ngao5
Cựu chiến binh
Bài viết: 756
|
|
« Trả lời #10 vào lúc: 14 Tháng Tám, 2008, 05:08:05 am » |
|
Em nhặt nhạnh được một số bài liên quan đến quan hệ Việt nam - Trung Quốc những năm 50. Em không có ý gì bênh vực Trung Quốc, mà chỉ đưa ra có tính tham khảo: Trong những năm qua, các sử gia Việt Nam có thiên hướng lướt qua vai trò Trung Quốc nhằm hoàn thiện "lịch sử dân tộc", trong lúc việc không tiếp cận được với nguồn tư liệu Trung Quốc đã cản trở các học giả phương Tây trong việc tìm ra thái độ và chính sách của Bắc Kinh trong cuộc xung đột ở Đông Dương. Bắt đầu từ thập niên 1990, có thêm một số tác phẩm mới. Gần đây nhất, đáng chú ý là “China and the Vietnam Wars, 1950-1975” của Qiang Zhai (xuất bản 2000) và “Mao’s China and the Cold War” của Jian Chen (2001). Cả hai tập sách do NXB đại học North Carolina ấn hành trong khuôn khổ sêri về lịch sử chiến tranh Lạnh. Sử dụng các thông tin do Trung Quốc công bố vài năm qua (gồm tài liệu nội bộ mới giải mật, hồi ký, nhật ký và các quyển sử của các tác giả Trung Quốc), hai học giả quốc tịch Mỹ này tái hiện chính sách của Bắc Kinh trong hai cuộc chiến ở Đông Dương. Quyển sách “China and the Vietnam Wars, 1950-1975” (Trung Quốc và các cuộc chiến của Việt Nam, 1950-1975) của Qiang Zhai (Tường Trạch?), giáo sư lịch sử thuộc Auburn University Montgomery, dành hai chương bàn về vai trò của các cố vấn Trung Quốc trong cuộc chiến chống Pháp ở Việt Nam. Không dễ để có câu trả lời có thể cân bằng giữa hai khuynh hướng: một nhấn mạnh các yếu tố ‘bản địa’ do xuất phát từ tinh thần dân tộc chủ nghĩa và một khuynh hướng từ thời Chiến tranh Lạnh xem Bắc Việt đơn thuần là tay súng bóp cò theo hiệu lệnh từ Moskva hay Bắc Kinh. Quyển sách của Qiang Zhai được nhiều tờ báo đánh giá là ‘nghiên cứu cân bằng và sâu sắc nhất về quan hệ Trung-Việt thời chiến tranh’, trong lúc cũng có người phê phán là quyển sách mô tả Việt Nam quá thụ động. Với mong muốn giới thiệu các nghiên cứu lịch sử mới liên quan chủ đề mà nhiều người Việt Nam quan tâm, chúng tôi xin tóm tắt nội dung chính mà tác giả Qiang Zhai trình bày trong quyển sách. Nó có thể giúp người ta nắm bắt phần nào những gì công bố tại Trung Quốc trong mấy năm qua. Tác giả Qiang Zhai cũng thừa nhận trong một bài viết năm 1993, “Do bài viết chủ yếu dựa trên tư liệu Trung Quốc, nó không tự xem là đã thể hiện đầy đủ về quan hệ Trung-Việt trong cuộc chiến Việt Nam lần thứ nhất". Và như trong ý kiến khép lại hội thảo Pháp-Việt về Điện Biên Phủ tổ chức năm ngoái ở Paris, Điện Biên Phủ vẫn là đề tài hấp dẫn cần tìm hiểu thêm và việc biết thêm các tư liệu gần đây cũng chỉ là một gạch nối trong quá trình tìm hiểu toàn bộ những gì đã xảy ra trong các năm dẫn đến chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7-5-1954.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
ngao5
Cựu chiến binh
Bài viết: 756
|
|
« Trả lời #11 vào lúc: 14 Tháng Tám, 2008, 05:09:06 am » |
|
NGƯỜI BẠN LỚN ĐẦU TIÊN Trung Quốc là nước đầu tiên trên thế giới công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Ngày 15-1-1950, VNDCCH đánh điện cho Bắc Kinh yêu cầu thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức. Mao Trạch Đông, lúc này đang ở thăm Liên Xô, gửi điện về cho Lưu Thiếu Kỳ, tổng bí thư Đảng Cộng sản TQ, chỉ thị tiếp nhận đề nghị của VNDCCH đồng thời bảo Bộ Ngoại giao chuyển đề nghị của Bắc Việt Nam cho Liên Xô và các nước Đông Âu khác. Trung Quốc trở thành nước đầu tiên công nhận VNDCCH vào ngày 18-1-1950. Stalin theo sau vào ngày 30-1-1950, để tiếp theo đó là các nước Cộng sản khác ở Đông Âu và Bắc Hàn. Đến tháng Tư, ông Hồ Chí Minh đề nghị Trung Quốc gửi chuyên viên quân sự đến Việt Nam với tư cách cố vấn ở đại bản doanh Việt Minh và ở cấp độ sư đoàn, và với tư cách chỉ huy ở cấp độ trung đoàn và tiểu đoàn. Trung Quốc trả lời rằng họ sẽ gửi cố vấn, nhưng không gửi chỉ huy. Ngày 17-4-1950, quân uỷ trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc ra lệnh thành lập nhóm cố vấn quân sự Trung Quốc. Nhóm này sẽ gồm 79 cố vấn, cùng một số trợ lý. Từ tháng Tư đến tháng Chín năm 1950, Trung Quốc gửi cho Viêṭ Minh số lượng lớn viện trợ quân sự và phi quân sự, gồm 14.000 súng trường và súng lục, 1700 súng máy và tiểu liên, 150 súng cối, 60 khẩu pháo, và 300 bazooka, cùng đạn dược, thuốc, quần áo và 2800 tấn thực phẩm (số liệu lấy từ quyển ‘Các dữ kiện lịch sử về vai trò nhóm cố vấn quân sự Trung Quốc trong cuộc đấu tranh giúp đỡ Việt Nam và chống Pháp’, xuất bản ở Trung Quốc 1990). Việc Trung Quốc quyết định giúp Việt Nam xuất phát từ ba lý do chính: - Thứ nhất, Đông Dương là một trong ba mặt trận, cùng với Triều Tiên và Đài Loan, mà Bắc Kinh xem là dễ bị nước ngoài can thiệp. Lãnh đạo Trung Quốc không chỉ lo ngại về khả năng thù địch nước ngoài xuất phát từ Đông Dương mà lo cả tàn quân Quốc Dân Đảng ở Việt Nam. Sau khi đảng Cộng sản chiếm Quảng Tây tháng 12-1949, một số đơn vị Tưởng Giới Thạch đã trốn sang miền Bắc Việt Nam, trong lúc số khác lẩn trốn vào vùng núi tại Quảng Tây. Sau khi chiến tranh Triều Tiên nổ ra, tàn quân này bắt đầu tấn công quân chính phủ mới. Nhìn trong hoàn cảnh này, việc đánh bại quân Pháp ở Bắc Việt sẽ củng cố đường biên giới Trung Quốc. - Thứ hai, nghĩa vụ giúp đỡ một nước cộng sản anh em khiến Bắc Kinh không từ chối yêu cầu từ phía Việt Minh. Một chỉ thị nội bộ do Lưu Thiếu Kỳ chuẩn bị ngày 14-3-1950 là ví dụ cho thấy Bắc Kinh liên kết cách mạng Trung Quốc và quốc tế: “Sau khi cách mạng chúng ta chiến thắng, việc giúp đỡ bằng mọi cách để các đảng Cộng sản và nhân dân ở mọi quốc gia bị áp bức tại châu Á giành thắng lợi là trách nhiệm quốc tế mà Đảng Cộng sản và nhân dân Trung Quốc không thể thoái thác". - Thứ ba, sự can dự của Bắc Kinh ở Đông Dương cần được nhìn theo quan hệ truyền thống giữa Trung Quốc và láng giềng. Các vua Trung Quốc vẫn thường xem Việt Nam nằm trong quỹ đạo ảnh hưởng của phương bắc. Truyền thống này hẳn được Mao và các đồng chí của ông – những người xem lịch sử là chuyện nghiêm túc- tiếp nối. Còn người Việt vẫn có truyền thống tìm kiếm mô hình và cảm hứng từ Trung Quốc. Nên quyết định của ông Hồ Chí Minh nhờ Mao giúp đỡ không chỉ xuất phát từ lý do ý thức hệ. Quyết định đó cũng tương thích với thói quen tìm kiếm mô hình từ Trung Quốc, đồng thời tìm cách duy trì độc lập cho người Việt. Tháng Tám 1950, ông La Quý Ba trở thành người đứng đầu một phái đoàn cố vấn chính trị sang Việt Nam. Trong bức điện gửi La Quý Ba, Lưu Thiếu Kỳ dặn La không áp đặt quan điểm lên người Việt và đừng làm mếch lòng nếu phía bên kia không chịu làm theo các đề nghị. Những dặn dò như vậy có vẻ cho thấy Bắc Kinh nhạy cảm trước lòng tự hào dân tộc của Việt Nam và mối thù địch truyền thống giữa hai nước. Tuy vậy, như những đoạn sau sẽ cho thấy, người Trung Quốc sẽ tỏ ra thất vọng và giận dữ khi các đồng chí Việt Nam của họ đi chệch khỏi đường lối Trung Quốc.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
ngao5
Cựu chiến binh
Bài viết: 756
|
|
« Trả lời #12 vào lúc: 14 Tháng Tám, 2008, 05:10:33 am » |
|
CHIẾN DỊCH BIÊN GIỚI Trận đánh đầu tiên Việt Minh thực hiện với lời khuyên và hỗ trợ của cố vấn Trung Quốc là chiến dịch Biên giới năm 1950, với mục đích liên thông mạng lưới liên lạc với Trung Quốc. Quân Pháp lúc này kiểm soát các tiền đồn dọc biên giới Trung Quốc. Việc loại bỏ các vị trí này sẽ giúp củng cố căn cứ Việt Minh ở khu Việt Bắc, thông thương đường tiếp vận từ Trung Quốc và giúp cho lực lượng Việt Minh có vị thế tốt hơn nhằm tấn công xuống khu vực đồng bằng sông Hồng trong tương lai. Ban đầu, Việt Minh dự định tấn công Lào Cai và Cao Bằng, hai cứ điểm quan trọng. Sau khi suy tính, Việt Minh thay đổi kế hoạch, chỉ tập trung vào Cao Bằng. Bên cạnh việc yêu cầu Trung Quốc gửi viện trợ và gửi nhóm cố vấn quân sự đến Việt Nam, ông Hồ Chí Minh cũng đề nghị gửi sang một cố vấn quân sự cao cấp để điều phối chiến dịch Biên giới. Lúc này, Trung Quốc cử vị tướng nổi danh Trần Canh (1903-1961) sang Việt Nam ngày 7-7-1950. Như Trần Canh viết trong nhật ký, thì ông này phát hiện Việt Minh bỏ qua việc huy động phụ nữ trong cuộc kháng chiến chống Pháp và nói điều này với bộ máy lãnh đạo Việt Nam. Nếu là như vậy, Trần Canh đã áp dụng học thuyết "chiến tranh nhân dân" của Mao vào Việt Nam. Trong cuộc kháng chiến chống Nhật và chống Quốc Dân Đảng, Mao đã thành công trong việc huy động phụ nữ cho chiến tranh. VAI TRÒ TRẦN CANH Ngày 22-7, Trần Canh gửi báo cáo về cho Đảng Cộng sản Trung Quốc: “Một số đơn vị Việt Nam có tinh thần cao sau khi nhận huấn luyện và thiết bị tại Vân Nam và Quảng Tây, nhưng các cán bộ Việt Nam trên mức tiểu đoàn lại thiếu kinh nghiệm chỉ huy trong các trận đánh thật sự". Trần Canh đề nghị nguyên tắc của Chiến dịch Biên giới nên là “huỷ diệt lực lượng cơ động của kẻ địch trên các chiến trường và chiếm một số đồn nhỏ, cô lập nhằm giành thắng lợi ban đầu trong lúc tích lũy kinh nghiệm và thúc đẩy tinh thần chiến sĩ. Sau khi giành thế chủ động hoàn toàn, chúng ta có thể dần dần tiến tới các trận đánh quy mô lớn". Về kế hoạch tấn công Cao Bằng của Việt Nam, Trần Canh đề nghị có chiến lược “bao vây đồn bốt trong lúc tấn công quân cứu viện". Đặc biệt, Trần Canh đề xuất Việt Minh nên tấn công một số đồn bốt biệt lập gần Cao Bằng trong lúc thu hút cứu binh của Pháp từ Lạng Sơn. “Nếu chúng ta có thể tiêu diệt ba đến năm tiểu đoàn cơ động từ Lạng Sơn, như thế sẽ dễ hơn trong việc chiếm Cao Bằng và một số đồn gần Lạng Sơn". Nếu thành công, Trần Canh tin rằng tình hình ở vùng đông bắc và miền Bắc Việt Nam "sẽ thay đổi lớn". Trong bức điện tín ngày 26-7, quân uỷ trung ương Trung Quốc đồng ý kế hoạch này. Ngày 28-7-50, Trần Canh đặt chân tới căn cứ Việt Minh ở Thái Nguyên, nơi ông gặp ông Hồ Chí Minh và La Quý Ba. Trần Canh bảo với người lãnh đạo Việt Nam rằng Việt Minh chưa nên đánh chiếm Cao Bằng, là một cứ điểm mạnh lúc ấy, mà nên trước tiên tấn công các đồn nhỏ của Pháp để rèn quân. Về mặt chiến thuật, Việt Minh nên áp dụng kiểu bao vây một đồn bốt trong lúc tiêu diệt viện quân trong các trận đánh cơ động. Cụ thể, Trần Canh đề xuất tấn công Đông Khê, một đồn của Pháp nằm giữa Cao Bằng và Lạng Sơn, để lùa quân Pháp ra khỏi hai tỉnh trên và sau đó tiêu diệt. Ông Hồ chấp thuận kế hoạch này. Trần Canh đề xuất tấn công Đông Khê, một đồn của Pháp nằm giữa Cao Bằng và Lạng Sơn, để lùa quân Pháp ra khỏi hai tỉnh trên và sau đó tiêu diệt. Ngày 16-9-50, Việt Minh tấn công Đông Khê và chiếm đồn này hai ngày sau đó. Nhưng Trần Canh vẫn chưa hài lòng với hiệu quả của Việt Minh. Quân Pháp tại Đông Khê có khoảng 260 lính, trong lúc người Việt khoảng 10.000 lính. Khi trận đánh chấm dứt, Việt Minh có khoảng 500 thương vong và để hơn 20 lính Pháp trốn thoát. Trong nhật ký (xuất bản ở Trung Quốc sau khi Trần Canh qua đời, năm 1984), Trần Canh nói phía Việt Nam có một số khiếm khuyết. Đầu tiên, họ không tuân theo thời điểm tấn công như trong kế hoạch. Cuộc tấn công dự định bắt đầu vào chập tối 16-9-50, nhưng các đơn vị Việt Minh chỉ bắt đầu vào sáng hôm sau. Khi mặt trời mọc, họ phải rút lui vì đe dọa không kích của Pháp. Sau đó họ phải tấn công lần hai vào hoàng hôn của ngày 17-9. Thứ hai, các chỉ huy Việt Minh ngại ra trước tiền tuyến, nên mất liên lạc với các đơn vị tấn công. Thứ ba, một số cán bộ báo cáo sai lạc nhằm che dấu tin xấu. Trần Canh đã nói với tướng Võ Nguyên Giáp các vấn đề này. Tuy vậy, việc chiếm được Đông Khê vẫn là thắng lợi lớn cho Việt Minh vì từ nay, Cao Bằng bị cô lập. Quân Pháp gửi tiếp viện đi từ Lạng Sơn qua ngả Thất Khê nhằm tái chiếm Đông Khê. Cùng lúc đó, một đơn vị Pháp khác hướng về đại bản doanh Việt Minh tại Thái Nguyên. Trần Canh đánh giá rằng bước tiến của Pháp về Thái Nguyên nhằm thu hút quân Việt Minh từ Đông Khê để quân Pháp ở Cao Bằng có thể thoát ra. Vì vậy, Trần Canh đề xuất quân Việt Minh vẫn ở nguyên tại Đông Khê. Ngày 30-9, quân Pháp do Lepage chỉ huy đến đánh Đông Khê từ ngả Thất Khê, nhưng bị phục kích. Hôm 3-10-50, trung tá Charton bỏ Cao Bằng và dẫn quân chạy về Nam. Nhằm ngăn đơn vị của Lepage và Charton hội quân, Việt Minh đưa quân bao vây đơn vị Lepage trước khi tấn công đơn vị của Charton. Ngày 8-10, quân của Lepage bị tiêu diệt. Hai ngày sau, đơn vị của Charton cũng bị chặn đánh. Cả Lepage và Charton bị bắt sống. Trong các trận tiếp sau, Việt Minh chiếm được Cao Bằng và Thất Khê. Quân Pháp tiếp tục rút khỏi Lào Cai, Lạng Sơn và Hòa Bình, để lại 11.000 tấn đạn dược và để trống gần như toàn bộ khu vực phía bắc đồng bằng sông Hồng. Chiến dịch Biên giới quan trọng ở chỗ Việt Minh từ nay thông thương được với biên giới Trung Quốc. Việc Pháp rút khỏi Hòa Bình cũng mở đường liên lạc giữa Việt Bắc và vùng Bắc Việt ‘giải phóng’, kết thành một khu vực do Việt Minh kiểm soát. Sau chiến dịch Biên giới, Mao Trạch Đông gửi điện tín cho Trần Canh, bày tỏ lòng vui mừng. Trần Canh sau đó đi nhiều nơi, tổ chức các lớp cho các chỉ huy Việt Minh. Ngày 11-10-50, Trần Canh nói chuyện với ông Hồ và ông Giáp, đưa ra các đề nghị cải tiến lực lượng, gồm các việc như tặng thưởng cán bộ, đối xử tù binh. Trần Canh yêu cầu các lãnh đạo Việt Minh tổ chức các buổi mừng công để quảng bá thắng lợi, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chọn lựa và tặng thưởng các gương anh hùng. Về việc đối xử tù binh, Trần Canh đề nghị Việt Minh trước tiên yêu cầu họ viết thư cho gia đình và bạn bè để làm lung lay tinh thần đối phương, và rồi cố gắng chiêu mộ các tù binh Việt Nam trong lúc thả người Pháp và Marốc sau khi đã "giáo dục" những người này. Theo nhật ký của Trần Canh, ông Hồ và ông Giáp "vui vẻ" chấp nhận các đề xuất này. Từ 27 đến 30-10, Việt Minh tổ chức các cuộc họp tổng kết cho các chỉ huy trên mức tiểu đoàn. Thay mặt Việt Minh, ông Trường Chinh đọc báo cáo đánh giá chiến dịch Biên giới. Theo đề nghị của ông Hồ Chí Minh, Trần Canh trình bày trước cuộc họp trong bốn ngày liền. Ông phân tích các lý do cho thành công của Việt Minh, ca ngợi lòng dũng cảm của chiến sĩ. Sau đó lại nhắc các khiếm khuyết, như việc sĩ quan thiếu quan tâm binh sĩ, việc chậm thi hành mệnh lệnh, và khuynh hướng chỉ báo cáo tin tốt. Ông Hồ yêu cầu Trần Canh ở lại Việt Nam, nhưng Trần Canh nhận lệnh mới từ Bắc Kinh và rời Việt Nam đầu tháng 11-1950. Giữa năm sau, ông được bổ nhiệm làm phó chỉ huy tình nguyện quân Trung Quốc chiến đấu tại Triều Tiên. Sau khi Trần Canh ra đi, nhóm cố vấn Trung Quốc chịu trách nhiệm cho việc cố vấn cho Việt Minh. TỔN THẤT VÀ TÁI TỔ CHỨC NĂM 1951 Cuối năm 1950, Việt Minh và nhóm cố vấn cùng quyết định thực hiện tấn công xuống đồng bằng sông Hồng. Một số cán bộ cao cấp xem chiến dịch Biên giới là một phần bước tiến mà sẽ từ từ dẫn tới tổng phản công. Ông Võ Nguyên Giáp soạn thảo tài liệu năm 1950 nói về việc chuẩn bị cho cuộc tổng phản công. Trong đó, ông nói điều kiện đã chín muồi cho lực lượng cách mạng chuyển sang tổng tiến công để loại bỏ quân số lớn đối phương và chiếm các thành phố. Cũng có nhiều thành viên trong đảng ủng hộ việc chiếm đồng bằng để giảm bớt gánh nặng thiếu gạo tại các khu giải phóng. Tháng Giêng 1951, tướng Giáp cho tấn công Vĩnh Yên, cách Hà Nội 37 dặm, áp dụng chiến thuật biển người đang được Trung Quốc dùng tại Triều Tiên. Tướng Jean de Lattre de Tassigny, tổng tư lệnh Pháp tại Đông Dương, đưa quân phản kích, dùng cả bom napalm. Việt Minh tổn thất ít nhất 6000 chiến sĩ. Đến tháng Ba, trận tấn công Mạo Khê, gần Hải Phòng, lại thất bại. Cùng một định mệnh rơi xuống quân Việt Minh trong tháng Năm khi họ đánh Phủ Lý và Ninh Bình. Các trận đánh này thực hiện với sự đồng ý của cố vấn Trung Quốc. Và thất bại khiến cố vấn Trung Quốc nhận ra họ phải thực tế và thận trọng hơn. Đầu năm 1951, nhóm cố vấn Trung Quốc đề xuất một kế hoạch tăng hiệu năng cho cơ cấu lãnh đạo. Với sự đồng ý của ông Hồ, nhóm cố vấn giúp Bộ tổng tham mưu, tổng cục chính trị và tổng cục hậu cần cùng các sư đoàn "giảm biên chế". Các cố vấn Trung Quốc ở tầm mức sư đoàn mở lớp huấn luyện cho các cán bộ Việt Nam. Phương pháp giáo dục ý thức hệ mà các cố vấn Trung Quốc đưa vào Việt Nam có tên gọi ‘chỉnh huấn’. Phương pháp Mao-ít dựa trên truyền thống Tống Nho nhấn mạnh tầng lớp ưu tú hãy tự rèn luyện để tu dưỡng chính trị và đạo đức. Với ảnh hưởng Nho giáo ở Việt Nam, không khó để cố vấn Trung Quốc tìm ra một lớp thính giả chấp nhận ‘tư tưởng đúng đắn’ trong hành động chính trị. Nỗ lực củng cố quân đội là một phần trong chiến dịch xây dựng bộ máy nhà nước của nước VNDCCH trong năm 1951. Trong năm này, một nhóm cố vấn chính trị Trung Quốc, do La Quý Ba làm trưởng đoàn, được thành lập. Họ sẽ bận rộn tạo lập luật lệ và chính sách liên quan tài chính, thuế khóa, quản lý báo chí và phát thanh, đối xử với các nhóm thiểu số… Một trong những diễn biến quan trọng nhất là thuế nông nghiệp, với cả địa chủ lẫn nông dân đều đóng thuế. Phần trăm thuế sẽ do các viên chức quyết định dựa trên lợi tức và chi phí các nhân khẩu. Do hệ thống thuế mới là mượn từ Trung Quốc, nên Đảng Lao động Việt Nam thành lập một cục thuế nông nghiệp đặc biệt để khảo sát hệ thống, mở lớp huấn luyện và giải thích luật mới cho dân chúng. Chính phủ cũng thành lập Ngân hàng nhà nước Việt Nam và công bố đồng tiền mới, mà tiền giấy in tại Trung Quốc. Tuần sau, bài viết sẽ đề cập tiếp về chiến dịch Tây Bắc 1952 và chiến dịch Điện Biên Phủ 1954. Trong các bài tới, chúng tôi cũng sẽ trình bày quan điểm của Việt Nam về sự trợ giúp của Trung Quốc *** Việt Nam miễn cưỡng nhắc đến vai trò của Trung Quốc trong chiến thắng đối với người Pháp bởi vì tình cảm dân tộc mạnh mẽ của họ. Họ muốn chứng tỏ với thế giới rằng chiến thắng là kết quả của những nỗ lực anh hùng riêng của họ. Về tính khả tín của các nguồn tư liệu Trung Quốc, tôi nghĩ về phần lớn, chúng có thể tin được. Các tư liệu này thậm chí có thừa nhận những sai lầm mà cố vấn Trung Quốc phạm phải ở Việt Nam. (GS. Qiang Zhai, trả lời câu hỏi của ban Việt ngữ BBC) TIỂU SỬ TƯỚNG TRẦN CANH 1922: Gia nhập Đảng Cộng sản TQ Phó chỉ huy tình nguyện quân TQ ở Triều Tiên 1959: Thứ trưởng quốc phòng TQ 1961: Qua đời ở Thượng Hải 1984: Quyển nhật ký được xuất bản
|
|
|
Logged
|
|
|
|
ngao5
Cựu chiến binh
Bài viết: 756
|
|
« Trả lời #13 vào lúc: 14 Tháng Tám, 2008, 05:23:02 am » |
|
Một tác giả khác viết: … Tháng 4-1950, hai trung đoàn của Đại đoàn 308 theo đường Hà Giang qua Mông Tự (Vân Nam) lãnh khí giới, đạn dược(1). Một trung đoàn của Đại đoàn 312 theo đường Cao Bằng qua Hoa Đồng (Quảng Tây). Bắc kinh cũng cho lệnh chở vũ khí tới Cao Bằng để trang bị hai trung đoàn khác(2). Ba trung đoàn qua Hoa Nam lấy vũ khí cũng qua lớp huấn luyện ba tháng về tác chiến, đặc biệt là kỹ thuật công kiên và kỹ thuật đánh bộc phá, trước đó vì không có chất nổ nên không biết. Nhưng không có súng chống tăng và phòng không(3). Không có sự khác biệt nào giữa tài liệu Trung quốc và tài liệu Việt nam về những điểm nói trên(4). Ngày 9-3-1950, Ba tới tổng hành dinh của Hồ Chí Minh (5). Võ Nguyên Giáp ghi là tháng 6-1950, phái đoàn Ba tới Việt Bắc “với cương vị vừa là đại sứ TQ (sai!), vừa là trưởng đoàn cố vấn Trung quốc”(6). Theo tài liệu TQ, ngày 7-7-1950, Chu Ân Lai không đồng ý cử đại sứ qua Việt nam vì hiện tình chiến tranh hiện tại khiến bất tiện cho việc nhận ngoại giao đoàn. Bởi thế nên giữ Ba như đại diện Đảng cộng sản TQ hơn là đại sứ Trung quốc(7). Hoàng Văn Hoan cũng chỉ được cử làm đại biểu chính phủ; tháng 12-1950 mới được chức đặc sứ, và tháng 4-1951 mới trình uỷ nhiệm thư( 8 ). 14-3-1950: AFP loan tin Hồ Chí Minh tới Bắc kinh(9). 19-3-1950: Ngày toàn quốc chống đế quốc Mỹ(10). Từ tháng 4 tới tháng 9-1950, Bắc kinh viện trợ cho VM 14.000 súng trường, 17.000 súng tự động, 150 cỗ pháo đủ loại, 2,800 tấn thóc, cùng nhiều đạn dược, thuốc men, quân phục và máy truyền tin(11). Hồ Chí Minh cũng xin Bắc kinh cung cấp cố vấn và cấp chỉ huy cho tới trung đoàn, nhưng Lưu Thiếu Kỳ không chấp thuận, chỉ cung cấp cố vấn tại bộ tổng tư lệnh xuống tới cấp sư đoàn(12). Ngày 17-4-1950, Quân uỷ Trung ương Trung quốc cho lệnh Đệ Nhị, Đệ Tam và Đệ Tứ phương diện quân (Quân khu) lựa chọn từ cấp tiểu đoàn cố vấn cho quân đội Việt Minh. Đệ Tam quân khu được lệnh tổ chức Bộ tư lệnh cố vấn quân sự tại Việt nam; và Đệ Tứ Quân khu phụ trách việc huấn luyện. Ngày 26-4, lại chỉ thị một số bộ tư lệnh cử thêm 13 cán bộ trên cấp tiểu đoàn để phục vụ trong Bộ tư lệnh cố vấn quân sự. Tháng 5-1950, các cố vấn trên họp tại Bắc kinh và qua một khoá huấn luyện về nghĩa vụ quân sự quốc tế. Tướng Vi Quốc Thanh, Chính uỷ Quân đoàn 10 của Đệ Tam Quân khu, được cử phụ trách việc chuẩn bị. Tổng số phái đoàn này là 281 người(13). Điều này tài liệu Việt, Trung đều giống nhau. Chỉ khác là tài liệu Trung quốc xác nhận tổng số cố vấn TQ lên tới… 281 người(14). Để giúp các cố vấn hiểu biết hơn về Việt nam, TQ nhờ tướng Hồng Thuỷ (Võ Nguyên Bác hay Nguyễn Sơn, 1906-1956) dạy họ một lớp về địa dư, khí hậu và phát triển quân sự. Võ Nguyên Giáp không nhắc gì đến Nguyễn Sơn, vì tháng 10-1950, Hồng Thuỷ bị gửi trả lại quân đội Trung quốc. Ngày 27-6-1950, Mao và lãnh đạo cấp cao Trung quốc tiếp kiến các cố vấn quân sự TQ sẽ qua Việt Bắc. Mao giao cho phái bộ cố vấn hai nhiệm vụ chính: 1. Giúp VM thành lập một quân đội chủ lực. 2. Giúp quân đội VM trong việc thiết lập kế hoạch hành quân cùng tham chiến. Nhấn mạnh vào nghĩa vụ quốc tế. Yêu cầu các cố vấn bỏ tinh thần “tư tôn nước lớn” (big state chauvinism). Cuối tháng 7-1950, Bộ tư lệnh cố vấn quân sự TQ chính thức thành lập, với Vi Quốc Thanh làm tư lệnh. Thanh có hai phụ tá là Mei Jiasheng (Mai Gia Sinh) và Deng Yifan (Đặng Nhất Phàn?). Bộ tư lệnh cố vấn quân sự này gồm 79 cố vấn và 202 phụ tá. Bản doanh trước tiên đặt tại Nam Ninh. Tại đây, Hoàng Văn Hoan giúp họ hiểu biết thêm về phong tục, tập quán của Việt nam. Thượng tuần tháng 8-1950 (12-8-1950), qua Việt Bắc(15). Theo Giáp, còn có Mã Tây Phu, công tác về hậu cần(16). Giáp không nhắc đến Hoàng Văn Hoan. Hoan cũng cho rằng chỉ tới khu biên giới vào tháng 9-1950. Chú thích: (1) Võ Nguyên Giáp, Đường tới Điện Biên Phủ, 2001, trang 15 (2) Võ Nguyên Giáp, Đường tới Điện Biên Phủ, 2001, trang 15 (3) Võ Nguyên Giáp, Đường tới Điện Biên Phủ, 2001, trang 15 (4) Võ Nguyên Giáp, Đường tới Điện Biên Phủ 2001, trang 12-15; China and the Vietnam Wars, 1950-1975 của Qiang Zhai, Nhà xuất bản đại học North Carolina, 2000, trang 15-19 (5) Chen Jian, “China and the First Indo-China War, 1950-1954”, The China Quarterly 132 (March 1993), 1993, trang 90. (6) Võ Nguyên Giáp, Đường tới Điện Biên Phủ, 2001, trang 15-16 (7) Zhou gửi Hồ Chí Minh , 7-7-1950, trong Zhou nianpu, 1, trang 53; China and the Vietnam Wars, 1950-1975 của Qiang Zhai, Nhà xuất bản đại học North Carolina, 2000 2000, trang 19 ( 8 ) Hoàng Văn Hoan, 1987, Giọt nước trong biển cả, trang 332 (9) Tiếng Vang, 17-3-1950 (10) Võ Nguyên Giáp, Đường tới Điện Biên Phủ, 2001, trang 343 (11) Chen Jian, “China and the First Indo-China War, 1950-1954”, The China Quarterly 132 (March 1993), 1993, trang 93 (12) Chen Jian, “China and the First Indo-China War, 1950-1954”, The China Quarterly 132 (March 1993),, 1993, trang 91 (13) China and the Vietnam Wars, 1950-1975 của Qiang Zhai, Nhà xuất bản đại học North Carolina, 2000, trang 19 (14) China and the Vietnam Wars, 1950-1975 của Qiang Zhai, Nhà xuất bản đại học North Carolina, 2000, trang 19; Giáp, 2001, trang 16, 21 (15) Chen Jian, “China and the First Indo-China War, 1950-1954”, The China Quarterly 132 (March 1993),, 1993, trang 92; China and the Vietnam Wars, 1950-1975 của Qiang Zhai, Nhà xuất bản đại học North Carolina, 2000, trang 29 (16) Võ Nguyên Giáp, Đường tới Điện Biên Phủ, 2001, trang 15
|
|
|
Logged
|
|
|
|
ngao5
Cựu chiến binh
Bài viết: 756
|
|
« Trả lời #14 vào lúc: 14 Tháng Tám, 2008, 05:35:24 am » |
|
VỀ VAI TRÒ TRẦN CANH (1903-1961) TRONG CHIẾN DỊCH BIÊN GIỚI Theo tài liệu Trung quốc, tháng 6-1950, Hồ Chí Minh muốn đánh thông biên giới từ Việt Bắc qua Trung quốc, và xin Bắc kinh giúp đỡ thực hiện chiến dịch này(1). Hồ Chí Minh còn yêu cầu Bắc kinh gửi Trần Canh (Chen Geng), Tư lệnh Quân đoàn 4, Phương diện quân số 2 sang giúp vì hai người biết nhau từ thập niên 1920, khi Trần Canh là sinh viên Hoàng Phố (Huangpu) tại Quảng Châu và Hồ Chí Minh hoạt động cho Quốc tế cộng sản, trong việc tổ chức các phong trào nông dân tại Hoa Nam (1924-1927). Đảng cộng sản TQ chấp thuận, cử Trần Canh làm cố vấn trưởng và đại diện bên cạnh Quân đội nhân dân Việt nam trong Chiến dịch biên giới (7-10-1950) tức “Cao Bắc Lạng” hay Lê Hồng Phong 2 (cùng thời gian với các cuộc hành quân Bayard, Orage, Thérèse, Phoque của Pháp)(2). 25-6-1950: Chiến tranh Triều Tiên bùng nổ. Bắc Hàn xâm lăng Nam Hàn. Biến cố này gây chấn động dư luận thế giới. Có thuyết cho rằng đây là điểm khởi đầu chiến lược chống cộng tại Á Châu của Mỹ. Nhiều học giả cho rằng chính phủ Truman đã quyết định can thiệp vào Đông Dương từ trước. Ngày 18-6-1950, Lưu Thiếu Kỳ chỉ thị cho Trần Canh về việc soạn thảo kế hoạch giúp Việt nam đánh thông biên giới Trung Việt(3). Theo Trần Canh, ngày 7-7-1950 Trần Canh lên đường qua Việt nam. Trên đường ghé Yanshan (Yên Sơn), trung tâm huấn luyện Đại đoàn 308. Được tướng Zhou Xihan (Chu Tây Hán) báo cáo về việc huấn luyện. Sau khi vượt biên giới, Trần Canh nguỵ trang làm một sĩ quan quân đội nhân dân Việt nam, thám sát địa hình, địa vật. Ngày 22-7-1950, Trần Canh điện về Bắc kinh, báo cáo dự thảo kế hoạch hành quân biên giới. Theo Trần Canh, một số đơn vị tinh nhuệ của Việt nam đang có tinh thần cao sau khi được huấn luyện ở Vân Nam và Quảng Tây, nhưng cấp chỉ huy trên cấp tiểu đoàn thiếu kinh nghiệm tác chiến thực sự. Trần Canh đề nghị đánh các lực lượng lưu động của địch trên mặt trận hay chiếm đóng một số tiền đồn hẻo lánh để lên tinh thần và kiếm kinh nghiệm. Sau đó mới tiến lên các trận đánh lớn. Trần Canh đề nghị nên vây hãm Cao Bằng trong khi đả viện từ Lạng Sơn. Đồng thời tấn công một số đồn bót nhỏ gần Cao Bằng để lôi kéo tăng viện khỏi Lạng Sơn(4). Ngày 26-7-1950, Quân uỷ Trung ương CSTQ chấp thuận). Ngày 28-7-1950, Trần Canh tới Thái Nguyên. Gặp Hồ Chí Minh và La Quí Ba (Luo Qibo). Hồ Chí Minh ôm hôn thắm thiết Trần Canh, và làm bài thơ tặng Trần Canh(5). Trần Canh ở lại đây 4 ngày; nói với Hồ Chí Minh và các lãnh đạo Việt nam rằng chưa tiện đánh Cao Bằng ngay; mà chỉ nên bao vây, tỉa dần các tiền đồn và chặn viện. Đề nghị đánh Đông Khê để lôi kéo tăng viện từ Cao Bằng và Lạng Sơn. Hồ Chí Minh đồng ý(6). Ngày 29-7, Trần Canh ghi trong nhật ký: Các cấp chỉ huy Việt nam thiếu kiên nhẫn, và chỉ muốn vũ khí(7). Một tài liệu TQ khác ghi: Trung tuần tháng 7-1950, Trần Canh qua Việt Bắc. Sau nhiều buổi thảo luận với Võ Nguyên Giáp và các tướng lãnh Việt Minh, Trần Canh đề nghị tập trung lực lượng để bao vây, chia cắt và tiêu diệt lực lượng cơ động Pháp. Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp đồng ý( 8 ). Đại tướng Giáp, trong các hồi ký in năm 2001, không hề nhắc gì về sự có mặt của Trần Canh trước tháng 8-1950. Điều này đáng chú ý: Một, ông Giáp không nhớ rõ hoặc không muốn nói rõ. Hai, sự im lặng của ông Giáp có thể diễn dịch như chấp nhận những điều Trần Canh thuật lại. B. Theo tướng Giáp, tháng 7-1950, ông ta bàn giao hậu cứ cho Nguyễn Chí Thanh, rồi sang Tân Trào (Tuyên Quang) chào Hồ Chí Minh Chí Minh. Hồ Chí Minh tuyên bố sẽ tham dự Chiến dịch biên giới (mà điểm chính là Cao Bằng). Ngoài đoàn cố vấn quân sự TQ, “Bác đã mời đồng chí Trần Canh cùng tham gia chiến dịch”(9). Đầu tháng 7-1950, Trần Đăng Ninh được lệnh lo sửa đường(10). “Bác đã mời đồng chí Trần Canh cùng tham gia chiến dịch” mà tướng Giáp đề cập thật mơ hồ, nếu chẳng phải né tránh sự thực. Tại sao đã có cố vấn La Quí Ba, sắp có Vi Quốc Thanh, lại thêm Trần Canh “cùng tham gia chiến dịch?”. Tướng Giáp đáng lẽ phải khẳng định có chăng việc Hồ Chí Minh nhờ Trần Canh chỉ huy chiến dịch. Ngày 30-9-1950, trung tá Le Page được lệnh đưa binh đoàn Bayard rời Thất Khê tiến lên Đông Khê, trong khuôn khổ chiến dịch Thérèse. Vì hai phần ba chủ lực của đại đoàn 308 có trách nhiệm đả viện dài theo lộ 4 bỏ đi thuỷ khẩu tải gạo, cánh quân Le Page tới gần Đông Khê thật bất ngờ(11). 30-9-1950: tiểu đoàn 1 Dù tới gần Đông Khê đồng thời, rút bỏ Nà Cạn. Bị chặn đánh. Tiểu đoàn 1-8 RTM ở phía sau cũng bị tấn công nặng. 1-10-1950: Chiến đoàn Le Page bị chặn lại ở phía nam Đông Khê. Tối ngày 1-10-1950, đơn vị tiền tiêu của Le Page đã chạm súng với trung đoàn 209 Việt Minh. Le Page cho lệnh các đơn vị còn lại tản ra chiếm các cao địa phía nam Đông Khê. Sáng ngày 2-10, Le Page dùng 2 tiểu đoàn đánh Đông Khê. Tiểu đoàn 11 Tabor chiếm được phía tây và cứ điểm bảo vệ phi trường. Tiểu đoàn dù bị chặn đứng tại các dãy núi vôi phía nam. 14G30, đại tá Consatns, tư lệnh Khu biên giới, cho lệnh Le Page dồn lực lượng về phía Quang Liệt - Nậm Nàng, bắc Đông Khê 15 cây số, để đón cánh quân di tản của trung tá Charton, sẽ từ Cao Bằng rút về. Ngày hẹn là 3-10-1950. Sau đó, toàn bộ rút về Thất Khê. Le Page cho lệnh ngưng tấn công Đông Khê. Để lại phía Nam 1 tiểu đoàn dù và tiểu đoàn 11 Tabor làm chốt cản đường triệt thoái về Lạng Sơn. Le Page cho tiểu đoàn 1 Tabor bọc về hướng tây cánh quân Dù, chiếm được một đồn cũ (Cốc Xá). Hai tiểu đoàn 1-8 RTM và 2 Tabor làm trừ bị ở Na Pa và Na Kéo gần quốc lộ 4. Cũng sáng ngày 2-10 này, đích thân Le Page dẫn tiểu đoàn 8 Tabor đi vòng sang phía tây Đông Khê, tiến về hướng quốc lộ 4, hy vọng bắt tay cánh quân Cao Bằng của Charton tại Quảng Liệt trước 12 giờ trưa ngày 3-10-1950. Tiểu đoàn 1 Tabor cũng nhận lệnh triệt thoái khỏi khu vực phi trường đi theo Le Page. Lúc này, các đơn vị của Đại đoàn 308 đã lấy gạo trở về. Bắt đầu tấn công hai tiểu đoàn 1 Dù và 11 Tabor. 15G00: một số đơn vị của Đại đoàn 308 bắt đầu tấn công các đơn vị Pháp tại các cao điểm phía nam Đông Khê. Vị trí Na Kéo bị pháo và tấn công ba đợt trong đêm ngày 2 rạng 3-10. Le Page có ý định đưa quân về phía tây, hợp sức cùng tiểu đoàn 1 Tabor. Thiếu tá Delcros phải xin Le Page cho rút về Lũng Phầy trước khi quá muộn. Le Page không dám tự quyết định, xin lệnh Cosntans. Constans chẳng có lựa chọn nào khác hơn là đồng ý. Nhưng bị VM tấn công dữ dội, lực lượng này phải rút về điểm cao 765, nơi Le Page đang trú quân. Ngày 3-10, cánh quân do Le Page chỉ huy bị dồn về phía Cốc Xá (đỉnh cao 649). Quân VM vẫn vây đánh không ngừng. Trưa ngày 4-10, Le Page quyết định không tiến lên phía bắc nữa mà chỉ nhích dần tới Cốc Xá, gần cao điểm 477. Bị Đại đoàn 308 và Trung đoàn 209 VM vây đánh liên miên tại vùng núi đá vôi Cốc Xá. Đêm 4-10, Le Page tới Cốc Xá, nhưng tiểu đoàn 1 Dù chỉ tới được vị trí vào trưa ngày 5-10. Ngày 6-10-1950, Đại đoàn 308 tiến sát Cốc Xá, Le Page xin phi cơ yểm trợ. Cánh quân triệt thoái Cao Bằng: Tại hướng bắc, lúc 5G30 sáng ngày 3-10, Charton bắt đầu rút quân khỏi Cao Bằng theo quốc lộ 4. Gồm tiểu đoàn 3-3 REI Lê Dương, tiểu đoàn 3 Tabor, và 1 tiểu đoàn Nùng. Ngoài ra, còn có pháo binh, công binh và chuyên môn. Mang theo 500 viên chức hành chính tỉnh, quận. Vì phải sửa đường, chỉ đi được 10 cây số trong ngày đầu tiên. Sáng ngày 4-10, Charton nhận lệnh bỏ quốc lộ 4, rẽ qua hướng tây vào đường rừng ở Quảng Liệt (cây số 21). Pháo binh, xe cộ đều bị bỏ lại. Đoàn di tản kéo dài tới 5 cây số, trọn ngày 4-10 chỉ di chuyển được thêm 7 cây số. Tuy nhiên, mãi tới trưa ngày 4-10, Võ Nguyên Giáp mới nhận được báo cáo về cuộc triệt thoái của Charton. Giáp bèn cử Trung đoàn 209 (của Lê Trọng Tấn) lên chặn đường. Các đơn vị của Đại đoàn 308 tiếp tục tấn công Le Page ở Cao Xá(12). Được tin Le Page bị vây đánh ở Cốc Xá, từ điểm hẹn Nậm Nàng, Charton phá huỷ xe, cho lệnh rời Quốc Độ 4, rẽ sang hướng tây để tránh phục binh tại vùng Đông Khê, tìm đường mòn về Thất Khê Ngày 5-10, Trung đoàn 209 VM bắt gặp cánh quân tiền tiêu của Charton ở Khâu Né, phía tây QL 4. Charton phải bỏ đường mòn, tìm đường đỉnh đi về Tân Bể. Bị các đơn vị VM chận đánh. Ngày này, cánh quân Charton di tản thêm được 6 cây số. Ngày 6-10, tiểu đoàn 3 Tabor tới được cao điểm 477. Nhưng cánh quân cuối còn cách khoảng 5 cây số. Tính ra chỉ di chuyển được thêm 4 cây số. 17G00, Charton, mới tới Lan Hai, và Le Page, đang bị vây hãm tại Cốc Xá, bắt được liên lạc vô tuyến. Hẹn bắt tay nhau tại đồi 477, giữa Lan Hai và Cốc Xá. Nhưng hai tiểu đoàn 130 và 166 của Trung đoàn 209 (Sông Lô) đã đuổi kịp đại bộ phận Lữ Đoàn Charton, khoảng 2.000 người. Quyết chặn không cho hai cánh quân Charton và Le Page bắt tay nhau như dự tính. Phần Binh Đoàn Bayard của Le Page không tới được điểm hẹn mà bị vây bọc ở thung lũng Cốc Xá. Mưa và sương mù hạn chế tầm hoạt động của không quân. Đêm 5 rạng 6-10, cánh quân Le Page mở đường máu tiến sang 477. Trưa ngày 6-10, khoảng 650 trên tổng số 2,500 binh sĩ của Le Page về tới cao điểm 477. Từ 6 giờ sáng ngày 6-10, tất cả các vị trí của cánh quân Charton ở 477 cũng bị đồng loạt tấn công. Charton xin tăng viện, nhưng Constans chỉ có thể điều động được 4 đại đội, lập thành Binh Đoàn De Labaume, gồm Lê Dương và Tabor, từ Thất Khê lên cứu viện. Bị chặn đánh ở phía nam Lũng Phầy (phía nam Nà Kéo)(13). - Theo tài liệu Trung quốc, ngày 6-10-1950, sau khi đọc điện văn của Mao gửi cho Trần Canh (Chen Geng), Hồ Chí Minh quyết định đánh lớn ở Cao Bằng. Ngày 7-10, tiểu đoàn 1 Dù và 3 tiểu đoàn Tabor của Le Page bị đánh tan. Le Page chạy về hướng Nà Kéo trên lộ 4. 17 giờ ngày 7-10-1950, Charton bị bắt sống cùng với Tỉnh Trưởng Hai Thu. Ngày 8-10-1950, Le Page bị bắt sống ở gần Nà Kéo(14). 10-10-1950: Pháp rút khỏi Thất Khê. 11-10-1950: Pháp rút khỏi Thái Nguyên. 11-10-1950: Trần Canh gặp Hồ Chí Minh và Giáp. Thảo luận về ưu khuyết điểm của Việt Minh. Trần Canh còn dạy bảo Hồ Chí Minh và Giáp cách vận động tinh thần anh hùng cách mạng (revolutionary heroism) để giữ tinh thần chiến đấu cao. Theo hồi ký của Trần Canh, Hồ Chí Minh và Giáp rất vui vẻ đón nhận “những nghi thức Mao ít” (Maoist rituals) này(15). 13-10-1950: Pháp rút Na Sầm. Chú thích (1) China and the Vietnam Wars, 1950-1975 của Qiang Zhai, Nhà xuất bản đại học North Carolina, 2000, trang 26 (2) China and the Vietnam Wars, 1950-1975 của Qiang Zhai, Nhà xuất bản đại học North Carolina, 2000, trang 26 (3) China and the Vietnam Wars, 1950-1975 của Qiang Zhai, Nhà xuất bản đại học North Carolina, 2000, trang 26 (4) Chen Jian, “China and the First Indo-China War, 1950-1954”, The China Quarterly 132 (March 1993),, 1993, trang 92; Canh gửi BCH-TƯ CSTQ, 22-7-1950; trong China and the Vietnam Wars, 1950-1975 của Qiang Zhai, Nhà xuất bản đại học North Carolina, 2000, trang 28 (5) China and the Vietnam Wars, 1950-1975 của Qiang Zhai, Nhà xuất bản đại học North Carolina, 2000, trang 29. Tháng 6, Ba đã tới Việt Bắc (Võ Nguyên Giáp, Đường tới Điện Biên Phủ, 2001, trang 15 (6) Hoàng Văn Hoan, 1987, Giọt nước trong biển cả, trang 350-351; China and the Vietnam Wars, 1950-1975 của Qiang Zhai, Nhà xuất bản đại học North Carolina, 2000, trang 28-29 (7) China and the Vietnam Wars, 1950-1975 của Qiang Zhai, Nhà xuất bản đại học North Carolina, 2000, trang 29 ( 8 ) Chen Jian, “China and the First Indo-China War, 1950-1954”, The China Quarterly 132 (March 1993),, 1993, trang 92 (9) Võ Nguyên Giáp, Đường tới Điện Biên Phủ, 2001, trang 16 (10) Võ Nguyên Giáp, Đường tới Điện Biên Phủ, 2001, trang 17 (11) Võ Nguyên Giáp. Đường tới Điện Biên Phủ, 2001, trang 54 (12) Võ Nguyên Giáp, Đường tới Điện Biên Phủ, 2001, trang 61-79 (13) Lê Trọng Tấn 1994, trang 135; Giáp, Đường tới Điện Biên Phủ, 2001, trang 77-79. (14) Lê Trọng Tấn 1994, trang 135 (15) China and the Vietnam Wars, 1950-1975 của Qiang Zhai, Nhà xuất bản đại học North Carolina, 2000, trang 32
|
|
|
Logged
|
|
|
|
ngao5
Cựu chiến binh
Bài viết: 756
|
|
« Trả lời #15 vào lúc: 14 Tháng Tám, 2008, 05:45:50 am » |
|
15-10-1950: Đại sứ Mỹ, Donald Heath, điện cho Washington, báo cáo tình hình Việt nam nguy ngập. Sự tổn thất 9 tiểu đoàn và 7.000 lính ở vùng biên giới có thể mang lại những hậu quả trầm trọng. Xin xúc tiến ngay việc thành lập quân đội Việt nam, gia tăng mức độ quân viện, và một số biện pháp khác. Heath báo động: Liên xô và Trung quốc đang xâm lăng Đông Dương, qua việc huấn luyện quân đội Việt Minh(1). 16-10-1950: Cao uỷ Pháp ban hành lệnh báo động ở Bắc Việt. Đàn bà, con trẻ phải di tản. Thanh niên từ 21 tới 25 phải nhập ngũ trong vòng 3 tuần lễ. Hà nội: Constans yêu cầu tướng Alessandri cho triệt thoái Lạng Sơn. Alessandri đồng ý, bay vào Sài gòn xin lệnh. 16-10-1950: Pignon và Carpentier họp bàn tình hình. Đồng ý cho Constans rút bỏ Lạng Sơn. 17-10-1950: Pháp rút bỏ Đồng Đăng. 18-10-1950: Pháp rút bỏ Lạng Sơn kéo về Tiên Yên. Giáp định cho lệnh truy kích tới Tiên Yên, nhưng Trần Canh khuyên không nên(2). Phóng thích khoảng 800 tù binh. Điểm nổi bật của Trần Canh: “Đánh điểm, diệt viện”(3). 18-10-1950: Letourneau và Juin, tổng trú xứ ở Morocco, tới Đông Dương thị sát. Thứ tư, 1-11-1950: Pháp bỏ Lào Cai, cố thủ Lai Châu để bảo vệ vùng Thái tự trị. Từ ngày 27 tới 30-10-1950: Họp tổng kết (summing-up) Chiến dịch biên giới trên cấp tiểu đoàn tại Cao Bằng. Theo Võ Nguyên Giáp, trong dịp tổng kết chiến dịch tại Cao Bằng, sau khi Pháp rút bỏ Lạng Sơn (18-10-1950), Giáp gặp Vi Quốc Thanh cùng Trần Canh(4). Giáp cũng ghé qua Thuỷ Khẩu, gặp Lý Thiên Hữu, phó tư lệnh Quảng Tây, từng xuống tận Thuỷ Khẩu giúp đôn đốc việc chuyển gạo. Gặp Vi Quốc Thanh và cố vấn TQ, uống rượu say(5). “Trung quốc trợ giúp: 1,020 tấn vũ khí đạn dược, 180 tấn quân trang, quân dụng, 2,634 tấn gạo, 20 tấn thuốc dụng cụ quân y, 800 tấn hàng quân giới, 30 ô tô, 120 tấn xăng dầu và phụ tùng ô tô”(5). Theo tài liệu TQ, Hồ Chí Minh muốn xin Trần Canh ở lại thêm một năm nữa, nhưng Trần Canh mới nhận lệnh thi hành một nhiệm vụ khác. Thượng tuần tháng 11-1950, Trần Canh rời Việt nam(7). Theo Võ Nguyên Giáp, ngày 8-6-1951, Trần Canh được cử làm phó tư lệnh quân tình nguyện Trung quốc tại Triều Tiên. Tháng 8-1951, qua Triều Tiên. Bị thương vì bỏng bom napalm( 8 ). Theo lời yêu cầu của Hồ Chí Minh , Trần Canh giảng dạy cho cán bộ quân sự Việt Minh suốt 4 ngày liên tiếp. Đưa ra những nhược điểm của Việt Minh: cấp chỉ huy không lo cho thuộc cấp; hình phạt thể xác; chậm trễ thi hành mệnh lệnh; và thói xấu chỉ báo cáo những tin tốt(9). Hồ Chí Minh cho rằng chiến thắng thắng biên giới là “thắng lợi của tinh thần chủ nghĩa quốc tế vô sản (triumph of proletarian internationalism) (10). Hồ Chí Minh cho Trần Canh coi công điện gửi Stalin và Đảng CS Pháp về Chiến thắng biên giới(11). Võ Nguyên Giáp tuyên bố: “Tư tưởng quân sự của Mao hết sức thích hợp với hoàn cảnh Việt nam và cuộc đấu tranh vũ trang của ta” (Mao's military thought was very applicable to Vietnam)(12). 2-11-1950: Việt Minh tiến vào Lào Cai và Cốc Lếu. 3-11-1950: Việt Minh chiếm Sapa. 5-11-1950: Pháp rút khỏi Hoà Bình, Vụ Bản. 22-11-1950: Quốc hội Pháp nhóm họp về Đông Dương. Jean de Lattre de Tassigny, Tư lệnh lục quân Tây Âu, được cử làm cao uỷ kiêm tổng tư lệnh Đông Dương. (Xem 6-12-1950) 23-11-1950: Tăng viện Pháp tới Sài gòn. Gồm 7 tiểu đoàn bộ binh, 1 tiểu đoàn cơ giới, 2 phi đội, 2 pháo đội. 27-11-1950: Hội nghị tổng kết tại Chợ Đồn, Thái Nguyên. Hồ Chí Minh Chí Minh, Nguyễn Chánh và Trần Quí Hai cũng tham dự(13). Chú thích:
(1) FRUS, 1950, VI, trang 895-896 (2) Võ Nguyên Giáp. Đại thắng Điện Biên Phủ, 2001, trang 83 (3) Võ Nguyên Giáp. Đại thắng Điện Biên Phủ, 2001, trang 101 (4) Võ Nguyên Giáp, Đường tới Điện Biên Phủ, 2001, trang 90-94 (5) Võ Nguyên Giáp, Đường tới Điện Biên Phủ, 2001, trang 92 (6) Võ Nguyên Giáp, Đại thắng Điện Biên Phủ, 2001, trang 102 (7) China and the Vietnam Wars, 1950-1975 của Qiang Zhai, Nhà xuất bản đại học North Carolina, 2000, trang 33 ( 8 ) Võ Nguyên Giáp. Đại thắng Điện Biên Phủ, 2001, trang 94 (9) China and the Vietnam Wars, 1950-1975 của Qiang Zhai, Nhà xuất bản đại học North Carolina, 2000, trang 32 (10) Hoàng Văn Hoan, 1987, Giọt nước trong biển cả, trang 352; China and the Vietnam Wars, 1950-1975 của Qiang Zhai, Nhà xuất bản đại học North Carolina, 2000, trang 33 (11) Giáp, Đại thắng Điện Biên Phủ, 2001, trang 92-94 không nhắc đến sự hiện diện của Hồ Chí Minh (12) Hoàng Văn Hoan, 1987, Giọt nước trong biển cả, trang 352-353; China and the Vietnam Wars, 1950-1975 của Qiang Zhai, Nhà xuất bản đại học North Carolina, 2000, trang 33 (13) Võ Nguyên Giáp, Đại thắng Điện Biên Phủ, 2001, trang 98-103
|
|
|
Logged
|
|
|
|
ngao5
Cựu chiến binh
Bài viết: 756
|
|
« Trả lời #16 vào lúc: 14 Tháng Tám, 2008, 05:53:55 am » |
|
Tướng Trần Độ, một trong những người đưa quân đội Việt nam sang luyện tập ở Trung Quốc và về nước tham gia Chiến dịch biên giới kể: Tướng Nguyễn Sơn và tôi Ông Nguyễn Sơn có vóc người vạm vỡ rắn chắc khuôn mặt vuông, tóc quăn và rậm, da bánh mật. Ngày tôi biết ông ấy, không rõ ông đã bao nhiêu tuổi nhưng mặt đã có nếp nhăn. Tôi thấy ngay rằng ông là bậc đàn anh, một đàn anh đã tham dự cuộc “Trường chinh” bên Trung quốc. Còn ông thì xem xét cái này cái kia, không nói gì song qua thái độ biểu hiện xem chừng ông có ý xem thường. Ông cũng hỏi dăm ba câu như: Cậu năm nay bao nhiêu tuổi? Hà nội thì bộ đội được bao nhiêu! Bộ đội ở những đâu? Thành phần trong các đơn vị như thế nào! Loanh quanh những vấn đề tương tự như thế. Phần tôi trong lần gặp ấy có ấn tượng được gặp vị mà cụ Hồ thường bảo là “Thân kinh bách chiến”, nghĩa là một vị tướng chỉ huy cực kỳ dày dạn chiến trận ở nơi nổi tiếng ác liệt. Tôi lưu ý đến ông cũng là điểm ấy. Cho đến ngày ông làm tư lệnh quân khu IV, ông là người có sáng kiến tổ chức đại hội tập sau đấy các quân khu bắt chước tổ chức theo. Đại hội đầu tiên tổ chức ở Thanh Hoá. Núi Nương là nơi diễn lập các môn. Tôi vào Thanh dẫn đầu một đoàn các bộ văn nghệ sĩ như các ông Nguyễn Xuân Khoát, Mai Văn Hiến, Nguyễn Công Hoan. Nói là đi vào khu 4 công tác nhưng dụng ý của lãnh đạo là sơ tán anh em khỏi Việt Bắc, tránh trận càn của địch lên Việt Bắc vào gần cuối năm 1947. Khi tôi tới trình giấy tờ, ông Sơn thấy danh sách có tên mấy nhà văn, liền hẹn mời đích danh các ông, còn cán bộ chính trị, ông không nhắc tới. Tôi liền dẫn mấy ông nhà văn vào phòng khách, là gian đầu của cái nhà tranh vách đất, có bộ ghế mây cũng tươm tất. Tôi kéo ghế ngồi lại. Ông Sơn chào khách: - Hôm nay thấy có các anh văn nghệ sĩ, tôi mời các anh lại nói chuyện văn nghệ chơi. Nhìn thấy tôi cũng ngồi lại, ông chỉ vào mặt bảo: - Mày ngồi đây làm gì. Mày thì biết chó gì văn nghệ? Ông bổ báng như vậy, nhưng tôi cũng hiểu là lời nói thân tình theo phong cách của ông. Hơn nữa ông ấy cũng nói một sự thật - tức là tôi mới là học trò đi bộ đội thì chưa biết gì nhiều thật. Còn các vị kia đều là người có tên tuổi, đều có tác phẩm, ông ấy muốn nói chuyện với họ. Tôi đáp: - Tôi muốn ngồi nghe các anh nói chuyện để học tập! Ông ấy liền bảo: - Ừ, thì cứ ngồi đấy. Rồi ông ấy bắt đầu câu chuyện. Ông bình luận trên trời dưới đất. Phải thừa nhận là nhờ ông mà tôi mới đọc được chữ Trung quốc và cũng mới biết được tên một số tác giả lớn của nước Nga như Macxim Gorki, Erenbua, Phadeép và các ông Lecmôntôp, Trecnưsepski, Gô gôn. Hôm ấy ông ta nhắc đến hết, làm tôi hoang mang thật sự. Tìm đâu được Gôgôn để đọc mà ông ấy ca ngợi đến thế. Lần đầu tiên tôi được nghe dến tên tác giả Những linh hồn chết. Mà ông ấy thì thông kim bác cổ. Tôi hỏi ông, đọc Gôgôn bằng tiếng gì? Ông nói bằng tiếng Trung quốc - không lẽ Trung quốc đã dịch Gôgôn từ thời ấy! Vừa trò chuyện, ông đưa cả rượu và kẹo ra mời khách, thật sự là một cuộc tiếp xúc rất là văn nghệ, không có công tác công tiếc gì cả. Thời ấy, dân văn nghệ tập trung ở khu 4 khá đông. Ông Nguyễn Tuân biết có ông Nguyễn Công Hoan vào thì nhắn mời đi uống cà phê một chầu. Tôi là trưởng đoàn nên cứ các ông ấy đi đâu thì tôi cũng có thể đi theo. Tôi biết hai ông này mà gặp nhau ắt có lắm chuyện thú vị nên tôi đi cùng. Tôi rất sung sướng được ngồi với hai nhà văn lớn mà thời đi học đã bò ra đọc các tác phẩm của các vị. Tôi ngồi hóng chuyện và quả là lý thú thật. Ông Nguyễn Công Hoan là người rất vui tính thích hài hước. Ông đã khởi đầu bằng một câu chuyện hài về ăn uống làm chúng tôi cười nôn ruột, tiếc là lâu ngày tôi quên nội dung. Ông Nguyễn Tuân hưởng ứng đáp lễ, dí dỏm kể chuyện đi ăn mì, thật khó mà tái hiện đầy đủ cái chất Nguyễn Tuân ngất ngưởng ông rủ rỉ tả cái tiệm mì của một Hoa kiều. Ông vào gọi một bát mì, ngồi mãi không thấy gì mới giục: - Sao lâu thế. - Dạ xin xong ngay đây ạ Tay chạy bàn đem ngay bát nước mắm để trên bàn. Mình yên chí ngồi đợi với hy vọng có ăn ngay. Nhưng đã lâu lắm vẫn không thấy bưng mì lên. Mình lại giục, nó lại giòn giã cao giọng đáo: - Dạ. Có ngay đây! Một đĩa rau thơm tiếp lời dạ theo ra bên bát nước mắm. Và không còn gì hơn nữa đến hàng chục phút. Bụng như sôi lên. Lần thứ ba này mình không thèm giục mà là quát thẳng thừng. Thêm được đủ bộ cái bát con, đôi đũa và cái thìa. Và chỉ có thế! Lại đành bấm bụng ngồi đợi... đợi... đến gần phát khùng thật sự thì nó mới bưng bát mỳ ra. Một bát mỳ khói bốc nghi ngút. Nguyễn Tuân đến lúc này cũng đói mềm, tính ăn ngay. Chỉ sự chờ chực đã làm mỳ quá ngon rồi. Nhưng vẫn tính thận trọng hay quan sát trước khi ăn và “thấy bát mỳ có một con ruồi chết trong đó”. Đang đói meo nhưng vì bực quá quên cả đói mình mới gọi bồi lại: “Lại.. lại.. lại.. đây!”, Nguyễn Tuân tự nghĩ mình là trí thức nên đắn đo giữ cử chỉ hành động như thế nào cho tế nhị chứ không muốn trở thành thô lỗ như kẻ phàm ăn khác. Tên bồi lại gần hỏi: “Thưa cái gì ạ?” Tớ không thèm nói mà chỉ tay vào bát mỳ có dụng ý trách nó là bát mỳ có ruồi chết. Nó nhìn và trả lời thật thản nhiên: - Ờ... bát mỳ, thưa bát mỳ đấy mà! Tức lộn ruột mà vẫn phải giữ tư thế trí thức, mình chỉ vào con ruồi. Hình như nó vẫn chưa nhìn ra, nó lại bảo: - Ờ... bát mỳ dấy mà! Đến nước này cứ trí thức lịch sự không xong mình mới bảo: - Nhưng mà có một con ruồi! Nó chăm chú nhìn con ruồi, ngẩng lên bảo: - Ờ con ruồi nó chết đấy mà. Tức quá mình quát to: - Nhưng ruồi nó chết trong bát mỳ! Nó bình thân đáp lại:. - Ờ, tại mỳ nóng quá đấy mà! Thế là Nguyễn Tuân bụng đói cồn cào phải đứng lên trả tiền bát mỳ đi ra không dám ăn, cũng không dám không trả tiền vì phải giữ tư thế của... vị trí thức. Câu chuyện là thế nhưng cái chất Nguyễn Tuân làm cho nó rất mực bi hài. Lại một lần không biết đi đâu đấy, quân khu đưa xe gíp đón cả đoàn, bảy tên lên xe đi hơn chục cây số. Thế là sau đó ông Nguyễn Công Hoan hễ đi bộ là than thở: “Úi giời, mình đi xe gíp nó quen rồi, giờ đi bộ sao ngại quá”. Chục cây số đi xe tai hại thế làm Nguyễn Công Hoan muốn quên thói quen đi bộ. Đi với các vị thì cứ như vậy chuyện không đâu cũng được các ông chế biến, làm cả đoàn vui cười dọc đường. Sau đó chúng tôi gặp lại ông Nguyễn Sơn ở đại hội. Vẫn thói quen mặt bộ pijama lụa, lụa nâu hay lụa đà, đạp xe đua đi chơi phố. Ông ấy tính rất bình dân và dân chúng ở đây đều biết Nguyễn Sơn. Có buổi văn công biểu diễn văn nghệ nhưng chuẩn bị chưa kịp để mở màn thì ông ra... diễn thuyết. Một buổi diễn thuyết không chủ đề, không có dàn bài gì cả. Ông kể hết chuyện nó đến chuyện kia, chuyện các làng đánh du kích thiên biến vạn hoá. Ta chiến thắng ra sao! Kháng chiến nhất định thắng lợi vì sao! Cách nói của ông thật nôm na và không kém hài hước làm cho nghe cười tức bụng. Nhiều lúc khán thính giả rộ lên vỗ tay nhiệt liệt. Nói một thôi, ông lại vạch màn ngó vào trong hỏi: “Xong chưa?” Rồi ông lại đóng màn quay ra bảo: “Văn công vẫn chưa chuẩn bị xong, tôi xin phép lại nói tiếp nhé”. Cứ thế đến ba lần. Mỗi lần trở lại. Ông vẫn tiếp tục câu chuyện vừa dừng lại và đám đông lại vui cười như sấm. Lần ấy, tôi trú ở nhà một chị độ ba mươi tuổi, đã có con, cũng rất ham xem văn công. Ở nông thôn kháng chiến hễ có buổi văn công biểu diễn là không một ai bỏ qua. Thấy chị, tôi hỏi cảm tưởng: - Chị thấy văn nghệ thế nào. - Hay, hay lắm, vui lắm! - Thế tiết mục nào chị thích nhất? - Thích nhất tiết mục ông Sơn. Với chị, ông Sơn đã thành là tiết mục văn nghệ hay nhất! Tôi cứ nhớ mãi lời nhận xét đánh giá đó. Đúng là ông Nguyễn Sơn rất được quần chúng ưa mến. Còn giới trí thức thì đánh giá ông là nhà hùng biện. Người ta đồn nhiều và tỏ rõ sự thán phục ông trong việc nói truyện Kiều, điều này tôi không được biết. Còn thỉnh thoảng nghe ông nói về văn nghệ thì tôi bái phục sự hiểu biết của ông ấy, kể cả về văn học thế giới. Hồi ông ấy mới về nước, tôi thừa nhận ông có nhiều điều bất bình, như khi phong ông là thiếu tướng thì định không nhận. Mọi người đến mừng thì ông đã vặc lại: “Chúc mừng cái đ. gì! Tao thừa tướng chứ thiếu... sao!” Đợt phong đầu tiên năm ấy có mấy ông: ông Văn Đại tướng, ông Nguyễn Bình trung tướng, rồi các ông Hoàng Sâm, Nguyễn Sơn... Điều đó cho ta thấy rõ là ông không bằng lòng cách sử dụng ông và cấp bậc phong. Thoạt tiên ông là tư lệnh quân khu V hay là chỉ huy mặt trận trong đó thì tôi không nắm chắc, chỉ biết là lúc đó ông có viết một bài phân tích kinh nghiệm trận đánh, tên bài là Trận Phú Phong, còn ông đánh đấm ra sao tôi không rõ. Sau đó ông ấy ra làm tư lệnh khu IV, ông ra ngay tờ báo Tiền Phong hay gì đó, ông viết nhiều bài trong đó, chủ yếu là về quân sự. Ông phê bình chế độ chính uỷ tối hậu quyết định mà ông không tán thành. Chắc là ông có những ý kiến động các ông khác. Thế rồi ông xin trở lại Trung quốc và Bác Hồ đồng ý.
|
|
|
Logged
|
|
|
|
ngao5
Cựu chiến binh
Bài viết: 756
|
|
« Trả lời #17 vào lúc: 14 Tháng Tám, 2008, 05:55:14 am » |
|
Cũng dịp này tôi được phái sang Trung quốc chuẩn bị việc đưa quân sang huấn luyện. Ông Nguyễn Sơn được tổ chức ghép vào cùng đi với chúng tôi. Đến biên giới thì có xe GMC đón đi Nam Ninh. Cả đoàn phấn khởi vui sướng lắm. Yên vị trên xe, ông Nguyễn Sơn bảo: - Thế là tao cùng đi với chúng mày! Tôi đáp: - Được đi cùng anh vui lắm. Dọc đường tôi có hỏi:. - Tại sao anh đòi trở lại Trung quốc như vậy? - Trung quốc mới là tổ quốc của tao. - Thế về Trung quốc anh định làm gì? - Tao có ý định lập một đoàn kinh kịch! Tao sẽ làm trưởng đoàn dẫn quân đi diễn khắp các nước trên thế giới. Tôi hỏi: - Thế liệu anh anh có về Việt nam diễn không? - Đi các nước thì đi chứ không thèm về Việt nam. Trên đường đi ông ấy giải thích để tôi hiểu kinh kịch. Đường đi từ Tĩnh Tây đến Nam Sinh thì mấy trăm cây số phải qua một vùng không an toàn còn nhiều thổ phỉ và tàn quân Tưởng Giới Thạch, qua cái đèo gọi là Ma Thiên Lĩnh. Ông Nguyễn Sơn giải thích Ma Thiên Lĩnh là núi chọc trời, ở Trung quốc thì có nhiều. Ngày trước tôi đọc chuyện tàu có tên này, nay được đi qua thấy vừa thích thú vừa phiêu lưu. Bộ phận quân sự ở Tĩnh tây ngày đó tôi không biết là cấp gì những đã lưu chúng tôi lại, nói để tổ chức chuyến đi cho chu đáo. Lúc lên xe họ đưa tôi và ông Sơn lên chiếc xe có chữ “đặc đẳng” an toàn. Ông Sơn bảo: - Xe này tốt lắm đây. Bên này có mấy cấp an toàn, đi loại xe này là thuộc cấp an toàn cao nhất, lái xe là loại rất giỏi, là những người lái một thời gian dài không để xe va quẹt, không để xảy ra tai nạn thì được phong là đặc đẳng an toàn. Có quý chúng mình lắm thì mới bố trí như thế này. Tay lái này quả thực là giỏi. Anh là đại đội trưởng chỉ huy đại đội, tuyên bố: - Dọc đường đi xin đồng chí Hồng Thuỷ làm chỉ huy trưởng, trực tiếp chỉ huy. Chúng tôi nhất nhất tuân lệnh đồng chí! Ông Nguyễn Sơn thời ở Trung quốc lấy tên là Hồng Thuỷ, là Đảng viên Đảng cộng sản Trung quốc. Ông từ chối, nói: - Không được. Tao là khách. Việc chỉ huy là ở chúng mày. Quân đội chúng mày sao tao lại chỉ huy! Tay kia nhất định không chịu. Thế là ông Sơn buộc phải nhận chỉ huy. Đi qua Ma Thiên Lĩnh còn thấy xác xe hàng bị cướp đổ nghiêng hai bên lề đường, đồ đạc quần áo vương vãi xung quanh mấy xác xe, tuyệt không thấy người. Tay đại đội trưởng báo cáo ông Sơn kế hoạch đi tiếp. Cả đoàn xe có đến cả chục chiếc tạm thời dừng lại. Phái một trung đội đi lên trước chiếm lấy một điểm cao có thể khống chế được một vùng với đường kính vừa tầm đạn. Đoàn xe tiến lên sau và cứ thế cuốn chiếu qua quãng đường dài mấy chục cây số. Tay lái chiếc xe tôi ngồi phóng ghê lắm. Đặc biệt là cậu ta cứ đổ dốc là tắt máy, là lối đi rất mạo hiểm, xe lao như tảng đá lăn dốc. Không thuộc đường, tay lái không nhạy, không chắc thì không thể tránh nổi tay nạn. Ông Nguyễn Sơn cũng lạnh gáy, ông ấy nói riêng với tôi: - Tao ghê thằng này quá! Tao không sợ trời, không sợ đất mà sợ thằng lái này. Sau, ông phải bảo tay đại đội trưởng nhắc tay lái kìm hãm bớt lối đi quá mạo hiểm. Từ đó, khi đổ dốc xe vẫn giữ máy nhưng máu hăng của lái xe vẫn không giảm. Đoạn đường vun vút qua quắt, vòng cua này bẻ cua kia cứ lẹ làng như cỗ máy tự động điều khiển, xe cứ trôi đều êm ru. Phải thừa nhận tay này lái hay như một nghệ nhân điều khiển xe, làm người ngồi vừa sợ vừa thú vị. Chuyến đi kéo dài hai ba ngày. Thường đến đêm thì đoàn xe dừng lại ở một thị trấn để xã hơi là dịp ông Sơn rủ tôi đi uống rượu: - Phải làm chén rượu! Mày đi với tao! Tôi nhận lời nhưng giao hẹn trước: - Tôi đi nhưng không biết uống ruợu. Tôi ngồi chơi với anh, còn anh uống nhé! Ông nhất định không nghe, buộc tôi nhất quyết phải uống. Đến là khổ sở. Đến Nam Ninh hai chúng tôi được đón vào một cái biệt thự. Người đầu tiên đến thăm là bí thư Trương. Ông tới thăm Hồng Thuỷ chứ không phải để thăm tôi. Hai ông gặp nhau mừng ra mặt, chuyện trò rôm rả. Còn tôi thì chầu rìa. Mãi đến phút cuối cùng ông ấy mới bảo tôi rằng mai vào Quân khu mà gặp đồng chí tư lệnh Quân khu nắm tình hình. Chỉ thế thôi! Ông Trương từng cùng ông Sơn dự cuộc “Trường chinh” nên nay gặp nhau tay bắt mặt mừng là phải, ông Trương còn mời ông Sơn xem buổi kinh kịch ở Nam Ninh. Ông Sơn bảo tôi: - Mấy hôm nữa mày đi xem với tao. Tao sẽ giải thích thêm để mày hiểu thế nào là kinh kịch. Hôm sau tôi định vào làm việc với Quân khu. Tôi phàn nàn với ông Sơn: - Tôi không biết tiếng Trung quốc mà phiên dịch thì không có! Ông Sơn liền bảo: - Tao sẽ phiên dịch cho mày nhưng mà mày định bàn những gì với Quân khu. Nói truớc cho tao nghe, tao sẽ dịch cho. Tôi cho ông hay là phải bàn định ngày giờ đưa bộ đội sang, chỗ ăn ngủ của bộ đội, chế độ ăn uống cung cấp như thế nào? Việc lĩnh vũ khí chương trình huấn luyện ra sao. Nghe tôi nói xong ông ấy bảo: - Ờ, thế thì được rồi. Khi tới nơi, ông gặp ông Lý Thiên Hữu, cũng lại là bạn thân cũ. Các ông đón chào nhau cực kỳ niềm nở, còn với tôi thì nhạt nhẽo và trong câu chuyện tôi lại giữ vai trò ngồi chầu rìa. Ông Sơn bắt đầu câu chuyện của chúng tôi với ông Lý. Nửa giờ trôi qua, ông Sơn nói với tôi: - Thôi xong rồi, đi về. Rồi ông ấy lại nói: - Thôi thế này nhá! Mày lấy sổ ra ghi: Tao đã thảo luận với ông Lý rồi. Ông ấy đồng ý những điểm này rồi: ngày giờ sang này, quân trang quân dụng này, chế độ ăn, chế độ tiên vặt như thế này, cán bộ, chuyên gia huấn luyện, cố vấn bao giờ tới và đón tiếp ra sao, ba tháng học bắt đầu từ ngày nào và kết thúc lúc nào... Thôi, tao đã bàn đủ các vấn đề đó, mày cứ thế mà làm. Xong nhé..! Đi về! Thật đúng là phiên dịch “bố”! Ông ấy bảo mình thông báo trước rồi căn cứ vào đó ông ta bàn bạc hết. Phần tôi đúng là chầu rìa vì suốt buổi không phải nói một câu, không được hỏi lấy một lần. Nhưng nghĩ lại thì ông ấy làm thế cũng phải vì hiểu biết của ông ta bao trùm lên những chuyện mình cần đưa ra. Hơn nữa, tiếng tăm ông ấy thông thạo như tiếng mẹ đẻ. Chuyện để dịch từng câu nói chỉ thêm lủng củng phiền hà mất thì giờ vô ích. Những điều phải xử lý ông ấy làm chính xác hơn là có mình tham gia. Tôi thừa nhận cung cách của ông vừa gọn, lại đạt mọi yêu cầu nên cũng chẳng tự ái gì cả, cảm thấy nhẹ mình. Đến bữa đi xem chiếu bóng. Xảy ra chuyện “ông” cần vụ của tôi thú vị quá cứ ồ à như ở chỗ không người. Trước khi đi xem, anh thư ký cẩn thận nhắc tôi: - Anh phải dặn tay cần vụ đi thì giữ im lặng mà xem, cứ rống lên làm anh em xấu hổ. Trước khi lên xe tôi căn dặn: - Này xem thấy gì hay không được la tướng lên người ta cười đấy. Thế mà đến cảnh con trâu đi lại nó lại hét to: Trâu bước. Đến cảnh em bé trèo cưỡi trâu thổi sáo thì cậu ta thật sự quên mình đang ở đầu nói cười như vừa có một khám phá vĩ đại. Ngượng quá tôi cấu đùi nó khá đau mà nó cứ như không hay biết... Hôm đi xem kinh kịch là đi cùng ông Trương và cả ông Lý. Lúc chờ màn, tôi thấy ông Trương bảo ông Hồng Thuỷ lên nói chuyện. Tôi tò mò hỏi: - Ông ấy bảo nói cái gì đấy? Ông Sơn cười rồi nói: - Ông ấy bảo tao lên nói chuyện ngày xưa đi trường chinh với bộ đội giải phóng. Thời ấy cứ đến buổi xem văn nghệ, khoảng thời gian đầu chờ màn mở thì lại thường tao lên nói chuyện với khán giả. Nhưng mà bây giờ ở đây nói thế nào được. Ông kia cứ giục: - Hồng Thuỷ lên nói đi. Sau đó ngồi xem buổi diễn kinh kịch, ông Sơn giải thích cho tôi hiểu từng động tác của diễn viên dụng ý miêu tả cái gì. Phải thừa nhận ông hiểu rất sành sỏi và có cách thưởng thức thật tinh tế. Nhiệm vụ hoàn thành, tôi trở về nước, còn ông Sơn tiếp tục đi. Tỉnh Nam Ninh tổ chức bữa tiệc tiễn đưa tôi, đồng thời cũng tiễn đưa ông Sơn lên đường, mà cũng là cách để ông Sơn tiễn tôi trở về. Tiệc thì có rượu, người được tiễn phải uống rượu đáp lại thịnh tình của chủ bữa tiệc. Đó là chuyện cực hình đối với tôi. Tôi không uống được rượu, đến bia cũng làm tôi khó chịu. Từ hôm đến đến giờ, bạn bày rượu ra uống, tôi cứ cầm lên đặt xuống hoài. Hôm nay tướng Sơn ngồi bên cứ doạ: - Này người ta mời mà không cố gắng uống thì chẳng há là khinh người ra sao? Mình đang muốn nhờ vả thì phải rán làm vui lòng người ta chứ! Nghĩ lời ông cũng có lý, tôi không dám từ choí. Tướng Sơn lại ép: - Mày uống mà không cạn chén là không được đâu! Có uống cạn với thái độ sởi lởi thì mới làm người ta vui lòng. Tan tiệc, tôi phải nắm chặt tay vịn cầu thang nơi lết nổi về tới phòng ngủ. Sáng hôm sau: ông ấy vui vẻ hỏi thăm: - Thế nào đêm qua về thấy thế nào? Nhìn ông thấy lộ vẻ thích thú như đã thực hiện được một trò đùa. Lúc chia tay, tôi rất bùi ngùi, nghĩ bụng: Một con người đất nước đang cần mà lại bỏ ra đi! Ông lưu lại nơi tôi một sự luyến tiếc ray rứt. Suốt cả chặng đường ông đã đối xử với tôi rất thân tình và đầy cá tính Nguyễn Sơn. Sau này tôi có nghe người ta nói lại là ở Trung quốc ông làm Cục trưởng Cục điều lệnh mà cấp là thiếu tướng hay trung tướng gì đó. Về sau bị đau ốm, ông đoán mình không qua nổi, có nguyện vọng muốn chết ở Việt nam nên đã đưa ông về điều trị ở bệnh viện 108. Ông Nguyễn Sơn mất 1956. Ông sinh năm 1908, thọ được 49 tuổi. Ra đi quyết không trở lại mà khi chết lại tha thiết muốn về nước! Đó là cái uẩn khúc của tâm linh con người!
|
|
|
Logged
|
|
|
|
ngao5
Cựu chiến binh
Bài viết: 756
|
|
« Trả lời #18 vào lúc: 14 Tháng Tám, 2008, 05:57:30 am » |
|
Trần Độ kể tiếp
Chiến dịch Biên giới Năm 1950, tôi ra đơn vị, được ít lâu thì có nhiệm vụ đưa bộ đội sang biên giới huấn luyện và nhận viện trợ vũ khí. Toàn bộ trung đoàn trang bị lại mới mẻ và đồng bộ. Tôi được cử đi tiền trạm sang giao thiệp với các nhà chức trách Trung quốc trước để bố trí chỗ ăn ở, luyện tập, nhận vũ khí viện trợ. Đơn vị đi sang sau. Khi tôi ở bên đó và sắp huấn luyện xong thì biết tin ở nhà đang chuẩn bị chiến dịch Biên giới, song không hiểu qui mô như thế nào, đánh ra làm sao. Tuy vậy, tôi cho là cần phải đưa trung đoàn trở về ngay biên giới. Chỗ chúng tôi chỉ cách Cao Bằng mấy chục cây số thôi và biết sẽ được tham gia chiến dịch. Đây là chiến dịch đầu tiên, lại được tham gia thì náo nức vô cùng. Tôi nhận được thư của anh Tấn. Bấy giờ anh Tấn đã cùng bộ tổng tư lệnh lên biên giới chuẩn bị chiến trường. Anh Võ Nguyên Giáp trực tiếp đi chuẩn bị. Anh Tấn đi cùng đoàn và từ đó viết thư cho tôi. Anh ấy kể chuyện ở nhà đang chuẩn bị ra sao và cũng có phác qua phương án. Tôi hiểu là sẽ tập trung đánh và giải phóng Cao Bằng. Anh Tấn cũng cẩn thận và bảo chưa có quyết định ngã ngũ và có thể có phương án khác đang thảo luận. Anh dặn: “Cậu cố thu xếp đưa anh em về để tham gia chiến dịch”. Chúng tôi cũng vừa kết thúc huấn luyện. Thu xếp xong xuôi, tôi tự động cho anh em về nước, tranh thủ đi thanh toán với nhân dân địa phương chào các cố vấn. Anh em trong đơn vị thì thu dọn để lúc “bốc” về là lên đường được ngay. Hôm ra về, bộ đội xuất phát sau, tôi cưỡi ngựa cùng một anh cần vụ bảo vệ đi về trước tìm anh Tấn để thu xếp chỗ trú quân và nhận nhiệm vụ. Tôi về với tâm trạng rất phấn khởi, tự cảm thấy mình làm được việc và lại kịp thời. Phải lần tìm mãi mới vào được đúng chổ của anh Văn. Trông thấy tôi, anh lộ vẻ ngạc nhiên, hỏi: - Cậu ở đâu về? - Tôi vừa bên Hoa Đồng về! Tôi đưa bộ đội về để tham gia chiến dịch. Đang tươi cười nghe vậy anh Văn nghiêm mặt hỏi: - Lệnh đâu mà cậu trở về! Câu hỏi của anh làm tôi bừng tỉnh, bụng nghĩ: Bỏ mẹ rồi! Quân đội là phải có lệnh! Thư anh Tấn gởi là mang tính chất bạn bè đồng nghiệp, đồng sự trao đổi với nhau thôi mà mình lại bốc bộ đội về. Tôi ớ ra không biết trả lời như thế nào, cứ lúng ba lúng búng: - Tôi nhận được thư anh Tấn thấy nói là đang chuẩn bị chiến dịch nên tôi đưa anh em về chuẩn bị cho kịp. Ông Văn phẩy tay dứt khoát: - Trở lại ngay lập tức! Phải giữ bí mật mà cậu lại lục tục đưa cả một đoàn quân lớn như thế thì lộ hết kế hoạch chiến dịch. Hỏng hết! Cậu đáng bị kỷ luật! Quay trở lại ngay lập tức! Không lôi thôi gì cả! Thế thì bao nhiêu náo nức đang nóng cả đầu lụi tắt hết. Tôi tái mặt, chào anh Văn rồi nhảy lên ngựa quay trở lại. May sao bộ đội mới xuất phát chưa qua biên giới. Chao ôi! Trở lại thì phải làm bao nhiêu chuyện mới vừa thanh toán xong. Lại ăn ở làm sao? sinh hoạt thế nào lập tành ra sao? Còn một ít tiền thì chi phí thế nào cho đủ nuôi quân mà không để thiệt hại cho dân! Ở lại chờ lệnh, đó là quân lệnh! Cái kỷ niệm vô tổ chức này cứ nhức nhói mãi. Khoảng một tuần sau mới nhận được lệnh về tham gia chíến dịch. Đơn vị tôi nhận nhiệm vụ cùng đơn vị ông Chu Huy Mân (trung đoàn 174) đánh Đông Khê. Trận đánh bắt đầu. Với tôi cũng là bắt đầu tham gia đánh trận. Trước đó nói là bộ dội đánh ở Hà nội nhưng chưa thể gọi là trận mạc được. Còn lúc này ở Đông Khê là trận đánh có tổ chức, có chỉ huy, với đơn vị lớn đàng hoàng. Tôi với anh Tấn đến ngày xuất quân đi vào trận địa cứ thao thức, bàn lên bàn xuống. Chuyện gì cũng thấy chưa ổn, lo khổ lo sở đến chẳng buồn ăn uống. Thời ấy bữa ăn cũng đã có gì đâu. Nhà bếp thổi cho mỗi người một nắm cơm ăn với muối vừng và ít thịt rang. Suốt đêm hôm đó, nằm ở chỉ huy sở cùng với các cố vấn Trung quốc, mọi người cứ thao thức, đi ra đi vào, dò hỏi tình hình. Ông Tấn khoái trá khoe với tôi: - Lần này chỉ huy chiến đấu có telephon nhé! Trước đó lệnh chỉ huy toàn chạy bộ mà truyền. Mấy tay cố vấn thì yêu cầu: - Các đồng chí đi nghỉ đi để lại có sức mà chỉ huy, mà chiến đấu! Cứ thức như thế này thì không được! Tôi lại lấy làm ngạc nhiên tại sao lại cứ phải đi nghỉ! Mai có sự kiện ghê gớm đến thế mà hôm nay ngủ được sao? Thật là lời khuyên dở hơi! Tôi liền hỏi họ: - Như các đồng chí có nhiều kinh nghiệm thì trước trận đánh các đồng chí làm gì? Tay cố vấn này cũng tinh nghịch trả lời: - Trước trận đánh một bữa no, xong là chúng tôi đi ngủ. Như thế mới giữ được sức, cân bằng thần kinh ngày mai chỉ huy sáng suốt. Nến cứ thức suốt đêm, mai người nó mụ đi thì nguy hiểm lắm! Nghe cũng có lý, anh Tấn và tôi đi nằm, nhưng chẳng làm sao ngủ được, cả hai thao thức suốt đêm, sáng hôm sau triển khai trận đánh. Trận đánh có nhiều chuyện xúc động lắm, kể ra đây cả cũng khó đầy đủ, khó nói đến nơi đến chốn. Đánh một đêm không xong phải rút quân về củng cố. Cán bộ chúng tôi chia nhau xuống các đơn vị động viên anh em, giải quyết các vấn đề. Gặp anh Hoàng Cầm lúc ấy là tiểu đoàn trưởng thấy anh đang lộ vẻ bực mình với đại đội trưởng Trần Cừ. Anh nói: - Thằng Cừ nó khóc ở ngoài kia, tôi mắng cho một mẻ mà nó chưa chịu! Tôi tìm gặp Trần Cừ. Qua câu chuyện tìm hiểu ra Trần Cừ thấy đại đội của cậu ta thương vong nhiều quá, toàn là những anh em thân thiết trước nay, buồn quá mà khóc. Anh Hoàng Cầm thì lo tinh thần đơn vị sa sút, tối lại đánh tiếp sợ khó thắng? Tôi cùng anh Hoàng Cầm nói chuyện nhiều với Trần Cừ. Thì ra Trần Cừ đau lòng vì bạn bè chứ không hề sa sút tinh thần chiến đấu. Đêm hôm sau, anh chiến đấu rất quyết liệt và thực hiện lấy thân mình lấp lỗ châu mai, là gương anh hùng đầu tiên trong quân đội ta. Một kỷ niệm khác ở chiến dịch Biên giới là dân công lên tiền tuyến. Sau trận đánh Đông Khê ta còn đánh vận động diệt binh đoàn Lơpa và Sactông. Hai binh đoàn này, một từ Cao Bằng về và một từ Lạng Sơn lên, định hợp quân chiếm lại Đông Khê nhưng lại rơi vào tay ta. Đánh vận động thì mỗi đơn vị quân đội bổ sung một đơn vị dân công để vận tải đạn dược, lương thực và thương binh, tuyệt đại đa số là người địa phương và phần là các cô người Tày rất dễ thương. Các cô vừa đẹp vừa vui nhộn, quen leo núi, dáng đi rất uyển chuyển. Đứng ngắm thấy đẹp quá tôi gọi mọi người: - Xem này, xem này, một đoàn văn công đang biểu diển. Họ đi như múa vậy. Ngoài việc tập trung thành lực lượng vận tải rất cơ động, hoàn cảnh nào cũng bám sát bảo đảm hậu cần cho bộ đội chiến đấu, họ còn được phân bổ đi phục vụ ban chỉ huy, về các trạm y tế săn sóc thương bệnh binh, vận chuyển thương binh về tuyến sau. Dân công chính là nhân dân sát cánh với bộ đội để giành từng chiến công, để giải quyết mọi hậu quả sau trận đánh. Một hình ảnh đẹp đẽ, biểu tượng nhất của chiến tranh nhân dân. Ban chỉ huy trung đoàn của tôi cũng có một tiểu đội dân công phục vụ việc đưa đường, chở gạo, muối, nấu ăn... Tiểu đội này săn sóc ban chỉ huy rất tận tình. Nhìn bữa ăn của anh em chỉ có cơm nắm chấm muối vừng hoặc thức ăn sơ sài, các cô bàn đi kiếm rau rừng. Bình thường các cô vẫn anh anh em em thân tình nhưng khi định làm gì lại khép nép thưa gửi. Một cô đánh bạo đến trước ông Tấn: - Báo cáo ông Tấn! Nghe vậy anh Tấn hỏi: - Cô cần gì? - Ông Tấn cho phép em leo cái cây này. Cô vừa nói vừa chỉ lên cây - Leo làm gì! - Lấy rau cho bộ đội ăn! - Ờ, nhưng phải cẩn thận không ngã! Hôm đó, ban chỉ huy được bữa rau ngon sau bao ngày xót ruột vì ăn không có rau. Cái cây cô kia xin trèo có nõn lá làm rau ăn hết sức ngon. Có cô thì xin phép đi vào rừng. Lúc về mang theo một bọc nào bưởi, nào ổi và các thứ trái cây rừng, vứt trên bàn ban chỉ huy bảo: “Ăn đi”. Phải nói bộ đội mà vắng dân công thì như cá thiếu nước. Và trong thực tế thì có nhiều thiên bí sử, tình sử giữa hai bên, chẳng ai mong muốn nhưng mà cũng khó mà ngăn nổi. Nói về thái độ tình cảm của chị em đối với bộ đội ta phải xác định sự hy sinh của họ vô bờ bến, gian lao không tính, nguy hiểm không sờn! Sự anh dũng, cái anh hùng của dân công và bộ đội không kém cạnh nhau mà đã nâng nhau lên đến đỉnh cao. Sau chiến thắng của chiến dịch, bộ chỉ huy lập một ban thu nhận chiến lợi phẩm. Có anh em đã đụng phải một hầm rượu, đủ cho lính đồn của địch uống cả năm. Các thứ thuốc lá, bánh kẹo, bơ sữa nhiều lắm. Đó là chưa kể súng ống, quân trang, quân dụng, máy móc, thuốc Lơ Mo lấy về cả kho. Ông Đinh Đức Thiện đem pha trộn với thuốc ta hút. Các đơn vị cũng lấy hút. Thuốc này một người hút khói thơm lan cả một vùng. Sôcôla thì lính mình nông dân chê đắng. Tôi thích chụp ảnh cũng đi mò phim. Có chỗ thấy cả đống nhưng không dùng được nữa vì anh em không biết tưởng kẹo đã bóc ra cả. Cuộn phim cũng bọc giấy bạc như kẹo. Hôm tôi đi qua Đông Khê vừa giải phóng, thấy một nhóm chiến sỹ đang ngồi nhai bánh, ăn kẹo. Cán bộ thu dọn chiến trường đến quát tháo đòi kỷ luật, bắt anh em đưa nộp hết bất cứ thứ gì đã thu nhặt được với cái lẽ: chiến lợi phẩm lớn nhỏ đều là tài sản quốc gia, là chiến quả đổi bằng xương máu. Với máu thanh niên vốn xôi nổi, tôi rất ghét cái thói lên lớp dạy đời, nên đứng lên cãi lại. Tôi cũng nói ngang ngược không kém: - Các anh có biết chiến thắng này do ai không? Và ai đổ xương máu ở chiến trường này. Có phải là những người lính không? Trớc khi đi vào trận đánh họ vui vẻ ăn bưởi rừng, ổi ma thay cơm, măng rừng thay thịt cá. Bây giờ chiến thắng rồi, có tí chút chất tươi vui vẻ với nhau. Các anh phải lên lớp làm gì nặng nề thế! Thôi các anh đi đi. Đây là đơn vị chúng tôi. Chúng tôi chịu trách nhiệm ở đây không cho ai lấy. (còn nữa)
|
|
|
Logged
|
|
|
|
ngao5
Cựu chiến binh
Bài viết: 756
|
|
« Trả lời #19 vào lúc: 14 Tháng Tám, 2008, 05:58:51 am » |
|
Sau tay này báo cáo với ông Trần Đăng Ninh, trưởng ban thu dọn chiến trường - vốn là người rất nghiêm khắc. Trong một cuộc họp sư kết chiến dịch mấy chục người ông Ninh phát biểu nhiều điều, trong đó có điều tôi không ngờ tới: - Một chính uỷ trung đoàn nói như thế này đây... Như thế là không được, là vô kỷ luật! Thế là cộng với cái tội vô kỷ luật nào đó, ông ấy đề nghị Quân uỷ mặt trận thi hành kỷ luật và tôi bị cảnh cáo trong chiến địch. Thực tình tôi rất thương anh em chiến sĩ. Hồi chuẩn bị chiến địch, cả thời gian dài lương thực thiếu thốn phải vào rừng kiếm các thức ăn thay cơm, phải nói là ai cũng chịu đói khổ. Thấy anh em đụng tới chiến lợi phẩm như những thứ lặt vặt đó, tôi không cho là vi phạm kỷ luật chiến trường, không nỡ nặng lời với họ. Với lời phân tích của ông Trần Đăng Ninh cho là khuyết điểm thì tôi cũng đành chịu. Hôm về dự tổng kết chiến dịch ở vùng chợ Chu, tôi lo ngay ngáy. Sau khi bị kỷ luật tôi cũng buồn. Buồn vì sự kém cỏi không đủ trình độ xử lý các công việc cho tốt. Giữa lúc mọi người vui sướng phấn khởi về chiến thắng, riêng tôi vừa buồn vừa lo, về dự tổng kết mà lòng ngay ngáy. Anh Trường Chinh gọi tôi lên gặp trước hôm khai mạc hội nghị. Tôi toát mồ hôi: Thôi chết! Chuyện tôi ớ chiến trường đã đến tai các ông. Bị đổi công tác khác thì nguy! Mới khởi đầu có đã thế này mà phải thay đổi thì uổng quá”. Một cảm giác đau đớn lan toả trong tôi. Tối hôm tôi lên gặp anh Trường Chinh, ra đi lòng bâng khuâng lo lắng cực độ. Mỗi bước đi tới lòng càng quặn thắt. Tôi cũng nghĩ anh Trường Chinh vốn rất thân tình với tôi, xem tôi như em út, nay có chuyện nghiệm trọng thế này biết trình hày với anh thế nào? Điều tôi lo nhất là phải chuyển đổi công tác vì tôi đang say bám đơn vị mà kháng chiến, thấy ở đó có nhiều ý nghĩa. Thấy tôi tới, anh Trường Chinh nhỏ nhẹ hỏi thăm tôi đã chiến đấu như thế nào, bộ đội ta ra làm sao, đánh nhau có kinh nghiệm gì hay không. Nỗi lo của tôi tiêu tan dần theo câu chuyện và anh cũng chẳng nói gì đến khuyết điểm của tôi cả. Thái độ của anh vẫn thân tình từ tốn như xưa. Rồi chính tôi tự nói ra: - Trong chiến dịch này tôi có một khuyết điểm. Tôi thuật lại với anh chuyện tôi bị kỷ luật. Anh ấy chăm chú nghe rồi thân ái khuyên: - Chuyện đó rút kinh nghiệm thế là tốt, về cố gắng sửa chữa để tiến bộ. Cuộc chiến đấu còn dài, phải rút kinh nghiệm để chiến thắng lớn hơn, không có gì phải lo lắng. Tôi sướng quá, yên tâm dự tổng kết. Có Bác Hồ đến, cuộc họp càng sôi nổi vui vẻ. Trên đường trở về đơn vị, căn cứ của sư đoàn chúng tôi đóng ở Phú Thọ, tôi cùng anh Tấn đi cùng đường bằng xe đạp. Cứ gặp máy bay địch rà đường thì cả hai vứt xe chui bụi rậm. Nó bay qua, lại đạp xe thong dong, tán đủ thứ chuyện. Tôi bảo: - Chiến dịch này mình tiêu diệt nói năm tiểu đoàn. Cả Đông Dương, Pháp nó có 45 tiểu đoàn. Vậy thì chín chiến địch là xong ráo, là dành được độc lập! Thật là thứ lập luận đơn giản máy móc nhưng ông Tấn nghe cũng cười ha hả ra vẻ hưởng ứng. Sau đó ông Tấn thông báo với tôi là chuyến này đơn vị sẽ phát triển lên cỡ đại đoàn, mà trung đoàn Sông Lô là nòng cốt. Sự phát triển đó rất phù hợp với mong ước của chúng tôi nên rất vui sướng. Dần dần không biết bằng con đường nào, bằng công văn hay do bộ Tổng tư lệnh giao nhiệm vụ mà tin ấy ngày càng lan ra. Rằng đại đoàn thành lập sẽ có 209, tức trung đoàn Sông Lô, thêm trung đoàn Lao Hà (tỉnh Lào Cai và Hà Giang) mới được mang danh hiệu là “Thành đồng biên giới”, tức là trung đoàn 165, Trung đoàn thứ 3 sẽ thành lập mới, lấy tên sư đoàn 308 một tiểu đoàn độc lập, tiểu đoàn 16 huấn luyện tân binh và tiểu đoàn 11, tức là tiểu đoàn đã lập thành tích lớn điệt cứ điểm Phủ thông trên đường số 3 và tiểu đoàn 428, đơn vị trực thuộc của quân khu 1, tức là quân khu Việt Bắc. Tôi với ông Tấn bàn nhau đặt tên cho trung đoàn mới này. Vì nó gồm ba tiểu đoàn 16, 428 và 11 bèn lấy 3 con số đầu ghép lại thành tên trung đoàn 141. Bộ Tổng tư lệnh bổ nhiệm ngay anh Nam Long làm trung đoàn trưởng, anh Mặc Ninh làm chính uỷ, hình như có cả anh Trần Nguyên Độ nữa. Trong cả trung đoàn, tiểu đoàn 11 được coi là anh cả vì thành tích oanh liệt diệt Phủ thông. Đồn Phủ thông cách thị xã Bắc Cạn 20 km về phía Bắc, án ngữ ngã ba Bắc Cạn, Ngân Sơn, chợ Rã. Địch chốt ở đây nhằm giữ con đường huyết mạch từ Cao Bằng đi Bắc Cạn làm lá chắn từ xa bảo vệ quân Pháp đóng ở thị xã Bắc Cạn và khống chế uy hiếp vùng chợ Rã, Lượng Thượng, Na Rì. Đồn có 150 lính Âu-Phi giữ, trang bị mạnh. Trận đánh tuy không dứt điểm nhưng tiểu đoàn 11 đã chiến đấu dũng cảm, diệt gần hết quân địch, cung cấp nhiều kinh nghiệm quý về đánh công kiên, tiểu đoàn được Bộ Tổng tư lệnh tặng danh hiệu “Tiểu đoàn Phủ thông”. Chúng tôi rất mừng, yên tâm có được đơn vị như thế. Về đến nơi, chúng tôi bắt tay ngay vào tiếp nhận ba tiểu đoàn trên và lập ban chỉ huy trung đoàn, rồi lập trung đoàn uỷ. Bộ Tổng tư lệnh cũng ra quyết định thành lập đại đoàn được gọi là Đại đoàn 312. Thế là sau 304 đến 308 rồi 312, không rõ có ý nghĩa gì nhưng cứ cách nhau số 4 con số. Tiếp theo còn có 316 và 320. Sau đó lệ này không giữ nữa, miền Trung có đại đoàn 325. Khi lập bộ chỉ huy, anh Tấn được chỉ định là đại đoàn trưởng, tôi thì chính thức là phó chính uỷ nhưng là quyền chính uỷ. Tôi làm luôn bí thư đảng uỷ gồm các anh Nam Long, Mặc Ninh, Lê Thuỳ (Trung đoàn trưởng 165). Tôi nhớ buổi họp đầu tiên có cả anh Đào Đình Luyện. Khi làm việc tiếp nhận và hình thành tổ chức trung đoàn 14 thì phải nhận ngay tham gia chiến dịch Trần Hưng Đạo, tức là chiến dịch Trung du ở vùng Vĩnh Yên. Lúc này chúng tôi mới có trong tay hai trung đoàn 141, 209 còn trung đoàn 165 ở biên giới chưa về kịp. Thế là đơn vị tham gia chiến dịch với lực lượng hai trung đoàn. Chúng tôi triển khai kế hoạch đánh đồn Ba Huyên theo phương châm Trung quốc là: “Đánh điểm diệt viện” tức là đánh một điểm buộc địch phải cho quân đến cứu viện thì đón đánh chúng ngoài công sự, có lợi cho ta hơn, để dành thắng lợi và tiêu diệt sinh lực chúng nhiều hơn. Nhưng thằng Đờ-lát Đờ-tax-xi-nhi lúc ấy đang triển khai kế hoạch của nó và nó bình định dữ lắm nên nó ra tay trước (chẳng hiểu nó có biết kế hoạch của ta không!). Đúng vào đêm chúng tôi chuẩn bị xuất quân đánh Ba Huyên thì chúng nó tiến lên. Pháo chúng nó nã vào vùng ta trú quân. Trước hôm đó, chúng tôi đã làm lễ thành lập sư đoàn, tập hợp cả hai trung đoàn lại làm mít tinh rất nghiêm trang, tạo khí thế cho việc xuất quân. Một cánh quân của nó tiến vào đã đụng phải 141 và 209 ở nơi trú quân. Thế là diễn ra trận đánh nổi tiếng gọi là tận Liên Sơn, Xuân Trạch. Một tiểu đoàn Âu Phi đã bị diệt gọn, mở đầu cho cả chiến dịch về sau của sư đoàn. Còn trận đánh Ba Huyên thì bộ tư lệnh sư đoàn cho lùi lại. Nói là bộ tư lệnh thật ra đã có gì đâu. Mới có vài cán bộ tham mưu, vài ông chính trị, vài ông hậu cần lo vận tải, quân y. Tôi còn nhớ lúc đó ngồi chuẩn bị chiến dịch tôi là chính uỷ cũng chỉ có một cái hố cá nhân, ngồi bên đó để nghe báo cáo và thảo chỉ thị. Đi theo chiến dịch có các nhà báo, nhà văn. Họ kéo đến chỗ tôi. Sư doàn chưa có nhà khách, đến hố cá nhân cho khách tránh bom đạn cũng chưa chuẩn bị được. Bí quá không biết giải quyết tiếp đón sao cho chu đáo, chỉ còn cách giới thiệu họ xuống các trung đoàn. Tôi nói: “Xuống đó còn có chuyện mà viết, ở đây chỉ có báo cáo”. Sau đó chiến dịch diễn biến, đánh quanh Vĩnh Yên, vùng thị xã, là những trận đánh nổi tiếng. Chuyện anh Hoàng Cầm chiến đấu về sau truyền đi rất thú vị. Một mình anh giữa cánh đồng quần nhau với máy bay địch bắn phá. Ông cứ xem hướng nó lượn, nằm ém vào bờ ruộng đối lại, tạo một góc nhỏ nhất và thoát khỏi làn đạn của địch. Hai liên lạc viên đi với ông đều bị tử thương. Một cán bộ tiểu đoàn là anh Hồ Kỳ Lân cũng hy sinh. Còn ông ấy không việc gì. Phải thừa nhận động tác chiến đấu của ông giỏi lắm và trước sự nguy hiểm ông ấy rất bình tĩnh. Xong chiến dịch chúng tôi kéo nhau về họp tổng kết: Đại đoàn bắt đầu ra quân, anh em đã chiến đấu rất dũng cảm góp phần quan trọng vào thắng lợi của chiến dịch. Trở về đất Phú Thọ hình như là 30 Tết, tôi mới triệu tập cuộc họp đảng uỷ đầu tiên ngay đêm hôm đó. Cũng là lẩn đầu tiên ngồi bên nhau đủ mặt, làm tôi xúc động sâu sắc. Tôi nêu ý kiến: - Lần đầu tiên chúng mình gặp nhau, chưa hiểu đời riêng của nhau như thế nào. Tôi đề nghị để xây dựng mối quan hệ mật thiết làm việc với nhau lâu dài về sau, xin mỗi đồng chí tự thuật cuộc đời mình với anh em. Buổi họp thành buổi tâm sự hết sức chân thành cứ tuần tự kể cho nhau nghe cuộc đời mình, hoàn cảnh gia đình xuất thân, tuổi ấu thơ, tiếp xúc với cách mạng, ngày vào Đảng, quá trình trong quân đội, lời tự nhận xét và những mong muốn trong tập thể này. Tối đó đèn sáng thâu đêm, có nhậu lai rai với bánh chưng, càng về khuya, câu chuyện càng đằm thẩm. Nhiều anh em cũng như tôi bộc bạch cả những sự non yếu của mình với dụng ý để hiểu nhau thật đầy đủ, thông cảm và khoan dung để toàn tâm toàn ý lao vào công việc. Sau cuộc nói chuyện tôi cảm thấy chúng tôi gần nhau hơn, tình cảm bạn bè nhen nhóm lên. Chúng tôi bàn cả kế hoạch xây dựng sư đoàn, bố trí tổ chức và cán bộ, chọn chỗ đóng quân, đặt kế hoạch huán luyện... Tất cả biểu thị quyết tâm xây dựng đại đoàn vững mạnh thi đua với 308. Ít lâu sau trung đoàn 165 mới về tới nơi, cũng vừa lúc nhận nhiệm vụ đi dự chiến dịch Hoàng Hoa Thám đánh ở đường 18 dốc Đông Triều thuộc tlnh Quảng Ninh ngày nay. Cả đại đoàn kéo quân suốt từ Vĩnh Yên-Phú Thọ đi qua Thái Nguyên sang Bắc Giang, đi lên vùng Bắc Bắc Giang rồi đổ xuống Quảng Yên. Cuộc hành quân kéo dài ngày nhưng không gian khổ bằng lên Tây Bắc sau này. Mười ngày hành quân vất vả đến ngày 20-21 tháng 3 năm 1951 đại đoàn đến vị trí an toàn. Ngày 23 tháng 3 chiến dịch Hoàng Hoa Thám mở màn. Đại đoàn 312 là một trong những đơn vị chiến đấu trên hướng chính. Chiến dịch Hoàng Hoa Thám bộc lộ trình độ chỉ huy của cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu phát triển chiến đấu quy mô tập trung lớn. Tư tưởng chỉ đạo tác chiến của đại đoàn chưa hình thành rõ ràng, cơ sở vật chất chuẩn bị không chu đáo do đó bộc lộ nhiều lúng túng, mất dần thế chủ động khi gặp khó khăn, dẫn đến tổn thất lớn. Ngày 26-4-1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự hội nghị tổng kết chiến địch do bộ chỉ huy chiến dịch mở. Người nói: - Trước ta nói phê bình và tự phê bình, bây giờ phải nói tự phê bình và phê bình. Nói như thế là chú trọng tự phê bình trước, phê bình người sau. Phê bình mình là chính, phê bình người là phụ... Tự phê bình và phê bình là để thống nhất tư tưởng. Tư tưởng có thống nhất, hành động mới thống nhất. Tư tưởng và hành động có thống nhất mới đánh thắng được giặc... Cán bộ đại đoàn 312 dự hội nghị này vô cùng thấm thía những lời dạy của Bác(1) Chú thích: (1) Sách đại đoàn 312 trang 73 (còn nữa)
|
|
|
Logged
|
|
|
|
|