Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 07:55:42 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Bộ đội Bình Xuyên  (Đọc 53590 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
colorwind
Thành viên
*
Bài viết: 141


« Trả lời #50 vào lúc: 18 Tháng Năm, 2008, 11:26:00 am »

Mấy hôm sau, Khu bộ phó Huỳnh Văn Nghệ lên đường tới rừng Sác, vào tổng hành dinh Liên khu Bình Xuyên gặp Bảy Viễn. Đây là một quyết định mạo hiểm. Trạm gác và các tay súng trong ban ám sát, tình báo... của bộ tham mưu Liên khu Bình Xuyên giăng khắp mọi ngả dẫn vào tổng hành dinh Bảy Viễn. Bọn phòng nhì ở bộ tham mưu cũng đã có kế hoạch và bố trí lực lượng để thủ tiêu ông. Bỏ qua những nguy hiểm rình rập, bình tĩnh và khôn khéo, Huỳnh Văn Nghệ đã thuyết phục Bảy Viễn về Đồng Tháp Mười.
 
Bảy Viễn bị đặt trước sự chọn lựa đầy gay cấn. Sau khi bàn bạc, cân nhắc mọi khả năng, cuối cùng Bảy Viễn và bộ tham mưu đi tới quyết định: Bảy Viễn sẽ về Đồng Tháp Mười dự lễ tấn phong chức Khu bộ trưởng. Dùng một lực lượng hộ tống mạnh để bảo vệ và gây áp lực trên dọc đường đi về và trong thời gian ở lại Đồng Tháp Mười. Bộ phận tuỳ tùng gồm Lại Hữu Tài (cố vấn ngoại giao), Năm Bé, Lại Văn Sang. Tư Hiểu (các cố vấn quân sự). Ngoài ra trong đoàn còn có Thái Hoàng Minh, Lê Paul, cháu và con trai Bảy Viễn. Lực lượng hộ tống gồm hai đại đội trang bị mạnh, có súng lớn. Chỉ huy trưởng và tham mưu trưởng lực lượng hộ tống là Tư Hiểu và Bảy Cao.

Lực lượng thủ trại: do Tư Ty chi đội trưởng chi đội 25 và Lâm Ngọc Đường đảm trách. Một ngày giữa tháng 5 năm 1948, Bảy Viễn cùng đoàn tuỳ tùng lên đường. Trước khi xuất phát, Lại Văn Sang chi đội trưởng chi đội 9) cho tập họp lực lượng hộ tống để phổ biến nhiệm vụ, hạ đạt mệnh lệnh hành quân, mời ngài tân Khu bộ trưởng duyệt binh và nói lời hiệu triệu. Sau 3 ngày đêm hành quân vừa đi ghe vừa lội bộ, đoàn quân tới hạ trại ở xóm Nhà Thờ xã Nhơn Hoà Lập. Lễ tấn phong diễn ra đúng nghi thức. 

Trong lúc Bảy Viễn đang ở Đồng Tháp Mười dự Hội nghị quân sự Nam Bộ, Ban chỉ đạo thanh trừng nhận được mệnh lệnh tiến hành thanh trừng của Nguyễn Văn Trí, Bí thư Khu ủy. Mệnh lệnh lập tức được triển khai thực hiện.

Các đơn vị tiến hành thanh trừng lần lượt đưa lực lượng vào vị trí chốt chặt và thọc sâu ém sẵn xung quanh các mục tiêu. Giữa lúc đó, có chỉ thị của Xứ ủy Nam Bộ: đình chỉ lập tức cuộc thanh trừng. Rừng Sác mênh mông. Các đơn vị thanh trừng đang ém quân bí mật phân tán khắp các luồng lạch, vạt rừng. Đường đi lại khó khăn và nguy hiểm, chỉ thị của Xứ ủy đã không đến kịp.

4 giờ sáng ngày 24-5-1948, cuộc thanh trừng bắt đầu. Các cánh quân bao vây và thọc sâu vào tổng hành dinh Bảy Viễn và bộ tham mưu Liên khu Bình Xuyên, bắt gần gọn bọn phản động và nhân viên phòng nhì Pháp. Ở các cánh khác, lực lượng thanh trừng bắt được Tư Tỵ, Ký Huỳnh. Lê Văn Hanh... Lâm Ngọc Đường dùng ghe riêng chạy trốn... sau khi vội vã dùng vô tuyến điện báo nguy và yêu cầu bọn đầu sỏ phòng nhì Pháp cứu hắn.

Biết Lâm Ngọc đường một gián điệp nhà nghề từng gây nhiều nợ máu đang lẩn trốn trong các khu rừng quanh tổng hành dinh, quân ta kịp thời bao vây, phong toả ráo riết. Các đơn vị được tăng cường thêm tiến hành chốt chặt ở các cửa rạch, song, những vạt rừng xung yếu. Đồng thời điều động thêm nhiều tổ toán cán bộ, chiến sĩ cải trang thành đồng bào lao động làm các nghề than, củi đước, đánh bắt cá... theo các rạch, dùng xuồng, ghe sục sạo, truy lùng.

Lâm Ngọc Đường thoát khỏi sở chỉ huy Liên khu Bình Xuyên độ hơn 1 km, liền ra lệnh cho những người chèo ghe tạt vào rừng giấu và bảo vệ ghe. Còn hắn tách lủi theo hướng khác. Đi bộ vài trăm mét, lại lộn lại theo hướng ngược chiều với đoạn vừa đi, tiến đến vùng tọa độ quy định, Đường loay quay lẩn lút suốt bảy ngày đêm trong rừng sâu, lương thực hết, nước ngọt cạn từ ngày thứ tư.

Ta triển khai việc thanh trừng được khoảng 4 giờ thì tàu, thuyền chiến các loại của giặc Pháp xuất hiện, càng lúc càng nhiều và dập dềnh xuôi ngược trên các dòng sông Soài Rạp, Vàm Sát, Đinh Ba (phụ lưu của sông Đồng Tranh phía hạ lưu)..., chỉ cách sở chỉ huy các chi đội 9, 21 , 25 và tổng hành dinh, nơi gần khoảng 4km, nơi xa khoảng 6km đường chim bay. Đó đây, những khẩu đại bác 20 ly, 37 ly trên các tàu nổ ầm vang từng loạt.

Bỗng Lâm Ngọc Đường nghe tiếng dầm bơi khuấy nước và tiếng người trò chuyện càng lúc càng gần. Một ghe nhỏ có bốn người dân với dụng cụ dao, rựa, cưa, dây đi tới. Sau khi khẳng định đó là bốn ngươi dân nghèo đi củi. Đường lên tiếng gọi khẩn thiết yêu cầu cứu giúp.
 
Sau khi nhận dạng, xác định đó là Lâm Ngọc Đường đang có lệnh truy nã, một trong bốn người đứng lên tỏ ra thông cảm, mời y đến gần ghe. Rồi bảo ba người còn lại bày cơm, nước mà họ "dành để ăn, lao động làm củi" thiết đãi y Khi Đường vừa lên ghe thì bị họ bất sống, thu hết hành lý áp giải về sở chỉ huy. Bốn người đi trên ghe là bốn chiến sĩ và lực lượng truy lùng giả dạng. Lâm Ngọc Dường bị bắt trong lúc chưa kịp phi tang các tang chứng: một cặp đựng tài liệu Pháp gửi cho Bảy Viễn, danh sách bọn phòng nhì và phản động, nhật ký ghi các vụ việc phá hoại, kế hoạch chiến khu ma và một cặp đầy ắp tiền Đông Dương ngân hàng . Ngày 31 tháng 5 năm 1948, cuộc thanh trừng kết thúc.
Logged

Ta đã trở lại lợi hại gấp trăm lần.
colorwind
Thành viên
*
Bài viết: 141


« Trả lời #51 vào lúc: 18 Tháng Năm, 2008, 11:31:48 am »

Kết quả, lực lượng thanh trừng đã bắt hơn chục tên gián điệp và phản động. Trong số đó có Lâm Ngọc Đường, Mười Giao (thiếu uý biệt kích Pháp, tổng chỉ huy 20 ban đặc nhiệm bộ tham mưu), giáo sư Lê Văn Hanh "phái viên chính phủ' của thủ tướng bù nhìn Nguyễn Văn Xuân bên cạnh bộ tư lệnh Liên khu Bình Xuyên. Một số đối tượng quan trọng trong hai chi đội 21, 25... Và 70% lực lượng trong các ban đặc nhiệm các trạm kiểm soát thu thuế. Trong số những người bị bắn chết sau đợt thanh trừng khoảng hai tháng, có chỉ huy phó bộ chỉ huy Liên chi đội 2, 3 Trần Văn Đối.

Tại tổng hành dinh bộ tham mưu Liên khu Bình Xuyên, lực lượng thanh trừng đã thu được nhiều tiền Đông Dương ngân hàng, vàng và một số tài liệu. Trong đó có một văn bản ký kết giữa đại diện quân đội Liên hiệp Pháp khu vực Đông Nam Bộ với tổng chỉ huy Liên khu Bình Xuyên Lê Văn Viễn:

1. Quân đội Liên hiệp Pháp (chịu trách nhiệm về tình hình quân sự đối với tỉnh Gia Định) cam kết không tiến hành các hoạt động quân sự nhằm vào các lực lượng của Liên khu Bình Xuyên trong căn cứ rừng Sác.

2. Lực lượng quân sự Liên khu Bình Xuyên (và các lực lượng quân sự có liên quan hiện đóng trong căn cứ rừng Sác) cam kết không tiến hành các hoạt động quân sự nhằm vào khu vực thuộc quyền kiểm soát của quân đội Liên hiệp Pháp tại các tỉnh Gia Định, Chợ Lớn... nằm dọc bên tây hai con sông Nhà Bè và Soài Rạp.

3. Chỉ huy quân đội Liên hiệp Pháp (chịu trách nhiệm về tình hình quân sự tỉnh Gia Định) có trách nhiệm báo cáo toàn bộ tình hình và đệ trình thoả ước này lên tư lệnh quân đội Liên hiệp Pháp ở miền Đông Nam phần Việt Nam chuẩn y.

Ngoài ra, lực lượng thanh trừng còn thu được dự thảo thoả ước giữa Bảy Viễn và quân đội Pháp, nội dung:

1. Tổng chỉ huy Liên khu Bình Xuyên bảo đảm không để xảy ra các hoạt động quân sự dọc tuyến sông Lòng Tàu, gây thiệt hại về người và phương tiện vận chuyển thuộc quyền kiểm soát của Pháp.
 
2. Đổi lại, Pháp giành cho Liên khu Bình Xuyên các khoản viện trợ về tài chính, hàng tiêu dùng theo kế hoạch từng năm.

Mặc dù phạm một số khuyết điểm như nóng vội, công tác phân loại đối tượng chưa chu đáo, ở một số nơi đã tiến hành tràn lan, làm cho một số người bị bắt và xử lý oan, cuộc thanh trừng một số phần tử phản động và gián điệp Pháp trong bộ đội Bình Xuyên đã giáng một đòn mạnh mẽ vào thủ đoạn chiến tranh gián điệp, âm mưu gây chia rẽ nội bộ, tạo điều kiện để củng cố khối đoàn kết, xây dựng các đơn vị bộ đội ngày càng vững mạnh, tiến kịp với yêu cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến.

Sau cuộc thanh trừng, một đoàn kiểm tra hỗn hợp được thành lập gồm đại diện ủy ban kháng chiến hành chánh Nam Bộ, Ban quân sự Nam Bộ và Sở công an Nam Bộ được thành lập Tạ Nhứt Tứ làm trưởng đoàn, Trần Văn Hồng và Diệp Ba là uỷ viên. Đoàn đã về ngay rừng Sác để kiểm tra cuộc thanh trừng. Sau một thời gian làm việc, đoàn nhận định: cán bộ chiến sĩ thực hiện nhiệm vụ đã nghiêm chỉnh chấp hành chủ trương yêu cầu của Khu ủy Khu 7. Trong quá trình tiến hành, không có hiện tượng tư thù, tư oán, (riêng cái chết của Trần Vãn Đối, đoàn không được ban chỉ đạo cuộc thanh trừng báo cáo nên không có kết luận).
 
Tháng 6 năm 1948, lầu không khí u ám nặng nề của quãng thời gian hai năm về trước đã bị luồng gió cuộc thanh trừng thổi quét. Những xạ ảnh của nó còn lưu vương trong lòng mỗi cán bộ chiến sĩ Bình Xuyên. Một bản hiệu triệu được phát đi khắp nơi trong rừng Sác và các vùng kế cận:
Logged

Ta đã trở lại lợi hại gấp trăm lần.
colorwind
Thành viên
*
Bài viết: 141


« Trả lời #52 vào lúc: 18 Tháng Năm, 2008, 11:40:43 am »

“Hỡi quý vị đồng bào, hỡi anh em chiến sĩ Bình Xuyên đi lưu động! Hơn ba nam trường chiến đấu với thực dân Pháp muốn tròng lại ách nô lệ cho dân tộc ta, chiến sĩ Bình Xuyên đã hy sinh không biết bao xương máu để đóng góp phần vào sự bảo vệ đất nước gìn giữ sự độc lập tự do và đem hạnh phúc lại cho giống nòi. Bằng chứng là khu bộ phó Dương Văn Dương, Từ Văn Ri, Nguyễn Văn Hội và còn biết bao nhiêu chiến sĩ Bình Xuyên vì nghĩa vụ đã xả thân ngoài mặt trận, vì nước bỏ mình. Vậy mà bọn manh tâm bán nước như Lâm Ngọc Đường, Tư Thiên. .., cố chen vào hàng ngũ Bình Xuyên, âm mưu chia rẽ lực lượng kháng chiến bồng bột. Bằng chứng dưới đây:

- Lần thứ nhất bọn chúng bí mật lập "Mặt trận quốc gia liên hiệp" để chia rẽ với Mặt trận Việt Minh, nhưng không thu được kết quả; vì toàn thể đồng bào hoàn toàn tín nhiệm vào Mặt trận Việt Minh là Mặt trận thống nhất của toàn dân đã tranh đấu từ năm 1941 lập chiến khu giải phóng ở Việt Bắc đem lại cuộc cách mạng tháng Tám thắng lợi vẻ vang.

- Lần thứ hai chúng công khai hợp tác với Hoạch, Xuân, lập Chính phủ bù nhìn Nam Kỳ tự trị nam phần Việt Nam.

- Lần thứ ba chúng lợi dụng Hoà Hảo, bộ tham mưu Liên khu Bình Xuyên, cố chia rẽ Bình Xuyên với chánh quyền Nam Bộ, cho khu trưởng Nguyễn Bình là độc tài. Sự thực thâm tâm họ muốn cướp chính quyền ở Nam Bộ.

- Lần thứ tư bọn chúng phái Lâm Ngọc Đường xuống hành dinh khu phó Lê Văn Viễn, định lập khu giả (chiến khu quốc gia) làm hậu thuẫn ủng hộ Bảo Đại và chống lại Chính phủ kháng chiến do Hồ Chủ tịch lãnh đạo mà chúng phao là chánh phủ cộng sản.

Sở dĩ bọn phản động len lỏi được vào hàng ngũ của Bình Xuyên là do sự cảm tình bằng hữu với ông khu phó Lê Văn Viễn, ông Lâm Văn Đức, tức Tư Tỵ, là chi đội trưởng Chi đội 25. Bọn chúng lợi dụng tình cảm mua chuộc lòng can đảm của hai ông được xuống chiến khu ở yên, lập mưu này kế nọ để xuyên tạc chia rẽ Bình Xuyên với Chính phủ... Nhưng mưu mô xảo quyệt của chúng không thành là nhờ sự trung kiên của các tướng lĩnh cũng như chiến sĩ Bình Xuyên đồng tâm nhất trí ủng hộ Chính phủ Hồ Chí Minh, đặt quyền lợi của Tổ quốc lên trên tình cảm, nên cùng đứng lên chống lại hành vì chấp chứa bọn phản động của khu phó Lê Văn Viễn mặc dù chiến sĩ Bình Xuyên coi ông Viễn như một người anh.

Đến giai đoạn quyết liệt này, không thể duy trì được nữa, không thể để bọn phản động lợi dụng danh nghĩa của Bình Xuyên để lừa gạt đồng bào, lôi kéo vào mặt trận bán nước, để làm tay sai cho thực dân Pháp gây cảnh nồi da nấu thịt. Muốn đập tan kế độc của thực dân, muốn tỏ lòng tin cậy đối với đồng bào, đối với Chính phủ, muốn làm cho bọn phản động biết ro sức chiến đấu của Bình Xuyên, vì chính nghĩa, vì Tổ quốc, chúng tôi xin thay mặt toàn thể anh em chiến sĩ Bình Xuyên đồng đứng lên kêu gọi toàn thể đồng bào, các cơ quan Chính phủ, các đoàn thể cứu quốc, các trung đoàn bạn, ủng hộ chúng tôi ở tất cả mọi mặt để tảo trừ những phần tử phản động chui vào hàng ngũ của chúng ta. Chúng tôi muốn làm tròn xứ mạng ấy, yêu cầu các cơ quan, các đoàn thể góp tất cả những tài liệu, những hành vi vô chánh phủ của bọn chúng còn ẩn núp trong dân chúng gửi gấp cho chúng tôi để cuộc thanh trừng của chúng tôi chóng kết thúc

Ngày  8 - 6 - 1948
Thay mặt toàn thể chiến sĩ Bình Xuyên
Ban chỉ huy [17]

17. Báo cáo tổng quát của Bộ Tổng tham mưu về tình hình chiến sự toàn quốc tháng 6 và tháng 7 - 1948. Hồ sơ 27, phòng BTTM, kho lưu trữ BỘ Quốc phòng trang 156 - 157.
« Sửa lần cuối: 18 Tháng Năm, 2008, 01:13:02 pm gửi bởi colorwind » Logged

Ta đã trở lại lợi hại gấp trăm lần.
colorwind
Thành viên
*
Bài viết: 141


« Trả lời #53 vào lúc: 18 Tháng Năm, 2008, 12:06:52 pm »

Chương VII

BÌNH XUYÊN LY KHAI VÀ VỤ ÁN TƯ HUỲNH

“Liên khu Bình Xuyên", thủ đoạn thâm độc của kẻ thù nhằm biến một bộ phận võ trang của ta thành lực lượng thù địch với kháng chiến, thành nòng cốt của liên minh giáo phái phản động, biến chiến khu rùng Sác thành chiến khu ma . . . bị thất bại.

Cuối tháng 5 đầu tháng 6 năm 1948, trong khi cuộc thanh trừng bắt đầu tại rừng Sác thì ở xóm Nhà Thờ thuộc xã Nhơn Hoà Lập nằm trong chiến khu Đồng Tháp Mười. Bảy Viễn, bọn phòng nhì và lực lượng hộ tống gồm hơn 200 người đã có mặt. Cách không xa nơi Bảy Viễn hạ trại, một cuộc họp gồm cán bộ Xứ ủy, ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ được khẩn trương triệu tập. Xung quanh vấn đề xử lý đối với Bảy Viễn và đồng bọn, các ý kiến đưa ra khác nhau. Một số cho rằng: không nên bắt Bảy Viễn, không tiến hành thanh trừng, vẫn tấn phong chức vụ Khu bộ trưởng Khu 7 cho Bảy Viễn, nhằm tránh gây xung đột và đổ máu, đề phòng kẻ thù lợi dụng vu cáo, gây chia rẽ và kích động... Một số ý kiến khác đề nghị bắt Bảy Viễn và bọn phòng nhì đưa ra tòa án quân sự xét xử.

Hội nghị biểu quyết, đa số tán thành ý kiến thứ nhất. Lễ tấn phong vẫn được tổ chức theo dự định. Tiếp đó, đồng chí Lê Quẩn đại diện cho Xứ uỷ ra chỉ thị hoãn cuộc thanh trừng trong nội bộ "Liên khu Bình Xuyên". Công văn được khẩn tốc chuyển tới Ban chỉ đạo. Tuy nhiên, lệnh đó về tới rừng Sác thì đã muộn, cuộc thanh trừng đã tiến hành được ba ngày. Cùng lúc, tại xóm Nhà Thờ, Bảy Viễn vô cùng hoang mang. Dưới sức ép của bọn Tài, Sang. Viễn quyết định không trở về rừng Sác mà quay lại Sài Gòn.

Năm Tài mang theo một số tay súng bí mật rời xóm Nhà Thờ, cắt đường về Sài Gòn, báo cáo toàn bộ tình hình với cơ quan phòng nhì, chuẩn bị phương án tiếp tục sử dụng Bảy Viễn. Ba hôm sau toàn bộ lực lượng còn lại của Bảy Viễn cũng lặng lẽ rút chạy giữa đêm Đồng Tháp Mười. Trên đường, phần lớn cán bộ, chiến sĩ thuộc hai đại đội hộ tống do Bảy Cao chỉ huy bí mật quay về với đồng đội với kháng chiến.

Tới cầu Hiệp Ân - điểm hẹn đón đã thống nhất với Năm Tài - xung quanh Bảy Viễn còn lại: Lại Hữu Tài, Lại Văn Sang, Tư Hiểu, Thái Hoàng Minh, Năm Bé, Lê Paul (con trai Viễn) và 21 tay chân thân tín khác.

Về lại Sài Gòn với chủ, bộ mặt đích thực của Bảy Viễn và đồng bọn đã sạch mạng che. Ván bài "Liên khu Bình Xuyên" và "chiến khu ma" rừng Sác của địch hoàn toàn bị phơi bày trước công luận.

Giờ đây bọn phòng nhì đang sắp đặt một âm mưu mới: sử dụng Bảy Viễn và lợi dụng danh nghĩa "Bình Xuyên" trong điều kiện mới nhằm tiếp tục chống phá cuộc kháng chiến của quân dân Nam Bộ.

Ngay khi Bảy Viễn đặt chân tới Sài Gòn, bộ máy thông tin địch mở đợt tuyên truyền về lực lượng Bình Xuyên "ly khai kháng chiến". Đồng thời, phòng nhì Pháp lập tức tung tiền mộ lính nhằm gấp rút chuẩn bị cho Bảy Viễn 1 tiểu đoàn để kịp ngày ra mắt. Năm Bé đảm nhận nhiệm vụ tuyển mộ. Tại chợ Phạm Thế Hiển, Rạch ông, cầu Nhị Thiên Đường, cầu Tân Thuận... các bàn mộ lính được lập ra. Để đủ số lượng và kịp thời gian, tay chân Năm Bé đến các bót, các đồn xin về những tên du đãng đang bị bắt giữ. Tư Sang cấp tốc phiên chế và tổ chức huấn luyện những thao tác sơ đẳng của luật nhà binh.
 
Ngày 13 tháng 6 năm 1948, lễ ra mắt của "Bình Xuyên ly khai" được tổ chức tại chợ Phạm Thế Hiển. Về dự có Đơ La-tua cùng các viên chức trong chính phủ ngụy quyền Pháp và đầy đủ bộ sậu của Bảy Viễn. Sắc phục còn sực nức mùi vải mới, Bảy Viễn xuất hiện trên lễ đài và đọc bài diễn văn do phòng nhì soạn thảo. Y hứa trung thành nhất mực với “chính phủ quốc gia" và "nhà cầm quyền Việt - Pháp", nguyện một lòng "chiến đấu chống Việt Minh và cộng sản độc tài”… Thay mặt cho nhà cầm quyền Pháp - Việt, tướng Đơ La-tua chính thức tiếp nhận lực lượng "Bình Xuyên ly khai", đồng thời đọc quyết định phong quân hàm đại tá cho Lê Văn Viễn.

Sau lễ trình diện, phòng nhì Pháp và đồng bọn Bảy Viễn bắt tay tổ chức lực lượng, xây dựng sở chỉ huy và doanh trại. Suốt dọc hành lang hai con đường Trần Xuân Soạn, Phạm Thế Hiển, bờ nam của kinh Tẻ và kinh Đôi, dọc tỉnh lộ 5 và liên tỉnh lộ 15... hơn 30 địa điểm tuyển mộ lính được Năm Bé lập ra, chiêu tập lực lượng, tăng cường quân số cho “Bình Xuyên ly khai". Điều kiện "đăng lính" hết sức rộng rãi nhằm thâu gộp nhanh mọi đối tượng cho đủ số lượng. Hơn hai tháng, Bảy Viễn có trong tay một trung đoàn với 6 tiểu đoàn quân sự và 3 tiểu đoàn cảnh sát chìm lẫn nổi. Như vậy “lính" của Bảy Viễn lúc này không còn là "Bộ đội Bình Xuyên" nữa theo đúng nghĩa của bộ đội Bình Xuyên.

Cùng lúc, căn cứ tổng hành dinh, các cơ quan trực thuộc sở chỉ huy các tiểu đoàn cũng được gấp rút tổ chức. Toàn bộ được xây dựng trên khu vực phía nam cầu chữ Y. Một văn phòng liên lạc của "Bình Xuyên ly khai" với quân đội Pháp, nơi bộ tham mưu tổng hành dinh thường trực cũng được lập tại căn phố 31 đường Căn-tông. Hết thảy mọi chức vụ, vị trí chủ chốt đều là người thân tín của Bảy Viễn nắm giữ, trên cơ sở được phòng nhì Pháp chấp thuận. Mọi nhất cử nhất động của "Bình Xuyên ly khai" đều được cơ quan phòng nhì Pháp đặc biệt theo dõi, giám sát chặt chẽ, toàn diện mọi hoạt động của lực lượng này. Tư Hiểu chỉ huy 6 tiểu đoàn quân sự (trung đoàn trưởng). Năm Bé vừa là tổng cố vấn quân sự cho Bảy Viễn, kiêm cố vấn quân sự cho Tư Hiểu. Thái Hoàng Minh giữ chức tham mưu trưởng trung đoàn. Lê Paul, sau này có thêm Ngô Văn Lực, Võ Văn Môn, Lê Văn Chàng, Tiểu Lý Quảng, Năm Thời... làm tiểu đoàn trưởng 6 tiểu đoàn quân sự Lại Văn Sang nắm 3 tiểu đoàn an ninh, cảnh sát. Năm Tài được phòng nhì giao nhiệm vụ là sĩ quan biệt phái của trung tá Savani theo dõi, kiểm tra toàn bộ hoạt động và nhân sự của "Bình Xuyên ly khai". Dưới Năm Tài là hai nhân viên phòng nhì Viện và Kiểng trực tiếp chỉ huy ban tình báo thuộc bộ tham mưu "Bình Xuyên ly khai". Đây là ban phụ trách nhiệm vụ phản gián, nắm tình hình hoạt động của lực lượng đối phương và bí mật kiểm soát, thanh tra sĩ quan hạ sĩ quan các cấp trong lực lượng "Bình Xuyên ly khai".
Logged

Ta đã trở lại lợi hại gấp trăm lần.
colorwind
Thành viên
*
Bài viết: 141


« Trả lời #54 vào lúc: 18 Tháng Năm, 2008, 12:27:15 pm »

Địa bàn nam và đông nam thành phố Sài Gòn, trước khi “Bình Xuyên ly khai" được tổ chức, là khu vực có phong trào kháng chiến chống Pháp mạnh mẽ. Dựa vào nhân dân, vào các cơ sở cách mạng, vào địa thế thiên hiểm (những vùng hoang hoá, cây cỏ ngập tràn và rạch sông chằng chịt), du kích, lực lượng các ban công tác Thành, các tiểu tổ, tiểu đội của đơn vị biệt động số 1 và số 2 của Trung đoàn 300 Dương Văn Dương cùng cán bộ, nhân viên chính quyền và lực lượng công an của ta đã kiên cường trụ bám, tiến hành các hoạt động diệt ác, phá kềm, liên tục phục kích, tập kích nhỏ lẻ, gây cho địch thiệt hại về sinh lực, phương tiện chiến tranh, làm cho hậu phương của chúng luôn luôn bị đe dọa... Vì thế, địch khẩn trương xây dựng, trang bị, huấn luyện lực lượng "Bình Xuyên ly khai" tung vào hoạt động trên địa bàn nóng bỏng này của phía nam thành phố, nhằm các mục đích:

1. Càn quét, đánh phá quyết liệt, tiến tới xoá bỏ các cơ sở kháng chiến của ta, bảo đảm an ninh để phát huy hiệu lực của bộ máy thống trị. Thực chất đây là nhiệm vụ nhằm bình định các vùng mà Pháp đã chiếm đóng, tạo điều kiện cho quân đội Liên hiệp Pháp rảnh tay đối phó với các đơn vị võ trang tập trung của ta ở vùng ngoài.

2. Bảo đảm an ninh dọc sườn phía nam nội ô thành phố Sài Gòn: khu vực hành lang phía bắc kinh Tẻ, kinh Tàu Hủ, kinh Đôi, hình thành vành đai an ninh phía nam nhằm đảm bảo an toàn cho các cơ quan đầu não của bộ máy thống trị địch.

Ngay sau ngày cơ cấu lực lượng bước đầu tạm ổn, các đơn vị "Bình Xuyên ly khai” đã triển khai hoạt động theo nhiệm vụ được giao. Những tháng cuối năm 1948 địch liên tiếp mở 3 cuộc hành quân hỗn hợp đánh vào rừng Sác. Pháo 105 ly được đưa từ Gò Công về căn cứ Vàm Láng, nghếch nòng về hướng tây nam chiến khu nhả đạn dọn đường và yểm trợ cho bộ binh Pháp tiến. Trên các dòng kinh, hàng chục tàu chiến nhanh chóng thọc sâu vào rừng Sác.

Trong đội hình tiến công có nhiều đại đội thuộc 3 tiểu đoàn cơ động ứng chiến của "Bình Xuyên ly khai" tham gia. Đây là lực lượng chủ yếu mà địch sử dụng để đánh phá các khu vực xóm ấp của nhân dân thuộc chiến khu rừng Sác quận Nhà Bè càn quét ác liệt những khu vực bộ đội ta đóng quân và cướp phá các kho tàng của ta. Chúng đốt hàng trăm ngôi nhà, tàn hại đồng bào các xã An Thới Đông. Lý Nhơn, bắn chìm và cướp đi hàng trăm ghe thuyền - phương tiện đi lại và kiếm sống của những người dân nghèo trên sông rạch rừng Sác. Trong khi đó, bốn tiểu đoàn quân sự phối hợp với lực lượng tề điệp, cường hào ác bá địa phương, tiến hành phân loại dân, định ra các biện pháp phân biệt đối xử với từng loại. Các gia đình có người thân tham gia kháng chiến thuộc đối tượng chúng cho là nguy hiểm nhất, đặc biệt những nhà có người là cán bộ chiến sĩ Bình Xuyên trung kiên. Hàng trăm người thuộc diện này đã bị bắt bớ, thẩm vấn tra hỏi cực kỳ dã man. Hàng trăm gia đình tan nát. Xóm ấp thường xuyên náo động bởi các cuộc hành quân biệt kích ngày đêm của chúng. Trên mọi nẻo đường, bờ sông rạch... đều có thể có lực lượng "Bình Xuyên ly khai" phục kích. Không ít cán bộ, nhân viên chính quyền, đoàn thể kháng chiến và các chiến sĩ thuộc lực lượng công an, du kích của ta bị giết, bị bắt bởi những tên chỉ điểm, những toán phục kích loại này. Hàng chục cán bộ chiến sĩ đại đội đặc biệt thuộc đơn vị biệt động số 1 và số 2 (trung đoàn 300 Dương Văn Dương) đã rơi vào ổ phục kích của chúng...

Cũng như nhiều địa phương khác trên chiến trường miền Đông nửa cuối năm 1948, cuộc kháng chiến của quân và dân ta ở nam và đông nam thành phố gặp nhiều khó khăn. Cơ sở cách mạng và lực lượng kháng chiến của ta ở đây chịu nhiều tổn thất trước sự hoạt động đánh phá của các đơn vị thuộc "Bình Xuyên ly khai".

Quân và dân nam và đông nam thành phố Sài Gòn đã chống trả quyết liệt các thủ đoạn của kẻ thù. Quần chúng nhân dân vẫn một lòng theo kháng chiến, nuôi giấu cán bộ cách mạng, bí mật tiếp tế cho công an, du kích ấp, xã, phối hợp với lực lượng công an và các ban công tác, các đội biệt động, đẩy mạnh các hoạt động diệt tề, trừ gian, trừng trị đích đáng những tên có nhiều nợ máu. Sau khi Bảy Viễn chạy về hàng Pháp và các đơn vị võ trang của ta tổ chức lại lực lượng, nâng cao chất lượng chính trị, căn cứ rừng Sác trở nên ổn định hơn. Từ đây các đơn vị lực lượng võ trang của ta thường xuyên tổ chức các phân đội nhỏ luồn sâu vào vùng chiếm đóng của địch hoạt động.

Trong khi đó, sự lớn mạnh của lực lượng võ trang Phân khu 2 Duyên Hải cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các địa phương đẩy mạnh hoạt động du kích, phát triển cơ sở cách mạng, củng cố chính quyền đoàn thể kháng chiến...

Bước sang năm 1949, cuộc chiến đấu trên chiến trường miền Đông trở nên quyết liệt. Địch tiếp tục đẩy mạnh chương trình "bình định" toàn diện Nam Bộ và tập trung mọi cố gắng nhằm thực hiện chương trình này. Về mặt quân sự chúng tăng cường thực hiện "chiến thuật tháp canh Đơ La - tua", tổ chức bảo vệ các trục lộ giao thông, các khu vực đông dân cư.

Tại nam và đông nam thành phố Sài Gòn, suốt dọc các đường Trần Xuân Soạn, Phạm Thế Hiển (khu vực dọc dài theo bờ nam kinh Tẻ, kinh Đôi), trên quãng dài 6 km phía bắc ven liên tỉnh lộ 5, 15 và hương lộ 34 (xuyên dọc các huyện Nhà Bè, Cần Giuộc). ở những xóm ấp mà phần nhiều là đất đai hoang hóa, kinh rạch chằng chịt nối thông... 4 tiểu đoàn quân sự địch thành lập một mạng lưới tháp canh, chòi gác, bót đồn xen kẽ. Các ấp 2, Tắt Rỗi... (xã Tân Thuận), ấp Bến Đò. Khánh Bình xóm ông Đội... (xã Tân Quy), xóm Chuối, rạch Ngang (xã Bình Đăng), thôn Thái Phúc, Phước Thới... (xã Chánh Hưng), vùng tiếp giáp 2 xã Bình Đăng và Phong Đước... thường xuyên có các tiểu đội thuộc lực lượng 4 tiểu đoàn "Bình Xuyên ly khai" chiếm đóng. Cùng với việc thành lập hệ thống tháp canh Đờ La - tua, các đơn vị 'Bình Xuyên ly khai" còn mở hàng trăm cuộc càn quét, ruồng bố trên khu vực rộng lớn từ bờ kinh Tẻ- kinh Đôi (phía bắc) trải dài xuống phía nam; từ ngã ba sông Nhà Bè Sài Gòn (phía đông bắc) tới rạch Cần Giuộc, nơi nối thông với rạch Chợ Đệm. Trong khi đó, 2 tiểu đoàn "xung kích". .. “cơ động ứng chiến" liên tục mở các cuộc ruồng ráp nhằm triệt phá cơ sở cách mạng, tiêu diệt lực lượng kháng chiến của ta.
Logged

Ta đã trở lại lợi hại gấp trăm lần.
colorwind
Thành viên
*
Bài viết: 141


« Trả lời #55 vào lúc: 18 Tháng Năm, 2008, 12:34:24 pm »

Thực hiện nghị quyết hội nghị quân sự Nam Bộ ngày 3 tháng 1 năm 1949 "Ra sức phát triển phong trào dân quân, ra sức phát triển du kích chiến tranh ở vùng tạm chiếm, nhất là Sài Gòn, Chợ Lớn", trong vòng 3 tháng đầu năm 1949, quân và dân nam - đông nam thành phố đã mở đợt hoạt động phối hợp nhằm "củng cố cơ sở, diệt ác phá kềm, chống phá biệt kích"... Nhiều nơi. những tên tay sai và ác ôn khét tiếng phải đền nợ máu. Một số tên tay sai khét tiếng đã nằm trong danh sách phải trừng trị. Tại Hố Bò nơi tiếp giáp với Bình Đăng - Phong Đước) du kích sử dụng lựu đạn gài gây thương vong cho 2 tiểu đội biệt kích của tiểu đoàn 2. Ở Tân Thuận, lực lượng công an xung phong do Hai Hữu phụ trách hạ sát tên Hồ. Công an và ban công tác hộ bắn chết tên Bầu Lung... Những hoạt động trên đây đã gây hoang mang, lo sợ cho "Bình Xuyên ly khai". Bọn chỉ huy Tư Hiểu, Thái Hoàng Minh tăng cường thị sát tình hình các tiểu đoàn, các đại đội đặc biệt chú trọng tới những đơn vị gặp nhiều khó khăn, bị thiệt hại nặng. Một mặt chúng tiến hành các biện pháp nhằm thanh lọc nội bộ, đề phòng lực lượng ta cài vào hàng ngũ của chúng. Mặt khác chúng điên cuồng mở hàng loạt những cuộc càn quét đánh phá ác liệt các địa bàn thường xảy ra "mất an ninh". Hàng chục tên phản bội kháng chiến vừa ra nhập "Bình Xuyên ly khai" bị chúng công khai thí bỏ tại những địa điểm đông người qua lại nhằm đe nẹt các biểu hiện giao động trong quân ngũ, trấn áp tinh thần dân chúng. Tại cầu Rạch Đỉa, Phan Văn Trường nguyên trưởng ban trừ gian số 9 vừa bỏ rừng Sác trở về theo Bảy Viễn bị chúng bắn giữa ban ngày. Trong khi đó, một lực lượng thuộc 4 tiểu đoàn quân sự phối hợp với lực lượng của 2 tiểu đoàn cơ động ứng chiến tiến hành càn quét khắp nơi.

Từ giữa năm 1949, trên địa bàn do tiểu đoàn 2 "Bình Xuyên ly khai" đảm trách, cuộc đấu tranh giữa ta và địch diễn ra rất quyết liệt. Địch đẩy mạnh càn quét, vây ráp hòng đánh bật lực lượng kháng chiến khỏi địa bàn. Hàng ngàn đồng bào ta bị tra tấn, thẩm vấn, tù đày.

Hàng trăm cán bộ chiến sĩ sa vào tay địch. Trong một đợt càn quét, lực lượng thuộc chi khu quân sự huyện Nhà Bè bắt được Lâm Văn Bền, Bí thư liên huyện ủy Nhà Bè - Cần Giuộc, khi đồng chí từ xã Hiệp Phước đến Tân Thuận công tác. Lập tức, những tên cầm đầu trung đoàn "Bình Xuyên ly khai" yêu cầu chi khu quân sự Nhà Bè giao đồng chí Bền lại cho chúng. Một số tay súng trực tiếp đến tận nơi tiếp nhận và tra tấn dã man đồng chí.

Vào những tháng cuối năm 1950, Bộ chỉ huy quân đội Pháp ở Nam Bộ quyết định đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động quân sự tạo điều kiện thuận lợi cho quân nguỵ đảm lãnh nhiệm vụ bảo vệ an ninh trên vùng đất đã được "bình định", điều các đơn vị chiến đấu của quân đội Pháp ra chiến trường miền Bắc.

Trên chiến trường nam và đông nam Sài Gòn, địch lập thêm nhiều đồn bót đã bị ta nhổ bỏ, tung lực lượng càn quét nhằm đánh bật lực lượng ta khỏi nhân dân, kiểm soát chặt hơn các nẻo đường giao thông thuỷ bộ. Từ các căn cứ và đồn bót, lực lượng "Bình Xuyên ly khai" bung ra, thẳng tay bắn giết và bắt bớ những ai chúng nghi ngờ là người cách mạng. Cho tới thời gian cuối năm 1950, đầu 1951, chúng tập trung nỗ lực nhằm giải toả quốc lộ 15 từ Sài Gòn đi Vũng Tàu, chiếm lại liên tỉnh lộ 19 chạy qua khu vực lòng chảo Nhơn Trạch, đặc biệt là đoạn từ Phước Thọ xuyên qua Phước An đến Phước Lý (huyện Long Thành). Khai thông và đảm bảo an toàn trên tuyến lộ 15 là điều không dễ.

Suốt quãng đường dài 35 km từ cầu Đồng Hươu (xã Long An huyện Long Thành) đến Long Hương phước Lễ), các cầu cống đã bị phá hủy, mặt đường bị cuốc tróc nhiều đoạn, nhân dân đào hố trồng tre ngăn xe địch. Ruộng đồng, thôn xóm ven đường đã bị hoang hoá, phá bỏ từ lâu nên cây cối um tùm, rậm rạp. Với lực lượng lớn gồm bộ binh, thiết giáp, pháo binh, biệt kích, tàu chiến, không quân, trinh sát, công binh, trong đó có 3 tiểu đoàn "Bình Xuyên ly khai", địch tiến hành càn quét đánh phá ác liệt khu vực hai bên đường và hai bên bờ sông Thị Vải. Hàng chục xóm ấp của xã Thái Thiện, Nam Bà Ký, Tuy Long, Phú Mỹ bị tàn phá nặng nề. Hàng trăm đồng bào bị bắn giết, bắt giữ. Hàng trăm ghe thuyền, trâu bò bị chúng cướp đi. Lực lượng "Bình Xuyên ly khai" do Thái Hoàng Minh chỉ huy ngày càng hung hãn. Chúng đánh sâu vào cả chiến khu Hắc Dịch của ta, thẳng tay bắn giết và cướp phá.

Bộ đội chủ lực của tỉnh, khu, bộ đội địa phương huyện Long Thành, Vũng Tàu và các đơn vị du kích của các xã ven trục lộ liên tục tác chiến phục kích, tập kích vào đội hình hành quân giải toả của địch, gây cho chúng nhiều tổn thất. Có những trận, ta tiêu diệt gọn cả trung đội khi lực lượng này đang bí mật phục kích "đón lõng" ta. "Bình Xuyên ly khai" bị thiệt hại về sinh lực và vũ khí. Trước tình hình đó, Thái Hoàng Minh hoang mang, y tự bắn vào cánh tay để lui về tuyến sau điều trị. Bảy Viễn đẩy Tư Hiểu ra thay Thái Hoàng Minh, chỉ huy 3 tiểu đoàn này. Tháng 6 năm 1951 , toàn tuyến lộ 15 được khai thông. Tiểu đoàn 1 “Bình Xuyên ly khai" do con trai Bảy Viễn chỉ huy được tăng cường thêm hai đại đội hoả lực, trở thành lực lượng nòng cốt của chi khu quân sự Phú Mỹ. Đây là chi khu đảm lãnh nhiệm vụ bảo vệ toàn bộ quãng đường từ nam cầu Sông Nước Lớn đến nam xã Phước Hòa. Sở chỉ huy chi khu đặt tại ấp Mỹ Xuân trung tâm xã Phú Mỹ (huyện Vũng Tàu tỉnh Bà Chợ). Toàn bộ chi khu được phân thành 4 phân khu với hệ thống đồn bót, chòi canh do tiểu đoàn 1 "Bình Xuyên ly khai" trấn đóng. 
Logged

Ta đã trở lại lợi hại gấp trăm lần.
colorwind
Thành viên
*
Bài viết: 141


« Trả lời #56 vào lúc: 18 Tháng Năm, 2008, 01:00:37 pm »

Từ đây, giữa chiến khu rừng Sác và chiến khu Hắc Dịch của ta bị địch chia cắt. Hơn thế, suốt dọc sườn tây chiến khu Hắc Dịch luôn luôn bị lực lượng "Bình Xuyên ly khai" uy hiếp. Tính từ tháng 6 năm 1951 đến tháng 7 năm 1954, lực lượng do Lê Paul chỉ huy gồm hơn 2000 sĩ quan, hạ sĩ quan, binh lính hên tục mở các cuộc hành quân càn quét, gom dân, cưỡng bức hàng vạn đồng bào từ vùng ven chiến khu về tập xung xung quanh bót đồn dọc quốc lộ 15. Chúng tổ chức hàng trăm trận phục kích trên các nẻo đường từ rừng Giồng xuống rừng Sác, gây nên nhiều tổn thất cho lực lượng kháng chiến.

Nhận rõ âm mưu, thủ đoạn mới của kẻ thù, cuối năm 1948, Khu ủy Khu 7 chủ trương tổ chức đưa người của ta về Sài Gòn, tìm cách lọt vào hoạt động trong hàng ngũ "Bình Xuyên ly khai" của Bảy Viễn. Đối với số đông những người bị địch mua chuộc, lợi dụng... ta chủ trương vận động, giác ngộ họ, giúp họ từng bước rời bỏ con đường lầm lỗi. Đối với những tên có nhiều nợ máu, đặc biệt những tên đầu sỏ đã và đang ra sức chống phá kháng chiến, thì kiên quyết tìm cách tiếp cận, trừng trị.

Thực hiện quyết định trên, ban chỉ huy Trung đoàn 301 lựa 5 cán bộ chiến sĩ của trung đoàn, tiến hành bồi dưỡng giao nhiệm vụ trở lại Sài Gòn hoạt động. Tại chiến khu rừng Sác ban chỉ huy Phân khu 2 Duyên Hải đề ra kế hoạch thuyết phục Bảy Viễn về với kháng chiến. Đây là vấn đề rất khó khăn, phức tạp. Cần phải xây dựng một kế hoạch tương đối hoàn chỉnh để đưa người về Sài Gòn, thâm nhập hàng ngũ một, cách trót lọt, đồng thời người đưa giao nhiệm vụ phải trung thành với cách mạng, mưu trí, dũng cảm, từng có quan hệ mật thiết với Bảy Viễn...

Đảng ủy Phân khu 2 Duyên Hải nhận thấy Nguyễn Văn Huỳnh (Tư Huỳnh) hội đủ các điều kiện đó.

Do tính chất đặc biệt của nhiệm vụ, Đảng ủy và bộ chỉ huy phân công Nguyễn Đức Huy (Bí thư phân khu ủy, kiêm chính trị viên bộ chỉ huy Phân khu 2) và Dương Văn Hà (phân khu trưởng) trực tiếp thử thách giao việc, theo dõi kiểm tra, động viên Nguyễn Văn Huỳnh.

Sau khi bàn bạc và biểu quyết nhất trí phương án hành động Đảng ủy và bộ chỉ huy Phân khu, cử ra ban chuyên trách chỉ đạo nhiệm vụ do Nguyễn Đức Huy phụ trách. Việc đưa Nguyễn Văn Huỳnh trở về hoạt động trong hàng ngũ “Bình Xuyên ly khai" được thông báo cho các cấp ủy. Các chi bộ và toàn thể đảng viên trong phân khu. Đồng thời nhằm đánh lạc hướng sự theo dõi của kê thù, bộ chỉ huy phân khu đã chỉ thị cho các đơn vị triển khai đợt tuyên truyền công khai trong nhân dân, ra thông báo cho các chính quyền địa phương trong phân khu về "hành động phản bội kháng chiến của Nguyễn Tư Huỳnh".

Tư Huỳnh trở vào Sài Gòn xuôi lọt và tiếp xúc được với Bảy Viễn. Bảy Viễn đã giành cho Tư Huỳnh sự thù tiếp thân mật.

Thay cho việc thực hiện nhiệm vụ mà Phân khu ủy và bộ chỉ huy Phân khu trao phó, Tư Huỳnh bị Bảy Viễn lôi kéo, quay trở lại tự nguyện phục tùng Bảy Viễn. Tiếp đó phòng nhì Pháp hình thành phương án "tương kế tựu kế' đưa Tư Huỳnh trở về rừng Sác vận động, lôi kéo cán bộ chiến sĩ của ta bỏ hàng ngũ kháng chiến trở về với "chánh nghĩa quốc gia". Đối tượng chủ yếu nhằm vào những cán bộ quân sự vốn trước đây là bạn bè thân gần và đàn em của Bảy Viễn. Tư Huỳnh được giao nhiệm vụ cụ thể, thống nhất những quy định về ký tín hiệu liên lạc, đường đi, vùng tập kết, thời hạn đón nhận số bỏ hàng ngũ kháng chiến trở về thành.

Tại rừng Sác, ban chuyên trách chỉ đạo nhiệm vụ đặc biệt thuộc ban chỉ huy Phân khu 2 Duyên Hải từng ngày chờ tin tức. Quá thời hạn quy ước cho việc hoàn thành nhiệm vụ, nhưng ban chỉ đạo vẫn chưa nhận được kết quả và cả tin tức về Tư Huỳnh. Trước tình hình đó, Phân khu ủy và bộ chỉ huy Phân khu quyết định bí mật lệnh cho Tư Huỳnh trở về chiến khu rừng Sác.

Một ngày đầu năm 1949, từ tảng sáng, Tư Huỳnh cùng với vợ và đứa con gái nhỏ rời Sài Gòn trở lại rừng Sác. Hành trình của Tư Huỳnh được phòng nhì Pháp bố trí, đảm bảo hết sức thận trọng và chu đáo. Một chiếc xe hơi của địch được cải dạng thành xe lô - ca - xông chở vợ chồng Tư Huỳnh xuống xã Tân Thuận. Tới tháp canh cầu Trệt (Cống Lở) tài xế - mật thám Pháp - cho xe dừng lại. Vợ chồng Tư Huỳnh đi một mạch tới xóm Tắt Rỗi thuộc ấp 2 xã Tân Thuận). Tại đây, chiếc ghe ba chèo đã chờ sẵn mép nước, nhanh chóng đưa họ vượt sông Nhà Bè, đi ngang Đèn Đỏ, qua Rạch Lá (thuộc xã Phú Hữu huyện Long Thành. Về lại ngôi nhà cũ cạnh bến Ghe ở nam ấp Bàu Bông (xã Phước An, huyện Long Thành), Tư Huỳnh sau khi soát xét lại toàn bộ vật dụng trong nhà đã khiếu nại lên bộ chỉ huy phân khu, đề nghị đền bù số tài sản của mình bị mất trong thời gian đi vắng. Khiếu nại được giải quyết.

Tư Huỳnh báo cáo tình hình với ban chỉ đạo nhiệm vụ đặc biệt với nội dung đã được phòng nhì Pháp thông qua. Ghi nhận những lý do không hoàn thành nhiệm vụ mà Tư Huỳnh trình bày, bộ chỉ huy Phân khu động viên Tư Huỳnh tiếp tục công tác ở chiến khu rừng Sác. Bộ chỉ huy Phân khu lệnh cho ban tình báo cử người bí mật giám sát theo dõi các hoạt động của Tư Huỳnh.

Tranh thủ thời gian được cấp trên cho nghỉ ngơi sau thời gian làm nhiệm vụ đặc biệt, Tư Huỳnh đã tiếp xúc với những bạn bè bấy giờ đang giữ cương vị chỉ huy các cấp từ trung đội đến trung đoàn hiện đứng chân trên địa bàn rừng Sác. Một đêm, trong nhà riêng của Bảy Môn, Tư Huỳnh bí mật gặp một số người. Phác lại toàn bộ những điều tai nghe mắt thấy về thực lực quân sự, kinh tế của "Bình Xuyên ly khai", Tư Huỳnh nhận thấy phản ứng của số người này thuận lợi. Vì thế Tư Huỳnh không ngần ngại nói rõ sự thay đổi quan điểm, lập trường của mình và kể lại thái độ của Bảy Viễn cùng lời nhắn nhủ của y đối với họ. Số người này tỏ ý chấp thuận.

Liền đó Tư Huỳnh phổ biến cho họ kế hoạch đào ngũ về Sài Gòn, gồm thời gian, cung đường, phương tiện, mật khẩu liên lạc với đồn bót, địa điểm gặp người của Bảy Viễn. Cuộc họp kín bị chiến sĩ trinh sát của cơ quan tình báo thuộc bộ chỉ huy Phân khu theo dõi. Toàn bộ nội dung lập tức được báo bộ chỉ huy Phân khu, một phương án nhằm đập tan kế hoạch của Tư Huỳnh được hình thành. Đồng thời bộ chỉ huy lệnh cấm tất cả những cán bộ quân sự nếu không có nhiệm vụ không được ra khu vực sông (kể cả dọc triền sông) và khu vực tắt ông Mai, tắt ông Thuộc (địa bàn tiếp giáp giữa hai xã Phước Khánh và Phú Hữu huyện Long Thành tỉnh Biên Hoà).

[18] Trong đó có Lê Văn Chàng (Năm Chàng) nguyên chi đội trưởng chi đội 2, đi học văn hoá và trở thành đảng viên, cán bộ của Trung đoàn 301.
« Sửa lần cuối: 18 Tháng Năm, 2008, 01:03:19 pm gửi bởi colorwind » Logged

Ta đã trở lại lợi hại gấp trăm lần.
colorwind
Thành viên
*
Bài viết: 141


« Trả lời #57 vào lúc: 18 Tháng Năm, 2008, 01:02:44 pm »

Sau khi lôi kéo được một số người, Tư Huỳnh tìm cách móc nối với một số cán bộ đại đội và trung đội như Huỳnh Văn Nên (Ba Bay). Nguyễn Văn Hoe (Tám Hoe), Nguyễn Văn Sỏi (Tám Sỏi), Lê Văn Cà (Sáu Cà)...Cuộc họp kín thứ hai được tổ chức tại gian nhà người vợ bé của Ba Hà nằm trên bờ rạch Cái Đôi, mạn nam xã Phước Khánh. Kết quả đúng như Tư Huỳnh trù tính, Ba Bay và Ba Hưng đứng ra lo tổ chức, chuẩn bị phương tiện trốn về thành.

Để tránh chạm trán với các đội tuần tra, trạm gác, chốt chặt ven rừng Sác, từ ấp Bàu Bông, Vũng Gấm thuộc xã Phước An tới Phước Khánh đi bằng xuồng ghe, qua các rạch, các tắt. Ra tới sông Đồng Tranh, bỏ ngã ba Đồng Tranh và Lòng Tàu, mặc dù đó là đoạn đường tới Nhà Bè ngắn nhất. Ngược lại, xuôi Đồng Tranh rẽ vào rạch Muỗi, vượt ngã tư Rạch Vọp, Rạch Bàng, theo tắt Thợ Hồ lên Phước Khánh, địa bàn tập kết lực lượng để chuẩn bị vượt sang vùng địch là ngã ba Rạch Mương, con rạch đổ nước vào sông Lòng Tàu. Đây là con rạch có chiều dài độ 5 km, bắt từ trung lưu rạch ông Kèo (phía đông bắc) xuyên qua Sở Dừa (đồn điền cũ của một tư sản tên là Ban Tiêu phía đông bấc xã Phước Khánh) tới nhập sông Lòng Tàu hình thành ngã ba sông. Đây là nơi giao lưu mua bán giữa vùng ta và địch. Dân cư tụ hội, nhịp sống tấp nập, có nhà thờ Tin Lành bên bờ sông. Một địa điểm thuận lợi để vượt vào vùng địch. Tiếp theo sẽ hành động theo hai phương án. Hoặc từ ngã ba Rạch Mương, theo dòng về hướng tây tới ngã ba Lấp Vò, tiếp điểm sông Nhà Bè và Lòng Tàu, cập đất liền Nhà Bè, tiếp xúc với địch ở đồn bót dọc liên tỉnh lộ 15 để bắt liên lạc với Bảy Viễn; hoặc: nếu gặp tình huống bất trắc, bị phát hiện, bị gió thổi ngược chiều, sóng to không tiến được về hướng tây, thì nhanh chóng vượt sông Lòng Tàu từ bờ bắc sang bờ nam, đổ bộ lên địa bàn do quân Pháp kiểm soát thuộc xã Bình Khánh vùng rừng Sác huyện Nhà Bè.

Mặc dù ta đã có kế hoạch chặn bắt, nhưng trong quá trình triển khai thực hiện, do chủ quan và sơ suất, ta đã để một số người cùng vợ con Tư Huỳnh đi thoát. Riêng Tư Huỳnh và người chèo ghe bị đuổi ráo riết nên sa lưới. Chiều hôm đó, nhóm Ba Bay đang chuẩn bị xuất phát thì nhận được tin cấp báo việc Tư Huỳnh bị bắt. Số người còn lại bị truy đuổi. Nhận định việc đã lộ, mọi ngả đường đã bị chặn, họ quyết định nán lại, chờ đêm xuống.   

Dựa trên tin báo của đồng bào, một phương án vây bất được hình thành. Phối hợp với lực lượng công an, dân quân du kích xã Phước Khánh, các chiến sĩ trung đội số 1 , đại đội đặc biệt của phân khu nhanh chóng bao vây, bắt gọn toán bỏ trốn.

Tất cả được đưa về bộ chỉ huy Phân khu 2 Duyên Hải. Nhằm giáo dục cán bộ chiến sĩ, nâng cao cảnh giác góp phần làm thất bại âm mưu thủ đoạn mua chuộc của kẻ thù. Bộ Tư lệnh Khu 7 chỉ đạo Phân khu ủy và bộ chỉ huy Phân khu 2 Duyên Hải mở phiên toà đặc biệt xét xử vụ án do Tư Huỳnh chủ mưu và đồng phạm.

Đầu tháng 3 năm 1949, tại hội trường của Trung đoàn 309 nằm trên bãi sông cạnh cầu Vũng Gấm, ấp Vũng Gấm xã Phước An, phiên toà chính thức khai mạc. Đại diện chính quyền, đoàn thể cứu quốc tỉnh Biên Hoà, tỉnh Bà Rịa, huyện Long Thành, xã Phước An và các trung đoàn 306, 309, 310 cùng đông đảo nhân dân vùng giải phóng được mời đến dự. Ngoài ra, các cán bộ quân chính từ cấp đại đội trở lên của lực lượng võ trang thuộc Phân khu 2 Duyên Hải cũng có mặt tại phiên toà.

Ngồi ghế chủ toạ là Nguyễn Đức Huy, Dương Văn Hà ngồi ghế công tố viên, Đặng Văn Thìn ngồi ghế hội thẩm. Luật sư Đỗ Tân ngồi ghế biện hộ, Lê Văn Phẩm là chánh thư ký .
 
Các bị cáo gồm: Nguyễn Văn Huỳnh, Ba Bay, Tám Hoe. Tám Sỏi, Ba Hà. Sáu Cà và 4 người chèo ghe (nguyên là chiến sĩ). .
Phiên toà được tiến hành nghiêm túc, đúng thể thức.

Trước vành móng ngựa, Tư Huỳnh, Ba Bay thú nhận tội, lỗi của mình. . Căn cứ vào tang chứng và lời khai bị cáo, xét mức độ phạm tội và hậu quả do hành động phạm tội gây ra, toà 1 tuyên án: Nguyễn Văn Huỳnh: tử hình; Huỳnh Văn Nên (Ba Bay): 2 năm tù giam; Nguyễn Văn Hoe, Nguyễn Văn Sỏi, Lê Văn Cà, Trần Văn Hà mỗi người 2 năm tù hưởng án treo và 2 năm thử thách; 4 can phạm chèo ghe: miễn tố, 1 cho giải ngũ ...

Tiếp đó toà quy định: Các tội phạm được kháng án lên 1 toà án quân sự cấp trên, thời gian 20 ngày kể từ ngày tuyên án. Hết thời gian quy định kháng án, bản án phải được thi hành. Đoàn Văn Ngọc đại đội trưởng đại đội vệ binh trực thuộc bộ chỉ huy Phân khu 2 Duyên Hải có trách nhiệm tổ chức thi hành án.

Một ngày cuối tháng 3 năm 1949, bản án tử hình đối với Nguyễn Văn Huỳnh được tiến hành tại ngã ba Hàng Điều, một địa điểm nằm ở km 16 trên liên tỉnh lộ 19 thuộc địa phận ấp Bàu Bông.

Toàn bộ diễn biến của "vụ án Tư Huỳnh" chứng tỏ công tác địch nguỵ vận tiến hành trong hàng ngũ "Bình Xuyên ly khai" buổi ấy rất khó khăn, phức tạp và nguy hiểm. Để xảy ra vụ án Tư Huỳnh là điều đáng tiếc. Tuy nhiên, việc lập toà án quân sự đặc biệt xét xử công khai Tư Huỳnh và đồng phạm có tác dụng tốt. Nó kịp thời cảnh tỉnh những ai còn lẫn lộn, mơ hồ về lập trường giai cấp còn mơ hồ giữa địch và ta, ảo tưởng về bản chất của Bảy Viễn và "Bình Xuyên ly khai", qua đó, giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ và đông đảo quần chúng nhân dân, nâng cao tinh thần cảnh giác, làm thất bại âm mưu hoạt động phá hoại hàng ngũ kháng chiến của kẻ thù.
Logged

Ta đã trở lại lợi hại gấp trăm lần.
colorwind
Thành viên
*
Bài viết: 141


« Trả lời #58 vào lúc: 18 Tháng Năm, 2008, 01:12:34 pm »

ĐOẠN KẾT

SÔNG VỀ BIỂN LỚN

Cuộc thanh trừng ở rừng Sác làm lạnh mạnh hoá ban chỉ huy các chi đội 9, 21, 25 là những đơn vị vốn trước đó bị bọn phòng nhì Pháp và tay sai phản động lũng đoạn phá hoại; đồng thời qua đó, làm lành dần vết thương từng rỉ máu trong lòng mỗi cán bộ, chiến sĩ ở khắp bảy chi đội 2, 3, 4, 7, 9, 21, 25.

Từ giữa đến cuối năm 1948, chiến trường miền Đông Nam Bộ đang trong quá trình điều chỉnh lớn về sắp xếp, bố trí lực lượng, xây dựng các trung đoàn bộ đội địa phương theo yêu cầu chung của cuộc kháng chiến. Bộ đội Bình Xuyên chia toả ra, sát nhập lại hoặc bổ sung vào các đơn vị bạn để xây dựng các trung đoàn 300, 301, 302 (sau là 309 rồi 397) 304, 306, 307 (sau là 397), 308, 310, 311, 312 lực lượng biệt động Sài Gòn; rồi thành đội bộ Sài Gòn, tỉnh đội bộ các tỉnh Bà Rịa, Biên Hoà, Thủ Dầu Một, Tây Ninh; huyện đội bộ các huyện Nhà Bè, Cần Giuộc, Cần Đước, Long Thành, Vũng Tàu; các cơ quan thuộc Khu bộ Khu 7 như Phòng Tham mưu, Phòng Chính trị, Phòng Dân quân, Phòng Cung cấp. Dương Văn Hà về giữ chức Phó Tư lệnh Khu 7. Nhiều cán bộ khác của bộ đội Bình Xuyên tuỳ theo năng lực, phẩm chất và theo yêu cầu chung, được giao trọng trách ở nhiều đơn vị võ trang và cơ quan kháng chiến địa phương.

Buổi chia tay kẻ ở người đi bịn rịn và gấp gáp. Hành trang của mỗi người trĩu nặng kỷ niệm một đoạn đường chiến đấu buồn vui lẫn lộn, có vấp váp trả giá có thắng lợi quang vinh.

Giờ đây bộ đội Bình Xuyên đã hoà vào mạng lưới rộng lớn lực lượng võ trang Nam Bộ, vào điệp trùng đội ngũ Quân đội nhân dân Việt Nam - một đội quân cách mạng từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, sẵn sàng hy sinh vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc nhân dân. Trên thực tế, không còn tổ chức đơn vị bộ đội Bình Xuyên riêng rẽ.

Ngày tháng đi nhanh. Thời gian và cuộc chiến đấu đầy gian khổ phức tạp lưu khắc vào cuộc đời mỗi người những khúc điệu không đồng thanh, những mảng màu không đồng sắc Nhưng dẫu vậy, kỷ niệm của một thời chiến đấu và công tác từng chia ngọt, sẻ bùi trong đội hình bộ đội Bình Xuyên vẫn mãi mãi là hằng số trong nỗi nhớ thẳm sâu của mỗi cán bộ chiến sĩ ra đi từ bộ đội Bình Xuyên ngày ấy.
Đấy là niềm tự hào, niềm tin tự hào xen cả nỗi cay đắng, ngậm ngùi. Vì đã có một thời, danh xưng lực lượng Bình Xuyên từng bị hiểu là lực lượng Bảy Viễn; từng bị sai lệch trong nhận cảm của không ít người - cả trước đây và cho đến tận gần đây!

Trên khắp chiến trường Nam Bộ, trong suốt những năm còn lại của cuộc trường kỳ kháng Pháp, rồi kế đến 21 năm chống Mỹ, hầu hết cán bộ, chiến sĩ một thời mang danh Bình Xuyên vẫn một lòng trung trinh với Đảng, chiến đấu kiên cường. Không thể kể hết hàng ngàn trong số họ, từ trong lò lửa cuộc chiến tranh giải phóng ba mươi năm, đã trở thành những cán bộ trung cấp, cao cấp, những vị tướng, những người nắm giữ nhiều vị trí quan trọng trong khắp các ngành kinh tế, chính trị, văn hoá, quân sự của đất nước.

Ngay cả những người theo Bảy Viễn về đầu hàng giặc, hoặc vì nhiều lẽ bị kẹt lại với y, vẫn nặng nghĩa đồng bào đồng chí. Đó là Bảy Môn cùng nhiều cán bộ chiến sĩ khác. Họ đã trở lại hàng ngũ kháng chiến trong những năm đầu đánh Mỹ, và trở thành một trong những đơn vị võ trang cách mạng được xây dựng đầu tiên thời kỳ sau hiệp định Giơnevơ tại chiến trường miền Đông Nam Bộ, một trong những lực lượng làm nên chiến thắng Trại Be, Dầu Tiếng. Tua Hai, ...

Họ như những kinh rạch chảy dẫu quanh co, đứt nối trong lưu vực cuộc chiến tranh ở Nam Bộ, cuối cùng vẫn hội nhập về dòng sông cách mạng, về biển lớn nhân dân !


~HẾT~
Logged

Ta đã trở lại lợi hại gấp trăm lần.
Trang: « 1 2 3 4 5 6   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM