Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 06:33:59 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Ai giết anh em Ngô Đình Diệm?  (Đọc 238096 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
dongadoan
Administrator
*
Bài viết: 7256


Cái thời hoa gạo cháy...


WWW
« Trả lời #180 vào lúc: 12 Tháng Sáu, 2008, 05:56:11 pm »

TỪ ĐÀ LẠT ĐỢI LỆNH

  1 giờ 30 ngày 1-11 súng nổ tại Sài Gòn thì cũng ngày giờ đó tại dinh số 1 và số 2 Đà Lạt vẫn yên tĩnh như thường lệ. Khi biết tin ở Sài Gòn có đảo chính, Đại uý Nguyễn Ngọc Hạp cho biết: "Những người gần ông Nhu nhận được tin này không một ai ngạc nhiên. Có thể nói chúng tôi đã chờ đợi cả tháng". Đại uý Hạp tuỳ viên của ông Cố vấn Nhu gọi điện thoại thẳng về Sài Gòn, hỏi ông Nhu: "Bây giờ chúng cháu ở trên này phải làm thế nào?".
 
  Đại uý Hạp buông máy gật gù: “Đợi lệnh". Ông Hạp nói với sĩ quan : "Ông cố vấn bảo tôi, mọi sự cứ làm như thường lệ". Tuy nhiên lực lượng phòng vệ trên Đà Lạt cũng lo việc bố trí canh phòng. Buổi chiều ông Hạp gọi điện thoại về Sài Gòn lần nữa. Lần này ông Nhu chỉ nói vắn tắt : "Mọi việc cứ như thường". Trong tay Đại uý Hạp lúc ấy có 4 thiết giáp với quân số khoảng 50 người.

  Ông Hạp mới lên Đà Lạt từ sáng 30, cùng đem theo 3 người con ông Nhu gồm Trác, Quỳnh, Lệ Quyên và một chiếc vali. Chiếc vali ấy sau này trở thành "trung tâm" thu hút bao nhiêu cặp mắt tinh đời.

  Đại uý Hạp cũng như Trung uý Sung, sĩ quan hầu cận được coi là những người sống gần bà Nhu hằng ngày trong nhiều năm.

  Vào ngày 22-10 do một "đường dây" đặc biệt, ông Nhu được loan báo khá đầy đủ về kế hoạch đảo chính do bộ ba Đôn, Kim, Xuân, thực hiện. Đường dây này còn cho biết ngày giờ nào Cabot Lodge sẽ gặp một tướng lãnh Việt Nam Cộng hòa, ở đâu. Người chung quanh ông cũng lấy làm lạ tại sao Đại tá Tung đã báo cáo : "Phải coi chừng Phạm Ngọc Thảo và Đỗ Mậu”, song Phạm Ngọc Thảo vẫn ra vào văn phòng ông Nhu hàng ngày, nhất là từ trung tuần tháng 10. Một lần ông Nhu nói với chính Trung tá Phạm Ngọc Thảo "Bọn nó thì biết cái gì mà làm... Mỹ nó bảo sao nghe vậy". Trung tá Phạm Ngọc Thảo ngồi nói chuyện với ông Nhu hàng giờ và một ngày có khi Trung tá Thảo xin gặp ông Nhu hai ba lần.

  Giới thân cận nghe tin Trung tá Thảo sắp thay Đại tá Mậu làm Giám đốc Nha An ninh quân đội mà trước đây đáng lẽ do Trung tá Huỳnh được cử thay thế. Giới thân cận ông Nhu vẫn thường nhắc nhở với nhau : "Coi chừng ông Mậu nghe. Khả nghi". Khí nghe cuộc cấp báo về Đại tá Mậu thì ông Nhu chỉ nói nhát gừng: "Nó thì mần ăn được cái chi. Lo là lo ba cái thằng Mỹ đó".
 
  Kể từ trung tuần tháng 10, Cabot Lodge gặp ông Nhu luôn. Có khi cuộc hội kiến kéo dài cả 1, 2 giờ. Những lần hội kiến như vậy, ông Nhu đều cho ghi âm một cách kín đáo. Sau đó cho người dịch lại để ông phân tích đắn đo từng lời của Cabot Lodge. Ông Nhu thường nói với một số sĩ quan thân cận như Trung tá Đằng, Trung tá Khôi, Đại tá Tung : "Cabot Lodge nguy hiểm lắm.. Coi chừng bọn CIA. . . bây giờ đâu cũng có hết lận ". Rồi mỗi khi nhắc đến Hilsman, người đầu não của cơ quan “Việt Nam Task Force" ông Nhu thường nói với mấy Bộ trưởng như ông Ngô Trọng Hiếu, Trương Công Cừu : “Cái thằng con nít đó (chỉ Hilsman) coi chừng có ngày mình chết với nó đấy nghe ! Kể cả Kennedy nữa. Kennedy cũng vẫn bị CIA sỏ mũi dắt đi".
 
  Vào khoảng tháng 9, ông Nhu lại gặp Đại sứ Lalouette luôn. Cuộc gặp gỡ chỉ có hai người và kéo dài hàng 2, 3 giờ.
 
  Cách đó ít lâu, khi săn cọp ở Phan Rang, ông Nhu nói với Trần Văn Phước, thị trưởng Đà Lạt:

  - "Cabot Lodge sang đây mình sẽ mất đi nhiều viện trợ. Mình phải lo tự lực càng sớm càng hay. Người Pháp hứa sẽ viện trợ cho Việt Nam Cộng hòa". Từ dạo đó Đại sứ Lalouette hay đến thăm ông Nhu. Mỗi lần gặp nhau, hai người có vẻ tương đắc như đôi bạn tâm giao.
Logged

Duyên ấy kiếp sau tình chưa nhạt, thà phụ trời xanh chẳng phụ nàng!
dongadoan
Administrator
*
Bài viết: 7256


Cái thời hoa gạo cháy...


WWW
« Trả lời #181 vào lúc: 13 Tháng Sáu, 2008, 05:44:15 pm »

  Thường hay tháp tùng ông Nhu đi săn cọp tại khu rừng già Phan Rang, chưa có lần nào Đại uý Hạp thấy ông Nhu tiếp xúc với Việt cộng tại vùng này. Song sự tiếp xúc với Cộng sản Bắc Việt đã diễn ra ngay tại Sài Gòn và trong mấy tháng liền thì Đại uý được biết. Cuộc tiếp xúc gần như định kỳ mỗi tháng 2, 3 lần. Có lần khi trở về dinh ông Nhu rất tươi vui. Có lần ông đăm chiêu cau có.
 
  Lần tiếp xúc cuối cùng với đại diện của Bắc Việt đã diễn ra vào ngày 21-22 tháng 10-1963. Khoảng 7 giờ tối hôm đó, ông Cố vấn Nhu cho gọi Đại uý Hạp vào dinh để sửa soạn cho ông dùng cơm chiều với ông Đại sứ Ấn Độ Ram Chundur Goburhun tại Ủy hội quốc tế. Ông Ram Chundur Goburhun khoảng 50 tuổi, người đảo Maurice Ấn, cùng là bạn học của ông Nhu khi hai người du học tại Pháp. Đại sứ Ấn Độ vốn là một nhà ngoại giao khôn khéo, lanh lợi, ăn nói rất lịch thiệp và đã phục vụ tại Rabat (Maroc) Tunis (Tunisie) cũng như tại Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa.

  Từ khi đến Sài Gòn, tân Đại sứ Ấn trở thành trục nối giữa Hà Nội và Sài Gòn. Mỗi khi từ Hà Nội về, có tin tức gì, ông Đại sứ Ấn lại vội vã đến thông báo cho ông Nhu. Hoặc mỗi lần có mang theo "khách lớn" từ Hà Nội thì ông Đại sứ Ấn lại tổ chức một bữa cơm chiều tại tư dinh của ông, Cố vấn Nhu trở thành thượng khách.

  Buổi tối hôm ấy, ông Nhu không có vẻ gì là vội vã. Như thường lệ, có hai xe hộ tống. Khi vào trong tư dinh của ông Đại sứ thì ông Nhu ra lệnh quay xe tất cả ra ngoài.

  Đại uý Hạp tò mò theo dõi thì lần nào cũng chỉ thấy 3 người dùng cơm với nhau : ông Nhu, Đại sứ Ấn và một nhân vật quan trọng nào đó, lần nào ông ta cũng cài trên túi áo ngực một ngôi sao vàng trên nền màu đỏ.
 
  Bữa cơm vào cuối tháng 10, kéo dài đến 11 giờ khuya, khi ông Nhu ra về thì chỉ có Đại sứ Ấn tiễn ông ra tận cửa.

  Trước đó trong dịp đi săn cọp tại Phan Rang, ông Nhu đã nói thẳng với ông Phước và Đại uý Hậu, đại ý: “Mỹ họ gây cho mình nhiều khó khăn quá. Ngoài Bắc Việt họ tính chuyện hoà hoãn với mình. Mình cũng nên tìm cách hoà hoãn với họ trong một thời gian xem sao ". Ông Cố vấn Nhu cũng ngỏ ý như vậy với Trung tá Đường vào một lần giữa năm 1963 khi ông đến Bình Tuy săn cọp.

  Ngày 26-10-1963, phe đảo chính không ra tay được vì ông Nhu đã được báo trước, ông Nhu phàn nàn :
 
  - Cứ dùng dằng mãi nó làm tới bây giờ thì trở tay không kịp, chết hết cả đám". Ông Nhu lại uống từng ly Martell lạnh lùng: "Tất cả những người quanh mình yếu quá"... Rồi ông Nhu lại phàn nàn: “Nói mãi mà ông Tổng thống không nghe, biết làm thế nào ? ".

  Một số kế hoạch của ông Nhu đệ trình lên Tổng thống Diệm không được chấp nhận kể cả việc thay thế Đại tá Đỗ Mậu, Tổng thống Diệm cũng không chịu.
 
  Về việc này Tổng thống Diệm nhăn mặt nói với mấy người thân cận như Đại uý Bằng : "Các người chỉ lắm chuyện... Đỗ Mậu nó có lỗi gì đâu". Về kế hoạch hoà hoãn với Bắc Việt, Tổng thống Diệm vì nể ông Nhu nên tuy không công khai phản đối song lại nói: "Cứ để đấy tính xem thế nào hẵng hay ".

  Sau ngày 26-10, ông Nhu quyết định xuất ngoại, ông bắt đầu uống nhiều rượu Martell trong một đêm, một hiện tượng chưa từng thấy. Mặt ông nặng trĩu lo âu và bẳn gắt. Vẫn đường dây đặc biệt đã gởi đến ông 1 bản báo cáo đặc biệt và khá đầy đủ trong đó khuyến cáo ông nên tạm thời xuất ngoại. Những ngày cuối của chế độ, giới thân cận chưa từng thấy ông Nhu lầm lì như vậy. Bao nhiêu toan tính song cuối cùng vẫn phải khoanh tay trước cơn bão táp.

  Cuối tháng 10-1963, nhân ngày lễ, các con ông Nhu: Quỳnh, Trác, nội trú tại trường D'Adran Lasan về Sài Gòn nghỉ. Sáng 30 thì chúng trở lại Đà Lạt.
 
  Trong khi đó ông Nhu cũng sửa soạn xong hành lý để ra đi, không hiểu lộ trình ông sẽ đi đến đâu Ấn Độ, Tunis , Rabat ... , Lon don rồi Pari . Ông Nhu đã sắm sửa 12 bộ quần áo mới kể cả áo pardessus.

  Nếu không có sự cản trở của Tổng thống Diệm vào phút chót thì có thể ông đã lên đường vào ngày 28. Theo Đại uý Hạp cũng như một số người thân cận xung quanh ông, ông Nhu bắt đầu lo lắng vào giữa tháng 10, ông thường nói với một số Bộ trưởng thân tín như Bộ trưởng Ngô Trọng Hiếu : “Bọn Mỹ nó muốn mình như Cao Ly. Âm mưu của nó là dựng lên một Chính phủ quân sự. Nếu đảo chính thì nó sẽ cho mấy anh tướng lên cầm quyền từ đây cho đến 10, 15 năm là ít. Nếu có khá lắm thì cũng giống như chế độ của Phibuz Song ram của Thái Lan. . . Rồi các anh coi”.  Những ngày cuối cùng, ông Nhu bắt đầu cởi mở.
 
  Đêm 30-10, Trung uý Sung thuật lại: ông Nhu bảo Đại uý Hạp vào ngay để ông biểu. Khi Sung gọi điện thoại cho ông Hạp, ông này còn lừng khừng: “Ăn cơm đã chứ, tôi ăn xong vào được không". Hỏi lại ý ông Nhu, ông Nhu bảo vào ngay, khỏi cần ăn cơm nhà.
Logged

Duyên ấy kiếp sau tình chưa nhạt, thà phụ trời xanh chẳng phụ nàng!
dongadoan
Administrator
*
Bài viết: 7256


Cái thời hoa gạo cháy...


WWW
« Trả lời #182 vào lúc: 15 Tháng Sáu, 2008, 11:07:40 am »

DÙNG DẰNG NỬA Ở NỬA ĐI

  Khi Hạp cùng mấy anh em vào phòng riêng ... của ông Nhu thì ông chỉ ghế mời ngồi rồi gọi ông già Tường, quản gia

  - “Làm hai ly Martell cho các chú ấy uống đi”. Tay ông vẫn cầm ly rượu. Trán ông thỉnh thoảng nhăn lại, cằm ông bạnh ra. Đây là lần thứ nhất, Sung và Đại uý Hạp được cái vinh dự ông Nhu chỉ ghế mời ngồi và cùng nhau "cụng ly". Chưa ai dám lên tiếng. Ông Nhu đã than thở : “Quyết đinh đi thì ông Tổng thống không cho đi. Giữ lại thì ông cũng không chịu nghe... ".

  Rồi ông Nhu yên lặng một lúc lâu. Đại uý Hạp lên tiếng: "Ông Cố vấn kêu chúng cháu vô đây có việc gì ". Ông Nhu khẽ thở dài rồi yên lặng, nhìn hai người một lúc lâu rồi mới nói:  “Sáng mai, các anh đưa mấy đứa nhỏ lên Đà Lạt giùm tôi". Hạp hỏi: “Ông cố vấn không đi?”. Suy nghĩ một lát ông Nhu trả lời: "Chắc không đi được". Rồi lại yên lặng hàng 10 phút ông Nhu mới lại lên tiếng bảo Đại uý Hạp: “Lấy hết quần áo về chưa ? Cứ sắp xếp sẵn... Khi nào cần thì bảo ".

  Đại uý Hạp hỏi: "Bao giờ chúng cháu phải đưa hai cậu và em Quyên về ?”. Ông Nhu thủng thẳng đáp nhát gừng : "Bao giờ gọi điện thoại thì về".
 
  Rồi lại yên lặng. . . lát sau ông nói một mình vu vơ : “Nghe thì không nghe, đi thì không cho đi. Tụi nó làm tới bây giờ rồi tính sao. Khó cho tao quá đi”.
 
  Đại uý Hạp ngồi yên im lặng vì không biết phải nói gì hơn. Ông Nhu ngồi lặng thinh khoảng 30 phút như một pho tượng. Tay vẫn cầm ly Martell, ông Nhu nằm ngả người trên ghế tựa, uống đến ly Martell thứ ba, ông ngồi như thế lặng lẽ hàng giờ.

  Bỗng ông Nhu ngồi nhổm dậy, nét mặt chảy dài, nói vu vơ: "Chà, ...mẹ con nó đi hết rồi". Ông Nhu quay lại hỏi Đại uý Hạp:

  - Mười ngàn tôi đưa Đại uý còn không ? Hạp đáp: "Thưa ông Cố vấn đã hết từ lâu rồi". Đại uý Hạp vẫn thường tâm sự với ông già Tường, Trung uý Sung: "Ông Cố vấn tiêu xài kỹ quá. Từ khi bà đi ngoại quốc thì ông ở nhà lo việc chi tiêu. Đưa cho đồng nào, ông Cố vấn bắt ghi từng mục". Đưa cho Hạp mười ngàn, Hạp tiêu xong lại phải trình bản quyết toán ghì đầy đủ chi tiết.

  Ông Nhu hỏi Hạp:

  - Bây giờ đưa bọn nhỏ lên Đà Lạt thì cần bao nhiêu? . Hỏi rồi ông Nhu đáp liền: "Thôi đưa Đại uý 15 ngàn đủ chứ? ".

  Hạp hỏi ông Nhu: "Thưa ông đưa các cậu đi bằng máy bay nào ? Đi Air Việt Nam cho tiện được không?”. Ông Nhu trầm ngâm rồi lắc đầu : “Đi Air Việt Nam nguy hiểm lắm. Nó đi thẳng, bắt mấy đứa nhỏ làm con tin thì sao "

  Ông Nhu bảo Hạp hên lạc với Đại uý Hiển để lấy máy bay của không quân cho chắc.

  Lặng thinh một lúc lâu bỗng ông Nhu đứng lên lấy hai khẩu súng lục kiểu "22" loại không gây tiếng nổ trao cho Hạp. Ông Nhu khoe: “Họ mới biếu moa. Loại súng này đặc biệt lắm. Để ở nhà sợ thằng Trác nó bắn bậy bạ ". Rồi ông Nhu lại con cà con kê một lúc lâu.
Logged

Duyên ấy kiếp sau tình chưa nhạt, thà phụ trời xanh chẳng phụ nàng!
dongadoan
Administrator
*
Bài viết: 7256


Cái thời hoa gạo cháy...


WWW
« Trả lời #183 vào lúc: 16 Tháng Sáu, 2008, 06:05:36 pm »

ĐỨA TRẺ THƠ

  Tình hình Đà Lạt vào ngày 1-11 vẫn như vô sự. Đại uý Hạp và Hữu đi phố xem xét tình hình như thường lệ. Ông Hạp cho bốn chiếc thiết giáp đi tuần tiễu quanh phố. Tình hình biến chuyển đột ngột. Sáng ngày 2, Trường Võ bị Đà Lạt trở thành tổng hành dinh của phe đảo chính gồm Trung tá Trần Ngọc Huyền và Thiếu tá Ngô Như Bích... ông Trần Văn Phước vẫn trung thành với chế độ Ngô Đình Diệm.
 
  Rút kinh nghiệm vụ đảo chính hụt 11-11-1960, ông Huyền chỉ "ra tay" khi được tin thành Cộng hòa và dinh Gia Long thất thủ. Ngay sau đó, ông Trần Văn Phước, Thị trưởng Đà Lạt bị phe Trung tá Trần Ngọc Huyền bắt giữ tại Trường Võ bị. Điều quan trọng đối với phe ông Huyền là làm thế nào bắt được 3 đứa con của ông Nhu. Một vài người khác có máu tham thì lại đặc biệt lưu ý đến chiếc vali mà Đại uý Hạp mang ở Sài Gòn lên từ ngày 30.
 
  Phía đầu dây bên kia ông Phước gọi Đại uý Hạp: "Anh mang Quỳnh, Trác, Quyên vào đây cho tôi". Ông Hạp quay sang hỏi Đại uý Hữu: “Không hiểu như thế nào, giọng ông Phước lại hơi run run, ngắt quãng. Có lẽ bị bắt". Tuy vậy, ông Hạp cũng hứa là sẽ đưa ba đứa nhỏ vào ngay. Mặt khác, ông Hạp lại cho người lên Trường Võ bị do thám và gặp ông Phước, ở đây cho biết không thể nào gặp ông Phước được. Đại uý Hạp bắt đầu nao núng.

  Đại uý Hạp và Hữu quyết định đem 3 đứa con ông Nhu đi trốn. Để làm kế nghi binh, Đại uý Hạp cho người lái xe Mercedes chạy vòng quanh phố cứ làm như trên xe có 3 đứa nhỏ. Trong khi đó, Hạp, Hữu cùng đoàn cận vệ đem 3 đứa con của ông Nhu tẩu thoát, lẩn trong rừng thông, đi từ dinh số 1 về dinh số 2 rồi men theo đường rừng đi thẳng xuống Đơn Dương. Đại uý Hạp định tâm xuống Phan Rang tìm đến Trung tá Khánh Tỉnh trưởng của tỉnh này.

  Lặn lội trong rừng suốt buổi chiều, phải dừng lại cho dựng lều và phân phối cận vệ lo việc bố phòng. Lúc ấy, Đại uý Hạp lo nhất là đám người xung quanh và Việt cộng trong vùng.  Nhưng biết làm thế nào hơn. Các con ông Nhu vẫn chưa được thông báo về cha mình đã bị giết. Đi mỗi ngày đường lại trải qua một đêm giữa rừng, con bé Quyên bắt đầu đau. Đại uý Hạp cố tìm cách bắt liên lạc với Sài Gòn nhưng đều bặt tin.

  Phe đảo chính cũng xua quân đi lùng bắt đám con ông Nhu. Trưa ngày mùng 3, máy bay của quân đoàn II lượn quanh vùng Đa Nhím phát thanh kêu gọi Đại uý Hạp đem theo 3 đứa nhỏ về trình diện Hội đồng Quân nhân. Đại uý Hạp và Hữu đều lo ngại.
 
  Tổng thống Diệm và ông Nhu còn bị giết huống chi ba đứa nhỏ. Ông Hạp đề nghị lữ hành sẽ băng rừng xuống Phan Rang, rồi một là tìm cách về Xuân Lộc ẩn náu, nếu thuận tiện thì về thẳng Sài Gòn nếu không sẽ qua Phước Long rồi sang Cao Miên.

  Nhưng cuối cùng, đoàn lữ hành phải khoanh tay vì không còn tiền. Mấy bữa liền, bọn con ông Nhu phải ăn đồ hộp và uống nước lạnh. Con bé Quyên đã đuối sức. Quyên cũng như Quỳnh tỏ vẻ ngạc nhiên trên bước đường lưu lạc. Cận vệ thì anh nào cũng súng cầm tay, sẵn sàng đối phó. Hai ông Hạp và Hữu không dám rời bọn nhỏ lấy một phút.
 
  Mãi đến ngày 3, Đại uý Hạp mới cho Trác biết tin ba và bác của Trác đã chết. Lúc đầu Trác không tin. Sau cho Trác theo dõi radio, bấy giờ Trác mới tin. Đôi mắt chú bé rưng rưng nhưng không nói được lời nào.
Logged

Duyên ấy kiếp sau tình chưa nhạt, thà phụ trời xanh chẳng phụ nàng!
ov10
Đại tá
*
Bài viết: 593


Đại diện qsvn tại TpHCM


« Trả lời #184 vào lúc: 16 Tháng Sáu, 2008, 07:18:12 pm »

Mộ anh em Ngô Đình ở nghĩa trang Lái Thiêu.

Mộ Ngô Đình Diêm - Trên bia chỉ ghi Dan Baotixita Huynh.


Mộ Ngô Đình Nhu - Trên bia chỉ ghi Gicobe Đệ. Bên trái là mộ bà Phạm Thị Thân - thân mẫu của anh em NĐD.


Mộ của út Cẩn sau khi được cải táng ngoài Huế cũng được mang về đây.


Vị trí xem ở đây:
http://www.panoramio.com/map/#lt=10.904342&ln=106.724914&z=-1&k=2&a=1&tab=2



Logged
dongadoan
Administrator
*
Bài viết: 7256


Cái thời hoa gạo cháy...


WWW
« Trả lời #185 vào lúc: 17 Tháng Sáu, 2008, 10:24:13 pm »

SĂN ĐUỔI

  Phi cơ vẫn bay lượn trên bầu trời Đa Nhím, phát thanh kêu gọi Hạp và Hữu đưa bọn nhỏ trở về Đà Lạt. Trác nói với Đại uý Hạp: “Đại uý đưa các em tôi về”. Hạp nói: "Cậu và các em về thì không sao nhung còn bọn tôi, họ đâu có tha". Trác lại nói : "Hai em tôi nó mệt quá, ở trong rừng lạnh chết mất. . . làm sao đi được nữa. . . ". Đại uý Hữu đáp : “Nếu ý cậu muốn như vậy cũng được. Đại uý Hạp sẽ tìm cách thu xếp để cậu về ".

   Sau đó "lữ hành đoàn" kéo nhau băng rừng, trở về thành phố. Cho chắc hơn, ông Hạp vẫn để bọn nhỏ ở trong rừng thông. Ông cho người về phố quan sát đồng thời gọi cho phe đảo chính báo tin với một điều kiện ông Hạp chỉ nộp 3 đứa nhỏ cho tướng Khánh. Gọi máy xong, ông Hạp lại cho di chuyển 3 đứa nhỏ đến một địa điểm khác vì sợ lộ mục tiêu. Phe đảo chính vẫn xua quân đi tìm rất ráo riết.

  Ngày 3-11, tướng Khánh đã có mặt ở Đà Lạt nhận lãnh 3 đứa con ông Nhu. Tướng Khánh nắm tay Đại uý Hạp, giọng buồn: "Tụi nó làm không ra cái gì hết. Giết người ta, thảm quá".
Logged

Duyên ấy kiếp sau tình chưa nhạt, thà phụ trời xanh chẳng phụ nàng!
dongadoan
Administrator
*
Bài viết: 7256


Cái thời hoa gạo cháy...


WWW
« Trả lời #186 vào lúc: 18 Tháng Sáu, 2008, 06:37:49 pm »

CHƯƠNG X
TRÊN BƯỚC ĐƯỜNG CÙNG

  Lễ Các thánh (1-11) là một trong những lễ quan trọng của Giáo hội Thiên Chúa giáo. Đối với Tổng thống Diệm ngày lễ này mang rất nhiều ý nghĩa và khi còn sinh thời, bao giờ ông cũng sửa soạn mấy ngày từ trước khi xưng tội, cầm lòng... và làm một vài việc có ý nghĩa nhất để gọi là là bó hoa thiêng liêng dâng lên Thượng đế.
 
  Lễ Các thánh đối với các tín đồ Thiên Chúa giáo mộ đạo là một dịp sống đạo và cầu nguyện cho trở nên Thánh và mỗi ngày sống cho thánh thiện. Lễ này được lập lên để kính các vị Thánh vô danh của giáo hội. mình. Chính vì sự lạc quan và chủ quan của hai anh em Tổng thống Diệm cho nên những nhân vật thân cận nhất cũng mắc bệnh lạc quan và chủ quan như vậy. Do đó, 10giờ sáng 1-11, Đại tá Lê Quang Tung (Tư lệnh đặc biệt) cũng như Trung tá Khôi (Tư lệnh lữ đoàn liên binh phòng vệ phủ Tổng thống) đã vào Bộ Tổng Tham mưu như thường lệ. Tất nhiên là trong dầu óc họ không có một chút hoài nghi nào và cũng vì thế nên không cần báo cáo lên thượng cấp. Các tướng tá hội họp hàng tuần như vậy vẫn là một thông lệ.

  Tổng nha Cảnh sát quốc gia (Đại tá Nguyễn Văn Y) Trung ương tình báo và Sở Nghiên cứu chính trị (do Trung tá Đường thay thế bác sĩ Trần Kim Tuyến)... tất cả mấy cơ quan trên tuy hoạt động ngày đêm song về chuyện đảo chính vẫn không thấy động tĩnh gì cả. Và chỉ là việc đang theo dõi, tìm kiếm, khám phá.

  Tóm lại , buổi sáng ngày 1-11, ông cố vấn Nhu không nhận được tin tức nào về đảo chính ngoài việc khám phá âm mưu của Đại tá Có. Ông vẫn chủ quan tin vào lực lượng phản đảo chính cua ông.
 
  Nếu cuộc đảo chính xảy ra ông sẽ trao cho Thanh niên Cộng hoà phận sự giữ gìn an ninh trật tự tại Đô thành, tạm thời thay thế cảnh sát (vì kinh nghiệm vụ đảo chính hụt năm 60 Đô thành coi như bỏ ngỏ, cảnh sát thì tự động biến mất). Về quân sự thì quân đoàn III đã có tướng Tôn Thất Đính...

   Về hải quân, ông Nhu rất tin tưởng nơi Đại tá Hồ Tấn Quyền . . . ông Nhu vẫn tin tưởng với tất cả sự lạc quan vào lực lượng của chính quyền có thể đương đầu với bất cứ một cuộc đảo chính nào. Từ khoảng tháng 8-1963 đã có nhiều nguồn tin theo đó ông Cố vấn Nhu sẽ đảo chính để lật đổ bào huynh và chính ông sẽ nắm quyền lãnh đạo. Nguồn tin này có lẽ được thêu dệt quá lời tuyên bố của ông Nhu trước hội nghị các đại biểu ấp chiến lược ông Nhu nói rằng, nếu chính quyền bất lực thì không còn phục vụ được nhân dân và Tổ quốc thì chính ông là người đầu tiên đứng lên đảo chính chứ không cần phải chờ đợi ai đảo chính. Lời tuyên bố này nhằm cảnh cáo một số quan chức tắc trách và đồng thời cảnh cáo trước mọi âm mưu phiến loạn. Sự việc chỉ có thế.
Logged

Duyên ấy kiếp sau tình chưa nhạt, thà phụ trời xanh chẳng phụ nàng!
dongadoan
Administrator
*
Bài viết: 7256


Cái thời hoa gạo cháy...


WWW
« Trả lời #187 vào lúc: 19 Tháng Sáu, 2008, 06:07:09 pm »

CHẾT VÌ CHỦ QUAN HAY CHẾT VÌ PHẢN BỘI ?

  Các nhân vật thân cận cho hay, vào cuối tháng 10, chính quyền lại có vẻ vững vàng hơn bất cứ lúc nào. Điều làm cho chính quyền lo ngại nhất là các đơn vị lữ đoàn nhảy dù. Sau cuộc đảo chính hụt ngày 11-11-1960, chính quyền mới nhận chân được khả năng sung yếu của các đơn vị mũ đỏ.
 
  Tuy nhiên sau ngày 11-11-1960, lữ đoàn này đã được trao cho một sĩ quan thân tín tức Đại tá Cao Văn Viên ngoài một số đơn vị trưởng ở cấp tiểu đoàn và trung đoàn đã được Sở Nghiên cứu móc nối và được coi như người trong nhà.

  Từ tháng 5-1963 ông cố vấn Ngô Đình Nhu đã tiên liệu trước sau rồi thế nào cũng có đảo chính, nhưng ông vẫn yên trí có thể dập tắt được ngay vì những tướng tá âm mưu đảo chính đều không có quân trong tay kể cả Trung tướng Trần Văn Đôn, quyền Tổng Tham mưu trưởng cũng sẽ không thể làm gì được hơn vì trên thực tế, ông Đôn vẫn là tướng không có quân.

  Vì chủ quan quá mức như vậy nên ông Cố vấn Nhu vẫn bình thản trầm ngâm với điếu thuốc lá Job, trong cùng thời khắc đó tướng lãnh đang quyết định lật đổ chế độ... 12 giờ trưa, Tổng thống Diệm theo thông lệ vẫn lần tràng hạt và đọc kinh trước khi dùng bữa. Cũng thời khắc đó, trên xa lộ Thủ Đức, Đại tá Hồ Tấn Quyền đã bị bắn chết. Cái chết của Đại tá Quyền cũng bất ngờ và tức tưởi như cái chết của hai anh em Tổng thống Diệm.

  Ông Cố vấn Nhu đã nắm vững được những yếu tố nào để có thể an tâm và chủ quan như vậy? Kể từ khi Mỹ ngưng viện trợ và tìm mọi áp lực để Tổng thống Diệm phải khuất phục theo đường lối của họ, ông Cố vấn đã tìm được Đồng minh khác khả dĩ có thể hỗ trợ chế độ trong nhất thời và cũng là cách tạo nên một thế tựa để làm điều kiện với Mỹ.

  Trong 9 năm cầm quyền anh em Tổng thống Diệm chua xót nghĩ về viện trợ Mỹ và hiểu thế nào là Đồng minh theo cách nhìn của Mỹ.

   Đồng minh của anh em Tổng thống Diệm không ai khác hơn là Pháp. Kể từ năm 1945, chưa bao giờ mối bang giao Việt Pháp tạo được điều kiện thân hữu tốt đẹp như năm 1963.
 
  Lúc bấy giờ về phía nội bộ, vụ Phật giáo được coi như đã tạm yên. Phe đối lập gồm một số tướng lãnh mà ông Nhu tin rằng họ sẽ không làm gì được trừ phi Mỹ quyết tâm. Song sự quyết tâm của Mỹ cũng chỉ có thể trong vòng bí mật. Tất nhiên Mỹ không thể công khai hỗ trợ bất cứ một phe nhóm nào dùng võ lực để lật đổ chính quyền hợp pháp. Vì còn dư luận quốc tế, Anh, Pháp. Ông Nhu vẫn tỏ ra coi thường thế lực của phe đang âm mưu đảo chính. Theo ông điều giản dị là họ không có quân, không có uy tín trong quần chúng. Một số tướng tá đang nắm thực quyền chỉ huy tại các nha sở và đơn vị thì đều là người tin dùng của chế độ . . . Sự tin tưởng của ông Nhu cũng có lý vì giả thử rằng, nếu Đại tá Đỗ Mậu (Giám đốc Nha An ninh quân đội) cũng như tướng Đính không theo phe đảo chính thì đảo chính cũng khó lòng thành công.

  Tuy nhiên, cái lỗi lầm nhất của ông Nhu vẫn là bệnh chủ quan và đã đặt quá nhiều tin tưởng vào một số nhân sự mà ông cũng như Tổng thống Diệm cho đến giờ phút cuối cùng vẫn không thể ngờ rằng, họ đã phản mình. Sự thật là hầu hết các tướng lãnh đều là đảng viên Đảng Cần lao, như Chủ tịch Quân uỷ Cần lao vốn là tướng Lễ (nhiệm kỳ I) tướng Chiểu (nhiệm kỳ II) cho đến ngày 1-11-1963 các tướng Đôn, Nghiêm, Oai, Khánh, Cao. . . Các Đại tá Đỗ Mậu, Nguyễn Văn Chuẩn, Lâm Văn Phát. Các Trung tá Đỗ Khắc Mai, Nguyễn Văn Thiệu... đều là đảng viên cao cấp của Đảng Cần lao.
 
  Một số tướng tá thân tín của chế độ cũng chủ quan tin tưởng như ông Diệm ông Nhu cho nên trước nguồn tin sẽ có đảo chính, Đại tá Hồ Tấn Quyền vẫn tuyên bố với mấy sĩ quan thân tín của ông “Nhảy dù là mình phải nắm vững, hải quân là do nơi tôi. Chỉ cần huy động hai tiểu đoàn thuỷ quân lục chiến là có thể dẹp tan được đảo chính".

  Trước sau có thể nói chính quyền vừa quá chủ quan và khả năng tình báo lại quá yếu, nên đảo chính bùng nổ như ông Nhu đã tiên liệu mà không có phương sách đối phó.
[attachment=1]
« Sửa lần cuối: 19 Tháng Sáu, 2008, 06:09:07 pm gửi bởi dongadoan » Logged

Duyên ấy kiếp sau tình chưa nhạt, thà phụ trời xanh chẳng phụ nàng!
dongadoan
Administrator
*
Bài viết: 7256


Cái thời hoa gạo cháy...


WWW
« Trả lời #188 vào lúc: 21 Tháng Sáu, 2008, 09:45:47 am »

TRONG DINH

  Khi từng loạt súng nổ ran ở phía Tổng nha Cảnh sát và được báo cáo cho biết có một số binh sĩ thuỷ quân lục chiến đang tiến vào thành phố, cho đến lúc này ông Nhu vẫn bình tâm và ông Vỹ được gọi vào dinh. Kể từ 1 giờ 30 trong dinh Gia Long Bộ Tham mưu cao cấp không còn ai khác hơn là hai anh em Tổng thống Diệm và ông Cao Xuân Vỹ.

  Tại sao chỉ có bằng ấy người ? Thực ra khi có binh biến như vậy anh em Tổng thống Diệm hay ở địa vị ai cũng chỉ còn trông cậy vào quân đội. Phía dân sự nếu có nhiều người thì chỉ làm bận chân.
 
  Dinh Gia Long gọi diện thoại lên Bộ Tổng Tham mưu thì không một ai trả lời (đường dây đã bị cắt) khi gọi điện thoại cho Biệt khu Thủ đô, quân đoàn III thì hai nơi này cũng bặt tin. Khi quay sang Bộ Tư lệnh hải quân gọi Đại tá Quyền thì cũng không có tiếng chuông reo. Tuy nhiên dinh Gia Long cũng vẫn còn liên lạc được với một số cơ quan dân sự đầu não như Tổng Nha Cảnh sát quốc gia, Thanh niên Cộng hoà, Trung ương tình báo, Bộ Công dân vụ. Việc đầu tiên là Tỏng thống Diệm gọi điện thoại cho Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ và một số Bộ trưởng để chỉ thị cho họ một số điều cần thiết như tạm thời ẩn náu giừ vững tinh thần.
 
  Vị Bộ trưởng trốn lẹ nhất không ai khác hơn là ông Nguyễn Đình Thuần, Bộ trưởng Phụ tá Quốc phòng kiêm nhiệm Bộ phủ Tổng thống. Cho đến chiều dinh Gia Long vẫn còn bắt liên lạc được với một số tỉnh tại Cao nguyên và Trung nguyên Trung phần cũng như Bộ Tư lệnh quân đoàn I và quân đoàn II. Nhưng không sao bắt liên lạc được với quân đoàn IV của tướng Huỳnh Văn Cao. Kể từ 1 giờ 30 đến khi hai anh em ông Diệm ra khỏi dinh Gia Long Bộ Tham mưu, quân đoàn I và quân đoàn II là hai đơn vị mà Tổng thống Diệm vẫn liên lạc được cho đến phút chót và tướng Nguyễn Khánh cũng là tướng lãnh duy nhất qua đường dây liên lạc vẫn tỏ bày lòng cương quyết trung thành với Tổng thống Diệm. Ông Khánh cho biết quân đoàn II sẽ tiếp cứu dinh Gia Long, tướng Khánh còn lưu ý với Bộ Tham mưu dinh Gia Long : "Các toa phải ráng giũ, đứng có nghe lời tụi nó. Không tin mấy thằng đó được, quân  đoàn II sẵn sàng phản công phe đảo chính".
Logged

Duyên ấy kiếp sau tình chưa nhạt, thà phụ trời xanh chẳng phụ nàng!
dongadoan
Administrator
*
Bài viết: 7256


Cái thời hoa gạo cháy...


WWW
« Trả lời #189 vào lúc: 22 Tháng Sáu, 2008, 10:08:14 am »

ĐƯỜNG DÂY ĐÃ ĐỨT

  Sau vụ đảo chính hụt 11-11-1960, Sở Nghiên cứu Chính trị đã áp dụng một kế hoạch chống đảo chính rất hữu hiệu. Nhờ kế hoạch này, một số đơn vị nòng cốt trong lừ đoàn nhảy dù, thuỷ quân lục chiến, thiết giáp, đều được Sở Nghiên cứu "Chinh phục và tìm bạn" trong hàng sĩ quan mà hầu hết là cấp tiểu đoàn trưởng.
 
  Tháng 9-1963 bác sĩ Trần Kim Tuyến được lệnh cấp tốc lên đường nhận nhiệm vụ mới và Trung tá Đương chính thức thay thế (Trung tá Đương còn là Chánh văn phòng của ông Nhu).
 
  Tuy đã bàn giao công việc, song công việc của Sở Nghiên cứu không đơn giản như các sở khác, giấy tờ hành chính chỉ là phần phụ.

  Còn bao nhiêu vấn đề nhiêu khê rắc rối mà phải là người chủ động mới có thể nắm vững. Do đó, người thay thế dù là cận thân ông Cố vấn Nhu cũng không thể nắm vững "đường dây" được móc nối tại các đơn vị chủ lực. Đó cũng là một khuyết điểm lớn đã làm cho chế độ ông Diệm trở tay không kịp khi bị lâm nguy. Thông thường con người có một nhược điểm lớn là bao giờ cũng đặt vấn đề tình cảm cá nhân như một căn bản cho lòng tin tưởng và tinh thần phục vụ. Cho nên với cá nhân ông này thì thuộc cấp hết lòng phục vụ nhưng cá nhân ông kia lại thờ ơ, bất hợp tác.
 
  Kế hoạch "nuôi ba năm dùng một giờ" đã trở thành vô hiệu quả. Nhiều đơn vị khi nhận được lệnh chuyển quân hướng về Sài Gòn đã không biết cấp báo cho ai. Đây là vấn đề quan hệ đến sinh mạng nên không thể cấp báo cho bất kỳ ai mà họ chưa có lòng tin cậy, sự tin cậy đặt trên tình nghĩa và thân hữu. Sau vụ 11-11-1960, Sở Nghiên cứu chính trị cạnh Tổng thống Diệm đã cố len lỏi vào các đơn vị và tìm bạn. Công tác tìm bạn coi như được hoàn tất vào năm cuối 1962. Những người bạn này không cần nhận một công tác nào cả cũng không được hưởng một quyền lợi nào cả. Duy chỉ có điều họ sẽ được bảo vệ nếu gặp sự bất công ngược đãi của cấp trên hoặc tuỳ trường hợp sẽ được giúp đỡ theo nhu cầu và ước muốn của mỗi cá nhân.
 
  Tuy vậy, họ luôn luôn được căn dặn một diều, nếu khi nào có lệnh chuyển hướng quân về Sài Gòn, hoặc có điều khả nghi trong động binh thì phải cấp báo ngay cho người có trách nhiệm của Sở Nghiên cứu, và cấp báo trực tiếp, đưa tin đến nhà hoặc điện thoại theo các đường dây riêng. Theo Lương Khải Minh, không những "tìm bạn" như thế này tại các đơn vị cấp tiểu đoàn và trung đoàn, Sở Nghiên cứu còn tìm bạn trong các cơ quan đầu não của Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng Tham mưu, thường thường là sĩ quan cấp uý thuộc ngành truyền tin, quân vận, phòng II, phòng III . . .

  Từ tháng 10-1963 các "đường dây" được thiết lập theo hệ thống "bạn" kể trên nếu không nói là tan rã thì cũng không được kết hợp và phối trí do một người duy nhất điều động. Trong khi đó, ông Nhu lại quá tin tưởng vào một số tướng tá chỉ huy các đơn vị, không hiểu sao ông Nhu lại quên hẳn bài học "Nguyễn Chánh Thi" trong vụ đảo chính 11-11-1960 ?

  Ông vẫn dùng một số tướng tá thân tín để chống lại mọi âm mưu đảo chính. Song ông Nhu đã không ngờ được rằng, khi các tướng tá trên tạm thời liên hiệp với phe âm mưu đảo chính thì một sớm một chiều chế độ của ông trở thành chế độ tay trắng không có quân để bảo vệ (Ngoài lữ đoàn phòng vệ phủ Tổng thống và một số quân của lực lượng đặc biệt đã bị phân tán). Thật là một sự tính sai hay đúng hơn là một rủi ro của chủ quan. Đây cũng có thể coi là sự nhầm lẫn do sự thiếu cảm nhận về tâm lý và thực trạng của nhân sự trong quân đội.
Logged

Duyên ấy kiếp sau tình chưa nhạt, thà phụ trời xanh chẳng phụ nàng!
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM