Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 18 Tháng Tư, 2024, 03:14:49 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Hồi ký Winfred Burchett  (Đọc 23100 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
ngao5
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 756


« Trả lời #30 vào lúc: 25 Tháng Mười Một, 2008, 07:05:55 am »

14. Bắc Kinh và chuyến đi thăm của Nixon
Sau khi có mặt ngày 10 tháng 11 năm 1971 để hoan nghênh Kiều Quán Hoa khi ông ta bước qua ngưỡng cửa của Liên hợp quốc để trình thư uỷ nhiệm lên Tổng thư ký Uthant, và khi ông ta dẫn đầu đoàn đại biểu Trung Quốc ngồi vào chỗ ngồi hợp pháp của mình với sự vỗ tay hoan nghênh huyên náo, tôi lại lên đi Bắc Kinh. Ở đó tôi có một cuộc hẹn với Thái tử Norodom Sihanouk, Quốc trưởng bị hạ bệ Campuchia, nguyên quốc vương, và lúc này là Chủ tịch sáng lập của FUNK (Mặt trận Thống nhất dân tộc Campuchia). Chúng tôi hợp tác với nhau để viết một cuốn sách trong đó Sihanouk sẽ mô tả các sự kiện dẫn đến việc lật đổ ông ta, tính chất và những triển vọng của cuộc đấu tranh chống lại, mà vào lúc tôi đến Bắc Kinh đang được tiến hành hết sức ráo riết...
Sihanouk rất nóng ruột trình bày trường hợp của mình cho thế giới để tranh thủ sự ủng hộ của dư luận chung. Chúng tôi nhanh chóng thoả thuận với nhau về nội đung cuốn sách và chia nó ra thành những chương và những vấn đề mà mỗi bên phải viết và định ra cách làm việc thông thường thích hợp với nhiệm vụ của ông ta là Quốc trưởng lưu vong. Nhiệm vụ của ông ta rất nhiều. Các khách cấp cao của các nước thừa nhận Chính phủ kháng chiến đều thực hiện những cuộc đi thăm lễ tân. Mao Trạch Đông đã ra chỉ thị phải cung cấp cho Sihanouk tất cả các phương tiện để hoạt động như là một Quốc trưởng thực sự. Ngôi nhà của Bộ ngoại giao Trung Quốc trước kia (và trước đó là Sứ quán Pháp) đã được chính thức tuyên bố là khu vực của Campuchia. Vì lý do thuận tiện, tôi được bố trí ở tại nhà riêng của Thủ tưởng Chính phủ đoàn kết dân tộc Vương quốc Campuchia (GNLUNK), chính khách đàn anh Xăm-đéc Pen-nút đã xuống miền Nam ấm hơn của Trung Quốc.
Chúng tôi nhanh chóng định xong cách làm việc hàng ngày. Vào trước bữa ăn trưa, tôi sẽ đánh máy những câu trả lời của Sihanouk đối với những câu hỏi liên quan đến các nội dung của chương sách sẽ được viết thảo đêm đó. Chúng tôi nói bằng tiếng Pháp, nhưng sáng sớm sau, ông ta sẽ đọc bản thảo bằng tiếng Anh, trả lại tôi vào buổi tối với những bình luận của ông ta viết rõ ràng mực đỏ ở ngoài lề. Trên cơ sở đó, tôi phải hoàn thành bản thảo cuối cùng và lại chuyển lại cho ông ta thông qua. Đồng thời tôi tôi làm việc cho chương khác. Một khi tư liệu đã đầy đủ, mỗi ngày chúng tôi viết xong một chương...
Trong 3 tuân lễ tôi hoàn toàn hợp nhất vào gia đình Sihanouk. Ăn trưa và ăn tối với họ, máy ghi âm luôn luôn trên bàn ăn; gia đình ông ta gồm có người vợ xinh đẹp và thông minh, bà Monic và mẹ bà ta; một đứa con trai và con gái của một trong những người vợ trước của Sihanouk; bà cô cưng quý của ông ta giám sát việc ăn uống và người thư ký riêng. Ông ta làm việc với một năng lực phi thường và để giữ cho thành viên của Chính phủ và gia đình của ông ta mạnh khoẻ, ông ta thường tổ chức những trận đấu cầu lông ban đêm, thường là 3 người chơi một bên để nhiều người được chơi nhất. Thỉnh thoảng tôi cũng để ra một số thời gian viết ban đêm để theo dõi các cuộc đấu cầu lông giữa bộ này với bộ khác, giữa vụ này với vụ khác.
Sihanouk luôn luôn đứng giữa, nhảy lên nhảy xuống như một quả bóng cao-su, phía ông ta tham gia luôn luôn thắng.
Mao Trạch Đông nhấn mạnh rằng thái độ mến khách phải được mở rộng cho bất kỳ người Campuchia nảo muốn đến Bắc Kinh để cư trú lạm thời, vì vậy cộng đồng này đã luôn luôn được mở rộng. Họ thay mặt cho những quan điểm chính trị khác nhau của sinh viên, trí thức và những người Campuchia thuộc giai cấp trung gian và giai cấp trên, ngẫu nhiên có mặt ở ngoài nước khi Sihanouk bị phế truất, kể cả một số lớn nhà ngoại giao tập hợp dưới ngọn cờ của FUNK - GRUNK. Những người tìm cách thoát khỏi Campuchia và đến Trung Quốc đều được mời ăn cơm với gia đình Sihanouk để kể những kinh nghiệm của họ và tình hình trong nước.
Monic hoạt động như là thư ký báo chí của Sihanouk. Ở Phnompenh, người ta coi bà ta đúng là một nhân tố trang trí cho Thái tử, đứng bên cạnh ông ta tại các cuộc chiêu đãi chính thức, nói lên một vài câu công thức để hoan nghênh người đến hoặc tiễn biệt người đi. Bây giờ bà ta làm việc nhiều giờ, đọc hàng tá những báo hàng ngày từ New York, London, Paris và Hong Kong, cắt những bài nói đến Campuchia và những nhân tố của tình hình quốc tế có liên quan đến tình hình Campuchia. Khi tôi chúc mừng bà ta về sự đánh giá rất nghề nghiệp mà bà ta đã tỏ ra trong việc biên soạn những báo cáo. Bà ta trả lời:
“Trước khi chồng tôi bị phế truất tôi chưa hề bao giờ quan tâm đến chính trị. Trên máy bay từ Moscow đến Bắc Kinh khi ông ta báo cho tôi điều đã xảy ra, tôi cố thuyết phục ông ta rằng sau chuyển thăm Bắc Kinh chúng tôi nên trở về Pháp và sống yên tĩnh ở đó. Nhưng khi ông ta nói chúng ta phải đấu tranh chống lại, tôi đã đồng ý và quyết tâm ủng hộ ông ta. Ông ta yêu cầu tôi đọc báo cho ông ta và cắt những đoạn có ích cần chú ý. Từ đó tôi đã chú ý một cách say sưa đến tất cả các mặt của các công việc quốc tế”.
Còn đối với cuốn sách, mục đích đã được nêu trong lời giới thiệu của tôi, rõ ràng đã được viết với sự đồng ý của Sihanouk. Lời giới thiệu đó nêu lên những đường hướng chính. Dưới đây là một đoạn trích:
Quyển sách mô tả một cách cổ điển toàn bộ tính chất của những phương tiện, mà cường quốc kinh tế quân sự mạnh nhất thế giới đã sử dụng để buộc một nước nhỏ từ bỏ chính sách mà nước đó đã lựa chọn và để gạt nhà kiền trúc và người thi hành chính sách đó.
Tại cuộc gặp đầu tiên của Sihanouk với anh em Đa-lét, họ đã đưa ra một yêu cầu đáng ngại rằng ông ta phải bỏ những ý nghĩ trung lập của mình. Khi những sức ép ngoại giao, chính trị và kinh tế đi đôi với những sức ép quân sự đã thất bại thì tiếp theo là một thời gian của những âm mưu và những kế hoạch ám sát. Khi các mưu đồ đó cũng thất bại cuối cùng đến lượt một cuộc đảo chính quản sự và can thiệp vũ trang của Mỹ và chư hầu Sải Gòn nhằm duy trì bọn chiếm đoạt lại chính quyền bằng việc cung cấp đầy đủ tài chính cho bọn phản bội chóp bu. Bằng cuộc đảo chính của Lon Nol tháng 3 năm 1970, Mỹ đã thành công trong việc xuất cảng sang Đông Dương những biện pháp đã được thử thách ở châu Mỹ la-tinh... Công trình hiện nay được tác giả coi là một vũ khí trong cuộc đấu tranh giành lại nền độc lập của chính nước tác giả và là một lời cảnh tỉnh cho các nước khác đã bị xem như là những nạn nhân tương lai.
Trong lời tựa ngắn do Sihanouk viết, đã đưa đoạn sau đây vào. Đó là đoạn làm cho tôi rất thích thú:
“Tôi đã chọn để kể câu chuyện này cho một nhóm các nhà văn đã luôn luôn bảy tỏ cảm tình, sự hiểu biết và từ tôn trọng đối với danh dự quốc gia của chúng tôi, đối với những nguyện vọng của nhân dân tôi, và đối với phần của riêng tôi trong việc bảo vệ những nguyện vọng đó”.
Khoảng hơn ba tuần lễ sau khi đến Bắc Kinh, tôi trở lại Paris để đánh máy sạch một bản viết tay và gửi bản thảo thứ nhất cho đại diện văn nghệ. Rồi tôi trở lại Bắc Kinh; lần này với người làm phim tài liệu vô tuyên truyền hình Pháp nổi tiếng Rô-giơ Píc. Chúng tôi là một trong các đoàn của CBS được chỉ định theo dõi cuộc đi thăm Trung Quốc của Nixon, bắt đầu từ ngày 21-2-1972.
Nếu Mao Trạch Đông đã quyết định thực hiện quay ngược lại 180 độ như bây giờ, mà nhiều quan sát và chuyên gia tin như vậy, thì ông ta phải ffịnh liều lượng cho việc đó để ít nhất là trên bề mặt, đối với những gì còn lại của đảng cộng sản Trung Quốc sau “Cách mạng văn hoá” và đối với quần chúng Trung Quốc. Chỉ trong một thời gian rất ngắn trước chuyến đi thăm của Nixon, chủ nghĩa đế quốc Mỹ còn là kẻ thù lớn nhất của Trung Quốc. Do đó, cuộc đi thăm phải được đạo diễn khéo như thế nào đó để lộ ra rằng toàn bộ quần chúng, kể đến cằ những người dân thường ngoài đường phố đã hoàn toàn quay ngoắt theo đường lối mới đó.
Không có người khác nào ngay từ phút đầu đã từng được đón tiếp một cách lạnh lùng hơn. Chu Ân Lai có đến sân bay để hoan nghênh Tổng thống Nixon, phu nhân Pát nhưng không có diễn văn, không có văn công đón tiếp, không có quần chủng đứng ở hai bên đường từ sân bay. Một quần chúng có kỷ luật đã xoay lưng lại phía Nixon. Đường phố Bắc Kinh chưa hề bao giờ vắng bóng người trừ đêm khuya, nhưng lúc đó là ban ngày. Vì các đường phố mà đoàn xe đi qua thường là những đường hoạt động nhất, cho nên rõ ràng các Uỷ ban đường phố đã làm một công việc đặc biệt. Và công chúng cũng đã góp phần trong đó. Nhưng phần chính thức thì rất khác...
Một vài giờ sau khi Nixon đến, Chu Ân Lai đã đưa ông ta đến gặp Mao tại nhà riêng ở Cánh Tây của Cố Cung. Thư ký báo chí của Tổng thống, Rôn Di-glơ mô tả cuộc gặp kéo dài một giờ là những cuộc nói chuyện “nghiêm chỉnh và thắng thắn”.
Buổi tối của ngày đầu tiên đó, Chu Ân Lai thết một quốc yến sang trọng tại Đại lễ đường nhân dân ở Quảng trường Thiên An Môn nổi tiếng. Điểm nổi bật không phải là ở chỗ thức ăn thịnh soạn và rượu Mao Đài bốc lửa (mạnh gấp rưỡi uýtki ngô Mỹ hoặc vốt-ka Nga) mà là ở sự diễn tấu quốc ca Mỹ của đoàn quân nhạc Trung Quốc. Sau một vài chén Mao Đài và dự diễn tấu quốc ca: ngay những quả tim băng giá nhất cũng bắt đầu tan chảy. Những nhà báo tại chỗ cũng như những nhà báo theo đoàn ngồi ở những bàn tròn lớn cùng với những nhà báo quan chức và phiên dịch của Vụ báo chí. Chỗ tôi ngồi lại đối diện với một người khách đến thăm. Đến một lúc nhất định, bắt đầu những cuộc giới thiệu nhau và bắt tay, William F. Bắc-cly, một nhà bình luận và là một người mà tôi tự xem là kẻ thù, cũng đã ngà ngà say vì thức ăn ngon nhất trần gian, vì Mao Đài bốc lửa và vì âm nhạc. Những khách mới tới đang say sưa thưởng thức của ngon vật lạ, nên không có phản ứng về lời trách có cân nhắc kỹ càng trong lời chúc rượu của Chu Ân Lai. Sau khi nhận xét rằng cuộc đi thăm của Nixon sẽ tạo nên một diễn đàn để thảo luận việc bình thường hoá quan hệ giữa hai nước và thảo luận những vấn đề cùng quan tâm, ông ta tiếp tục:
“Nhân dân Mỹ là một nhân dân vĩ đại. Nhân dân Trung Quốc là một nhân dân vĩ đại. Nhân dân hai nước chúng ta đã luôn luôn hữu nghị với nhau, nhưng vì những r lý do mà mọi người đều biết, những tiếp xúc giữa nhân dân hai nước chúng ta đã gián đoạn trong hơn 20 năm. Ngày nay, nhờ cố gắng của Trung Quốc và của Mỹ, các cửa tiếp xúc hữu nghị cuối cùng đã được mở ra.
“Vào thời đại hiện nay, nhân dân Trung Quốc và nhân dân Mỹ thiết tha mong muốn làm giảm tình hình căng thẳng. Nhân dân và chỉ một mình nhân dân là lực lượng thúc đẩy quan trọng nhất làm nên lịch sử thế giới và sẽ đến ngày nguyện vọng chung của hai nước chúng ta sẽ được thực hiện”.
Chu Ân Lai tiếp tục nói rằng mặc dù chế độ xã hội của hai nước khác nhau một cách căn bản, nhưng các mối quan hệ vẫn có thể được thiết lập trên cơ sở 5 nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình.
Trong lời đáp của mình. Nixon nhanh chóng đi vào mục tiêu chính của cuộc đi thăm, tuy không nói ra một cách rõ ràng:
“Vào chính lúc này, nhờ kỳ công của viễn thông, điều chúng ta đang nói ở đây được nhiều người đang nghe và xen hơn là bất kỳ dịp nào khác trong toàn bộ lịch sử của thế giới. Điều mà chúng ta nói ở đây sẽ được nhớ lâu dài. Điều mà chúng ta làm ở đây có thể thay đôi thế giới”.
“Thế giới theo dõi, thế giới lắng nghe, thế giới mong đợi để xem chúng ta sẽ làm gì. Thế giới là gì? Trong một ý nghĩa cá nhân, tôi nghĩ đến người con gái lớn nhất của tôi, mà ngày sinh là hôm nay. Và khi nghĩ đến con cái tôi, tôi nghĩ đến tất cả các trẻ con trên thế giới ở châu Á, châu Phi, ở châu Mỹ. Chúng ta sẽ để lại gì cho con cháu chúng ta?”
Then chốt của sự phấn khởi của Nixon trong chuyến đi là ở chỗ nhắc đến các “kỳ công của viễn thông” và đến “thế giới dõi, thế giới lắng nghe”... Thế giới đó bao gồm hàng mấy chục triệu người Mỹ sẽ đi bỏ phiếu trong vòng chưa đầy chín tháng nữa để bầu ra một Tổng thống. Từ ngày 21 đến ngày 28 tháng 2, Nixon sẽ có nhiều giờ truyền hình và truyền thanh không tốn kém hơn bất kỳ một ứng cử viên nào có thể mơ đến. Cuộc vận động bầu cử năm 1972 đã bắt đầu từ khi ông ta bước ra khỏi chiếc máy bay Không lực số 1 tại sân bay Bắc Kinh. Ông ta đã được hoá trang cho việc truyền hình cả đêm lẫn ngày. Công chúng Mỹ thấy Nixon trong vai trò của một siêu ngôi sao mới, giao du đến cuối địa cầu với tư cách là người làm ra hoà bình, một anh hùng sắp tạo ra cho các cử tri Mỹ và các thế hệ mai sau của con cháu họ một thế giới an toàn. Chưa hề bao giờ một người đang tranh cử Tổng thống lại có được những hậu cảnh như Cố Cung, Lâu đài vua Chúa, Lâu đài mùa hạ, Trường Thành, và những ngôi mộ nhà Minh. Ri-sớt Mi-lớt và Pat Nixon được Giang Thanh (lúc này chưa phải là kẻ đứng đâu bị phỉ báng của “Lũ bốn tên”, mà là phu nhân Mao Trạch Đông đầy uy tín) hướng dẫn đến nhà hát xem buổi biểu diễn vũ ba-lê “Đội nữ hồng quân” (được thai nghén và thực hiện dưới sự hướng dẫn rất cá nhân của Giang Thanh). Trừ cuộc đổ bộ xuống mặt trăng, cho đến nay, đây là một màn truyền hình lớn nhất. Nhưng nó là trên đất và còn tiếp tục và tiếp tục.
Logged
ngao5
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 756


« Trả lời #31 vào lúc: 25 Tháng Mười Một, 2008, 07:06:17 am »

Nếu Nixon xem tất cả các câu chuyện đó là một biện pháp để giành được thắng lợi trong cuộc bầu cử, thì Kissinger xem đó là biện pháp để giành được thắng lợi trong chiến tranh, một biện pháp chắc chắn để đóng một cái nêm giữa Trung Quốc và Việt nam. Nixon đã mang theo mình một vài miếng mồi phản bội đầy cám dỗ, kể cả đề nghị trao đổi các phái đoàn thương mại và đã nói rõ ràng rằng sẽ có những phần thưởng to lớn bằng tín dụng đôla nếu Trung Quốc ngừng viện trợ cho Việt nam.
Luôn luôn là một nhà ngoại giao hoàn hảo, Sihanouk đã rút lui về Quảng Châu trong cuộc đi thăm của Nixon để tránh làm cho chủ tịch Mao bối-rối vì có một Quốc trưởng thù địch tại Thủ đô, trong khi tiếp kẻ thù của Quốc trưởng đó. Nhưng còn nhiều hon thế nữa: trước đây Kissinger đã khước từ một khả năng tiếp xúc với Sihanouk vì nó có thể làm giảm ảnh hưởng của Khmer Đỏ và tránh được thảm kịch tiếp theo. Kissinger thừa nhận trong hồi ký của mình, và các nhận trò chơi không thành thật mà Bắc Kinh tiến hành có hại cho Hà Nội. Kissinger tiết lộ rằng vào đêm trước khi Kiều Quán Hoa đưa phái đoàn Trung Quốc vào Đại hội đồng Liên hợp quốc (và Ngoại trưởng Đài Loan Chow Shu-kai dắt đoàn của mình ra), ông ta đã dự một bữa cơm tối với Kiều Quán Hoa tại Câu lạc bộ Thế kỷ đặc biệt của New York.
“Đường lối của Kiều là một phương án còn ôn hoà hơn là điều mà chúng tôi đã đi đến thừa nhận là lập trường tiêu chuẩn đối với Trung Quốc: cảm tình với Hà nội, nhưng không chi vốn cho đồng minh của mình.
Trong việc kêu gọi một lần nữa cuộc ngừng bần ở Campuchia, tôi đã nhấn mạnh rằng lợi ích của Mỹ và Trung Quốc là phù hợp với nhau bởi vì cả hai chúng tôi muốn một Campuchia trung lập, độc lập không bị bất cứ nước nào thống trị. Ông ta không tranh chấp gì điều này, trái lại ông ta hỏi liệu tôi có sẵn sàng gặp Sihanouk vào chuyến thăm Trung Quốc sắp tới của tôi (định vào tháng 1-1973). Tôi tránh câu hỏi cụ thể đó nhưng đã trả lời chung chung rằng chúng tôi không chống Sihanouk nếu ông có thể thiết lập một quốc gia độc lập”.
Rồi Kissinger trích lời của Kiều Quán Hoa như sau:
“Tôi có thể nói riêng với ông rằng có thể đi đến một sự hiểu biết với Thủ tướng (Chu Ân Lai) để đối xử đúng với những lo ngại của Thái tử Sihanouk. Nếu chiến tranh tiếp tục ở Campuchia thì chúng tôi phải duy trì lập trường hiện nay của chúng tôi. Nhưng điều mà chúng tôi muốn ở Campuchia, nếu nói thật rõ ràng ra đó là giữ Campuhia không trở thành một phần phụ thuộc của Hà nội.
Ngày tiếp theo, khi tôi báo lại với Nixon cuộc nói chuyện đó, tôi lặp lại quan điểm của tôi rằng sau khi có một cuộc ngừng bắn ở Campuchia, Sihanouk một lần nứa trở thành một nhân tố và có thể “trở lại đúng lúc”.
Đáng ra tôi có thể quan tâm đến một cuộc gặp gỡ với Sihanouk để sắp xếp một cuộc ngừng bắn, nhưng thương lượng với ông ta có thể không thành công, chừng nào ông ta còn là người đứng đầu trên danh nghĩa của các lực lượng cộng sản đòi thắng lợi hoàn toàn.
Chuyến đi thăm Bắc Kinh của tôi mà cuối cùng được ấn định vào tháng 2 năm 1973, là cơ hội sớm nhất cho một cuộc họp như vậy (nhưng ngẫu nhiên, Sihanouk không có mặt ở Bắc Kinh lúc đó. Như là một biểu hiện của thái độ chúng tôi và nhận thức của Trung quốc về vấn đề đó Chu Ân Lai yêu cầu chúng tôi lo đến sự an ninh của Sihanouk trước những tin đồn về âm mưu chống lại Thái tử trong chuyến ra nước ngoài của ông ta. Chúng tôi thực sự chấp nhận (chúng tôi cũng đã sắp xếp sau đó để cho mẹ Sihanouk đi một cách an toàn từ Phnompenh đến Bắc Kinh). (Xem quyển Những năm ở Nhà Trắng của Henry Kissinger).
Việc Kissinger coi Sihanouk là “người ở đứng đầu trên danh nghĩa của các lực lượng cộng sản” đã phản ánh lòng tin chống cộng mù quáng. Điều đó đã làm sai lạc sự đánh giá của ông ta về tình hình thực sự của công việc. Và Sihanouk đã giải thích một cách đúng đắn sự quan tâm đột ngột của Kissinger đến một cuộc họp để sắp xếp một cuộc “ngừng bắn” như là một sự thừa nhận rằng: (a) chế độ Lon Nol được Mỹ ủng hộ đang thua và (b) Sihanouk phải bán rẻ những người đang chiến đấu để giữ lấy địa vị đặc quyền của mình. Kissinger đã đánh giá sai lầm con người đó một cách tồi tệ đó là một lý do tại sao Sihanouk “không có mặt ở Bắc Kinh” lúc đó.
Vào ngày thứ tư trong thời gian thăm Bắc Kinh, sau những cuộc nói chuyện dài với Chu Ân Lai xen kẽ với những hoạt động tham quan, Nixon tổ chức một tiệc đáp lễ cũng lại lễ đường lớn như chủ nhà đã làm. Tại mỗi chỗ ngồi của khách quanh bàn có một danh thiếp có chữ ký của Tổng thống Nixon trong một túi Lucite (bằng nilông - ND) cũng như những cốc uống sâm-banh mà khách coi như có thể lấy làm kỷ niệm. Thức ăn, may thay, cũng là thức ăn Trung Quốc và Mao Đài, bia được tăng thêm bằng sâmbanh California ngon. Đoàn nhạc cũng là đoàn trong bữa tiệc trước và nhạc cũng vậy. Nhưng có điều gì đó rất không hay. Không khí tại bàn Tổng thống rất giá lạnh. Không có ai, trừ những người ngồi tại đó, có chỗ tốt bằng Rô-giơ Píc và tôi, để quan sát được điều đó. Nhiệm vụ của chúng tôi đêm đó là phải chiếm chỗ phía trước khi đèn chiếu được bật lên khi Nixon đọc diễn văn và bài trả lời của Chu Ân Lai. Chẳng có gì đặc biệt trong diễn văn của Nixon, nhưng có cái gì đó trong không khí quanh bàn ăn. Kissinger quắc mắt nhìn. Mác-san Gơ-rin, trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao phụ trách các vấn đề Đông Nam châu Á và Thái Bình Dương thì đỏ mặt và nhìn vào đĩa của mình. Chỉ có Ngoại trưởng William Rô-giơ nở một nụ cười nửa miệng nhưng mọì người đều biết ông ta đã bị gạt ra khỏi các cuộc thảo luận thực sự. Không có ai nói chuyện với ai, tuy mỗi người đều có người Trung Quốc cùng cấp bậc của mình bên cạnh và không thiếu phiên dịch thông thạo. Trong khi Nixon nói, Chu Ân Lai ngồi một cách hờ hững, cầm cái tăm xỉa răng trong tay. Ngoại trưởng Cơ Bằng Phi, đã từng giữ Rô-giơ trong tình trạng bận rộn vì những trao đổi không nghĩa lý gì, trong khi Kiều Quán Hoa và Kissinger làm công việc thực sự, đã ngồi trơ như phỗng. Còn Kiều Quán Hoa, khi nhận được ra tôi đang bận bịu với những ống nghe và những giây điện lòng thòng, đã nheo mắt, nhăn mặt một cách uể oải.
Khi tắt đến chiếu và chúng tôi trở lại bàn của mình, một người quay phim của một hệ thống khác nói thầm với tôi: “Bạn có thấy điều mà tôi thấy không? Khi Nixon nhận ra tôi, người đang quay phim cho Nhà Trắng. Ông ta cố mỉm cười thẳng vào máy quay phim, cách chỗ ông ta chỉ ba bộ Anh (90 cm), nhưng chỉ một nửa mồm ông ta làm việc”. Nhiều người trong số các nhà báo đã vội vã từ bữa tiệc trở về với túi ni-lông và cốc uống âm-banh rỗng túi, để báo cáo lại cho chủ bút của họ rằng xét không khí lạnh lẽo lại bữa tiệc và những biểu hiện buồn bã của Nixon và Kissinger thì các cuộc hội đàm đã kết thúc một cách thảm hại. Ngày hôm sau, Rôn Di-glơ đã chỉ trích những cuộc hội đàm đó.
Điều mà chúng tôi không biết là Chủ tịch Mao ngày đó đã đưa ra hoá đơn cho tất cả “sự mến khách có một không hai” và các buổi vô tuyến truyền hình không phải trả tiền đó chưa. Hoá đơn đó là dưới hình thức thông cáo chung mà Kissinger và Kiều Quán Hoa còn tranh cãi nhau cho đến nửa giở trước khi cuộc chiêu đãi bắt đầu. Những nội dung khi đưa đưa ra công khai ở Thượng Hải vài ngày sau đó đã chứng minh rõ ràng Kiều Quán Hoa đã thắng. Đó là một tài liệu chủ chốt trình bày những lập trường khác nhau về phần lớn các vấn đề tranh chấp. Nhưng trong các đề tài đã đưa thoả thuận chung có việc mà cả hai nước đều đồng ý là các quan hệ của họ đều phải được dựa trên nguyên tắc “Pan-sơ Xi-la”, một từ đã được quốc tế công nhận và là chữ viết tắt bằng tiếng Hin-đi của 5 nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình, đã được Hội nghị Băng-đung năm 1955 thông qua như là cơ sở lý tưởng cho các quan hệ giữa các nước có hệ thống chính trị và xã hội khác nhau.
Ngay dù cho từ “Pan-sơ Xi-la” không được nhắc tới, 5 nguyên tắc vẫn được đề ra. Điều còn ngạc nhiên hơn và chắc chắn đó là lý do của những biểu hiện buồn bã của phía Mỹ trên bàn tiệc là sự chuyển hướng quanh co, ít nhất là trên giấy lập trường của Mỹ đối với Đài Loan. Về vấn đề này, thông cáo viết:
“Phía Mỹ tuyên bố: Mỹ thừa nhận rằng tất cả người Trung Quốc ở hai bên eo biển Đài Loan cho rằng chỉ có một Trung Quốc và Đài Loan là một bộ phận của Trung Quốc. Chính phủ Mỹ không thách thức gì lập trường đó. Mỹ xác định lợi ích của mình trong một giải pháp hoà bình của chính những người Trung Quốc cho vấn đề Đài Loan. Với triển vọng đó trong suy nghĩ, Mỹ xác nhận mục tiêu cuối cùng là rút các lực lượng Mỹ và các cơ sở quân sự khỏi Đài Loan. Trong lúc chờ đợi, Mỹ sẽ giảm dần các lực lượng và các cơ sở quân sự của mình ở Đài Loan khi sự căng thẳng trong vùng giảm đi”...
Sự kiện tiếp theo và là sự kiện cuối cùng là một bữa tiệc của Uỷ ban Cách mạng tỉnh Triết Giang chiêu đãi đoàn Tổng thống Nixon tại Hàng Châu. Vào buổi chiều, Chu Ân Lai dự một tiệc rượu, tại đó Tổng thống giới thiệu các thành viên của đoàn báo chí đã đi theo Tổng thống: “ông bạn Xtan-lây Các-nốp của tờ Bưu điện Washington, ông bạn Oan-tơ Crôn-cai-tơ của CBS...” v.v. và khi bữa tiệc đêm kết thúc, Chu Ân Lai nhận ra tôi và bất ngờ đến bắt tay tôi. Nixon bối rối đi theo Chu. “Ông bạn Burchett của tôi” - Chu quay sang phía Nixon và nói như vậy. “À, vâng”, Nixon nói và đưa tay ra “Anh là nhà báo Australia. Vâng, tôi biết về anh”. Chúng tôi trao đổi một vài câu thông thường và khi tôi bày tỏ hy vọng rằng cuộc đi thăm sẽ thành công thì Nixon rạng rỡ như thể chúng tôi là những người bạn tốt nhất của nhau. Một số nhà báo đến gần tôi và nói: “Nhưng làm thế nào Nixon biết lên bạn và biết bạn là một người Australia?”. Câu trả lời của tôi là tôi chẳng thấy gì ngạc nhiên cả, bởi vì từ khi ông ta vào Nhà Trắng hầu như tuần nào trên tờ Thời báo New York tôi cũng tấn công chính sách của ông ta.
Bữa tiệc từ biệt được tổ chức tại Thượng Hải đêm tiếp theo, trong đó có một nửa của cái nhóm sau này được gọi là “Lũ bốn tên” Trương Xuân Kiều, chủ tịch Uỷ ban Cách mạng thành phố Thượng Hải và Vương Hồng Văn, Phó chủ tịch. Sáng hôm sau, ngày 28 tháng 2, chiếc máy bay không lực 1 cất cánh.
Những người bạn Việt nam của tôi ở Bắc Kinh rất không bằng lòng về chuyên đi thăm này. Khi tôi tìm cách tìm hiểu tại sao những người bạn Việt nam của tôi băn khoăn lo lắng thì họ nhắc lại một đoạn trong thông báo nói lên “sự cam kết của Mỹ giảm dần lực lượng và các cơ sở quân sự trên đảo Đài Loan khi sự căng thẳng trong khu vực giảm” và họ giải thích: “Điều đó có nghĩa là sự đầu hàng của chúng tôi sẽ là cái giá để người Mỹ trả Đài Loan lại cho Trung Quốc”.
Ngày sau khi Chu Ân Lai đưa Nixon ra máy bay và vẫy tay từ biệt tượng trưng ông ta bay xuống Quảng Châu thông báo cho Sihanouk về các cuộc nói chuyện và bảo đảm với ông ta rằng viện trợ của Trung Quốc cho Campuchia không những không bị giảm đi như Nixon muốn, mà sẽ được tăng lên. Rồi ông ta lại bay đi Hà Nội để thông báo cho Bộ Chính trị Việt nam về các cuộc nói chuyện. Cảm giác của Sihanouk là Chu Ân Lai đã không chịu thảo luận cả vấn đề Việt nam lẫn vấn đề Campuchia, khuyên Nixon rằng các cuộc thảo luận phải được giới hạn vào các vấn đề thuộc “sự quan tâm của cả hai bên” nhưng ông ta có thể làm dễ dàng những tiếp xúc trực tiếp với Sihanouk hoặc giới lãnh đạo Bắc Việt nam. Cảm giác đó, theo các tiết lộ về sau của Việt nam là không đúng.
Tại cuộc họp của chúng tôi ở Thượng Hải, Sihanouk đã đưa ra một vải sửa chữa nhỏ đối với bản thảo viết tay cuối cùng của tôi và xem nó là đã hoàn thành. Sau khi cùng đi nhiều ngày với những nhà báo đến thăm, tôi trở lại Paris. Đó là hai tuần lễ căng thẳng. Sau khi hoàn thành cuốn sách với Sihanouk, tôi nhận được uỷ nhiệm của Nhà xuất bản Pen-guin viết một cuốn về Trung Quốc với sự cộng tác của người bạn cũ của tôi Ri-uy An-ly, trong lời tôi thiệu của cuốn sách này tôi đã viết:
Nếu tôi cảm thấy rụt rè khi viết cuốn sách đầu tiên đó (Cuốn Những chân không bị ràng buộc của Trung Quốc - ND) và phải đợi gần 20 năm nữa mới dám viết cuốn tiếp theo, và nếu Ri-uy An-ly đợi gần một phần tư thế kỷ sau khi đặt chân lên Trung Quốc để viết cuốn sách đầu tiên của mình (Yo Banfa - Chúng tôi có một con đường), đó là vì cả hai chúng tôi rất có ý thức về trách nhiệm của mình trong việc giới thiệu hình ảnh có căn cứ và chân chính của những thay đổi cách mạng trong khu vực chiếm một phàn tư nhân loại...
Những điều viết sau đây là kết quả của sự tổng hợp các chuyến đi độc lập và các cuộc điều tra mà Ri-uy An-ly và tôi đã tiến hành mùa hè năm 1973 bằng một phương pháp có kế hoạch và có sự phối hợp chặt chẽ. Nó đã dựa vào kinh nghiệm độc đáo của Ri-uy An-ly trong 46 năm hầu như liên tục cư trú, làm việc và đi lại ở Trung Quốc, cũng như vào sự cư trú từng giai đoạn và đi lại thường xuyên của chính tôi trong khoảng thời gian trên 3o năm. Ý định tập trung những kinh nghiệm của chúng tôi vào một cuốn sách đã được khai sinh khoảng 20 năm trước đây. Nhưng những kế hoạch cụ thể đã bị hoãn đi hoãn lại nhiều lần. Cuối cùng chúng tôi dứt khoát phải viết... ngày 15 tháng 1 năm 1974 (Tên cuốn sách đó là: China: The quality of life - Trung Quốc đặc tính của cuộc sống. Xuất bản năm 1976 Nhà xuất bản Pen-guin. London - ND).
Tôi nghĩ rằng chúng tôi đạt được nhiệm vụ hạn chế mà chúng tôi đã đề ra, đó là “đánh giá những thay đổi đã xảy ra trong những năm gần đây ở Trung Quốc và đặt chúng vào viễn cảnh của điều mà chúng tôi đã biết về nước Trung Quốc cũ”, và cố tìm hiểu những thay đổi đó đã ảnh hưởng đến “đặc tính cuộc sống của người Trung Quốc bình thường thư thế nào. Việc thu thập tư liệu để “hoàn thành những kinh nghiệm đã thu thập từ trước đã phải mất hai tháng đi vào các vùng hẻo lánh nhất của Trung Quốc, trừ Tây Tạng, và vài tuần cùng nhau so sánh tư tiệu, thảo ra đề cương chung của cuốn sách và quyết định ai viết chương nào.
Sau khi tôi trở lại Paris, các chương viết xong đã được gửi đi gửi lại giữa Paris và Bắc Kinh để mỗi bên góp ý kiến cho đến khi thoả thuận được một nội dung chung. Nhìn lại vấn đề, chúng tôi đều nhận thầy mình may mắn bắt gặp Trung Quốc trong một thời kỳ lương đối yên tĩnh sau những cơn vũ bão của “Cách mạng văn hoá” và trước những biến động xảy ra, sau cái chết của Chu Ân Lai, Mao Trạch Đông và sau khi “lũ bốn tên” bị vạch mặt.
Logged
ngao5
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 756


« Trả lời #32 vào lúc: 25 Tháng Mười Một, 2008, 07:06:50 am »

15. Một sự thay đổi quang cảnh
Sau khi bắt tay Kiều Quán Hoa với tư cách là trưởng đoàn của Trung Quốc vào Liên hợp quốc ngày 14 tháng 11 năm 1972, tôi cảm thấy cuối cùng đã giải quyết xong một vấn đề mà từ lâu tôi đã gắn mình vào. Trung Hoa đã giành lại cho ngồi hợp pháp của mình ở Liên hợp quốc. Và trong tháng 4, tháng 5 năm 1975, trong một khoảng thời gian ngắn 3 tuần lễ không thể tin được các lực lượng cách mạng ở Campuchia. Việt Nam và Lào, theo đúng thứ tự như vậy, cuộc đấu tranh lâu dài của họ đã giành được thắng lợi và hoà bình đã được lập lại ở Đông Dương. Tôi chắc chắn rằng còn thêm ba vấn đề nữa mà tôi đã gắn bó một cách chặt chẽ sẽ được giải quyết trong tương lai trước mắt: tình hữu nghị chiến đấu giữa nhân dân ba nước Đông Dương hun đúc trong cuộc đấu tranh chung chống những kẻ thù chung: những quan hệ chặt chẽ phát triển với Trung Hoa của mỗi nước; sự bảo đảm một “nền hoà bình trong thời đại chúng ta” ở khu vực đó của thế giới.
Như nhiều người theo dõi châu Á, trước hết là những người có thiện chí đối với châu Á, chưa bao giờ tôi phạm một sai lầm lớn hơn trong cách đánh giá tình hình lúc đó. Tự nhiên suy nghĩ của tôi phải chuyển về miền Nam châu Phi là nơi mà nhân dân nhiều nước đang đấu tranh cho nền độc lập của mình. Ở đó cũng có một Angola. một Mozambia và một Ghi-nê Bít-xao tương xứng với một Việt nam, một Campuhia và một Lào. Tất cả đấu tranh chống một kẻ thù chung: chủ nghĩa thực dân Bồ Đào Nha.
Trong vòng ba ngày sau “cuộc đảo chính của các đại uý” tại Bồ Đào Nha, tôi đã có mặt ở Lisbon với sự quan lâm đặc biệt nhằm tìm xem liệu các “đại uý” đó có thành thật trong việc thực hiện chương trình của họ đòi phi thực dân hoá các nước châu Phi của họ không.
Sau những cuộc thảo luận dài với các sĩ quan chủ chốt của cuộc đảo chính, mà không phải tất cả đều là đại uý, tôi tin rằng họ chân thật. Trong nhóm của họ có thiếu tá Me-lô An-tuyn, kiến trúc sư chính trị của cuộc đảo chính; đại uý Ô-tê-lô Xa-rây-va đờ Các-van-hô, kiến trúc sư quân sự và đại tá Va-xô Đôx Xi-lôx Gông-can-vết, người tham mưu vạch kế hoạch chính trị quân sự sau hậu trường. Thực vậy cuộc đảo chính đã được thực hiện vì chế độ phát-xít đã không chịu xét gì ngoài những giải pháp quân sự đối với những cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở các thuộc địa. Nhưng cũng có những lực lượng khác mà hiện thân là tướng An-tô-đi-ô đờ Xpi-nô-la, Chủ tịch của Hội đồng quân sự thay cho chế độ phát-xít, được lãnh tụ xã hội Mario Xoa-rết kín đáo ủng hộ. Xoarết không đóng vai trò gỉ trong cuộc đảo chính: đã tán thành bám vào các thuộc địa bằng công thửc này hay công thức khác nhất là bám vào Angola giàu có vì dầu, kim cương và cà phê.
Tôi rất ngạc nhiên khi thấy tôi chẳng gặp khó khăn gì trong việc tiếp xúc với các sĩ quan đó. Tuy họ sống tách ra khỏi phần lớn các nhà báo. Lý do của tình hình đó lại càng đáng ngạc nhiên hơn nhiều. Một số sách của tôi về Việt nam đã được một nhà phát hành tìm cách lọt qua được “những người kiểm duyệt” để xuất bản. Nhưng theo yêu cầu của Sứ quán Mỹ quyển Việt nam: Câu chuyện bên trong của chiến tranh du kích đã bị tịch thu, trừ những bản được phân phát bằng bưu điện và một vài trăm quyển mà Học viện quân sự Bồ Đào Nha đã mua. Tại Học viện này các “đại uý” tương lai đã học theo quyển sách đó mà nó đã trở thành sách giáo khoa mà tất cả các sinh viên kể cả các sinh viên bổ túc đều phải đọc. Tiền đề của việc đó là các chiến thuật mà Việt Cộng đang sử dụng ngày nay sẽ được các du kích sử dụng ngày mai. Khi tôi hỏi đại uý pháo binh, người đã báo cho tôi việc này, phản ứng là như thế hào, thì anh ta nói: “Ngay người cánh hữu ngu xuẩn nhất cũng có thể nắm được thực tế rằng, nếu một nước như nước Mỹ, với những nguồn tài nguyên, kinh tế và quân sự không hạn chế,, không thể thắng được một nước nhỏ và lạc hậu như Việt nam, thì làm thế nào nước Bồ Đào Nha nhỏ, lạc hậu lại có thể thắng ở các lãnh thổ châu Phi, lớn hơn Bồ Đào Nha 20 lần và với số dân gấp đôi?”.
Đối với Mê-lô A-tuyn và Ô-tê-lô Đờ Các-van-hô ba lần làm nghĩa vụ quân sự ở các thuộc địa đã làm cho họ tin rằng, các thuộc địa phải giành được nền độc lập của họ và con đường duy nhất đưa lại kết quả đó là phải lật đổ chế độ này.
Một tháng sau ngày đảo chính Hội nghị “phi thực dân hoá” đầu tiên, về Ghi-nê Bítxao đã được mở ra ở London. Hội nghị đó đã chẳng đi đến đâu, bởi vì tất cả điều mà ngoại trưởng Mario Xoa-rết đưa ra là một cuộc ngừng bắn quân sự và quyền tự quyết sẽ được quyết định bằng một cuộc trưng cầu dân ý do Bồ Đào Nha điều khiển. Thiếu tá Pê-trô Pi-rét, đứng dầu phái đoàn Ghi-nê Bít-xao - Cáp Ve nói với tôi: “Tự quyết có thể coi là rất kỳ diệu, đối với năm 1945 chứ không phải năm 1974. Chúng tôi dă được gần 90 nước thừa nhận như một quốc gia độc lập. Chúng tôi có quy chế quan sát viên tại Liên hợp quốc. Hơn hai phần ba đất nước chúng tôi đã được giải phóng một cách vững chắc. Tại sao chúng tôi lại phải thảo luận việc Bồ Đào Nha giám sát “quyền tự quyết” của chúng tôi? Nhân dân chúng tôi đã xác định điều mà họ muốn rồi: nền độc lập đầy đủ và hoàn toàn mà chẳng hề có dây ràng buộc nào”.
Các cuộc nói chuyện đã bị tan vỡ sau 4 ngày trao đổi vô ích. Một điều giống như vậy cũng xảy ra với Mozambia, nhưng nhanh hơn. Mặc dù cuộc gặp đầu tiên đầy xúc động và được chụp ảnh nhiều giữa Xoa-rét và nhà lãnh đạo Phrê-li-mo Xa-mô-ra Maen, các cuộc nói chuyện đã nhanh chóng sa lầy và bị hoãn lại một ngày sau đó. Phải đợi đến lúc Xpi-nô-la bị cách chức nguyên thủ quốc gia trên thực tế và các cuộc hội đàm giao cho An-luyn, mà về sau thay Xoa-rét làm ngoại trưởng, mới có thể có tiến bộ. Nền độc lập hoàn toàn cho các đảo Ghi-nè Bít-lao và Cáp Ve cũng như cho Mozambia đã được nhanh chóng thương lượng.
Angola phức tạp hơn, không phải chỉ vì sự giàu có phong phú của nó mà còn vì có ba phong trào độc lập tranh chấp nhau: MPLA (do A-gôt-xti-nhô Nê-tô đứng đầu), FNLA (với Hôn-đen Rô-béc-tô làm chủ tịch) và UNITA (dưới quyền Giô-nét Xa-vim-bi). Liên Xô ủng hộ MPLA; Mỹ và Trung Quốc ủng hộ FNLA; các nhóm cánh hữu ở Bồ Đào Nha và Chính phủ Nam Phi ủng hộ UNITA. Còn CIA thì ban ân huệ của nó cho cả FNLA và UNITA.
Nhờ sự giúp đỡ của OAU (Tổ chức thống nhất châu Phi) và nhiều nhà lãnh đạo châu Phi, ba phong trào đó đã cử các phái đoàn đến An-vo, ở bờ biển phía nam của Bồ Đào Nha tháng 1 năm 1975 để thương lượng một hiệp định với người Bồ Đào Nha về nền độc lập hoàn toàn của Angola.
Ba nhà lãnh đạo là những đối tượng nghiên cứu về những tương phản giữa họ với nhau khi họ xuất hiện vào phiên họp bế mạc của Hội nghị An-vo ngày 17 tháng 1 năm 1975 ở ký vào văn kiện Bồ Đào Nha trao trả độc lập hoàn toàn: A-gô-xti-nhô Nê-tô mặc bộ quần áo công tác phương Tây, với một bề ngoài rụt rè không phản ánh tính chất của ông ta; Hôn-đen Rô-bé-tô, mặc bộ áo quần kiểu Mao, màu xanh, dữ tợn và nghiêm nghị đằng sau đôi kính râm; Giô-nét Xa-vim-bi to lớn với bộ râu đen và mắt lấc láo, mặc quần áo màu xanh rừng. Nê-tô mà nhiều người Bồ Đào Nha xem là một nhà thơ đương thời cao quý, đã được chọn để thay mặt cho phong trào giải phóng phát biểu sau khi ký. Với tiếng sóng Đại Tây Dương vỗ vào bờ bên ngoài, Nê-tô nhắc đến Pôn-ta Đa Xa-grêt gần đây mà từ đó những đoàn thuyền Bồ Đào Nha xuất phát trong các chuyến đi khám phá từ thế kỷ thứ XV trở đi. Ông ta nói: “Ở đây tương đối gần với Pôn-ta Đa Xa-grết, chúng ta đã kết thúc những quan hệ bất công đã bôi nhọ những kỳ công xán lạn của những nhà vượt biển lão luyện Bỏ Đào Nha. Ở đây, những tham lam của bọn thực dân đã bị vĩnh viễn chôn vùi”. Nét mặt của những người Bồ Đào Nha nhất là Mê-lô An-tuyn, Thủ tướng Gông-xa-vét và đô đốc An-tô-ni-ô đờ Cu-tin-hô “Đỏ” đã sáng ngời lên khi Nê-tô nói đến phong trào giải phóng thứ 4, đó là phong trào các lực lượng vũ trang, đã xúc tác vào những ước vọng của nhân dân ở đây bằng việc lật đổ chủ nghĩa phát-xít ở Bồ Đào Nha, do đó xây dựng một cơ sở vững chắc để chấm dứt sự bóc lột thực dân”. Đó là những lời lẽ lựa chọn một cách đầy cảm xúc làm ấm lòng mọi người của Va-xcô Gông-xan-vét, An-tuyn và Rô sa Cu-tin-hô, mà mỗi người theo cách riêng của mình cũng đã đóng góp lớn lao vào văn kiện lịch sử nhằm chấm dứt 500 năm thống trị của Bồ Đào Nha ở châu Phi, tuy rằng sau đó đã sớm bộc lộ có những thiếu sót bất hạnh.
Sau khi buổi lễ kết thúc, tôi hỏi Nê-tô xem ông ta nghĩ gì về triển vọng sau khi thi hành hiệp định. Với nụ cười bẽn lẽn điển hình, ông ta nói: “Hiệp định là tốt. Nhưng nó mới chỉ trên giấy. Đối với MPLA chúng tôi sẽ làm mọi việc có thể làm để thực hiện triệt để nhất từng điều, từng khoản một. “Vậy tại sao bạn không đến để tự nhìn thấy?” gợi ý này đã được đại diện MPLA ở Cu ba, Pao-lô Gioóc-giơ đứng bên cạnh, nhiệt liệt tán thành.
Lần sau khi tôi thấy Pao-lô Gióoc-giơ, thì vẻ mặt anh ta tỏ ra vui mừng hơn lúc nào hết. Anh ta đã phát hiện ra tôi xuống máy bay ở sân bay Luanda giữa những người lính vũ trang. Đó là lúc tên phân biệt chủng tộc da đen Ni-tô An-vêt (về sau bị bắn vì phản bội) làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Vì những cuộc chiến đấu quyết định đang diễn ra ác liệt, tôi muốn đến Luanda ngaỵ Mặc dù những quan chức tại sân bay Bồf Đào Nha can ngăn tôi, nhưng tôi vẫn ra đi không có thị thực. Tài liệu duy nhất tôi có là một bản telex của Bộ Thông tin đông ý về chuyến đến thăm của tôi và báo cho tôi rằng thị thực đã sẵn sàng để cấp cho tôi tại văn phòng viên lãnh sự danh dự ở Li-xbon. Nhưng khi tôi đến thì anh ta lại đi Luanda. Bị giữ lại trên máy bay cho đến khi tất cả hành khách đã xuống hết, một sĩ quan với vẻ mặt khó chịu đến gặp tôi. Anh ta chẳng chú ý gì đến bản telexe, mà chỉ chú ý đến sự việc không có thị thực trên hộ chiếu. Khi tôi đi giữa hai người lính, tôi nghĩ đến hộ chiếu Cuba hoặc các giấy thông hành của tôi. Chính thủ Công đảng ở Australia đã cấp lại hộ chiếu Australia cho tôi vào ngày đầu tiên nhận chức của mình. Chúng nó trở nên vô dụng ở Luanda nếu không có thị thực. Thái độ gay gắt đối với người nước ngoài còn đang bị tinh nghi là rất dễ hiểu bởi về một nhóm lính đánh thuê da trắng vừa mới bị quét sạch vài ngày trước đây tại vùng biên giới phía bắc. Khi tôi đi qua phòng tiếp khách quan trọng, Pao-lô Gióoc-giơ phát hiện ra tôi từ một cửa sổ, và tôi được giải phóng ngay. Anh ta đưa tôi vào phòng mà anh ta vừa mới đi ra, đang có cuộc vui mừng và chạm cốc. Pao-lô Gióoc-giơ ấn vào tay tôi một cốc rượu và nói: “Hai tin mừng. Bạn đã đến và chúng tôi vừa chiếm Huambô”. Đó là vào khoảng nửa đêm ngày chủ nhật, ngày 8 tháng 2 năm 1976. Một vài giờ trước đó, các lực lượng của Nê-tô và các đồng minh Cuba của họ đã giành được một thắng lợi quyết định nhất chống lại các lực lượng FNLA - UNITA và những đồng minh Nam Phi của chúng, Huambô là đầu não chung của chúng.
Vài ngày sau đó, khi tôi đến Huambô. Những nhóm nhỏ rời rạc trở về thành phố với những câu chuyện đáng sợ về những cuộc tàn sát ào ạt trong những ngày trước đó. Các lực lượng UNITA - FNLA đã rút 100 dặm về phía tây đến Bi-ê, cứ điểm của Xa-vim-bi, nằm trong vùng bộ lạc chính của hắn ta, bộ lạc Ô-vim-bun-đu. Từ Bi-ê, Xa-vim-bi đã tung ra những lệnh rằng những người dân ở Huambô phải rời thành phố. Hắn ta doạ đưa máy bay đến san bằng thành phố và cảnh cáo rằng những người sống sót rồi sẽ bị MPLA tàn sát. Chắc chắn là Xa-vim-bi đã đóng góp phần của hắn trong việc tàn sát! Trong vòng 24 giờ sau khi Biê bị chiếm, tôi đi theo một nhóm tìm kiếm chính thức có trách nhiệm tìm dấu vết các cán bộ MPLA bị bắt vài tháng trước đó khi UNITA chiếm thành phố, mà từ đó về trước là mỗi thành phố do ba bên quản lý. Chúng tôi biết rằng những người mất tích đã được chuyển đến Bi-ê, nhưng các nhà tù ở đó hoàn toàn trống khi các lực lượng MPLA - Cu ba vào thành phố ngày l tháng 2. Lúc đó tôi đã viết về điều mà tôi thấy như sau:
Sau một giờ đào bới uổng công trong nhà tù Cô-mác-cô ở ngoại ô thành phố, nhóm tìm kiếm phát hiện năm cái hố mới đào trong một vùng đất cát. đằng sau nhà tù thấp, tường trắng, trên bờ một ruộng ngô non. Một bàn chân người thò ra trên một hố đó. Cỏ xung qaanh các hố bị dẫm nát và có nhiều vết máu. Trên mặt đất còn một nửa tá thanh sắt đầy máu. một vài cái còn dinh tóc người. Khi bắt đầu đào lên, thì thấy rõ trong các hố là thi thể của khoảng 100 cán bộ MPLA đã bị giam ở nhà tù Cô-mác-cô. Những thi thể còn mới bị vứt lung tung vào hố, rải lên trên một lớp đất nát. Những chậu rửa mặt trong buồng tắm còn dính máu. Có lẽ ở đây các kẻ hành hình đã tắm rửa để xoá sạch dầu vết trước khi cùng với các lực lượng UNITA tháo chạy khỏi thành phố. Khi nhìn thấy thi thể mà bàn chân lòi ra ngoài là của một người phụ nữ mặt mày đã bị băm nát, không thể nào nhận ra được nữa, một người trong nhóm tìm kiếm lẩm bẩm một cách chua xót: “Đó là mặt thật của Xa-vim-bi Trên đường phố chính của Biê một nhóm những người hốc hác lê bước với một khẩu hiệu: Hoan nghênh MPLA vinh quang”, “Chúng tôi là những g người sống sót của Trường huấn luyện cảnh sát Angola ở Bi-ê” (trích quyển Nam Phi đứng lên của Winfred Burchett - ND) Theo Đô-min-gô An-tô-niô Nê-tô, một thân hình chỉ còn là bộ xương, rách nát và một người trong nhóm hoan nghênh các lực lượng vũ trang MPLA, thì trường Bi-ê có 720 học sinh. Khi liên minh UNITA - FNLA chiếm Huambô, chúng đưa khoảng 100 người vào lực lượng mỗi bên của chúng và tổng số còn lại vào một trại tập trung cũ của Bồ Đào Nha. Khi các lực lượng MPLA - Cuba đến gần Bi-ê, những học sinh đó bị đưa từng toán 10 đến 20 người ra bắn, xác của họ ngã xuống hoặc bị vứt xuống sông Quy-quy-na gần đó. Các tiểu đội xử bắn không thể giết được hết, do đó Ô-ming Nê-tô và nhóm của anh ta nằm trong số khoảng 75 người sống sót của 500 tù nhân.
Logged
ngao5
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 756


« Trả lời #33 vào lúc: 25 Tháng Mười Một, 2008, 07:07:30 am »

Về sau, khi các báo cáo được tổng hợp lại thì ước lượng khoảng 10.000 người đã bị hành hình ở vùng Huambô- Biê mà phần lớn là trước cuộc tháo chạy hỗn loạn của các lực lượng UNITA - FNLA. Con số của tôi sưu tập từ báo cáo của những người sống sót, sau 48 giờ làm việc, thì vào khoảng hơn 2.000 người. Việc này đã được thực hiện trực tiếp theo lệnh của Xa-vim-bi. lúc đó có quyền tối cao ở khu vực này.
Thật là một vấn đề gay go và phức tạp khi những mối thù chủng tộc và bộ lạc lại chồng chất lên cuộc đấu tranh sinh tử giành chính quyền. Quyền lực của Xa-vim-bi là dựa vào những người O-vim-bun-đu ở vùng Trung Nam, một bộ lạc lớn nhất, chiếm khoảng 2 triệu người - Mặc dù UNITA liên minh với FNLA ở cấp chóp bu nhưng những người Ô-vim-bun-đu không có tình cảm êm dịu với 750.000 người Ba-công-gô ở phía bắc cơ sở quyền lực cho Hôn-đen Rô-béc-tô. Nếu người ta có thể nói đến căn cứ quyền lực tự nhiên của MPLA thì đó là l,5 triệu người Mbun-du của vùng Trung-bắc và hầu như là tất cả các trung tâm đô thị. Nê-tô đã tìm cách làm nản lòng đối với những ai muốn đa cực hoá các nhóm bộ tộc; MPLA là phong trào duy nhất trong ba phong trào, được tổ chức trên cơ sở toàn Angola và đó là nguồn sức mạnh chính của phong trào.
Trên đường về từ Bi-ê đến Huambô, tại một điểm ngoặt của đường chính về phía nam dẫn đến biên giới Na-mi-bi-a, nhóm báo chí nhỏ của chúng tôi gặp một đơn vị cơ giới xe tăng và trọng pháo của Liên Xô. Một phóng viên TASS với máy quay phim sẵn sàng trên tay, nhảy ra khỏi xe để tìm một cố vấn Liên Xô nhưng khi anh ta trở lại thì có phần tiu nghỉu. Nhưng may mắn anh ta đã tìm được một người Cuba nói được trong Nga. Người Cuba ấy nhanh chóng yêu cầu không được dùng máy quay phim. Đó là một đơn vị hỗn hợp Cuba - LAPLA (lực lượng vũ trang MPLA) đang được nghỉ trước khi làm nhiệm vụ đuổi những người Nam Phi ra khỏi biên giới Na-mi-bi-a. Kli họ cùng nhau hút thuốc và uống cà-phê, thỉ khó mà phân biết ai là Cuba ai là Angola, nhất là vì một tỷ lệ lớn quân Cuba là người da đen; tất cả họ mặc đồng phục màu xanh như nhau. Cũng có một số phải chăng những người “Angola trắng” (những người Bồ Đào ra sinh tại Angola) tham gia LAPLA từ đầu và nắm các ngành kỹ thuật. Do đó sĩ quan “Cuba” đầu tiên tôi tiếp xúc bằng tiếng Tây Ban Nha đã trả lời bằng tiếng Bồ Đào Nha (nhiều người chì huy LAPLA mà tôi gặp về sau nhất là ở xa về phía nam, thường là người Angola trắng hoặc là những người lai, vì lý do đơn giản là chỉ có họ mới có đủ trình độ học thức để sử dụng các vũ khí hiện đại).
Ấn tượng đầu tiên về những quan hệ tự do và dễ dàng giữa các sĩ quan và binh sĩ trong quân đội Cuba và giữa người Angola và người Cuba trong các đơn vị hỗn hợp, đã được khẳng định trong phần còn lại của chuyến đi thăm đầu tiên này và hai chuyến đi thăm tiếp theo.
Một trong những mỗi quan tâm chính của tôi trong chuyến đi thăm Angola và 2 chuyến đi Mô-dăm-bich trong năm 1976 là tìm xem mọi thứ đã nổ ra như thế nào sau gần 500 năm thống trị của Bồ Đào Nha. Và tại sao, đứng về mặt lịch sử mà nói, lại gần đồng thời trong những năm đó? Đó có phải là một sự phối hợp có tổ chức không? Khác với Việt nam, Campuchia và Lào, giữa Angola, Mô-dăm-bích và Ghi-nê Bít xao không có biên giới chung. Sự liên kết là ở đâu, là cái gì, và ngòi nổ?
Một điểm rõ ràng của mối liên kết đó là sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc châu Phi sau chiến tranh thế giới thứ hai ở các thuộc địa của Bò Đào Nha phát-xít không bộc lộ mạnh mẽ bằng các thuộc địa của các nền dân chủ nghị trường Anh, Pháp và Bỉ. Các nước dân chủ này có những phương tiện giáo dục lớn hơn nhiều và ít nhất cũng có một số tiếp xúc với thế giới bên ngoài và cũng có những nhóm gây sức ép bên trong các quốc hội nữa. Hơn nữa các nước đó đã tương đối bị kiệt quệ về kinh tế trong chiến tranh thế giới thứ hai hơn là Bồ Đào Nha. Họ không thể duy trì các cuộc chiến tranh thuộc địa và khi họ cố gắng làm, như trường hợp của Pháp ở Đông Dương và An-giê-ri và của Anh ở Ma-lai-xi-a và Kê-ni-a thì tổn phí vô cùng to lớn. Trong tinh thần “lợi ích ích kỷ có tính toán”, họ bắt đầu đưa lại nền độc lập bằng những phương pháp hợp hiến. Do đó những năm 1950 đã trở thành thập kỷ trong đó 26 thuộc địa Anh, Pháp và Bỉ giành được nền độc lập của họ (Ga-na giành được độc lập năm 1957), tất cả 11 thuộc địa của Pháp đều giành được độc lập của họ trong năm 1960.
“Nếu họ làm được thì tại sao chúng tôi không làm được?” Men-đét đờ Các-van-hô nói như vậy. Các-van-hô, viên thị trưởng nhỏ nhắn nhưng hoạt bát của Luanda, vào lúc tôi gặp, đã vô tình nhen lên cuộc kháng chiến vũ trang ở Angola. Ngoài vấn đề chế độ phát-xít Bồ Đào Nha, còn nhiều vấn đề đặc biệt khác trong các thuộc địa của Bồ Đào Nha. Trong các vấn đề xấu nhất, có một vấn đề luôn luôn có những tác động như bom nó chậm trong các thuộc địa cũ của Bồ Đào Nha, đó là vấn đề của những người lai và những người đa đen đồng hoá. Ông ta giải thích:
Chính sách cũ chia để trị đã được phát triển thành một phương pháp tế nhị hơn. Một người da trắng được xem là cao hơn một người da trắng lai, một người da đen và ngay người da đen cũng chia thành hai loại: người da đen đồng hoá là những người đã bỏ tính cách châu Phỉ của mình để đạt được một sự giáo dục tối thiểu và thật ra ngoài điều mà thực tế cho là một quy chế nô lệ và loại thứ hai là những người thổ dân da đen thấp kém, bình thường... Ở một số vùng người da đen đồng hoá được ở cách nơi ở của thổ dân một vài trăm mét để tỏ ra rằng họ đã đạt được “quy chế văn minh”. Trong những điều kiện như vậy làm sao chúng tôi có thể phát triển một ý thức về sự thống nhất thiết yếu cho một cuộc đấu tranh trong cả nước?
Chế độ quỷ quái đó có nghĩa là những người da đen duy nhất có học thức, một mặt, phải có địa vị lãnh đạo trong phong trào giải phóng và mặt khác, thường bị những người anh em kém quyền lợi hơn của họ nghi ngờ. Sự liên kết giữa các thuộc địa châu Phi có sự cách biệt nhau hơn của Bồ Đào Nha là luồng gió độc lập nóng bỏng thổi từ các vùng lân cận vào. Còn ngòi nổ là sự đàn áp dã man của người Bồ Đào Nha đối với mọi biểu hiện nhỏ nhất của những người dân thuộc địa về bất cứ ước mong nào mà những làng giềng của họ đã đạt được.
Những sự kiện tiếp theo là việc bắt bác sĩ A-gô-xti-nhô Nê-tô trong phòng khám bệnh ở Luanda của ông ta tháng 6 năm 1960, vì bị tình nghi có những ý kiến về nền độc lập, là một việc làm điển hình. Những người dân ở quê hương Ben-gô của ông ta và của làng I-cô-lô bên cạnh đã biểu tình chống lại cuộc bắt đó ở ngoài huyện lỵ Carthy-tê. Trong số khoảng 1.000 người biểu tình, quân đội Bồ Đào Nha đã bắn chết 30 người và làm bị thương 300 người. Ngày hôm sau, quân đội đã đốt trụi hai làng đó và giết hoặc bắt bất cứ ai mà họ gặp. Cuộc thảm sát Carthy-tê là ngòi nổ làm cháy thùng thuốc súng của cách mạng Angola. Việc bắt Nê-tô và sau đó ông ta bị đầy đến trại tập trung nổi tiếng Ta-ra-phan ở đảo Cáp Ve, và đỉnh cao của việc bắt bớ những nhà lãnh đạo quốc gia bị nghi ngờ, với quy mô lớn từ đầu năm 1959 đến giữa năm 1960. Men-đét đơ Các-van-hô là một trong những người bị bắt sớm nhất, và bị tuyên án 30 năm tù vì tội tuyên truyền chủ nghĩa quốc gia. Do việc đọc nhầm một tin mà ông ta gửi ra từ nhà tù. các bạn của ông ta hiểu là ông ta và những người của nhóm ông ta sẽ được chuyển về Lisbon, nghĩa là sẽ bị tử hình, người lãnh đạo của những người chuẩn bị một cuộc đấu tranh vũ trang, Im-pê-ri-an Xan-ta-na, quyết định rằng đã đến lúc phải hành động quân sự. Mười làm năm sau ông ta kể lại giai thoại đó cho tôi như sau:
Tất cả chúng tôi gồm 3.128 người cam kết tổ chức cuộc tấn công. Biện pháp của chúng tôi là mua cùng một thứ quần, sơmi và giày để dễ nhận bạn và thù. Nhưng làm như vậy thì mỗi người chúng tôi không còn đủ tiền khoảng 25 êcu-đô (khoảng 1 đô-la Mỹ) để mua một con dao. Ai có thể mua được thì mua. Những người khác thì vũ trang bằng búa, gậy hoặc cả đá nữa. Một khi có được vũ khí trong tay chúng tôi bắt đầu tập dùng dao, búa trong tấn công và phòng ngự v.v... Chúng tôi đi bộ và từng nhóm nhỏ đến Ca-cu-a-cô cách Luanda 22 ki-lô-mét và tập được ở đó 8 ngày. Ngày 3 tháng 2, chúng tôi nghe một số tin rắc rối và quyết định rằng: cuộc tấn công phải tiến hành ngay hôm sau, vì vậy chúng tôi trở về Luanda.
Họ tấn công không những nhà tù giam Các-van-hô và các đồng chí của ông ta mà còn cả trụ sở PIDE (cảnh sát quốc tế vì an ninh quốc gia của Bồ Đào Nha, tương đương với tổ chức Ghét-ta-pô của Quốc xã, một tổ chức Cảnh sát bí mật hoạt động ở Bờ Đào Nha và ở các lãnh thổ hải ngoại - ND), các doanh trại quân sự, các cơ sở hải quân, đài phát thanh và các toà nhà khác vào nửa đêm ngày 3 tháng 2. Lính gác bỏ nhà tù mà chạy, mang fheo chìa khoá của các phòng giam. Những người tấn công dũng cảm dùng dao và búa của họ nhưng không làm gì được đối với các cửa bằng thép rất chác chắn. Họ rút lúc 5 giờ sáng để lại 7 người Bồ Đào Nha chết mà không có người nào bị thương ở phía họ. Một tuần lễ sau đó họ lại mở cuộc tấn công, lần này trang bị tốt hơn để phá cửa ngục, nhưng bọn Bồ Đào Nha cũng sẵn sàng chờ đợi. Bị kẹp giữa quân đội chính quy ở phía trước và PIDE ở phía sau, những người tấn công đã bị thiệt hại nặng. Rồi bọn Bồ Đào Nha tiến hành một chiến dịch đàn áp tàn bạo, không phải chỉ ở Luanda mà trên khắp đất nước. Ngày 4 tháng 2 năm 1961 bây giờ được lấy làm ngày kỷ niệm cuộc đấu tranh vũ trang được phát động ở Angola. Về chính vị chỉ huy Im-pê-ri-a Xan-ta-na, người đã sống sót một cách thần kỳ qua 100 trận đánh, đã được vinh dự kéo lá cờ độc lập Angola trong một buổi lễ long trọng tại Luanda, một phút sau nửa đêm ngày 11 tháng 11 năm 1965.
Ở Mô-dăm-bích gần ba năm sau mới bắt đầu tiến hành cuộc đấu tranh vũ trang, nhưng hạt nổ vẫn là như nhau, đó là sự đàn áp dã man, thống đốc Bồ Đà Nha ở tỉnh cực bắc của nước đó, tỉnh Ca-bô Đen-ga-đô đã sắp xếp để gặp tại thị trấn quận Mu-ê-đa một phái đoàn 2 người từ nhóm quốc gia lưu vong đóng tại Tanzania. Họ sẽ trao bản điều trần yêu cầu chấm dứt sự bắt bớ độc đoán, chấm dứt lao động cưỡng bức, thất nghiệp và những điều kiện sinh sống không ổn định làm cho nhiều người chạy ra nước ngoài. Một thầy giáo, lúc đó 22 tuổi, đã tường thuật lại cho tôi điều mắt thấy tai nghe đã xảy ra ngày 16 tháng 6 năm 1960 tại Mu-ê-đa:
“Những đại biểu đã đến từ sáng sớm ngày 26... tên thống đốc đến... khoảng 3 giữ chiều. Hàng nghìn nhân dân vỗ tay hoan nghênh khi các đại biểu được mời vào phòng thư ký. Chẳng bao lâu họ lại trở ra. Bởi tên Thống đốc đi ra, bắt đầu bước xuống bậc tam cấp, có cảnh sát địa phương hộ tống. Mọi người được lệnh đứng nghiêm khi lá cờ được kéo lên. Nhân dân bắt đầu la: “Chúng tôi không đến để chào cờ, mà để biết ông sẽ giải quyết các vấn đề của chúng tôi như thế nào?”
Tên Thống đốc dừng lại và nói: “Tôi đến để xem xét tình lình ở tỉnh này. Chính phủ nghĩ rằng các anh có thể làm nhiều việc để tự giải quyết lấy các vấn đề của các anh bằng cách làm việc nhiều hơn, tăng thêm lạc và thu hoạch thêm đào lộn hột”.
Logged
ngao5
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 756


« Trả lời #34 vào lúc: 25 Tháng Mười Một, 2008, 07:07:55 am »

Tên Thống đốc lại vào phòng thư ký, và điều tiếp theo mà nhân dân nghe là những tiếng ẩu đã, đấm đá nhau và sau đó thì các đại biểu bị đẩy ra ngoài và xích tay trước đông đảo quần chúng. Theo yêu cầu của tên Thống đốc, một số phát ngôn của quần chúng cũng đã vào phòng thư ký và cũng đi ra với tay bị xích. Cảnh sát đẩy họ đến một vài chiếc xe mà tên Thống đốc đã gọi đến.
Nhân dân - kể cả tôi, bắt đầu tiến đến những chiếc xe đó và la lên: “Tại sao họ bị bắt? Ông không thể bỏ tù họ. Họ đã làm gì? Ông mời chúng tôi đến kia mà. Chúng tôi sẽ không rời khỏi đây cho đến khi các yêu sách của chứng tôi được giải quyết”.
Cảnh sát bắt đầu dùng báng súng và lưỡi lê đánh nhân dân và nhân dân đánh lại bằng đá. Lúc đó cảnh sát bắt đầu nổ súng và quân đội nấp sau những bụi cây bắt đầu tiến ra và bắn súng tự động từ phía sau. Khi nhân dân chạy toán loạn thì cảnh sát và binh lính bắn vào đám đông. Nhân dân ngã xuống như rạ, đàn bà, trẻ con, người già, khắp nơi người chết và bị thương, chồng lên nhau thành đống. Trên 600 người bị chết. Đó là Mu-ê-đa.
Thầy giáo trẻ tuổi trước đây đã kể cho tôi nghe tất cả những điều trên và nhiều điều khác nữa chính là An-béc-tô Giô-a-kim Si-pen-đê. Ông ta là Bộ trưởng Quốc phòng của nước Cộng hoà Nhân dân Angola khi ông ta kể những điều nói trên. Cũng giống như một thầy giáo trẻ khác, ông Võ Nguyên Giáp, ông ta đã rút ra từ những hành động lặp đi lặp lại của sự đã man thực dân một kết luận duy nhất có thể có là cầm ngay một kháu súng, cũng giống như ông Giáp, ông ta đã đích thân chỉ huy hành động vũ trang đâu tiên. Ngày 25 tháng 9 năm 1964, ông ta dẫn đầu một toán du kích tấn công 2 vị trí quân sự của Bồ Đào Nha ở tỉnh Ca-bô Đen-ga-đô và do đó dưới sự lãnh đạo của thủ lĩnh đầu tiên của Phrê-li-mô, E-đu-ác-đô Mông-dlan, cuộc đấu tranh vũ trang ở Mô-dăm-bích được bắt đầu.
Mozambia là thuộc địa cuối cùng trong 3 thuộc địa của Bò Đào Nha đứng lên cầm vũ khí. Ở Ghi-nê Bít-xao cuộc tàn sát các công nhân cảng tại cảng Pgi-gui-ti của Bit-xao tháng 8 năm 1959 đã bắt đầu quá trình nổ ra đấu tranh vũ trang tháng 1 năm 1963. Do đó, mặc dù lặng gió truyền nhiễm thổi qua toàn bộ châu Phi là nhân tố liên kết chính của cuộc đấu tranh vũ trang phổ biến tại các thuộc địa châu Phi của Bồ Đào Nha, bắt đầu từ giữa những năm 1961 và năm 1964, nhưng còn một giây liên kết nữa là sự man rợ không giới hạn đã được dùng để chà đạp lên các phong trào độc lập ở hết thuộc địa này đến thuộc địa khác. Và nếu ách thống trị thực dân của Bồ Đào Nha là đặc biệt kinh tởm thì cách ra đi của họ còn kinh tởm hơn. Do việc tôi đi nhiều bằng đường bộ ở Angola và Mô-dăm-bích, tôi thấy không thể không nhận thức về sự tàn phá độc ác, điên rồ tất cả cái gì mà bọn thực dân không mang theo được: xe tải máy kéo. máy ủi đất nằm kềnh càng dưới khe núi; những bộ phận chính của những bình hãm cả-phê bị đập nát hoặc bị tháo ra; những máy làm đường; mọi thứ từ ghế của bác sĩ chữa răng đến các bàn học sinh ở trường, đều bị vứt bừa bãi ở nông thôn.
Sự phá hoại lớn nhất là cuộc tháo chạy quy mô lớn của chính những người Bồ Đào Nha do sắp sửa mất tất cả các đặc quyên vì màu da của họ. Những người ít đặc quyền trong nước “mẹ” đã trở thành những người có đặc quyền tối cao ở thuộc địa. Vì người da đen, trừ những người da đen đồng hoá, không được học, thậm chí không được có khả năng kỹ thuật hoặc hành chính cho nên đất nước hoàn toàn do người Bồ Đào Nha quản lý ở tất cả các cấp.
Bây giờ với nền độc lập giành lại được, thì đa số rộng rãi những người Bồ Đào Nha có thể không chịu nổi những triển vọng của sự bình đẳng về chủng tộc, kể cả thực tế là đến một tương lai nào đó, họ sẽ phải tranh giành việc làm trên cơ sở của năng lực làm việc chứ không phải trên cơ sở màu da. Các phòng đọi của sân bay trong thời gian tới thăm Angola và Mô-dăm-bích đầy những người bỏ ra đi. Phần đông những người tôi ỏi tại sao ra đi họ đã trả lời một cách chung chung: “Tất cả bạn bè tôi đều ra đi, cho nên tôi cũng phải đi thôi”. Nhưng một người đản bà trung niên tại sân bay La-pu-tô đã đụng đến cốt lõi của vấn đề khi chị trả lời: “Chúng tôi cũng phải mang căn cước và những người da đen mặc quân phục có thể ra lệnh cho chúng tôi phải xuất trình”.
Trong quá khứ chỉ những người da đen mới mang giấy căn cước và bất cứ người da trắng nảo, dù là một quan chức hay không đều có thể hỏi bất cứ người da đen nào vào bất cử lúc nào để anh ta xuất trình giấy căn cước đó. Trước kia người da đen bị xem là người bị nghi là phạm tội. Bây giờ người da trắng lại bị nghi là phạm tội. Đó ít nhất là một khái niệm “vô lý” mắc vào cổ của những người ra đi như những xương cá.
Với việc bỏ ra đi ào ạt, Angola và Mô-dăm-bích không còn những người lo công việc buôn bán và các nghề mà trước kia thuộc phạm vi hoạt động của những người Bồ Đào Nha. Do cướp đoạt nhân tài bằng việc xuất khẩu nô lệ từ Angola trong nhiều thế kỷ và do cướp đoạt tài nguyên như dầu, kim cương và cả-phê của Angola, than đá, thuỷ điện và nông phẩm của Mô-dăm-bích v.v... người Bồ Đào Nha đã để lại đây những nền kinh tế kiệt quệ và những xã hội hầu như hoàn toàn phả sản chẳng có kỹ năng và kinh nghiệm cần thiết để xây dựng một cuộc sống mới.
Các cuộc đi thăm châu Phi đánh dấu một đường phân giới trong các quan hệ của tôi với Bắc Kinh. Giống như nhiều bạn cũ khác của Trung Qu6c của Mao, tôi thật bối rối, nếu chỉ dùng từ thấp nhất như vậy, trước chung quanh co khúc khuỷu trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc ủng hộ Ô-gu-xtô Pi-nô-chê ở Chi-lê là không thể nào chịu đựng được. Còn hơn thế nữa là sự ủng hộ của Trung Quốc đối với tên tay sai được CIA trả tiền Hôn-đen Rô-béc-tô và FNL mà hắn đứng đầu và sự ủng hộ to lớn dành cho Xa-vim-bi. Theo người bạn cánh tả của tôi ở Paris, London và những nơi khác đã tìm hết cách thuyết phục tôi rằng Xa-vim-bi là nhà lãnh đạo quốc gia thực sự duy nhất và họ đã lấy sự ủng hộ của Trung Quốc để làm một trong những lý lẽ thuyết phục nhất đó.
Nếu lúc đầu tôi còn dè dặt trong việc chỉ trích Trung Quốc, đó là bởi vì tôi chưa đi Angola và tôi cố tìm cách làm cho hợp lý bằng việc giải thích rằng vì châu Phi quá xa lạ so với các vấn đề của Trung Quốc lên ban lãnh đạo Trung Quốc có lẽ không biết một cách đúng đắn vai trò thực sự của Rô-bée-tô và Xa-vim-bi. Những dè dặt của tôi đã tan biến sau khi tôi đã thấy tình hình tại chỗ và nhất là sau cuộc nói chuyện với Luyci-ô La-ra, Tổng thư ký của MPLA. Là một nhà kỳ cựu Bồ Đào Nha lai, từ những ngày đầu của cuộc đấu tranh vũ trang, ông ta đưa cho tôi một bản đồ ngả màu vàng và đã bị đánh dấu chi chít của quyển Phía bắc vĩ tuyến 17 của tôi để xin chữ ký. Ông ta đã cùng với Nê-tô đến Trung Quốc tháng 7 năm 1974. Phái đoàn đã được Chu Ân Lai đón tiếp rất nồng nhiệt. Nê-tô đã thông báo cho ông ta về tình hình chung. Khi Nê-tô nhắc đến vai trò của Hôn-đen Rô-béc-tô Chu Ân Lai cắt ngang và nói: “Không cần nói thêm nữa. Chúng tôi biết Rô-béc-tô là một tay sai tự tuyên bố của chủ nghĩa đế quốc Mỹ! Khi Nê-tô nói đến vai trò của Xa-vim-bi như là một tay sai của Bồ Đào Nha và Nam Phi, Chu Ân Lai nói: “Chúng tôi không biết gì nhiều lắm về Xa-vim-bi. Nếu bạn có thể cung cấp chứng cớ về sự phản bội của ông ta, chúng tôi sẽ bỏ rơi ông. Kết quả cuộc gặp là một cam kết tăng viện trợ cho MPLA; là cắt các quan hệ với FNLA, kể cả viện trợ quân sự thêm nữa; duy trì những quan hệ ở mức thấp với UNITA trong khi chờ đợi nắm thêm tin tức.
Tháng 5 năm 1975 Luci-ô La-ra lại đi Bắc Kinh. Chu Ân Lai nằm bệnh viện, và phải đoàn mà La-ra dẫn đầu cũng được cùng một Phó Thủ tướng (không phải Đặng Tiểu Bình) và cùng một Thứ trưởng Ngoại giao như lần trước tiếp. La-ra đọc lại những ghi chép của mình trong cuộc họp trước và bày tỏ sự ngạc nhiên rằng sự ủng hộ của Trung Quốc đối với FNLA cũng như sự ủng hộ đối với UNITA, mặc dù đã được cung cấp tải liệu chứng minh sự phản bội của Xa-vim-bi còn mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
- Không khí đã hoàn toàn thay đổi - La ra nói - Chúng tôi được nói một cách rất lạnh nhạt rằng tất cả điều của chúng tôi phải làm là triệt để tôn trọng các điều khoản của Hiệp định An-vo. Chúng tôi đưa ra những chứng cớ về những tàn bạo mà FNLA gây ra ở Luanda. Chẳng có ích lợi gì. Một vài tháng sau, các cố vấn quân đội Trung Quốc đã ủng hộ quân FNLA và quân Da-ia trong các cuộc hành quân của chúng chống MPLA.
Như vậy, tôi biết rõ ràng không phải vì Trung Quốc có những tin không đúng về các công việc ở Angola. Trong một loạt các bài sau chuyến đi thăm đầu tiên, tôi chẳng đắn đo gì trong việc chỉ trích vai trò của Bắc Kinh. Không lâu, sau đó tôi càng tin rằng không phải chỉ ở châu Phi xa xôi chính sách đói ngoại của Trung Quốc mới có một sự đổi hướng nhục nhã như vậy.
Logged
ngao5
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 756


« Trả lời #35 vào lúc: 25 Tháng Mười Một, 2008, 07:08:41 am »

16. Khmer Đỏ và sự rồ dại to lớn
Đầu tháng 5 năm 1979, tôi đi từ thành phố Hồ Chí Minh đến Phnompenh lần đầu tiên kể từ khi chiếc máy bay từ Numea đi Paris đổi hướng không ghé lại Phnompenh nữa vào tháng 3 năm 1970.
Những cánh đông tươi tốt, những phiên chợ rộn ràng hai bên đường cho đến thị trấn biên giới thú vị trước đây, thị trấn Ba Vẹt trong góc phía bẳc của vùng “Mỏ Vẹt”. Ba Vẹt đã từng là nơi đi chơi chủ nhật của những ngày trước đây điều thích thú của nó là chợ “ngoài trời” mà ở đó người Campuchia và người Nam Việt nam đến để trao đổi bất cứ thứ hàng lậu nào mà bên này có nhưng bên kia không có, trước sự làm ngơ chính thức của cả đôi bên. Ba Vẹt chỉ còn lại những mảnh vụn phủ có với những bức lường sụp đo của một trụ sở cảnh sát biên phòng của Nam Việt nam trước đây. Cuộc sống đã chấm dứt ỏ biên giới. Tỉnh Xoài Riêng phía bên kia chỉ còn là một bóng ma. Ngay những cây thốt nốt đã từng đứng hai bên đường đến khoảng vài dặm đi vào biên giới cũng đã biến mất.
Trên gần 25 dặm, chúng tôi chạy qua một vùng nông thôn không còn dấu vết của sự sống, không có thôn xóm, không có nhà cửa, chỉ còn những vết tích của những ruộng bậc thang nói lên rằng ở đó đã từng là nơi sản xuất nhiều lúa gạo. Đứng trên đầu xe nhìn ra xa (và về sau được xác nhận bằng việc bay trên khu vực đó) người ta có thể thấy hàng trăm nghìn mẫu Anh ruộng màu mỡ của Campuhia trong đồng bằng sông Cửu Long đã bị bỏ hoá. Chúng tôi chạy qua một phần của vùng không người mà ban lãnh đạo Khmer Đỏ lập ra để tránh sự “ô nhiễm” của người Việt nam đối với người Campuchia. Một vài dặm trước khi đến tỉnh lỵ Xoài Riêng, chúng tôi thấy những dấu hiệu đầu tiên của kiệu công xã nông nghiệp do ăngca đưa ra. (Ăngca là một “tổ chức” mà nhân danh nó mọi việc đều được tiến hành từ việc đào rãnh và đốt sách cho đến việc cắt họng và đập sọ). Đó là những vùng hình chữ nhật lớn dài 1.000 thước anh, rộng 500 thước Anh, vây quanh bằng những bức tường cao tói 3 đến 4 bộ Anh và ốôi nhau bằng những con sông đào tưới nước. Bên trong cái bức tường xây bằng đất nện, những hình chữ nhật đó được chia thành những hình vuông 100 thước Anh mỗi chiếc và được tưới bằng một hệ thống tưới nước bằng sức hút. Nhưng về sau chúng tôi nhận thấy là hệ thống đó luôn luôn thiếu nước vì không có nguồn cung cấp ổn định. Đi qua Xoài Riêng, quang cảnh điển hình nhất là những nhóm nhỏ, chủ yếu là đàn bà và trẻ con kéo những xe bò nội địa. Những đứa trẻ ở lứa tưới từ 13 đến 19 và nhỏ tuổi hơn nữa rất hiếm vì trẻ em trên 12 tuổi đã bị lấy vào lực lượng vũ trang và có rất ít khả năng được trở về với gia đình. Sự thiếu ăn, làm việc quá sức và những căng thẳng về tâm lý đã giảm nhiều tỷ lệ sinh đẻ và tăng cao tỷ lệ tử vong của trẻ con. Nhóm đầu tiên mà tôi nói chuyện ngồi quanh một chiếc xe bò giống phư một chiếc quan tài với bánh bằng gỗ. Họ là 7 người sống sót của một gia đình 5 người đã lưu lạc trên đường 4 tháng trời, nay đang trở về quê ở Xoài Riêng. Từ nơi mà họ bị bắt buộc phải đến ở tại tỉnh Puốc-xát gần biên giới Thái Lan. Bị cháy đen vì nắng và chỉ còn da bọc xương do làm việc quá sức mà ăn thi không đủ, nhưng họ vẫn mỉm cười bởi vì họ biết sắp đến đích. Đồ dùng ít ỏi không đáng kể của họ chi có vài bộ áo quần, vài cái cuốc và một tá những hom sắn mà chỉ cần cắm xuống đất là bắt đầu mọc mầm và quý hơn tất cả, là một nồi nấu ăn đã đen vì khói, mà không có nó thì họ không thể nào ra đi được.
Tại một ngã ba đường trước khi qua sông Mê Công tại Niếc Lương, chúng tôi nói chuyện với một nhóm 21 người gầy còm của một gia đỉnh: một người đàn ông đã trưởng thành, hai bà già mặt nhăn nheo: một trẻ em 15 tuổi nhưng có vẻ chỉ 10 tuổi; số còn lại là đàn bà và trẻ con. Họ đẩy xe bò tự tạo của họ từ làng Prâyxlây tỉnh Xoài Riêng trong 8 ngày rồi và tính còn 8 ngày nữa mới đến quê ở tỉnh Căn-đan, có Thủ đô Phnompenh. Việc di chuyển đã được thực hiện theo cả hai hướng, với tỷ lệ ba hoặc bốn xe đi về phía đông so với một chiếc đi về phía tây. Một người phụ nữ cô đơn với một ít đồ đạc cột vào hai đầu của một chiếc đòn gánh là một y tá của tỉnh Xoài Riêng di chuyển với chồng và bốn con lên vùng núi có bệnh sốt rét gần biên giới Thái Lan. Chồng và hai con của chị bị Pol Pot giết (Pol Pot đồng thời là tên của chế độ đó); hai đứa con khác bị chết vì sốt rét. Chị ta hy vọng tìm được bố còn sống ở Xoài Riêng và sẽ ở với ông hoặc với một vài người láng giềng của mình. Một phụ nữ dũng cảm, một mình trên thế giới với hy vọng trên 50% ít tìm lại được bố hoặc bất cứ người láng giềng nào còn sống trong khi đợi phà qua sông Mê Công ở Niếc Lương, tôi đến xem một cái chợ độc đáo nhất mà tôi chưa hề thấy. Người bán hàng ngồi xổm trên đất với một vài thúng cá và hoa quả đầy ruồi mặc cả với người mua với giá được trả bằng gạo. Chợ và tiền đã bị “Pol Pot” huỷ bỏ và nếu ai mặc áo quần không đúng màu đen tiêu chuẩn sẽ bị xử tử. Gạo bây giờ thành vật ngang giá, và tiêu chuẩn đo lường là một ống sữa bò tròn.
Trong quyển sách viết khoảng 6 tháng sau khi thoát khỏi nơi “giam tại gia”, chính Sihanouk đã từng xác định tính chất của Pol Pot và Ieng Sary là kẻ điên dại. Chỉ cần một vài giờ vào trong đất nước này và một vài cuộc nói chuyện với một vài người trong số hàng chục nghìn người sống sót có thể nhận thức được rằng lúc đó Sihanouk đã đúng như thế nào. Không có ai, chỉ trừ những kẻ điên dại, mới nhổ tận gốc cả một dân tộc, bắt họ đi từ đông sang tây, từ nam sang bắc và ngược lại, với mục đích là cắt đứt nhưng tiếp xúc đã được thiết lập hàng thế kỷ với người láng giềng Việt nam? Không có ai trừ những kẻ điên dại mới ra lệnh phá huỷ cày và lưới dành cá, nồi nấu ăn và đụng cụ gia đình chỉ vì chúng có mùi của các phương thức sản xuất và sốnlg theo lối cá nhân, trái ngược với lệnh thực hiện “chủ nghĩa cộng sản ngay tức khắc” của Ăngca. Không có ai trừ những kẻ điên dại giết người mới tàn sát 40% đồng bào của mình, đến 3 triệu người và cố tình buộc cả một thế hệ trẻ con xem các hình thức tra tấn và giết người đã man nhất là một trò đùa lớn. Đó là hình ảnh nói lên từ các cuộc nói chuyện với những “con người trên đường” cũng như với những người đã được phỏng vấn vài tháng trước đây khi họ đến tìm nơi trú ẩn ở Việt nam. Tại chiếc cầu Mô-ni-vông bắc qua sông Tông-lê Xáp đi vào Phnompenh, những nhóm người nối đuôi nhau đi về hướng tây. Họ gồm hai loại: những người cần đi qua thành phố ở tiếp tục đi xa về phía tây hoặc phía nam để về quê. Những người này được cấp một giấy phép ở lại thành phố đủ thì giờ để nghỉ và chuẩn bị thêm cho việc đi đường. Loại thứ hai là những người quê ở Phnompenh, muốn trở về nhà cũ của họ. Những người này được giải thích là ở thành phố hiện nay không có điện, nước máy hoặc hệ thống cống rãnh, lương thực thiếu và không có việc làm. Họ được yêu cầu tạm ở ngoại ô một thời gian để trồng rau cung cấp cho thành phố. Tên tuổi và khả năng làm việc của họ đã được ghi lại và chỉ cần một người trong gia định có việc làm là họ có thể vào thành phố và sẽ được cấp nhà và lương thực. Hoặc một khi họ đã ổn đình được nơi ở mới, họ có thể vào thành phố thăm nhà cũ và mang đi những tài sản cũ của họ.
Nếu ấn tượng đầu tiên về Xoài Riêng là một thành phố ma thì Phnompenh là một thành phố quỷ. Lái xe qua đại lộ Norodom, những toà nhà đại sứ quán thanh lịch trước đây bây giờ rất vắng vẻ, đổ nát và chẳng có một bóng người; chúng tôi đi vào khu buôn bán. Thật là một cảnh tượng không thể nào tin được với những cửa hàng trống rỗng, không có mặt trước, giống như không thùng trống nằm cạnh những vật đồ nát và rác rưởi tràn ra đến tận vỉa hè. Trừ một vài lính gác ở các góc đường hướng dẫn cho một lượng xe ít ỏi qua lại, và một vài trẻ con đào bới ở một đống rác, cho đến lúc chúng tôi đến khách sạn Hoàng Gia cũ vào lúc mặt trời lặn không còn thấy ai nữa. Quanh mảnh vườn trước kia được giữ gìn rất cần thận, trừ một vài con lợn đang kiếm ăn, quang cảnh cũng ít nhiều giống như vậy. Cây cọ với những chiếc lá giống như một chiếc quạt lớn, vẫn còn đứng ở cổng vào. Trước mặt là trường Ly-xê Đê ac-tơ nơi các con tôi học trước đây.
Một trong những nơi đến thăm đầu tiên của tôi là trường trung học Tung Xleng, nơi đã bị biến thành một trung tâm huỷ diệt. Chính ở đó hàng nghìn nhà trí thức, nhà khoa học, bác sĩ và nhà yêu nước tốt nhất của đất nước đã bị tra tấn một cách tàn ác trước khì bị cắt họng đập nát đầu hoặc chặt đầu, hoặc bị đưa đến cõi chết bằng mổ bụng hoặc bằng những biện pháp tàn bạo khác. Đó là những toà nhà ba tầng xây dựng theo kiểu chữ môn (ba bên của một hình vuông), chung quanh có một bức tường cao 10 bộ Anh bằng gạch tráng xi-măng bên trên gài giây thép gai có điện.
Buồng đầu tiên nạn nhân vào được trang bị một máy ảnh để chụp những ảnh nhận dạng có số; bên cạnh là một buồng khác để tra điện trong trường hợp nạn nhân chậm nói về các chi tiết của gia đình anh ta. Sau khi các thủ tục nhận dạng làm xong, những người tù được đưa đi, theo sự xếp hàng mà Pol Pot đề ra. Những tù nhân rất quan trọng như những đồng chí của hắn ta trong ban lãnh đạo Khmer Đỏ, những nhà ngoại giao và những người khác đều bị xích chân riêng trong xà-lim; những tù nhân quan trọng tiếp theo bị xích chân hai người một trong những xà-lim bê tông cốt sắt không cửa, dài 6 bộ và rộng 3 bộ; những tù nhân thường thì cùm chân tập thể 10 hoặc 12 người trong một chiếc cùm dài. Lúc hỏi cung, tù nhân bị chuyển đến một trong một lớp học ở tầng hai. Đồ đạc trong buồng có vẻ cực kỳ khắc khổ: một khung giường bằng sắc không có nệm, một bàn với một máy chữ và hai ghế ngồi, một cho người hỏi cung, một cho người đánh máy biên bản những “lời thú tội”. Treo trên tường là búa, dao, dao nhà bếp lưỡi có răng cưa, vỏ gỗ, kẹp sắt và kìm.
Hồ sơ hàng ngày của những người bị tra tấn và bị giết đã được viết sạch sẽ bằng tay với những ghi chú bằng mực đỏ nói rõ kiểu chết của những nhân vật nổi tiếng, kẻ cả những ảnh của các thi thể kèm vào các lời “thú tội”. Phụ trách trường Tung Xleng vào lúc tôi đi thăm là một giáo viên trung học trước đày của Phnompenh, Bà Ing Saryn. Với 3 người giúp việc, bà đang cố gắng phân loại những nạn nhân. Do đó tôi được biết rằng một trong những bạn thân của tôi, Hướt Xâm-ba-thơ, Đại sứ của Sihanouk tại Liên hợp quốc và Đại sứ của Pol Pot ở Belgrad, đã bị giết vài ngày sau khi ông ta từ Belgrad trở về nước tháng 9 năm 1976 tham dự cuộc họp xác định chính sách đối ngoại của đất nước. Trong danh sách chưa đầy đủ của những nhà ngoại giao được mời về cùng mục đích như đã nói ở trên và đã bị giết tại Tun Xleng có Đại sứ ở Liên Xô, Ai Cập, An-giê-ri và các nước khác.
Tôi chọn bừa một số ngày để có một ý niệm về số thương vong hàng ngày. Kết quả là như sau:
Ngày 21 tháng 8 năm 1976: 91 người
Ngày 31 tháng 8 năm 1976: 92 người
Ngày 7 tháng 10 năm 1976: 66 người
Ngày 6 tháng 12 năm 1976: 104 người
Ngày 20 tháng 6 năm 1977: 266 người
Ngày 3 tháng 8 năm 1977: 186 người
Cùng một thời gian 6 ngày, 147 sinh viên và trí thức khác, hầu hết còn là sinh viên hoặc đã tốt nghiệp về kinh tế, kế hoạch, kỹ sư và y học, được mời từ Pháp về để tham gia xây dựng đất nước đã bị tra tấn và giết hại.
Tỷ lệ tra tấn đến chết hàng ngày dường như phụ thuộc hoàn toàn vào thời gian cần thiết để khai thác những lời thú tội được coi là thoả đáng. Bà Ing Saryn cho tôi xem một “sách đen” hướng dẫn quá trình hành động mà bà nói là do chính tay Pol Pot tự viết. Trong tiểu mục lấy cung như thế nào bà ta dịch như sau: “Mỗi một người tự phải biết điều sẽ xảy ra, hắn sẽ bị giết, do đó hắn sẽ thú tội nhanh chóng. Nhưng không ai có thể bị giết nếu chưa có lời thú tội đầy đủ”. Tầm quan trọng của việc chưa giết trước khi khai thác được những lời thú tội đầy đủ đã được nhấn mạnh trong một tài liệu tổng hợp những kinh nghiệm khi hỏi cung tại một phiên họp nghiên cứu của Nhóm 21 thuộc Khmer đó, lúc đó phụ trách trung tâm Tun Xleng. Tài liệu đề ngày 23 tháng 7 năm 1977, đỉnh cao của chiến dịch tàn sát toàn quốc, nói như sau:
Trong lúc hỏi cung, chúng tôi phân tích lý lịch của mỗi kẻ thù để hiểu sâu sắc xu hướng chính trị, trung tâm hoạt động, các quan hệ, nghề nghiệp và gia đình của hắn ta. Chúng tôi nghiên cứu những ảnh hưởng đó trong quá trình tác động đến hắn với một cách nhìn cả về lượng lẫn về chất và cuối cùng thì phát hiện hắn là một tay sai của CIA...
Đối với phương pháp tra tấn, chúng tôi phải triệt để rút ra những kết luận đúng đắn và luôn luôn tránh những biện pháp đưa lại cái chết... sai lầm? Chúng tôi không làm việc thực sự tốt, chúng tôi không có tiến bộ. Đó là để nói rằng chúng tôi không có nhảy vọt thực sự. Tất cả chúng tôi chẳng làm được tốt như vậy!
Ngày 7 những 1 năm 1979, khi các lực lượng Pôn Pồt sụp đổ và chạy từ Phnompenh xuống phía nam trong cuộc tháo chạy hỗn loạn, 14 trong 16 giường tại Tun Xleng đầy những thi thể nhiều thi thể bị chặt đầu, một số bị mổ bụng, những thi thể khác có những vềt cắt sâu ở họng. Hồ sơ, ảnh và tất cả đều bị bỏ lại, bên cạnh đó còn bốn thanh niên và bốn trẻ em tuổi 4, 8, 11 mà bố mẹ đã bị giết đó cũng bị bỏ lại. Những thanh niên đó là những nghệ sĩ mà cuộc đời đã được kéo dài vì bị buộc phải làm việc 16 giờ một ngày để đắp tượng nửa người cho Pol Pot. Họ đắp thế nào mà Pol Pot giống Hoa Quốc Phong, nguyên thủ Trung Quốc một cách kỳ lạ Đó là những người duy nhất, không kể nhân viên Nhóm 21, đã ra khỏi Tun Xleng sau khi đã vào qua cửa của nó.
Trong những chuyến đi thăm tiếp theo, tôi thấy rằng ở mỗi tỉnh mà tôi đến thăm như Xiêm Riệp, Công-pông Xpơ Prây-veng. Xoài Riêng và Công Pông Chàm đâu đâu cũng đều có những trung tâm chuyên việc sát hại những nhà trí thức như vậy. Những “người bất bình” đối với các điều kiện lao động nô lệ và đối với chế độ ăn chết đói, đều bị giải quyết ngay tại chỗ.
Logged
ngao5
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 756


« Trả lời #36 vào lúc: 25 Tháng Mười Một, 2008, 07:09:22 am »

Sự tàn ác thực hiện ở những nơi tra tấn và cách giết hại cũng giông như sự đã man áp dụng cho mỗi người, từ người già đến phụ nữ, trẻ con trong các cuộc tấn công vào các làng biên giới của Việt nam. Nói chung. những tin về tình hình này đã bị phương Tây cho phần lớn là tuyên truyền của Việt nam. Nhưng đối với các xã ở Thái Lan cũng bị đối xử giống như vậy, như đoạn trích sau đây của một công hàm phản đối do Bộ Ngoại giao Thái Lan công bố ngày 31 tháng 1 năm 1977 nói rõ:
Vào 2 giờ đêm thứ sáu ngày 28 tháng 1 năm 1977 những đơn vị lực lượng vũ trang lớn của Campuchi dân chủ, ước tính khoảng 300 lính Khmer Đỏ trang bị những vũ khí mạnh giết người, đã xâm nhập lãnh thổ Thái Lan và không hề có lời cảnh cáo nào đã tiến công ba mặt vào ba xã Thái Lan... Những binh lính Khmer Đỏ nói trên bắn vào những người Thái vô tội và đốt sạch tất cả nhà cửa. Những tên sát nhân đó không những bắn chết bất kỳ ai chúng trông thấy, kể cả những phụ nữ bất lực mà cỏn làm biến dạng các thi thể và cắt họng trẻ con và trẻ sơ sinh. Trước khi chúng bị đẩy trở về bên kia biên giới đơn vị tàn sát của Khmer Đỏ đã tìm cách đốt mùa màng, và giết hại gia súc để hoàn thành nhiệm vụ khát máu của chúng...
Công hàm phản đối đó tiếp tục trích những tin của tạp chí Tuần châu Á, tạp chí Thời báo, Tuần tin tức và những tạp chí khác với những chi tiết khủng khiếp. Những tường thuật như vậy hầu như phù hợp từng chữ một với những tường thuật về những cuộc tấn công tương tự chồng lại các xã Việt Nam trên toàn biên giới Campuchia, bắt đầu từ tháng 5 năm 1975. Những tường thuật của những người chứng kiến tại chỗ cũng nhận lấy sự hung hãn của bọn tấn công. Công hàm phản đối của Thái Lan vạch rõ ràng, trong thư trả lời của họ, chế độ Pol Pot - Ieng Sary không cải chính những điều nói về tội ác, nhưng rêu rao rằng ba xã đó là của Campuchia, nên Campuchia có “mọi quyền sáp xếp lại công việc nội bộ của nó”.
Tính hung ác tính thích làm hại, tính bài ngoại và tính muốn làm chúa tể là những biểu hiện tính đại rồ dại của Khmer Đỏ. Bằng cách chọn cái tên Ăngca để chỉ quyền lực tối cao đối với mọi hành động và luật lệ Pol Pot muốn chứng tỏ rằng y muốn đồng nhất chế độ của y với uy tín của Đế chế Ăng-co. Lý do tấn công Việt nam và Thái Lan là nhằm khôi phục một phần lãnh thổ của đế chế trước đây. Bằng cách xem lại các sự kiện dọc theo biên giới cuối năm 1978 và năm 1979 tôi thấy khó chấp nhận được những tuyên bố của những lính Khmer Đỏ bị bắt, rằng mục tiêu của chúng là chiếm đóng bằng sông Cửu Long của Việt nam, thậm chí chiếm cả Sài Gòn. Tôi cảm thấy quá gượng gạo và, do luôn luôn không muốn đưa cho các bạn đọc của tôi những tin mà tôi không tin lắm, nên tôi đã không tường thuật về những tuyên bố đó. Tôi xem đó như những ảo tưởng của một tên lính không có học thức hoặc là những lời khoác lác của những tên chỉ huy hoặc những sẽ quan cũng không có học thức như hắn.
Khi người ta đã đọc Sách đen của Bộ Ngoại giao Khmer Đỏ xuất bản, thì không thể có kết luận nào khác ngoài kết luận rằng ít nhất Pol Pot, Ieng Sary và tên chỉ huy quân sự của chúng Son Sen, đã tự lừa mình là có thể tấn công quân đội Việt nam và thắng quân đội đó. Chúng thậm chí còn khoe khoang rằng chính chiến công quân sự của chúng đã đánh bại Mỹ ở Campuchia và ở Việt nam. Trên thực tế, như Sihanouk đã vạch ra, chính các lực lượng của tướng Giáp đã đóng vai trò quyết định trong bốn cơ hội quyết định, trong việc đánh bại chế độ Lon Nol được Mỹ ủng hộ. Nhưng như Sihanouk tiết lộ, Pol Pot làm ra vẻ như đó là nhờ “thiên tài quân sự” của chính hắn ta.
Với mọi tính chất nghiêm trọng của nó, Pol Pot, Ieng Sary, Khieu Samphan và những kẻ khác rêu rao rằng với những vũ khí thô sơ và nguyên thuỷ, quân đội của chúng đã thành công trong việc quét sạch hầu hết các sư đoàn bộ binh, các đơn vị thiết giáp và các phi đoàn của địch.
Tất nhiên yêu nước là tốt, nhưng cố tình có thái độ sô-vanh và thiếu thiện chí để phủ nhận vai trò ưu thế - nói đến vai trò ưu thế, đó là mới nói lên cái tối thiều, của những người đồng minh và đồng chí chiến đấu Bắc Việt nam của mình trong việc chặn đứng và đầy lủi bọn xâm lược Mỹ vào Sài gòn trong những năm 1970, 1971 và 1972, là một việc làm không những sỉ nhục họ mà còn sỉ nhục chính lịch sử nữa. Đó là việc làm không giúp ích được gì cho tư thế của những người đưa ra những phủ nhận nói trên.
Hết lần này đến lần khác, Sihanouk nhắc đến những ảo tưởng điên cuồng của Pol Pot và một nhúm người quanh hắn, cho rằng chính chúng, chứ không phải người Việt nam là những người làm nên thất bại của Mỹ ở Đông Dương. Đó là câu chuyện hoang đường được khuyến khích ở Bắc Kinh và được nhiều người Mao-ít phương Tây phù hoạ.
Bất hạnh thay, Pol Pot đã để cho đầu của hắn xoay chuyển quá sớm về những thắng lợi “của hắn ta” đến mức tự sánh mình với những người chính phục của quá khứ như A-lêcxan-đrơ Ma-xê-đô-ni-a, Xê-da của Rô-ma như Napoleon người Coóc-xơ và tên Quốc xã Hít-le...
Tháng 9 nãm 1975 khi lần đầu tiên trở lại Campuchia “giải phóng” theo lời mời của các nhà lãnh đạo Khmer Đỏ, tôi vô cùng ngạc nhiên nghe Khieu Samphan, Son Sen và những người khác nói vớii tôi với những nụ cười toe toét và với những vẻ mặt rất bằng lòng rằng quân đội của họ rất bất bình với “đảng” bởi vì đảng không cho họ đèn xanh để thu hồi Campuchia Khom (Campuchia phía dưới- ND) về các quận biên giới với Thái Lan.
Việc các nhà lãnh đạo Khmer Đỏ đã có ảo tưởng đến mức cuồng tín như vậy hoặc ít nhất là thuyết phục những kẻ theo họ tin tưởng một cách mù quáng như vậy, đã được nói rõ trong Sách đen mà luận thuyết chính là các lực lượng cách mạng Việt nam đã đến lúc sụp đổ hoàn toàn vào tháng 3 năm 1970 và được cứu thoát nhờ cuộc đảo chính chống Sihanouk. Tình hình công việc ở Nam Việt nam trước cuộc đảo chính được mô tả trong Sách đen 89 trang, chỉ có thể so sánh với những ảo tưởng của tướng Oét-mo-len trước cuộc tấn công Tết Mậu Thân.
Trước cuộc đảo chính, Việt cộng không thể trốn tránh trong đất nước của họ được chỉ vì họ đã không giải phóng được một tấc đất nào. Vòng đai phòng thủ thứ ba của Sài gòn do Mỹ và tập đoàn Thiệu thiết lập đã được kéo dài đến tận biên giới Campuchia. Chính từ lãnh thổ Campuchia mà Việt cộng xuất phát để đánh Mỹ và tập đoàn Thiệu. Đó là một thực tế mà mọi người đều biết.
Liền sau cuộc đảo chính, theo Sách đen, ông Phạm Văn Đồng đến Bắc Kinh với “mục tiêu chính của ông ta là giành được sự giúp đỡ của Đảng cộng sản Campuchia và bảo vệ các lực lượng Việt nam trong lúc khó khăn”.
Nếu có nhóm nào đó không biết điều gì xảy ra trên chính đất nước của họ và ở miền Nam Việt nam thì đó là Khmer đó. Vào lúc cuộc đảo chính ngày 18 tháng 3 năm 1970, Pol Pot và Ieng Sary ở Bắc Kinh. Khieu Samphan, Hu Nim và Hou Yuon ở Hả Nội. Với tư cách là một lực lượng chiến đấu thì họ không tồn tại, và với tư cách là một tổ chức chính trị thì trên thực tế họ chẳng có sự ủng hộ nào của nhân dân cả. Vì đã dại dột tiến hành một cuộc đấu tranh vũ trang chống Sihanouk năm 1967 và 1969, các lực lượng Khmer Đỏ đã bị đánh bại hoàn toàn. Một số người sống sót đã lẩn tránh ở những căn cứ cũ dọc theo biên giới với Thái Lan và Việt nam, đã từng được sử dụng trong cuộc kháng chiến chống Pháp trước kia.
Đầu năm 1967, tôi được một cán bộ lãnh đạo Khmer Đỏ tiếp xúc ở Phnompenh đề nghị tôi mở rộng sự ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc của tôi sang cuộc đấu tranh vũ trang sắp được tiến hành chống Sihanouk. Tôi từ chối trên cơ sở rằng (a) không có tính chất “dân tộc” trong cuộc đấu tranh đó bởi vì Campuchia không nằm dưới một sự thống trị nào của nước ngoải; (b) chẳng có áp bức nội bộ đến mức có thể bào chữa cho một hành động vũ trang hoặc tập hợp nông dân để ủng hộ hành động đó; và (c) việc lật đổ Sihanouk sẽ là đâm một nhát dao vào lưng của Việt nam và là một món quà có lợi nhất cho Mỹ. Câu trả lời giận dữ của họ lúc đó là: Anh không thể yêu cầu một nước kìm cách mạng của họ lại vì lợi ích cách mạng của một nước láng giềng. Trên thực tế, thật là vô lý nếu nói đến một tình thế “cách mạng” ở Campuchia vào lúc đó.
Logged
ngao5
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 756


« Trả lời #37 vào lúc: 25 Tháng Mười Một, 2008, 07:09:42 am »

Về cách nhìn tình hình ở Việt nam vào lúc ông Phạm Văn Đồng đến thăm Bắc Kinh, quyển Sách Đen viết:
Lúc đó người Việt nam ở trong một tình hình thư sau: Trước mặt đội quân Mỹ và quân đội của tập đoàn Thiệu đã quét lực lượng Việt cộng ra khỏi Nam Việt nam. Bây giờ Mỹ và quân của tập đoàn Lon Nol đánh ở phía sau, Mỹ tiến hành ném bom chí mạng vào lãnh thổ Cam-pu chia, dọc theo biên giới, triệt hạ các căn cứ của Việt cộng. Đồng thời họ thả quân với những lô cốt đúc sẵn ở phía sau lưng Việt cộng. Tóm lại người Việt nam chịu một bước lùi căn bản.
Điều thực sự đã xảy ra ở Bắc Kinh là một trong những mẩu chuyện trêu ngươi khác của lịch sử, tiết lộ những biện pháp của Chu Ân Lai cố gắng đưa Mao trở lại khi ông ta thấy rằng Mao đã đi chệch hướng. Câu chuyện này là do Sihanouk kể lại cho tôi ngay sau sự kiện đó và được đưa vào quyển sách Cuộc chiến tranh của tôi với CIA mà chúng tôi cùng viết chung: Sihanouk ở Moscow, chuẩn bị đi Bắc Kinh, thì Thủ tướng Liên xô Cosyghin nói với ông ta trong xe khi đưa ra sân bay rằng, ông ta đã bị phế truất. Tại sân bay Bắc Kinh có Chu Ân Lai và toàn bộ Đoàn ngoại giao mà Chu nói là đã triệu tập để nhấn mạnh rằng “Ngài vẫn là Quốc vương, Quốc trưởng duy nhất. Chúng tôi quyết không hề thừa nhận ai khác”. (Trong thực tế và điều này không có trong cuốn sách bởi vì không ai trong chúng tôi biết nó khi viết, chủ tịch Mao thì tán thành chấp nhận việc đã rồi và thừa nhận Lon Nol). Trên xe đi từ sân bay về Sihanouk báo cho Chu Ân Lai rằng ông ta có kế hoạch đánh lại Lon Nol và được khuyên là nên suy nghĩ kỹ vấn đề này trong 24 giờ, nhưng chính vì Cosyghin đã hứa về sự ủng hộ của Liên Xô trong trường hợp Sihanouk chống lại, nên Chu Ân Lai cũng hứa sẽ có sự ủng hộ của Trung Quốc. Sihanouk khẳng định lại quyết định của mình trong 2 giờ sau đó và trong cuốn sách của chúng tôi, Sihanouk nói:
Các tin trong báo chí phương Tây nói rằng Trung Quốc do dự trong vài ngày, nhưng theo cách trình bày vô lý của Lon Nol thì thậm chí trong hàng tuần, trước khi quyết định ủng hộ tôi. Nhưng trong vòng 24 giờ tôi đã đi đến quyết định cuối cùng và ra tuyên bố đầu tiên trên đài Bắc Kinh. Làm thế nào tôi có thể làm được việc đó nếu Trung Quốc không quyết định ủng hộ tôi.
Nhưng cái mà Sihanouk có, trên thực tế, là sự bảo đảm riêng của Chu Ân Lai rằng ông ta sẽ có sự ủng hộ của Trung Quốc. Ngày hôm sau khi Sihanouk đến Bắc Kinh, ông Phạm Văn Đồng cũng đến. Như Sihanouk đã mô tả việc đó. Câu chuyện mở đầu với ông Phạm Văn Đồng xảy ra đại khái như thế này:
- Chúng tôi có thể giúp thế nào?
- Những huấn luyện quân sự - Tôi trả lời - Chúng tôi không thiếu nhân lực và người Trung Quốc đã hứa giúp vũ khí. Chúng tôi thiếu những cán bộ giỏi. Ông có những cán bộ tốt nhất trên thế giới cho loại chiến tranh mà chúng tôi phải chiến đấu.
- Tôi sẽ nói với ông Giáp cử sang vài nghìn cán bộ tốt nhất mà chúng tôi có - ông Phạm Văn Đồng trả lời.
Chúng tôi thảo luận đầy đủ những phương pháp tốt nhất nhằm phối hợp cuộc đấu tranh của nhân dân ba nước Đông Dương...
Sau đó, tôi nói chuyện với Chủ tịch Mao vài tiếng đồng hồ. Ông ta hỏi tôi nhiều về Lon Nol mà ông ta đã gặp trong dịp kỷ niệm ngày 1 tháng 10 năm trước.
Khi ông Phạm Văn Đồng gặp Chu Ân Lai, ông ta rất ngạc nhiên trước việc Mao tin rằng Sihanouk không có hy vọng lãnh đạo cuộc kháng chiến vũ trang thắng lợi và Lon Nol phải được thừa nhận. Ông Phạm Văn Đồng đã làm hết sức mình để thuyết phục Chu rằng với sự giúp đỡ của Việt nam ở chiến trường và với sự giúp đỡ của Trung Quốc về vũ khí, Sihanouk sẽ thắng. Tuyên bố công khai đầu tiên về sự ủng hộ của Trung Quốc đối với Sihanouk đã được đưa ra một cách khá kỳ quặc không phải từ Bắc Kinh, mà từ Bình Nhưỡng. Trên chuyến trở về từ Bình Nhưỡng, Sihanouk kể lại:
Tôi lại gặp đại biện lâm thời Liên Xô và vạch ra cho ông ta rằng sự ủng hộ của Trung Quốc bây giờ là công khai và chính thức, và tôi sẽ đánh giá cao một tuyên bố như vậy của chính phủ Liên Xô. Nhưng ông ta trả lời tuyên bố ủng hộ không được đưa ra trên đất Trung Quốc. Tôi vặn lại: “Tôi không phản đối nếu Thủ tướng Cosyghin đưa ra một tuyên bố giống như vậy trên đất Ba Lan hoặc Tiệp Khắc”.
Đó là một điều suy diễn có lý rằng là đại biện Liên Xô ngờ rằng Chu Ân Lai đưa ra chính sách riêng của mình, như là tôi tin rằng ông ta cũng đã làm như vậy 5 năm trước đây khi đề nghị đưa quân chiến đấu vào Việt nam, lúc đó cũng đưa ra ở ngoài nước Trung Quốc. Nhưng tuyên bố như vậy chỉ có tính chất xác thực khi có dấu ấn của Bắc Kinh tức là có sự chấp nhận của Mao. Sự ủng hộ chính thức chỉ được đưa ra với sự thừa nhận ngay tức khắc của Chính phủ kháng chiến thành lập ở Bắc Kinh ngày 5 tháng 5 năm 1970. Vào lúc đó, Mao đã nhận được một thông điệp mà ông ta hiểu được lời lẽ. Theo yêu cầu đặc biệt của Sihanouk và của Khmer Đỏ, người Việt Nam đã cung cấp cho lực lượng vũ trang mới hình thành những điều kiện xuất phát kỳ diệu nhất mà không có phong trào kháng chiến nào có thể mơ ước được, đó là việc giải phóng hoàn toàn các tỉnh miền đông của Campuchia và giao lại cho chính quyền kháng chiến.
Chính Khmer Đỏ đã khống chế lực lượng vũ trang ngay từ đầu và Khieu Samphan đã được cử làm Bộ trưởng Quốc phòng và Tổng Tư lệnh các lực lượng vũ trang. Như là một phần thưởng thứ hai để bảo đảm rằng cuộc đấu tranh vũ trang giành được một bước bắt đầu tốt, Hà Nội đã làm dễ dàng việc hồi hương các cán bộ kỳ cựu của cuộc đấu tranh chống Pháp đang sơ tán ở Bắc Việt nam sau Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954. Những người đó gần 1.000 đảng viên của Đảng cộng sản Khmer. Sihanouk đã mô tả điều đó xảy ra cho họ như sau:
Theo Khieu Samphan, sau những cuộc thảo luận gay gắt, người Việt nam đã trao lại cho ban lãnh đạo Khơ- me đỏ 5000 cán bộ Việt minh Khmer được “giáo dục” ở Hà nội giữa những năm 1954 và 1970 cũng như những đơn vị thân Sihanouk... do các sĩ quan của tướng Võ Nguyên Giáp huấn luyện. Những cán bộ Việt minh Khmer Đỏ và những đơn vị Sihanouk đã bị Pol Pot hoá - nhưng theo Khieu Samphan - phần lớn những người đó không thể cải tạo và do đó mà phải thủ tiêu. (Niên biểu của chiến tranh và hy vọng- ND)
Theo một trong những người cộng sản kỳ cựu mà tôi gặp trong chuyến thăm tháng 5 năm 1979 thì trong nhóm của họ có tất cả khoảng 1.200 người khì cuộc đấu tranh vũ trang chống lại Lon Nol bắt đầu, kể cả 300 người còn ở lại trong nước dưới quyền của Sihanouk. Theo chỗ anh ta biết thì anh ta là một trong 30 người còn sống sót.
Cách nhìn của anh ta đối với các cuộc thanh trừng ghê tởm trong cuộc đấu tranh chống Lon Nol và sau đó với mỗi nhịp độ còn tăng nhiều hơn nữa, đó là việc Pol Pot, Ieng Sary, Son Sen và những bạn gần gũi nhất của chúng, lặp lại ngay với quy mô rộng lớn hơn nhiều, cái mà chúng đã cố làm từ năm 1954 đến nay. Chúng là những sinh viên ở Paris trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chỉ có Pôn Pố trở về đúng trước khi chiến tranh kết thúc. Chúng đến với một sự hiểu biết rất mơ hồ về những khái niệm mà chúng không thể tiêu hoá được về chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Trốt-ky, chủ nghĩa vô chính phủ, chủ nghĩa Mao, chủ nghĩa sinh tồn, mặc dù những nhà lãnh đạo lúc bấy giờ của những người cộng sản Khmer bị coi là những người nông thôn vụng về dốt nát không có kiến thức về lý luận. Bằng nhiều biện pháp khác nhau và do vụ ám sát viên Tổng bí thư (Sơn Ngọc Minh) lúc bấy giờ trong những hoàn cảnh rất đáng ngờ, đã tạo điều kiện cho “nhóm Paris” đó dần dần nắm quyền lãnh đạo. Kết quả là việc tiến hành cuộc chiến tranh vũ trang không xác định đúng kẻ thù năm 1967 - 1968.
Pol Pot và Ieng Sary sống ở Bắc Kinh trong phần lỏn thời gian chiến tranh chóng Lon Nol, và chỉ trở về sau khi nó đã kết thúc. Chúng là những người chủ trương say sưa nhất của cuộc “cách mạng văn hoá vô sản vĩ đại” mà hình như điều chúng thấm nhuần duy nhất là sử dụng bạo lực không hạn chế để đập phá tất cả văn hoá tôn giáo, truyền thống, tục lệ, đạo lý của xã hội cũ và bằng những biện pháp đã man nhất để đập tan mọi sự chống đối và mọi mầm mống của sự chống đối. Kết quả cuối cùng của sự đại rồ dại đó là khoảng 3 triệu người bị giết hoặc chết đói, các cơ cấu kinh tế - xã hội hầu như hoàn toàn bị phá huỷ và một dân tộc bị chấn thương dần dần tìm cách gắn đời sống của chính mình và đời sống của đất nước lại với nhau. Chế độ Khmer Đỏ sẻ đi vào lịch sử như một trong những chẽ độ tàn ác nhất và một số đông những người bạn cánh tả của tôi sẽ bối rối vì đã bảo vệ nó quá hăng hái và quá lâu.
Sau khi Sihanouk đến Pháp cuối tháng 11 năm 1979, tôi hỏi ông ta liệu những người bạn Trung Quốc của ông ta có giải thích gì vì đã bỏ ông ta trong cơn nguy hiểm chết người của cuộc đời ông, cho đến lúc các lực lượng Pol Pot bị buộc phải chạy khỏi Phnompenh không. Ông ta cười khẩy một cách cay đắng và nói: “Bà Chu Ân Lai giải thích rằng vì Campuchia là một quốc gia độc lập và có chủ quyền nên Trung Quốc không thể can thiệp vào cỏng việc nội bộ của nó. Đó là lố bịch. Trung Quốc nắm mọi thứ ở nước Campuchia của Khơme đỏ”.
Ông ta cũng tiết lộ bằng cách ngụ ý rằng, Chủ tịch Mao biết rất rõ điều gì đang xảy ra dưới chế độ Pol Pot tháng 10 năm 1975, ngay trước khi Sihanouk và một bộ phận của gia đình ông ta trở về Phnompenh. Mao nói với Khieu Samphan - trước sự có mặt của Sihanouk - rằng ông ta, vợ ông ta - bà Monic - và hai đứa con của hai vợ chồng đó không được bị giết. Ông ta nói để khuyến khích Sihanouk tiếp tục xin về nước.
Trong cuộc nói chuyện một tiếng đồng hồ của chúng tôi, Sihanouk rất ngạc nhiên và có phần xúc động được biết rằng một nhóm đặc công Việt nam - Campuchia đã tìm cách cứu ông ta và gia đình trước ngày chiếm Phnompenh vì sợ rằng Pol Pot sẽ giết ông ta trước khi bỏ thành phố. Ông ta bình luận: Tôi biết Khmer Đỏ có sợ một việc như vậy và họ luôn luôn thay đổi chỗ ở của tôi. Vào những ngày cuối cùng, nhà mới nhất mà chúng chuyển chúng tôi đến đã bị một trung đoàn bao vây và buồng trong đó Monic và tôi ngủ được chiếu sáng bằng những đèn chiếu rất mạnh cả ngày lẫn đêm, làm cho tôi rất khó ngủ.
Logged
ngao5
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 756


« Trả lời #38 vào lúc: 25 Tháng Mười Một, 2008, 07:10:18 am »

17. Thay lời kết luận
Nhà báo phải là một thành viên của xã hội loài người với cùng quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm xã hội như mọi người khác, kẻ cả những quyền lựa chọn chính trị. Những chính đảng, nhất là những chính đảng tận tuỵ thay đồi xã hội chứ không phải lợi dụng những thay đổi của xã hội, những chính đảng đó đáng được các nhà báo dốc lòng phục vụ những mục đích của họ. Bất cứ đảng nào muốn phát huy được vai trò của mình phải có đủ khả năng dựa vào lỏng trung thành và kỷ luật của các đảng viên.
Thật là ngẫu nhiên mà từng bước, từng bước, tôi đã đạt được một Nát bàn báo chí không bị ràng buộc vì những lòng trung thành với các chính phủ, các đảng hoặc bát cứ tò chức nào đi chăng nữa. Tôi trung thành với chính lòng tin của tôi và với độc giả của tôi. Như vậy phải không bị ràng buộc vào bất cứ kỷ luật nào trừ kỷ luật làm cho những thực tế của các vấn đề quan trọng đến được với những người chịu trách nhiệm xử lý các vấn đề quan trọng đó. Việc này thường đòi hỏi một sự hy sinh lớn lao. Đó là điều đặc biệt đã lấy ra khi tôi tường thuật về Việt Nam, vấn đề quan trọng nhất trong sự nghiệp của tôi là không thể để mình bị xao xuyến trước những mệnh lệnh từ bên ngoài hoặc từ bên trên.
Trong bao nhiều năm và ở nhiều nước, tôi đã có một giới bạn đọc mua báo không phải vì những tin về thị trường chứng khoán hoặc vì những tranh biếm hoạ mà vi những sự thật của các vấn đề thiết yếu có ảnh hưởng đến đời sống và lương lâm của họ. Bằng việc luôn luôn giữ cho cả đôi mắt và đôi tai được mở rộng trong 40 năm làm tin tức của tôi về những nơi nóng bỏng nhất của thế giới, tôi ngày càng có ý thức hơn về trách nhiệm của mình đối với bạn đọc, trên cơ sở lòng tin vĩ đại vào những con người bình thường, vào thái độ cư xử lành mạnh và tao nhã của họ khi họ có được những sự thật của tình hình.

HẾT
Logged
Trang: « 1 2 3 4   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM