vẫn giao hàng đúng tiến độ. Có thể như thế được không ạ?
Vì vậy, chỉ nên dựa vào số liệu của cuốn Lịch sử BCTTG.
Thực ra, nếu tính toán chi ly thì số liệu do ta ước tính cũng không chênh lệch lắm so với số liệu của LSBCTTG. Sở dĩ con số quê đưa ra quá chênh lệch là vì:
- Con số trong cuốn LSBCTTG là 845 xe các loại- nghĩa là ngoài xe chiến đấu (xe tăng và xe thiết giáp) còn có các loại xe khác nữa. Cụ thể là các loại xe bảo đảm, vận tải như: xe dắt, xe bắc cầu, xe phà, xe cao xạ tự hành, xe công trình, xe ô tô v.v... Còn con số chúng ta tính toán lại chỉ tính số lượng xe chiến đấu.
Mình lấy ví dụ- Biên chế dT171 đi B2 hồi tháng 2.1971 là: trang bị 33 xe tăng (hồi ấy áp dụng biên chế đại đội 11 xe gồm 3bx3xe +xe ct+ xe ctv= 11, d= 3cx11=33 xe); 1c CXTH ZCY57: 4 xe; xe dắt BTC4: 01 xe; 4 xe công trình, 10 ô tô vận tải. Như vậy, tổng cộng là 52 xe các loại. Đây là biên chế chuẩn của 1 dT đi độc lập để vào các chiến trường xa. Sau này hầu như đều áp dụng như vậy, chỉ có xao xạ tự hành thì càng ngày càng ít, thậm chí không có nữa.
Về biên chế trung đoàn TTG thì ngoài 3 dTTG còn 6- 7 đại đội trực thuộc nữa, trong đó có nhiều đơn vị có khá nhiều xe như cCB, cVT, cTS... Hồi năm 72 c QY trung đoàn 202 còn có 2 xe phẫu đặt trên BTR50PK đấy. Vì vậy, mỗi trung đoàn phải có khoảng 120 xe các loại- trong dó xe chiến đấu khoảng gần 100.
Nếu áp các con số này vào số đầu đơn vị mình cung cấp thì số liệu sẽ không chênh lệch nhiều lắm đâu.
Nhưng có lẽ theo mình ta cũng không nên sa vào cái vụ số lượng cụ thể này quá nhiều, các quê nhể
Vâng, phải nhờ các chú các bác là người trong cuộc như chú thì mới biết được những gì nằm sau con số "cả một cái" kia, vì vậy cháu muốn khẳng định những bổ túc chi tiết của chú là rất quí giá, rất khó tìm được ở chỗ khác, giúp cho thế hệ sau như chúng cháu vỡ ra nhiều điều. Tuy nhiên cháu cũng bảo lưu ý kiến rằng cách công bố số liệu kiểu cụt lủn của ta, kiểu "845 xe các loại" hình như nhằm mục đích "công bố mà không công bố" nhiều hơn là để làm sáng tỏ lịch sử.
Ngoài ra, chiếu theo tỷ lệ xe chiến đấu/tổng số xe của chú (33/52 hoặc 100/120), thì con số 845 xe các loại sẽ cho từ 538 đến 704 xe chiến đấu, so với con số 380 (cộng cả 20 chiếc ở Lào nữa là 400) theo như cháu hiểu các con số lúc trước của chú, thì vẫn là chênh lệch khá cao ạ.
Còn yếu tố nào phải xét đến nữa không ạ?