Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 18 Tháng Tư, 2024, 02:06:32 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Hành trình qua cánh đồng chết  (Đọc 38683 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
gicungduoc
Thành viên
*
Bài viết: 95


« Trả lời #40 vào lúc: 13 Tháng Mười Một, 2008, 01:28:16 pm »

Hành trình qua cánh đồng chết
________________________________________
CHƯƠNG 8
Chanrithy Him
Hành Trình Qua Cánh Đồng Chết
Dịch giả: Mịch La
CHƯƠNG 8
KHI CÚ KÊU
Tôi khoái trồng lúa. Khi người lãnh đạo của bọn chhlop là Srouch ra lệnh cho tôi cùng làm việc với Mak và những phụ nữ khác gần Daakpo, tôi hết sức nhẹ nhõm. Mỗi sáng tôi dậy sớm cùng Mak đi ra đồng lúa trong khi Avy ở nhà với Map. Tôi đã học để biết chấp nhận những gì không thể thay đổi được. Sống với khẩu phần tí xíu ở làng – ít hơn phần gạo ở trại lao động – vẫn tốt hơn ở nơi kia. Tôi đã đổi thực phẩm và sự hung bạo lấy một chút hơi ấm gia đình.
Mỗi sáng, cùng với Mak, tôi tiến tới những cánh đồng lúa ngập đầy nước đen kịt để làm việc. Không có ngày nghỉ, ngày hè, không có giờ giải lao, trừ khi chúng tôi bị bắt buộc ngưng làm việc để đi dự mít tinh. Tôi nhẫn nhục tuân theo, cả khi thân thể bị suy nhược. Ý tưởng về thực phẩm thúc đẩy tôi, và tôi đặt hết hy vọng vào hứa hẹn được núp dưới bóng mát và buổi ăn trưa đạm bạc với gạo trộn lá. Ở trong đồng, tôi cũng săn bắt cua đồng nhỏ, rắn nhỏ, ốc sên…bất cứ con gì có thể ăn cũng làm tôi đuổi theo bắt cho kỳ được.
Như những phụ nữ lớn tuổi khác, tôi bước vào các thửa ruộng ngập bùn, tiến về phía các cây mạ xanh non, lá chòi lên khỏi nước như đám cỏ non. Bây giờ tôi đã biết làm những việc đồng áng thông thường, không giống như lần đầu tôi đi trồng lúa ở Year Piar. Tôi có thể làm giúp những công việc mà không cần được giải thích như rải mạ ra, cấy mạ theo bên cạnh Mak và những người phụ nữ khác cho đến khi xong. Rồi đến ruộng kế tiếp, phủ đầy nước bùn đen lẫn với phân bò. Tôi đi men theo con đường đất nhô cao giữa các hàng lúa. Trí óc tôi ở nơi khác, mơ màng đến thức ăn, nhưng chân tôi vẫn tự động mang tôi đến thửa ruộng bên cạnh. Bỗng chân tôi chìm xuống dưới lớp bùn và đạp lên một vật gì sắc nhọn. Tôi thấy đau nhói nơi bàn chân trái.
Tôi biết mình gay go rồi – bị một vết thương trong nước ruộng nhiễm vi trùng này, lại không có thuốc men gì cả. Trong một giây, tôi không muốn đặt bước chân xuống, để nhổ vết thương đang chảy máu đầm đìa ra. Cúi người xuống dưới bùn, tôi mò mẫm để tìm xem cái gì làm mình bị thương, và thấy một cành cây nằm sâu trong  bùn. Tôi muốn mang nó lên trên đất khô để người khác khỏi giẫm lên. Bây giờ tôi cố gắng bò ra khỏi ruộng lúa. Chùi lớp bùn đen quạch khỏi vết thương, tôi thấy cả một dòng máu đỏ đang trào ra. Với một vết thương đang nứt toác ra và chảy máu như vậy, tôi không dám bước lại xuống ruộng. Tôi biết vết thương này rất dễ bị nhiễm trùng. Nhưng là một kẻ chạy trốn bị bắt lại, tôi không có quyền lựa chọn. Để không ai chú ý, tôi phải tiếp tục cấy lúa. Mọi người đều đang làm việc. Tôi không thể liều bị trừng phạt thêm một lần nữa. Tôi không muốn bị bắt đi xa khỏi Mak. Tôi cũng không thể để mẹ xem thấy chân của mình. Tôi biết nếu thấy bà sẽ rất lo lắng. Tôi cố nén tư tưởng mình xuống và lội xuống ruộng trở lại.       
Vết thương nhiễm trùng rất nhanh. Càng ngày càng tệ hơn, vì tôi phải đi bộ từ rừng ra ruộng và về lại buổi chiều. Chân giẫm trng cát, đất, bùn. Lại ngâm chân trong  nước ruộng đầy phân để cấy suốt ngày. Việc nhiễm trùng bùng lên như một ngọn lửa. Ban đêm tôi không ngủ được. Vết thương đau nhức dữ dội. đau đến nỗi tôi phải la lớn lên. Nhiều lần tôi gọi Pa. Cho bớt cơn đau. Cho nước mắt ngưng chảy. Để ba làm người thấy thuốc của tôi. Hoặc chỉ để ba có mặt ở bên tôi. Trong trí tôi, ông quá gần, hầu như tôi với tay là nắm được. Tôi khao khát sức mạnh của ông.
Chẳng bao lâu cơn đau trở thành không chịu nổi, xóa bỏ mọi thứ khác. Tôi khóc lớn, van xin “Mak ơi, giúp con, giúp con với”. Bóng Mak tiến lại gần tôi. Bà nhẹ nhàng đưa tay cào cào quanh vết thương. Tay bà chạm nhè nhẹ đưa tôi vào giấc ngủ, nhưng rồi cơn đau lại đánh thức tôi dậy, như một con chim lớn xé rách chân tôi, quắp chặt móng vuốt của nó vào chân tôi. Cổ họng tôi đau xé, khô khốc vì tiếng khóc của chính mình. Tôi vật vã, đập đầu vào bức tường làm bằng tre và lá cọ. Trong một tuần, đêm nào tôi cũng kêu khóc. Tôi mệt rũ rượi, và Mak cũng bệnh theo vì quá mệt lại mất ngủ. Nhưng tôi không ngưng được. Tôi vẫn kêu gào đòi mẹ, xin bà cào quanh vết thương. Mak cố làm cho tôi nhiều lần, nhưng rồi bà quá mệt, bà đành phải đi ngủ, bỏ mặc tôi gào thét một mình.
Vết thương sắc nhọn đau nhói từ bên trong ra, lên cả chân tôi tới bẹn, lên cả tận đầu. Mak cũng không ngủ được. Bà bảo tôi nằm xa khỏi bà, Avy và Map. Thế là tôi nằm một mình giống như em Vin trước khi chết, bị đuổi nằm ở một góc nhỏ trong nhà. Bây giờ tôi mới biết hẳn lúc đó em phải thấy vô vọng đến thế nào. Bây giờ không có thuốc men, tôi hiểu rằng chính tôi cũng sẽ chết. Vết thương của tôi đã đóng mủ. Hằng đêm tôi nhỏm dậy ngắm nghía cái chân, gãi nhẹ xung quanh vết thương, cố xoa bóp nó rồi bật khóc. Tôi gọi Mak nhiều lần, nhưng bà vẫn không sang.
Vào buổi sáng cơn đau bớt đi khá lâu đủ cho phép tôi suy nghĩ và đi đến một quyết định. Nếu tôi muốn sống, tôi phải tìm ra slark khnarng, một loại lá chua, một loại cây leo giống cây thường xuân mọc hoang trong rừng. Đó là loại lá quý, thường được dùng để nấu ăn . Nhưng tôi có ý nghĩ riêng của mình. Khi nấu lên, lá chua này sản xuất ra một loại a xít mạnh trước đây Pa dùng để bôi lên ngón tay tôi khi bị xước. Nó làm tôi nhớ đến chất cồn Pa dùng để lau lên đầu gối bị trầy của tôi. Có lẽ chất nước chắt từ lá chua này cũng có tác dụng trong phép chữa bệnh của Pa như là chất sát trùng vậy. Vào lúc này, tôi không thể dựa vào Mak, cũng không thể nhờ tìm lá chua đó. Lá này mọc trong rừng, chứ không phải ở ngoài ruộng nơi bà phải làm việc. Mak chỉ còn đủ sức làm việc cho Khmer Đỏ và cố gắng kiếm ít thứ lá ăn được để phụ vào phần gạo ít ỏi của chúng tôi. Bà đã làm hết sức để giữ cho tim chúng tôi còn đập.
Tôi không thể bước đi được – vì bàn chân trái của tôi không thể chịu nổi bất cứ sức nặng nào đè lên – vì thế trong khi những người khác làm việc ngoài ruộng, tôi bèn bò đi bằng hai tay và đầu gối ra khỏi làng, bò tới rừng xoài đến một ngọn đồi nơi người ta chôn người chết. Tôi theo một con đường hẹp hằn dấu xe bò. Tôi bò qua hàng cây me và tre, lục lọi tìm lá chua, thứ lá của sự sống.   
Cuối cùng tôi cũng thấy. Những chiếc lá xanh lớn lan ra trên mặt đất, leo lên bám vào những bụi cây khác ở mặt phía bên kia của một hàng rào đầy gai. Tôi cố với nhưng không tới, những cành cây đầy gai nhọn đã che chở cho những chiếc lá chua đó. Tôi bò quanh bờ đất cho đến khi tìm thấy một lỗ nhỏ nơi hàng rào, nơi tôi có thể chui qua bên kia vào cánh đồng.
Mừng rỡ, tôi nắm lấy một thân lớn, tuốt tất cả lá chua đó vào tay. Dang hai tay, tôi nắm lấy những thân cây leo khác, tuốt hết lá, rồi trút vào trong túi ở chéo khăn. Tôi quên tất cả theo nhịp hái lá, trong một lúc quên cả cái chân đau nhức.
“Đồng chí, làm gì đó? Ăn trộm hả?” một giọng nói dữ tợn cất lên. Tôi quay lại, đứng trước mặt tôi là một người đàn ông cao gầy, mặc bộ quần áo đen, vai vác một chiếc rựa cong dài.
“Không, tôi không ăn trộm. Tôi chỉ đi nhặt lá slark khnarng thôi mà”. Tôi nói rụt rè, sợ hãi vì những lời buộc tội, vì sự xuất hiện đột ngột của anh ta.
Anh ta nắm cánh tay tôi và lôi tôi đi vòng quanh ruộng khoai như lôi một bao gạo. Tôi đau đến nỗi như có ai giựt cánh tay ra khỏi người. Tôi lập đi lập lại lời van xin “Xin đừng làm tôi đau!” nhưng anh ta không nói gì. Đi đến một cây lớn, anh ta buông rựa xuống và kéo cả hai tay tôi ra phía sau. Quấn một sợi dây xù xì quanh cánh tay trần của tôi, anh ta buộc lại thật chặt từ cổ tay đến cùi tay. Không thèm nghe lời van xin, anh ta giật chiếc khăn ra khỏi cổ tôi và ném xuống đất. Rồi anh ta ấn tôi quỳ xuống đất vào trói vào thân cây, theo tư thế của một tội phạm sắp bị chặt đầu. Hẳn anh ta phải thấy đám lá chua, giờ đang nằm tung toé trên mặt đất.
Bằng một giọng hờ hững lạnh lùng, anh ta công bố bản án “Tao sẽ giết mày lúc hoàng hôn”, anh ta đưa ra lời phán quyết từ phía sau thân cây.
Van nài anh ta, tôi cất cao giọng “Xin đừng giết tôi, tôi không ăn trộm, tôi chỉ hái lá slark khnarng để chữa cái chân bị sưng. Tôi nói thật với ông mà! Xin hãy tha cho tôi!”
“Đồng chí nói dối!” anh ta la to. “Tao không tin mày. Tao sẽ giết mày, không nói gì nữa!”
Tôi khóc “Nếu không tin tôi, ông chỉ cần nhìn vào vết thương nhiễm trùng của tôi đây này. Tôi không nói dối đâu. Tôi cần lá slark khnarng mà. Chân tôi sưng đau hàng đêm. Xin hãy cứu tôi. Đừng giết tôi…”
Tôi ước chi tôi có thể gập người xuống trước anh ta, cúi đầu xuống bàn chân anh ta, xin tha thứ. Nhưng quá muộn. Lời nói của tôi không đến anh ta nữa.
Tiếng anh ta từ xa, giọng đắc thắng, gáy lên như một con gà trống oai vệ “Tao sẽ chặt đầu mày lúc chạng vạng để người ta đi làm về thấy mày – họ sẽ biết tránh cái gương xấu của mày” Tiếng chân anh ta đạp trên lá khô, xa dần đi.
Logged
gicungduoc
Thành viên
*
Bài viết: 95


« Trả lời #41 vào lúc: 13 Tháng Mười Một, 2008, 01:30:59 pm »

Tôi nhìn mớ lá chua trên mặt đất. Tôi nghĩ  không biết sao những điều nhỏ nhặt như thế lại gây cho tôi nhiều khó khăn như vậy. Trước là việc tôi cùng mút cỏ ngọt với Cheng. Và giờ thì là chuyện này. Làm sao tôi bị buộc tội ăn trộm khi không có gì giấu trong khăn cả, ngoại trừ đám lá dại. Tôi đưa mắt ngắm cái lỗ hổng nơi hàng rào chỗ tôi chui vào chỉ một lúc trước đây. Bây giờ tôi ước chi giá có ai để ở đó nhiều gai hơn để tôi khỏi chui vào. Đúng ra tôi đừng nên chui vào mới phải. Thời gian trôi qua, tôi khóc dữ và lớn hơn, khóc vì sợ hãi và tủi nhục. Rồi tiếng khóc của tôi nhẹ dần. Số phận tôi đang chờ đợi tôi.
Bây giờ mặt trời đã xuống sau hàng câyh, ánh nắng chiếu xuyên cành lá thành một vũ điệu xoay chuyển liên hồi. Đột nhiên tiếng chim hót đánh thức tôi. Chắc chúng khóc cho mình. Tôi lắng nghe tiếng chim hót và chợt nhớ ra một câu cảnh báo của người Cambodia “Khi cú kêu, nó sẽ lấy đi mạng sống của ai đó”. Nghĩa là hồn người chết sẽ bay đi cùng với chim. Bây giờ tôi nghe tiếng chim kêu. Lát nữa, có lẽ chim cú sẽ hú lên, báo hiệu rằng tôi sẽ bị chặt đầu.
Khi mặt trời bắt đầu lặn, tôi thầm nói với Đức Phật, với linh hồn Pa, im lặng cầu xin một cơ may lần thứ hai trong đời. Con không sẵn sàng để chết. Lời cầu nguyện của tôi vỡ ra vì nỗi sợ người đàn ông mặc đồ đen. Tôi tưởng tượng ông ta trở lại, đưa chiếc rựa dài lên cao trong không trung. Tôi cảm thấy người mình co quắp lại, thấy tiếng gió rít khi nó chặt xuống cổ tôi. Sự sợ hãi làm tôi lạnh cả người. Tôi nhắm mắt và hạ thấp đầu, cố tìm can đảm để đối mặt với lưỡi thép sắc lạnh.
Đột nhiên có tiếng chân dẫm trên lá khô. Tôi buông rơi giọt nước mắt cuối cùng, mắt tôi khô ráo vì cơn sợ. Trời lúc này nóng, nhưng tôi run lập cập vì lạnh. Tôi cúi xuống đất và nhắm mắt lại, người căng lên, chuẩn bị đón nhận cơn đau từ nhát chém. Tôi không biết là mình phải gào lên hay cắn chặt môi lại. Khi anh ta tiến lại gần hơn, tôi đã sẵn sàng để chết.
Đột nhiên, tôi thấy sợi dây quấn quanh cánh tay tôi bị kéo giựt một cái. Tôi co rúm người lại và nhắm chặt mắt hơn. Tiếp đó cánh tay tôi sút ra, rời khỏi thân cây khiến tôi rơi xuống đất. Tôi mở mắt ra và quay lại.
Người đàn ông mặc đồ đen nói một cách nghiêm khắc “Đồng chí, bây giờ tao thả mày đó. Đừng làm vậy nữa đấy”. Anh ta không nói gì hơn. Anh ta nới lỏng sợi dây xù xì từ cổ tay tê cứng của tôi. Tôi nhặt cái khăn lên và quấn quanh cổ, để đám lá chua lại trên mặt đất. Tôi cố đứng dậy và bước đi nhưng không thể; trong giây phút phấn khích không tưởng tượng nổi vì thả, tôi đã quên bẵng rằng mình không thể bước đi được. Tôi bèn bò nhanh hết sức qua lỗ trống nơi hàng rào mà không hề quay đầu lại.
Quanh tôi, chim chóc hót vang trong rừng. Mọi giác quan trong  tôi bỗng sắc bén hơn, và tôi cũng ngạc nhiên về năng lực mà mình có. Tôi bò xuống con đường dành cho xe bò và cố bò qua phía bên kia đường. Tôi rướn người lên, nắm lấy các cành cây leo dọc theo bờ đường. Người tôi còn tê dại vì vận may, tôi vẫn chưa thể tin rằng mình đã được thả. Trông như một giấc mơ lạ lùng. Tiếng nói của người đàn ông vẫn còn dội lại trong đầu tôi.
Tôi bò qua rừng cây, kéo lê bàn chân trai sưng vù trong  đất và phân. Tôi phấn chấn hẳn lên khi nhìn thấy khóm lều tơi tả nơi chúng tôi ở. Trước đây tôi chưa bao giờ nhận ra vẻ đẹp của nó như bây giờ. Tôi hồi hộp chờ kể cho Mak nghe việc mình chạm trán với cái chết, việc tôi được thả ra sau đó. Tôi choáng váng vì niềm vui được sống sót. Khi tôi tiến gần lều mình, mắt tôi háo hức quét qua mọi thứ. Tôi không ngưng nhìn được. Chỉ một giây lát trước đây, tôi đối diện với cái chết cầm chắc. Thế mà bây giờ tôi đã ở nhà. “Lều của mình”, tôi khe khẽ gọi, vừa khóc, như thể cái bức tường bằng lá dừa là người, người bạn thân thiết mà tôi mong nhớ.
Từ dưới đất tôi nhìn lên thấy khuôn mặt nhợt nhạt, gầy guộc của mẹ, ở tuổi ba mươi lăm, đang thò đầu ra ngoài lều nhìn xuống tôi. Trong bóng tối hoàng hôn, bộ mặt bà là cả một giấc mơ.
“Ô, Mak”, tôi kêu lên trong vui sướng, sững sờ, “Con cứ tưởng là không bao giờ thấy lại mẹ nữa”
Miệng tôi liền tuôn ra một câu chuyện lộn xộn, không đầu, không đuôi về lá chua và người đàn ông áo đen đòi chặt đầu tôi. Trong lúc đó, tôi nghĩ mình không bao giờ để mẹ rời khỏi mắt. Tim tôi bám lấy bà, mắt tôi không để bà đi khuất.
Mak vỗ vỗ lên tóc tôi “Con may lắm đó. Mẹ mừng biết mấy khi thấy con không bị giết”. Nước mắt tràn xuống gò má bà. Bà với tay ôm lấy tôi, xiết chặt. Tôi hiểu tình yêu của Mak, nỗi lo sợ bị mất tôi. Đột nhiên bà ngừng khóc, bà chùi nước mắt. Chùi cả cho tôi. Ngồi gần mẹ, tôi chìm vào một nỗi hạnh phúc không thể nào diễn tả. Tôi quên mất cả Avy và Map. Tôi cũng không còn cảm thấy cơn đau nơi bàn chân hay cái nhức nhối nơi cẳng chân sưng vù. Chỉ cảm thấy một cảm giác biết ơn mơ hồ.
Mak nói “Đừng khóc, con. Để Mak nấu lá con ăn. Nín khóc đi, koon…”
Ngày hôm sau, Mak cùng Avy và Map đi làm về mang theo một đống lá slark khnarng buộc vào chéo khăn, quàng lên cổ. Tôi rất sung sướng, đón mừng mẹ và hai em. Riêng sự có mặt của họ đã là một phương thuốc chữa bệnh đôi với tôi rồi.
Bàn chân tôi dần dần hồi phục do hàng ngày được chùi rửa bằng lá slark khnarng. Được hướng dẫn bằng ký ức mơ hồ về cha tôi, tôi tự định ra cách chữa mà tôi nghĩ là thích hợp cho bàn chân mình. Ngày hai lần tôi khử trùng bằng cách bôi a xít chắt ra từ lá. Dùng ngón cái và ngón trỏ, tôi nhẹ nhàng gỡ đi lớp vẩy vàng ban đêm đóng lại quanh vết thương, để cho máu tươi từ đó tuôn ra. Mak thì như một bác sĩ trưởng, theo dõi bàn chân sưng của tôi hàng đêm.
Tôi thấy nhẹ nhõm, hầu như biết ơn, là mình không bị cưỡng bách lao động nữa. Tôi ngủ ngáy vang, cố bù lại những đêm mất ngủ trước đây vì cái chân đau nhức. Rồi một sáng nọ một giọng nói dữ tợn kéo tôi thức dậy. Kế đó tôi thấy tên chhlop xấu xí đang cúi xuống nhìn tôi.
Giọng nói của hắn quất lên tôi như một nắm đấm. “Đồng chí kia, tại sao không đi làm việc? Đi làm ngay! Không tao đưa mày đi cải tạo. Mày phải đi làm việc ngay lập tức!”
Tôi không biết phải nói gì với hắn. Tôi bị phục kích trước khi có cơ hội để suy nghĩ. Nước mắt ứa ra trước khi kịp nói, nhưng tôi cố ngậm miệng không khóc.
Cuối cùng tôi thốt ra “Tôi không bước đi được. Chân tôi đau, sưng vù. Khi nào chân lành là tôi đi làm ngay”. Tôi ngoan ngoãn đưa chân cho hắn xem. Các tia máu đỏ phun ra bên cạnh chỗ sưng mủ vàn quanh vết thương. Việc chảy máu có lẽ do tôi nhỏm dậy quá nhanh làm động đến vết thương. Bộ mặt đầy mụn ấy liếc nhanh vào chân tôi, rồi lùi lại. Hắn ta bỏ đi, nhưng tôi biết hắn sẽ để mắt theo dõi tôi.
Thế rồi, chân tôi cũng bắt đầu lành. Vào một buổi tối mát trời, tôi ra đứng trước căn lều. Đây là lần đầu tiên, tôi cảm thấy tôi cần hít thở khí trời nhiều hơn. Đột nhiên tôi thấy có cái gì đó đè nặng lên người. Tên chhlop xấu xí đang đi ra ngoài sục sạo trở lại. Tôi vội nhảy tuột vào lều, sợ hãi “Mak, Mak, lại là nó!” Tôi đứng ép người vào bức vách trước cửa căn lều, hy vọng hắn không thấy tôi.
Bằng một giọng hờ hững, lạnh lùng, hắn cộc lốc hỏi mẹ tôi, một người lớn tuổi hơn hắn nhiều “Đồng chí, con gái bà đâu rồi? Con gái bà phải đi làm việc chứ.”
“Nhưng nó còn bệnh, chân nó chưa lành” Mak trả lời một cách lễ phép.
“Nhưng nó đã bước đi được rồi” hắn cắt ngang.
 Tôi nghe họ nói chuyện, người tôi run lên. Hắn dán mắt vào trong lều.
“Đồng chí, bước ra đây và đi với tôi!” hắn ra lệnh.
Tôi vâng lời. nước mắt tôi trào ra khi tôi rời bức vách. Tôi van nài Mak “Mẹ ơi, giúp con với!” Hăn nắm cánh tay tôi và kéo tôi ra khỏi lều khi tôi đang nắm chặt tay Mak.
Hắn doạ “Nếu mày không đi, tao sẽ mang mày đến Angka”. Hắn nói ra cái từ mà chúng tôi sợ hãi nhất. Angka thần bí. Tôi không biết hắn muốn mang tôi đi đâu – một trại lao động khác ở xa đây, hoặc một cánh đồng bên cạnh? Tôi chỉ biết khóc.
“Đi đi, koon, để họ không làm hại con” Mak buông tay tôi ra.
Tôi đứng ủ rũ bên cạnh gã con trai khủng khiếp này, kẻ đang muốn phô trương cái quyền lực bé nhỏ của mình.
“Xin đừng làm con gái tôi đau” Mak van xin, xuất hiện phía sau tôi. Bộ mặt hõm sâu của bà bộc lộ niềm đau đớn, thêm vào niềm đau đớn của tôi.
Sáng hôm sau, một nhóm các tên chhlop lùa tôi vào cùng một bầy trẻ con suy dinh dưỡng đi làm việc. Sau chừng một tiếng đồng hồ đi bộ, tôi bước vào một cánh đồng trơ trụi, cằn cỗi. Lại một trại lao động khác. Tôi khóc thầm, ước chi Mak có thể ngăn họ đừng đem tôi đi. Tôi cũng ước chi Pa còn sống để cho chân tôi khá hơn. Tôi là đứa bé chậm chạp nhất, luôn luôn rớt lại phía sau đám trẻ. Và như thể lao động nặng nhọc còn chưa đủ, bây giờ cơn đau là bạn đồng hành với tôi. Mới vào buổi sáng mà mặt trời đã nóng rát. Tôi còn phải chống đỡ với cơn đau và mặt trời. Lần này không có Cheng bên cạnh để giúp đỡ. Tôi không biết mình có sống sót qua một trại lao động khác nữa không đây.
Trại lao động mới này, gần Phnom Srais, không xa làng Daakpo lắm, chỉ chừng năm dặm. Họ ra lệnh chúng tôi phải ở lại đây, nhưng nơi đây chưa có lều trại gì cả. trước khi chúng tôi có cơ hội nghỉ ngơi, họ đã ra lệnh cho chúng tôi làm việc ngay. Họ ném cho chúng tôi cuốc, thúng và đòn gánh. Ngay cả đứa bé nhất trong bọn trẻ cũng biết tốt hơn không nên cãi lại hoặc nói tới nói lui gì cả.
Cũng như ở trại lao động Oh Runtabage, người mekorg chia đám trẻ ra thành từng nhóm gồn bốn hoặc năm đứa. Tôi được chỉ định vào nhóm năm người, một trong số đó được bầu làm trưởng nhóm. Nó có nhiệm vụ coi sóc công việc của mỗi thành viên và báo cáo lại với mekorg. Ít ra thì nó cũng là một trong những “dân mới”. Người mekorg đưa cho tôi một cái cuốc vì tôi chưa đi bộ nhiều được. Tôi dùng cuốc đập vỡ đất rắn rồi đổ đất vào trong thúng của mọi người. Tôi lập đi lập lại công việc này nhiều lần, và sự rung động khi lưỡi cuốc chạm vào đất gây ra một cơn đau đớn lan vào bàn chân tôi, rồi bò lên cẳng, sau đó lên cả hông. Đất bụi cuộn xóay lên và bám vào chân, đe doạ sẽ nhiễm trùng thêm. Hơi nóng gay gắt đến ngột thở. Mọi người chuyển động chậm chạp, một dây chuyền sản xuất rã rời, một đội quân kiến có thể bị nghiền nát dưới gót chân của Angka.
Logged
gicungduoc
Thành viên
*
Bài viết: 95


« Trả lời #42 vào lúc: 13 Tháng Mười Một, 2008, 01:31:34 pm »

Tôi lên cơn sốt. Tôi nói chung chung không nhắm vào ai “Tôi bệnh và chân tôi đau quá. Tôi muốn nghỉ một lát”. Tôi ngồi sụp xuống, cho phép mình hưởng một khoảnh khắc xa hoa ngắn ngủi là dựa vai vào cái cán cuốc, nghỉ. Con bé trưởng nhóm bèn làm thay công việc của tôi. Nó bắt đầu cuốc đất. Nó nhìn tôi có vẻ khẩn cấp.
“Đồng chí này, tại sao không làm việc?” một giọng nói lớn, mạnh bật lên phía sau lưng tôi.
“Đồng chí này nói đồng chí bị bệnh nặng”, con bé trưởng nhóm trả lời, đưa tay chỉ tôi khi tôi cố đứng dậy.
“Vậy đồng chí cuốc đất” bà ta nói, chỉ con bé trưởng nhóm. “Còn đồng chí,” bà ta chỉ vào tôi “Đi khiêng đất, không được nghỉ nữa”.
Tôi mang những cái thúng đổ đầy đất, vất vả vác lên bờ sông. Cảnh tượng ở đây như một đoạn hồi tưởng quen thuộc, bọn mekorg và chhlop đứng giữa chúng tôi, quan sát. Tôi tự hỏi không biết bao giờ mình mới thoát khỏi sự canh chừng của họ.
Ngày đang nóng như lửa bỗng thay đổi đột ngột. Buổi chiều bầu trời bỗng chuyển mây. Nhiều đám mây dồn tới và bầu trời đen kịt. Tiếng sấm gầm lê. Chớp loé lên, chiếu những đường sắc cạnh, soi sáng bầu trời tối đen. Mọi người chạy tứ tán, lo âu và hoảng loạn. Chúng tôi đưa mắt tìm một người có thẩm quyền cho phép chúng tôi được giải tán nhưng hai người mekorg đã ra lệnh cho chúng tôi tiếp tục làm việc cho đến khi, họ nói, Angka Leu bảo chúng tôi ngưng lại.
Tiếng sấm lại dội lên. Mưa rơi từng hạt nặng, đập xuống người tôi. Rồi mưa rơi thành mảng nặng và dày, bám chặt lấy tay chân chúng tôi. Chúng tôi chạy trong cơn hoảng loạn. Người Mekorg và bọn chhlop biến đâu mất tiêu. Mọi người đều chạy tức khắc. biết rằng mình không chạy được, tôi cầu xin giúp đỡ “Xin hãy đợi tôi. Đợi tôi với!” Tôi thấy sợ hãi. Mọi người đều leo, trườn đi thật nhanh. Ánh chớp giáng xuống tàn nhẫn ngang trên bầu trời, soi sáng những đám trẻ em sợ hãi đang chạy hỗn loạn qua cánh đồng sũng nước và đầy bùn. Vài đứa bám vào nhau. Những đứa khác thì tự lê bước đi, rải rác trên cánh đồng. Cách duy nhất để chúng tôi biết mình đi đâu là nhờ vào những ánh chớp. Tôi tụt lại phía sau.
Một ánh chớp nữa loé lên chiếu sáng bầu trời. Tôi thấy một nhóm bốn đứa trẻ níu cứng lấy nhau, áo màu tối thẫm phủ lên che đầu, đang bước đi bên cạnh tôi. Tôi đưa tay nắm lấy chiếc khăn sũng nước đang phủ lên đầu một bé gái trong số đó. Rồi thay vì nắm khăn, tôi bám chặt vào cánh tay nó để bảo đảm mình không bị lạc trong cơn bão. Con bé quay lại, liếc nhìn tôi ngạc nhiên.
Bây giờ thì bầu trời tối đen. Những ánh chớp chợt loé chợt tắt đã ngừng lại. Bầu trời gầm lên tiếng sấm. Cơn mưa dữ dội vẫn trút xuống, đập, vỗ liên hồi vào người tôi. Mọi người lạnh run. Hàm tôi đánh lập cập. Tôi lạnh tê, đồng thời lại cảm thấy cơn nóng trong người do bị sốt. Chúng tôi rơi xuống một đường mương, va mạnh vào một đám thúng mủng và các mảnh gỗ cứng. Những tiếng kêu thét cùng bật lên “Mak ơi, cứu con, Mak…” tiếng kêu của riêng tôi cũng hoà lẫn trong tiếng kêu của những đứa khác. Trong cơn hỗn loạn giữa thúng mủng, giữa thân thể va chạm vào nhau, tôi cố gượng đứng vững. Tôi với tay trong  bóng tối cố tìm những đứa trẻ vừa rồi ở cạnh tôi. Tôi sờ thấy một bàn tay,  bèn nắm chặt lấy, và nói “Xin chờ mình với”.
Cái đau tê buốt nơi bàn chân tôi thì vô cùng, nhưng nỗi sợ hãi bị lạc, bị nuốt chửng trong  bóng tối lạnh giá này lại càng không thể đo lường được. Tôi cố kêu lên cho cái đau nơi chân bay đi. Chỉ còn nỗi đớn đau sợ bị lạc mất trong cảnh điên loạn này. Vì thế tôi cố gượng dậy và bước đi. Chúng tôi phải tiếp tục đi.
Rồi cũng đột ngột như khi bắt đầu, cơn mưa chấm dứt. Nhưng bóng tối vẫn nấn ná ở lại, cho đến khi đêm đổ ập xuống. Những tiếng khóc xé thủng màn đêm, xen lẫn với những tiếng thút thít. Tôi buông nỗi sợ hãi nãy giờ, thầm gọi Mak trong tâm trí. Từ xa, tiếng một người đàn ông cất cao, vượt cả tiếng khóc của bọn trẻ. Tiếng nói này gợi lên một làn sóng hy vọng. Nhóm mà tôi đi cùng vội cất bước, tiến nhanh về phía có giọng nói ấy. chúng tôi bám cứng lấy nhau thành một sợi dây xích người. Càng đến gần, chúng tôi càng dễ nghe được tiếng người đàn ông cảnh báo.
“Đừng lội qua nước! Cứ đứng đấy! Tôi sẽ giúp các em từng người một!” giọng người đàn ông ra lệnh, tuy lớn tiếng nhưng đầy lòng trắc ẩn.
“Ôi, giúp tôi với!” Một giọng nói vang lên hổn hển. “Tôi rơi xuống nước rồi! Giúp tôi với! Athy ơi. Giúp tôi với!”
Ai gọi lớn tên tôi vậy? Tôi lục trong trí nhớ, cố suy nghĩ. Đột nhiên một ý tưởng loé lên – đó là tiếng của Ary, một con bé tôi quen ở Daakpo. Tôi thấy nó sáng nay, lúc chúng tôi làm việc.
“Ary! Ary! Bạn đang ở đâu?” Tôi rống lên. Tôi muốn kéo nó ra khỏi dòng nước đang tuôn chảy, nhưng tôi chẳng thấy gì trong bóng tối. Tôi cũng rất khó cử động. Thân thể tôi tê cứng và lạnh như một xác chết. Tôi dùng bàn tay để mò đường, đi xuyên qua đám trẻ, tiến lên phía trước trong bóng tối, cố gắng nắm lấy nó.
Tôi la lớn “Bạn ở đâu? Ary? Bạn ở đâu?”
“Mình đang ở dưới nước….Giúp mình với, Athy”, nó la lên, vừa thở hổn hển vừa ho sù sụ.
“Ary, đợi đó, mình đến đây”, tôi chầm chậm nhúng bàn chân xuống mặt đất trơn, đầy bùn. Nước lạnh ngắt làm tôi tê cả người. Tôi sụp xuống, lấy tay mò mẫm thay cho mắt. Đột nhiên lại nghe tiếng người đàn ông gọi lớn, làm tan đi nỗi sợ bị nước cuốn đi như Ary “Đừng bước xuống nước!” Ông ta ra lệnh “Để tôi kéo nó lên cho! Đứng yên ở đó!”
Tôi ngừng lại, lòng nhẹ nhõm và biết ơn. Có vẻ như mọi người khác đều đã bỏ rơi chúng tôi, ngoại trừ ông này. Rồi không biết cách nào ông ta kéo được Ary ra khỏi chỗ ngập nước.
Người đàn ông hướng dẫn chúng tôi di bằng đèn bấm. Chúng tôi bấu chặt vào nhau, run lập cập. Chúng tôi đi qua một cánh đồng, tôi cảm nhận bê tông ở dưới chân – một ký ức xa vời về một thế giới văn minh hơn. Tôi biết mình đã ở trong một ngôi làng nào đó, nhưng tôi chẳng thấy gì ngoại trừ một tấm màn đen trước mắt. Có tiếng một người đàn bà hướng dẫn chúng tôi lên cầu thang gỗ để đến một toà nhà tối om. Tôi mệt lả nhưng mỗi bước đi tôi nhận ra dang bước trên tấm thảm đầy trẻ em đang nằm ngồi la liệt hoặc ép sát vào nhau.
Tôi thu mình trong bóng tối và buông mình xuống giữa vô số những vật bằng kim loại không biết là gì, ôm sát một trong những vật đó như ôm cái gối mềm và ngủ thiếp đi.
Đến sáng tôi thức dậy, kinh hoảng. Ánh sáng chiếu xuyên qua chiếc cửa sổ nhỏ, bẩn thỉu, mạng nhện giăng đầy nơi trần nhà, vách tường, và cả chỗ những phần tháo rời từ một chiếc xe đạp cũ vất ngổn ngang trên sàn nhà nơi chúng tôi đang nằm ngủ. Quanh tôi, bọn trẻ con nằm co quắp vào nhau như những miếng bột nhồi. Giống tôi, một số đứa khác phải ngủ ngồi, dựa vào các bộ phận của chiếc xe đạp tháo rời.
Tôi cần dậy đi tiểu. Chân cẳng tôi tê và yếu. Tôi cẩn thận duỗi chân ra, rồi bò qua bọn trẻ đang ngủ để đi xuống cầu thang. Ở ngoài cửa tiệm này, cành cây, lá dừa, rác rưởi vất lung tung, vẫn còn ướt nhẹp sau trận mưa. Đây là một ngôi làng thật sự, nơi trước đây người ta đã sinh sống, nhà cửa, cửa hàng thật sự, không phải là lều tạm. Bây giờ thì trống rỗng.
Tôi bước trở lên cầu thang và ngủ lại.
“Dậy đi. Dậy đi các đồng chí. Đã đến giờ làm việc. Dậy đi!” một giọng phụ nữ réo lên từ dưới cầu thang.
Tôi muốn vâng lời nhưng không thể làm được. Vết thương thì đau nhức còn người thì sốt hầm hập. Tôi liếc mắt nhìn ba đứa trẻ nằm ở góc nhà. Nghe tiếng chúng rên rỉ, tôi biết chúng đang bệnh rất nặng, và tôi mừng thấy mình không phải là người bệnh duy nhất.
Phần lớn các đứa trẻ đã dậy đi làm việc, người trưởng đoàn hỏi “Các đồng chí, tại sao đồng chí không đi làm việc?”
Tôi trả lời “Cháu bệnh. Chân cháu sưng vù không bước nổi.”
“Cháu thì bị sốt” một bé gái trả lời khiêm tốn, giọng nó nhỏ và nhẹ.
Hai đứa bé kia thì quay mặt về phía bà trưởng đoàn để báo cáo về bệnh tật của mình.
“Đủ rồi. Đủ rồi! Vậy tất cả các đồng chí ở lại đây, đừng đi đâu cả. Lát nữa sẽ có một đồng chí đến đưa  vào peth (bệnh viện). Không ai được rời khỏi nơi này đấy”. Bà nhấn mạnh.
Chúng tôi lại ngủ tiếp. Sau đó trong ngày, một tiếng nói nhẹ, dịu dàng đánh thức tôi dậy.
“Này, dậy đi nào, dậy đi. Tôi đem em vào peth để điều trị. Dậy nào!” người phụ nữ hoà nhã lay lay vai một đứa bé gái.
Tôi ngồi lên, đưa mắt nhìn cô ta. Mặc đồng phục đen, cô ta cắt tóc ngắn, mái tóc đen chỉ phủ xuống ngay trái tai. Trông cô dịu dàng. Một phụ nữ quý phái, một bác sĩ, nhưng mặc đồng phục Khmer Đỏ. Tay cô sờ vào cổ đứa bé như để kiểm tra nhiệt độ thân thể.
“Tất cả các em đều bệnh cả à?” Cô đưa mắt nhìn chúng tôi, hỏi dịu dàng. Chúng tôi trả lời vâng hoặc chỉ gật đầu.
 “Vậy đi với tôi và các em ở lại peth cho đến khi khỏi bệnh”, cô trả lời.
“Nhưng em không đi được, chân em đau lắm, sưng vù lên”. Tôi nói và đưa cho cô xem bàn chân, và cô kinh hãi khi thấy vết thương còn tươm máu. Cô ta là người đồng chí đầu tiên đã phản ứng khi thấy vết thương nơi chân của tôi bằng tình thương xót.
Cô bèn mang tôi đến một căn lều nhỏ gần đó. Cánh tay ấm áp của cô ôm lấy tôi, áp sát tôi vào ngực, ôm tôi như thể tôi là cô em gái nhỏ của cô vậy. Trông cô còn trẻ, có lẽ chỉ ngoài năm mươi. Nước da cô sang, như thể cô chưa bao giờ lao động nặng nhọc hoặc phơi dưới ánh sáng mặt trời.
Cô ngồi xổm bên cạnh tôi và vỗ nhẹ vai tôi khi tôi nằm trên một cái giường trông giống chiếc kệ làm bằng những thanh tre cũ. Cô hỏi “P’yoon srey (em gái), em bị vết thương này bao lâu rồi?”
Logged
gicungduoc
Thành viên
*
Bài viết: 95


« Trả lời #43 vào lúc: 13 Tháng Mười Một, 2008, 01:32:08 pm »

Tôi xúc động vì cách cô gọi tôi dịu dàng như vậy. Đó là một từ tôi chưa bao giờ được nghe thấy từ người Khmer Đỏ. Lần đầu tiên, tôi tự hỏi không biết có một vài người Khmer Đỏ là thật sự người tốt, họ lặng lẽ ẩn mình trong hàng ngũ những kẻ thô bạo không.
“Em mới bị một thời gian. Vết thương đã gần làh trước khi em đến lao động ở Phnom Srais vì hằng ngày em rửa bằng nước chắt ra từ lá slark khnnarng. Cha em trước đây thường đổ bột penicillin lên vết thương ở đầu gối em khi vết thương bị nhiễm trùng. Thế bang (chị) có thuốc penicillin không?”
Đó là một yêu cầu kỳ quặc, nếu xét hoàn cảnh hiện tại chúng tôi ở xa văn minh biết chừng nào. Cô nhìn tôi thoáng cười, có lẽ thích thú vì thấy tôi biết cái từ đó.
“Để tôi đi xem xem. Tôi sẽ trở lại ngay” cô hứa.
Cô biến mất vào trong căn phòng nhỏ phía bên kia lều. Rồi cô trở lại liền, tay cầm một vật gì đó. 
“Tôi có penicillin đây. Tôi  sẽ rắc thuốc đó lên vết thương của em”, cô vừa nói vừa đưa tôi xem lọ thuốc.
Tôi không tin vào mắt mình nữa. Trông giống hệt như những thứ Pa trước đây đã cất trong hộc thuốc – lọ thuốc có nắp cao su và dải kim loại sáng bọc chặt phía trên. Lần cuối cùng tôi thấy người ta dùng tân dược hiện đại là trước lúc cha tôi bị hành hình, dưới thời Lon Nol. Như ở một thế giới nào khác.
Cô mở lọ thuốc và cầm đưa lên trên bàn chân trái của tôi. Cô nhắc “Hơi rát đấy”. Một lần nữa, tôi ngạc nhiên vì hiểu biết của cô về thuốc men. Nhưng tôi hoan nghênh cái đau vì được chữa trị. “Đừng khóc nhé, em gái”, cô ép sát người xuống, nhăn trán lại như thể cô đang giữ đau cho tôi. Cô nhẹ nhàng gõ đều đều lên miệng lọ thuốc, nhưng chất bột dính cứng trong chai. Cô gõ mạnh hơn và một tảng bột trắng rơi ra, rơi vào trong lỗ vết thương nơi bàn chân tôi.
“Chết, tất cả thuốc rơi vào trong vết thương của em rồi! Đợi một chút, tôi sẽ xúc ra một ít cho em”, cô ù chạy đi.
Vài giây sau tôi kêu thét lên vì đau. Tôi cào như điên quanh vết thương. “Ôi, bang, đau quá!” tôi gọi to, “Mak ơi, cứu con, Mak, đau quá!” Tay đập rầm rầm lên tấm vạt giường bằng tre và cắn chặt môi để chế ngự cơn đau xé ruột mà tôi cố chịu đựng – nước mắt tôi lại  trào ra khi tôi quan sát vết thương. Cô bác sĩ chạy trở lui, dỗ cho tôi dịu lại.
“Đừng khóc ,nào đừng khóc” cô lắp bắp nho nhỏ. Cô đưa tay chà quanh vết thương. Khi tôi im miệng, cô nhẹ nhàng cầm bàn chân tôi nghiêng đi để một số thuốc rơi vào lòng bàn tay cô. Lấy ra được chừng một phần ba số thuốc, cẩn thận, cô đổ số thuốc bột dư ra đó vào lại  trong lọ thuốc – chắc chắn lúc này thuốc đó quý như vàng.
Hằng ngày tôi đều xức penicillin vào vết thương. Chừng hai tuần sau, vết thương trông khá hơn. Mô thịt bắt đầu mọc lại, từ từ lấp đầy lỗ trống sâu hoắm trước đây. Tôi thấy biết ơn sức mạnh của thân thể tôi đã chữa lành vết thương, dĩ nhiên chưa kể đến các yếu tố khác, nhất là của thuốc men. Bây giờ hầu hết các lớp vảy đầy máu nơi vết thương đã biến mất, và tôi có thể tự bước đi nhận khẩu phần ăn rồi.
Vị bác sĩ tử tế này tình nguyện tự tay xức bột penicillin vào vết thương hàng ngày cho tôi, nhưng tôi lễ phép từ chối vì tôi tự làm được. Việc cô tình nguyện chăm sóc đó thật ngọt ngào, đáng nhớ - một hành động bày tỏ lòng tốt cá nhân mà tôi chưa bao giờ thấy nơi người Khmer Đỏ. Thế mà, cô đã giúp tôi nhiều hơn cả tôi có thể mơ ước – bệnh viện, thuốc thang và còn tự tay đi lấy khẩu phần cho tôi – cháo gạo – lúc đó tôi chưa đi được. Cô đến kiểm tra sức khoẻ tôi hàng ngày. Chính sự tử tế của cô bắt đầu làm cho tôi thay cách hình dung của mình về Khmer Đỏ. Không phải mọi người đều có một trái tim bằng đá, chỉ sống để phục vụ Angka…Không phải ai cũng chỉ sống theo quyền lực và sự hung ác. Một số người vẫn giữ nơi mình một hạt mầm của nhân tính.
Khi chân tôi đã gần lành, người lãnh đạo đoàn lao động ra lệnh cho tôi trở về làm việc tại Phnom Srais. Cô bác sĩ trấn an tôi. Cô bảo tôi sẽ an toàn nếu tôi nhớ rửa vết thương sau khi lao động rồi xức thuốc bột penicillin vào đó mỗi đêm. Cô xử sự như là một người mẹ của tôi, như một người bạn tốt mà bất cứ đứa bé nào cũng ao ước có được.
Chúng tôi làm việc vất vả dưới cặp mắt nhìn chằm chằm của bọn chhlop và những người chỉ huy đoàn mặc đồ đen đứng bên bờ sông. Tuy vậy tôi đã nhìn họ bằng đôi mắt khác. Có phải sự hung bạo của họ chỉ là chiếc mặt nạ bề ngoài, che giấu tính người nằm sâu bên trong? Thế giới không chỉ màu đen như đồng phục của họ, hoặc chỉ màu trắng tinh như gạo nữa. Ít nhất ở đây tôi cũng có chỗ trú ẩn và khẩu phần ăn tốt hơn, cơm hẳn hoi chứ không phải cháo gạo như trước. Tôi chỉ ước ao mình có thể chia phần gạo này với Mak Avy hay Map.
Ngày nào cũng giống nhau. Buổi sáng chúng tôi dậy sớm. Họ quan sát chúng tôi suốt giờ làm việc. Cả một dải trẻ em lao động dưới ánh nắng khốc liệt của mặt trời như một dây chuyền sản xuất tập thể đang cào bám mặt đất, để lại một con mương dài, rộng mỗi ngày lại chậm chạp dài thêm một tí.
Sau đó, những người lãnh đạo Khmer Đỏ loan báo rằng một đoàn cơ động đang từ Phnom Kambour đến để giúp chúng tôi đào mương nhanh hơn. Việc đoàn này đến có nghĩa là tôi có thể gặp được chị Chea, chị Ra và dì Rin, nếu họ còn sống sót.
Và mong ước của tôi thành sự thật. Vào lúc những người lãnh đạo gọi đến giờ ăn trưa, chúng tôi lập tức rời con mương, đứng trên đồng và đi về phía nhà bếp nằm cách đó một dặm. Đột nhiên làn sóng người phía trước tôi bắt đầu vụt chạy. Từ xa, tôi thấy một khối người đồng phục xám bạc màu bu quanh khu nấu ăn. Một số còn đứng sắp hàng, trong khi những đứa khác ngồi chồm hổm trên mặt đất.
“Chúng mình phải vội lên mới được, trước khi họ phát hết đồ ăn cho đoàn cơ động vừa mới đến” một con bé vừa chạy vượt qua tôi vừa nói, theo sau nó là mấy đứa khác.
“Athy ơi! Athy ơi! Đợi mình với! “ Tôi quay lại. Tôi ngừng bước khi biết đó là Ary. Nó mệt mỏi đưa tay ngoắc tôi, mặt nó vừa tối vừa trắng xanh.
Ary hụt hơi, kể với tôi “Athy, mình mệt quá. Mình không thể chạy được nữa. Tụi mình bước đi thôi.”
Tôi bảo Ary cố đi nhanh hơn, lo rằng thực phẩm sẽ hết vì phải phân phát cho người của đoàn cơ động.
Tôi nghe tiếng Ary thở hổn hển, miệng mở to ngáp không khí. Cả hai chúng tôi đều đi khập khiễng, chân cứng đờ. Trong khi đó thì bao tử sôi réo.
Hàng trăm trẻ em và người lớn vây quanh khu nhà bếp trơ trọi, không có cả mái che mưa, che nắng. Dấu mốc của khu này là một cây khô trụi lá, chỉ có ba nhánh cây như ba khúc xương chĩa ra. Người ta vây quanh bếp, ngồi bệt xuống đất, lùa cơm vào miệng. Ary và tôi đứng xếp hàng trong hàng trẻ em, mắt chúng tôi liếc nhanh về phía những bát cơm và bát cháo cá lỏng mà người ta đang lùa vào miệng. Đột nhiên một giọng nói yếu ớt và vội vã gọi tên tôi nhiều lần “Athy!”
Tôi quay lại cố tìm người vừa gọi, tôi thấy chị Chea nhô lên khỏi đám người đang sắp hàng và đám người đang ngồi dưới đất. Thật khó mà tin rằng đó là chị tôi. Hình ảnh đang thấy làm nhức nhối tim tôi – chị gầy rạc, mặt đen thẫm và tiều tuỵ vì ánh mặt trời. Quần áo chị cũ kỹ, gồm một chiếc quần đen bạc thành màu xám và chiếc sơ mi như miếng giẻ rách cùng với chiếc khăn bạc thếch quấn quanh cổ.
“Chị Chea, chị Chea!” tôi reo lên. Tôi run cả người vì vui sướng đồng thời chấn động vì sự tàn phai nơi nhan sắc của chị. Tôi từng nghe tin nhiều người trong các đoàn lao động đã chết vì kiệt sức và bệnh tật. Thế mà bây giờ chị đang chạy về phía tôi, mắt rực sáng. Nếu như không vướng người chung quanh thì chị hẳn đã mở rộng vòng tay ôm lấy tôi rồi. Còn tôi không cần xếp hàng gì nữa, tôi cũng không chú ý gì đến phần ăn. Chị Chea đã là thực phẩm cho linh hồn của tôi rồi.
“Athy, em đang ở đâu?” chị hỏi tôi, mặt chị áp sát vào mặt tôi nhưng chị bỗng lùi lại, hoảng hốt.
“Mắt em có những đường mô trắng” chị nhẹ nhàng dùng ngón tay kéo mí mắt tôi lên, rồi nói thẳng thừng “Mắt em trông tệ lắm, Athy, coi chừng em bị mù đó!”
Lời chị làm tôi sợ, tôi chớp mắt liên hồi, mắt tôi tự nhiên bỗng cảm thấy nặng hơn bao giờ hết. Chị Chea phải rời khu vực này ngay bây giờ nhưng chị nói chị sẽ tìm tôi sau. Tôi vội chen trở lại hàng chờ lãnh phần ăn. Tôi biết mắt tôi có vấn đề, khi thức dậy lông mi tôi thường dính chặt vào nhau. Mắt tôi nhìn khó, thường phải nheo lại một cách khó nhọc dưới ánh mặt trời. Tôi sợ tôi có thể bị mù.
Ngày hôm sau chị Chea mò ra khỏi trại tới thăm tôi vội vã trong giờ ăn trưa. Rồi vào một buổi chiều, trong lúc chờ lãnh xuất ăn, chị có vẻ bồn chồn. Chị vẫy tay, ra hiệu cho tôi đến gần chị “Athy, em có muốn đi với chị và chị Ra về thăm Mak không? Tụi chị sắp về thăm mẹ và đem cho mẹ một ít gạo.”
Ý tưởng ấy tràn ngập người tôi “Chị Chea ơi, em sợ. Em muốn đi lắm nhưng em sợ. Em sợ họ sẽ bắt chúng ta giữa đường”.
“Không sao đâu. Chúng ta sẽ đi vào ban đêm và đi trong rừng chứ không đi qua làng đâu. Người cùng lao động với chị biết một con đường. Đừng lo, khi trời tối hẳn, chị sẽ đến chỗ em. Bây giờ chị phải đi đây” chị vỗ nhẹ lên vai tôi, dấu hiệu bảo đảm ấy làm cho tôi hết lo.
Logged
gicungduoc
Thành viên
*
Bài viết: 95


« Trả lời #44 vào lúc: 13 Tháng Mười Một, 2008, 01:32:40 pm »

Đêm đến, chị Chea, Ra, hai người phụ nữ khác và tôi sụp xuống bò qua các túp lều, ra khỏi trại lao động. Tiếng động duy nhất mà tôi nghe được là tiếng thở nhẹ, thì thào của chính mình. Tiếng bước chân chúng tôi được bọc kín trên nền đất cát. Bóng cây dọc theo con đường xe bò che phủ chúng tôi không để ai nhìn thấy nhưng nó cũng làm lối đ tối mịt. Mắt tôi, vốn đã căng ra vì ánh sáng mặt trời, không dùng được mấy vào ban đêm. Nhưng cũng may chúng tôi không va vấp vào vật gì. Người bạn cùng trại của chị Chea chắc biết rõ con đường đi vòng qua làng. Tôi tự hỏi không biết cô này có phải là “dân cũ” không, nhưng tôi không biết chắc. Trong bóng tối tôi chỉ thấy những cái bóng, bóng mờ của chị Chea và chị Ra. Tôi chỉ nhận ra chị Chea qua giọng nói, và tôi đặt niềm tin vào đó.
Chúng tôi rời đường xe bò, rẽ qua một con đường khác phủ đầy bụi cỏ, cây dại. Nhưng con đường này có vẻ quen thuộc: đây chính là con đường xe bò quanh co nhiều làng rồi dẫn chúng tôi đến gần làng Daakpo. Tuy chúng tôi còn ở trong rừng, đường đã sáng hơn. Nỗi sợ hãi của chúng tôi giảm bớt khi chúng tôi thoáng thấy ngôi làng quen thuộc, dù chỉ mới là những bóng đen mà thôi.
Hai người cùng trại với chị Chea rẽ sang đường khác để về với gia đình của họ. Còn ba chị em chúng tôi hướng về phía Mak, thận trọng vượt qua những ngôi lều đang say ngủ. Chúng tôi lặng lẽ bước qua lều, cố không làm cho Mak, Avy hay Map giật mình, họ cũng đều đang ngủ say.
“Mak…” chị Chea thò đầu vào căn lều không cửa, thì thào.
“Mẹ ơi!” chị Ra cũng lập lại, gọi nhỏ. Tôi cũng tham gia theo hai chị trong cuộc về thăm nhà bí mật của mình.
Nhẹ nhàng vào cạnh Mak trong căn lều tối om, thật khó tin rằng tôi đã trở lại cùng với Mak, chị Chea, chị Ra, Avy và Map. Rồi Mak thức dậy, bối rối thấy chúng tôi tất cả đều ở chung quanh bà.
“Mak ơi, chúng con mang gạo về cho mẹ đây” tôi nói nhỏ, đưa ra một gói gạo nhỏ cỡ quả dưa nhỏ bọc trong khăn. Bà choàng tay ôm lấy tôi. Chị Chea và chị Ra ngồi cạnh bà, đăm đăm ngắm khuôn mặt mẹ, ye6u tbương bà qua cách của người Cambodia. Qua giọng nói của chúng tôi, Mak có thể thấy được nỗi khao khát của chúng tôi muốn được ở gần mẹ, không cần phải choàng tay ôm ấp. Việc lén trốn trại, việc cố gắng mang gạo đã nói rõ hơn tất cả những lời thân thương nào khác chúng tôi có thể nói với bà.
“Achea, tất cả các con đều bỏ trốn à? Các con không sợ bị bọn chhlop bắt lại sao?” Bà hỏi nhỏ, giọng lo lắng.
“Có nhiều người khác cũng trốn về thăm gia đình” chị Chea trả lời “Không phải chỉ mình tụi con đâu” giọng chị thoải mái trấn an mẹ.
Nhưng Mak dịu dàng nhắc chúng tôi “Nhưng các con phải luôn luôn cẩn thận, nhớ chăm sóc cho Athy nhé. Nó còn nhỏ quá” . Bà nói, nếu họ hành hạ chúng tôi thì coi như họ giết bà. Rồi một lần nữa, bà nhắc chúng tôi phải hết sức cẩn thận.
Chị Chea trấn an Mak là chúng tôi sẽ cẩn thận hết sức. Rồi Mak mới quay sang chỗ cơm chúng tôi mang về cho mẹ. Bà bảo chị Ra đánh thức Avy và Map dậy để cùng ăn. Lúc này mặt trăng đã khuất đi, ánh trăng mờ dần nơi lối đi dẫn vào lều. Mak, Avy và Map ăn vội vàng, cơm như bay vào trong miệng họ.
“Preah, cơm ngon ngọt quá” Mak kêu lên, giọng bà như biết ơn. “Mẹ không ăn cơm từ lâu lắm rồi. Có cơm ăn giống như được lên trời vậy”.
Sau khi ăn xong, Mak kể cho chúng tôi nghe đời sống của bà ở Daakpo. Tất cả họ phải ăn lá ở trong rừng hoặc các thân cây cỏ nước do em Avy chín tuổi hái ở hồ gần làng. Có khi may mắn, Mak và Avy bắt được vài con dế hoặc cóc. Mak nói về cái đói của mình một cách dễ dàng, như là một chuyện tự nhiên.
Đã muộn, có lẽ quá nửa đêm. Tôi chỉ có thể đoán giờ bằng sự yên lặng hoàn toàn quanh Daakpo. Tôi cũng gục ngủ rất nhanh. Chẳng bao lâu tôi nghe tiếng chị Chea: ”Athy, đến giờ đi rồi. Mình phải về. Hai người kia đang đợi ở ngoài đấy. Dậy đi, Athy”.
Chị giúp tôi bước ra khỏi lều, đi vào rừng, an toàn trở lại trại lao động vào buổi sáng sớm, trời còn tối đen như mực.
Ở tại trại, chị Chea chính là mẹ tôi. Chị, chị Ra và tôi tiếp tục lén đem một phần cơm cho Mak, sớt bớt từ khẩu phần của chúng tôi. Hàng tuần tôi chỉ mong đợi buổi lén trốn đi này, để được sống bên Mak, Avy và Map lâu chừng nào hay chừng nấy. Vì Angka điều khiển toàn bộ cuộc sống của chúng tôi, chúng tôi chẳng biết may mắn này kéo dài được bao lâu nữa. Nhưng ít nhất thì vào lúc này chúng tôi tự cho phép mình có một tí hạnh phúc và hãnh diện.
Chỉ riêng việc được thấy lại Mak cũng đã tạo ra cho tôi một chân trời để sống trong cái thế giới không có chân trời này. Trong những lần lén về thăm ngắn ngủi của chúng tôi, mẹ cũng săn sóc cho tôi, an ủi tôi. Về cặp mắt bị nhiễm trùng của tôi, mẹ bảo tôi hãy dùng nước tiểu của chính mình để chữa, hứng bằng một ngọn lá gấp thành hình cái phễu. Bà chỉ cho tôi cách làm, là đưa phần nhọn của cái phễu đó lên cặp mắt, nhỏ từng giọt nước tiểu vàng khè đó xuống đều đều. Bà bảo sữa mẹ cũng chữa rất tốt – tôi đã nghe điều này trước đây, nhưng làm thế nào mà tôi kiếm ra được một người đàn bà có sữa? Ở đây rất ít trẻ em ra đời.
Lần thứ nhất tôi thấy người lớn tỏ ra chú ý đến nhau là nơi những người mekorg của Khmer Đỏ, đó là con cái của những người lãnh đạo đoàn, họ thường trêu đùa, ve vãn nhau. Còn những người lao động thì quan sát và gật gù “Chúng còn có da thịt”, họ giải thích “Không còn da thịt và máu thì cũng chẳng còn ham muốn nữa”.
Chỉ còn công việc. Con kênh dẫn nước đã gần xong, đoàn của người lớn sẽ hoàn tất công việc ấy. Tôi ngạc nhiên thấy trẻ em được phép trở lại làng của mình. Mắt của tôi đã lành bệnh, do được điều trị bằng chính nước tiểu của tôi. Trước đây khi bị bệnh nhiễm trùng mắt, tôi còn bị thêm một bệnh nữa là “quáng gà” khiến cho mắt tôi không hoạt động được vào ban đêm. Vào những lúc có mít tinh bắt buộc, Ary phải nắm tay tôi dẫn đến đó rồi dẫn về lều. Khi bệnh nhiễm trùng được chữa khỏi, bệnh quáng gà cũng hết luôn.
Mắt đã nhìn được, tôi lại mở mắt. Có rất nhiều điều để nhìn thấy.
Logged
gicungduoc
Thành viên
*
Bài viết: 95


« Trả lời #45 vào lúc: 13 Tháng Mười Một, 2008, 01:36:14 pm »

Hành trình qua cánh đồng chết
________________________________________
CHƯƠNG 9
Chanrithy Him
Hành Trình Qua Cánh Đồng Chết
Dịch giả: Mịch La
CHƯƠNG 9
BÂY GIỜ TÔI ĐÃ BIẾT CÂU TRẢ LỜI
Dưới chế độ Khmer Đỏ, sự sum họp gia đình là một điều vô cùng quý giá nhưng ngắn ngủi, xuất hiện đột ngột như một cơn mưa rào mùa hạ làm khí hậu dịu đi, rồi chấm dứt cũng mau chóng như vậy. Sau Phnom Srais, trẻ em được gởi trả về làng để cùng làm việc với người lớn ở đây, phần lớn là với mẹ, phát rừng, nhổ cỏ dại để trồng khoai lang. Nơi làm việc ở xa độ hai hay ba dặm. Nhưng ít nhất chúng tôi cũng còn được sống với gia đình. Chúng tôi lại rơi vào những công việc vặt dễ chịu, như đi nhặt lá để nấu với gạo và muối, hoặc kiếm củi, lấy nước. Nhớ lại hồi ở Phnom Penh, chúng tôi cũng làm việc nhà mà không suy nghĩ gì, thỉnh thoảng nói chuyện với nhau một cách tình cờ, như chị Chea nói về bài thi môn sử hay những chương trình dự định với bạn bè. Bây giờ thì chúng tôi làm những nhiệm vụ hàng ngày phần lớn trong im lặng, chìm đắm vào những ý tưởng riêng tư và sợ phải nhìn quá xa vào tương lai của mình. Ban đêm tôi nằm trên sàn nhà trong lều và cố thu lại những cảm xúc của những người tôi yêu quý gắn chặt vào nhau dưới một mái nhà. Quanh tôi là âm thanh nhè nhẹ của những hơi thở ban đêm, một bản hoà tấu của dế, ve và ếch nhái. Tôi khoá chặt những thứ ấy vào trong tâm trí như một nơi cất giữ an toàn.
Vài tuần sau, chị Chea và Ra ra đi. Hai chị được đưa đến một trại lao động khác. Ngày Khmer Đỏ tập trung nhóm người để đưa họ đi, tôi lê bước ra nhìn theo họ. Tôi đã biết sợ những lời chia biệt, bởi vì đi theo đó là nỗi sợ hãi rằng tôi sẽ không bao giờ thấy lại họ nữa. Khi những người này đứng vào hàng, tôi xúc động thấy dì Rin cũng đứng trong hàng. Dì Rin đẹp đẽ của tôi, mắt ứa lệ, thân hình gầy nhom và mệt nhọc. Tôi chỉ có thể gọi tên dì. Dì quay đi, cố đương đầu với nỗi đau của mình, dì nhạy cảm đến mức dì không thể đối diện với một cuộc chia tay thêm một lần nữa. Tôi để mặc dì, chỉ cầu nguyện cho dì lấy lại được sức mạnh và can đảm để chiến đấu và sống sót.
Chỉ vài phút sau, hàng người bắt đầu di chuyển. Trước khi họ rời nơi đây, tôi muốn nói lời từ biệt với dì Rin. Tôi cũng muốn chạy theo và ôm chặt lấy chị Chea và chị Ra, hay ít nhất cũng nắm tay họ lần cuối cùng, ít nhất thì cũng gọi được tên họ, nhưng lưỡi tôi cứng ngắc. Chỉ có đôi mắt là hoạt động. Tôi tìm dì Rin, nhìn theo dì cho đến khi chỉ còn thấy đôi chân của dì bước đều, dì đã khuất sau những người đi trước và đi sau dì. Chị Chea và chị Ra cũng trôi ra khỏi mắt tôi như thế.
Gia đình tôi tụ rồi tan như thuỷ triều. Chỉ sau một cái vẫy tay, chị Chea và chị Ra đã đi khuất, nhưng anh Than lại trở về từ một trại lao động khác làm Mak nhẹ nhõm. Rồi chị Ry tìm được chỗ trú ẩn trong một bệnh viện Preahnethe Preah bằng cách giả vờ ốm. Đó chẳng qua là một mẹo lừa của chị. Bằng cách ở lại phía sau, chị tránh khỏi cái chết có thể xảy ra vì lao động kiệt sức, nhưng chị phải đủ khôn ngoan để tránh bệnh kiết lỵ do vi trùng amip, hiện đang lan tràn trong các bệnh nhân ở bệnh viện. Phần còn lại của gia đình, Mak, Avy, Map và tôi, phải tồn tại theo cách riêng của mình, đó là làm việc trong rừng vì chúng tôi không thuộc vào nhóm tuổi phải làm việc trong các trại lao động. Anh Than thì làm những gì mà các người lãnh đạo trong làng bảo anh phải làm, cày ruộng hay phát rừng vì lực lượng nam giới dự trữ hụt đi rất nhiều.
Những ngày ấy, chúng tôi phát cây nhỏ, nhổ cỏ nơi cánh đồng chung quanh có cây lớn bao bọc, trong đó có một cây xoài mọc hoang. Vào giờ ăn trưa, dưới bóng mát xum xuê của hàng cây – trong khi các cán bộ Khmer Đỏ ngồi với nhau, cách xa chỗ chúng tôi – Mak và những người phụ nữ khác nói về thời xa xưa. Vừa ăn cháo gạo nấu với lá và muối, họ nói chuyện về các món ăn ưa thích thời trước. Nói về những gì mình không thể có, nghe ra như một cách hành hạ độc ác, nhưng họ lại nói chuyện rất thoải mái.
Khẩu phần ăn lại hạ xuống mức thấp nhất. Bệnh phù thủng cũng lan rộng. Thân hình em Avy sưng phù lên, mắt thì gần như là nhắm tịt. Chĩa lên giữa hai mí mắt nó là hàng lông mi dài. Tóc nó khô cứng và xoăn. Da nó nhợt nhạt, sưng phồng lên vì bọng nước như sẵn sàng bật xuyên qua làn da mỏng. Tất cả chúng tôi đều bị phù, nhưng không đến nỗi tệ như Avỵ Đây hẳn là một trường hợp hiếm hoi do nạn đói gây nên. Nó được miễn lao động cực nhọc, nhưng thân thể nó vẫn không chịu nổi, và thua cuộc.
Để phụ thêm vào phần ăn nhỏ nhoi của chúng tôi, anh Than lén ra ngoài đánh cá. Chỉ mới 13, lớn hơn tôi hai tuổi, có vẻ như anh đã đảm nhiệm vai trò của một người đàn ông trưởng thành, chủ của gia đình. Ban đêm, anh đi bộ rất xa ra đến chỗ hồ, nơi anh đặt sẵn lưới cá,cắm vào chỗ nước cạn và khuất, không ai nhìn thấy được hay đánh cắp mất lưới. Có một đêm anh mang về cả chục con cá, mỗi con to cỡ chiếc muỗng ăn súp. Mak bèn bảo chị Ry – chị thường trở về từ bệnh viện vào ban đêm thăm chúng tôi – đi rửa cá. Tôi dội nước cho anh Than rửa bùn bám vào đôi chân gầy của anh. Mak thì đi gom củi. Chúng tôi đã không hề ăn cá hay thức ăn thực sự nào khác trong nhiều tuần, không kể thỉnh thoảng vài con cóc, nhái, nòng nọc, dế, hoặc rắn mối nhỏ kiếm được trong rừng.
Cá đã nướng xong, màu nâu vàng, nhăn nheo, xếp thành hàng trên chiếc đĩa đặt trước anh Than. Anh đưa cho Mak vài con, Map được hai, Avy một, chị Ry một và tôi cũng được một con. Tôi thưởng thức hương vị cá, tôi cắn một miếng nhỏ, thận trọng như tôi liếm que kem lạnh. Anh Than cũng ăn chậm, miệng anh bận kể lại chuyến đi ra hồ của anh.
Mak nhìn anh, hãnh diện vì đứa con trai của mình. Avy thì đã ăn xong phần con các của nó, nó đưa tay ra, cặp mắt sưng phù van xin, nó ngắt lời “Anh Than, cho em một con cá nhỏ nữa nhé?”
Than hơi bị mất tập trung nhưng anh vẫn tiếp tục kể về chuyến phiêu lưu của mình. Tôi chú ý đến sự kiên nhẫn của Avy, nhất là khả năng kiềm chế cơn đói của nó. Tôi không thể nhớ lần cuối cùng ngồi quây quần và nghe một trong chúng tôi nói là khi nào.
“Anh Than, anh cho em một con cá nhé?” Avy nài nỉ, bàn tay nó đưa ra phía trước.
anh Than bực bội bẻ nửa con cá, lẩm bẩm “Nó ăn mọi thứ, ăn bất cứ cái gì. Kiến nó cũng ăn, cho nên mặt nó bây giờ như thế đó”. Anh nói, giọng bực tức “Con bảo nó đừng ăn, nhưng nó ngoan cố. Nó không chịu nghe”. Anh nhìn Mak như muốn bà đồng tình với mình.
Mak dịu dàng đề nghị “Con đừng giận, p’yoon. Nó đói mà con”.
Anh Than đưa mắt nhìn Avy rồi bật ra “Đồ lì lợm!” anh ném nửa khúc cá về phía nó, khúc cá rơi qua kẽ hở trên sàn nhà, rớt xuống dưới. Avy bèn nhảy theo, nó chạy ra khỏi lều, đầu quay qua quay lại, đưa mắt háo hức tìm khúc cá. Tôi không sao hiểu được điều anh đã làm, tại sao anh lại hung bạo như vậy. Tất cả chúng tôi đều bàng hoàng. Thế mà anh vẫn giận điên lên, người run rẩy, không vì lý do gì hơn là sự thiếu tôn trọng nhẹ nhàng của đứa em gái nhỏ đang chết đói của anh. Mặt anh bừng bừng giận dữ khi chúng tôi chăm chú nhìn.
Cuối cùng Mak nói “Sao con lại làm vậy, koon?”
Avy khóc thảm thiết. Chị Ry và tôi giúp nó tìm lại miếng cá bị rớt xuống dưới gầm nhà. Chúng tôi nhẹ nhàng nhấc từng thanh củi nơi đống củi chỗ khúc cá rớt xuống. Tìm ra được rồi, nó tuyệt vọng thổi bụi bám vào khúc cá đi. Nó ăn, vẫn khóc và run rẩy, như thể việc mất và tìm được miếng cá này tạo ra sự khác biệt giữa cái sống và chết. Ăn hết miếng cá xong, người nó mới thư giãn. Đôi chân nó, giờ đã thay đổi hình dạng, sưng vù, méo mó đến kỳ quặc, chậm rãi mang nó trở lên lều lại. Nó không nói gì, hình như chấp nhận hoàn cảnh và cách người ta đối xử với nó.
Bây giờ anh Than im lặng, chúng tôi cảm thấy anh ăn năn qua sự im lặng đó. Đêm nay mang đến cho chúng tôi một niềm vui ngắn ngủi, rồi tiếp theo đó là nỗi buồn. Thật đau đớn để nhận thức rằng Khmer Đỏ đã đẽo gọt con người chúng tôi, làm cho tính tình chúng tôi dễ cáu gắt và cơn đói của chúng tôi trở nên sắc nhọn hơn. Chúng dẫn chúng tôi đến điểm làm cho chúng tôi trở thành độc ác hơn với nhau như người ta đã từng độc ác với chúng tôi.
Việc phân phối gạo đã hoàn toàn chấm dứt. Nạn đói lại xuất hiện trong chúng tôi. Bệnh phù của Avy lại càng trầm trọng hơn, chất nước từ các kẽ nứt rỉ ra. Nó đi chậm chạp như một con rùa, thân thể nó cứng đờ lại vì chất nước không ngừng sinh ra dưới lớp da mỏng, trắng xanh của nó. Một ngày nọ khi tôi và Mak từ rừng trở về lều thì nó đã đi mất, chị Ry mang nó lên bệnh viện Preahneth Preah. Tại đây nó có được phần ăn, tuy không nhiều nhưng có còn hơn không. Nó sẽ chết tại đó, tôi sợ như vậy. Tôi chưa từng biết ai đến đó mà trở về. Theo chỗ chúng tôi biết, nơi đó chẳng hề có thuốc men, vậy mà chúng tôi vẫn gởi nó đến đó, đến cái bệnh viện thô sơ này, bẩn thỉu và không hề có hệ thống y tế vệ sinh, đầy ruồi nhặng bu vào mắt bệnh nhân, còn người bệnh thì nằm la liệt trên sàn nhà, giữa những chiếc giường đôi cũ kỹ. Dẫu sao cũng có chị Ry ở đó để chăm sóc nó.
Thời gian trôi qua. Đã một tháng kể từ khi Avy rời nhà đến bệnh viện. Ở nhà, chúng tôi cũng có cuộc chiến của riêng mình. Mak, Map và tôi cũng bị nhiễm bệnh phù. Anh Than thì lại được gởi đến một nơi nào đó để lao động, nhưng tôi cũng không còn sức để nghĩ tới anh. Cái đói đã làm mờ trí óc của tôi quá nhiều, đến nỗi không còn lo cho ai được nữa. Mỗi ngày tôi chỉ đủ sức giữ đủ năng lượng cho trái tim mình đập.
Rồi chị Ry trở về Daakpo. Mắt chị trống rỗng, bụng chị nhô ra vì bệnh. Với vẻ mệt nhọc của một bà lão, chị Ry 15 tuổi của tôi gục xuống trên sàn nhà. Mắt chị ráo hoảnh, mặt chị buồn và đầy cảm giác tội lỗi khi chị kể cho chúng tôi nghe về cái chết của Avy. Thều thào, chị giải thích “Đêm qua con đã thấy sự thay đổi nơi thân thể của Avy. Hàm nó nghiến chặt, thân thể cứng đờ. Con thắc mắc, nhưng không hiểu tại sao nó lại ra như vậy. Sáng nay con thức dậy và nhìn nó. Nó đã hoàn toàn thay đổi, cứng đờ, rất gầy. Bệnh phù của nó đã hết. Rồi khi con nhìn vào chân nó, con thấy kiến bu nơi kẽ các ngón chân. Chất nước sền sệt đã rỉ ra qua những chỗ nứt của da. Con ngắm nhìn khuôn mặt trơ xương của nó và muốn khóc, nhưng con không khóc được. Con không hiểu được. Con cũng không khóc được khi nhân viên bệnh viện đem nó đi chôn. Có lẽ vì con đã thấy quá nhiều cái chết”.
Mak không khóc, bà chỉ đưa mắt đăm đăm nhìn xuống chị Ry. Map thì nhìn lên mẹ, nó còn quá trẻ không thể nói gì được và còn quá nhỏ để hiểu được cái chết. Lắng nghe chị Ry mô tả về cái chết của Avy, tôi bỗng sợ cái chất lỏng đang ngay bây giờ hình thành trong tôi, Mak và Map. Cánh tay, mặt, bàn tay của chúng tôi căng phồng lên. Tôi cảm thấy một nỗi kinh hoàng chẹn lấy cổ họng. Cái chết của Avy đã làm cho tôi quyết mình phải sống. Trong thâm tâm tôi tự bảo mình phải đi tìm các loại lá ăn được, cóc, chuột, dế, bất cứ thứ gì tôi cần để sống.
Cái chết của Avy sống dai trong tâm trí của chị Ry. Việc chị không còn đủ sức khóc em đã ám ảnh chị. Trong cơn tuyệt vọng, chị quay về với Phật giáo, một thiết chế từ lâu đã bị Khmer Đỏ tiêu diệt và xem thường. Dù vậy chị vẫn tìm một con đường thích hợp cho chính mình. Chị nhớ đến việc đầu thai, tức ý nghĩ cho rằng sau khi chết chúng ta sẽ tái sinh. Chị cố hoà giải những xung đột bên trong theo cách này, như cha mẹ chúng tôi hay những người lớn thường làm thế trước khi Khmer Đỏ nắm chính quyền. Và chị nói với linh hồn Avy:
“Nếu bang (chị) còn sống để kết hôn, xin linh hồn em gái hãy đầu thai trong dạ con của chị, bang muốn có một cơ hội khác để săn sóc em”. Cuối cùng chị Ry khóc, con tim chị xin một sự lượng thứ, linh hồn chị được an ủi. Tâm trí chị giờ đây được bình yên, chị bảo tôi như thế.
Logged
gicungduoc
Thành viên
*
Bài viết: 95


« Trả lời #46 vào lúc: 13 Tháng Mười Một, 2008, 01:38:11 pm »

Chính tôi cũng nghĩ đến đạo Phật nữa. Tôi nghĩ về những người đã chết và hy vọng họ sẽ đầu thai để tái sinh trong cuộc đời này, trở lại đây khi cuộc sống được tự do và hoà bình được thiết lập lại trên đất nước Cambodia. Với cách suy nghĩ này, tôi nhẹ lòng khi nghĩ rằng mình sẽ gặp lại những người thân trong gia đình.
Mak và tôi bị bệnh nặng hơn. Cộng thêm với bệnh phù là bệnh sốt rét cũng trở lại. Trời nóng, nhưng Mak và tôi đều run cầm vập với cơn lạnh như từ trong thân thể thoát ra. Nằm sau lưng Mak, tôi thấy lưng mẹ run lên trong khi chính thân thể tôi cũng run lên bần bật. Em Map mới lên ba ngồi bên cạnh chúng tôi bối rối, hình như em muốn giúp chúng tôi nhưng không biết bằng cách nào. Rồi có lúc tôi gục xuống ngủ.
Trong khi ngủ, có lúc tôi mơ màng nghe thấy giọng nói nhỏ nhẹ của nó “Mak và Thy bị bệnh”.
Tôi cũng mơ hồ nghe thấy tiếng chân bước lên bậc thang trước cửa lều. Như trong một giấc mơ.
“Mak, con trở về đây. Athy, Athy…dậy đi!” Giọng nói thúc giục, cứng rắn và lo âu. Tôi cảm thấy có một bàn tay lay lay vai mình. Và tôi nhận ra đó là chị Ra. Tôi mừng như phát cuồng.
chị Ra đỡ tôi và Mak ngồi dậy, hứa sẽ “cạo gió” cho lưng chúng tôi. Đó là một phương pháp chữa bệnh truyền thống theo đó người ta dùng đồng tiền chà đi chà lại nhiều lần dọc theo hai bên xương sống và các vùng khác nhằm giúp mau lành bệnh. Sau khi cạo gió xong, chị Ra còn tiến hành một cách khác, một lối chữa bệnh mà người Cambodia gọi là Choup. Bỏ một mảnh gỗ đang cháy đỏ vào trong một lọ thuốc, chị Ra ép ngang vào  trán tôi, phía trên lông mày. Trong lúc quá bệnh, tôi không còn cảm thấy quá nóng nữa – nhưng trán tôi bị cháy, để lại một vết sẹo vĩnh viễn.
Sức lực của tôi dần dần trở lại. Nhìn chị Ra chữa bệnh cho Mak, tôi tràn đầy lòng biết ơn. Tự trong thâm sâu tôi đã tưởng rằng mình và Mak sẽ chết, nhưng chị Ra trở về, kéo chúng tôi trở lại từ bàn tay của thần chết.
Chị Ra kể cho chúng tôi nghe những chuyện khủng khiếp ở Phnom Korg Va, một nơi bệnh tật hoành hành khiến nhiều người lao động đã chết vì kiệt sức, vì không được nghỉ ngơi và vì thiếu thuốc men. Trại lao động đã trở thành một ngọn núi chôn cất người chết. Trong số những người gục ngã đó có dì Rin. Tôi rất đau lòng khi nghe tin này, nhưng thật là kỳ cục khi tôi không cảm thấy thật sự buồn. Chết là một chuyện thường ngày, và chúng tôi đã tê liệt trước cái chết của những người khác. Người ta chết nơi đây, nơi kia, quanh chúng tôi, như ruồi muỗi bị xịt thuốc.
Tôi chuẩn bị tinh thần để đón tin tức xấu hơn, tin về chị Chea. Nhưng chị Ra vội vã trấn an tôi rằng chị Chea vẫn còn sống nhưng chị bị bắt làm việc cực nhọc hơn. Người trưởng đoàn của chị đã canh giữ chị rất chặt, đó chính là người đàn bà đã xem chị Chea như kẻ thù kể từ ngày chị che giấu cho cuộc nói chuyện thầm lặng của chị Ra và chị Ry tại trại Daakpo.
Chính linh cảm đã thúc đẩy chị Ra trở về làng. Trí óc chị không ngừng bảo chị rằng đã có một điều gì rất xấu xảy ra với Mak. Chị biết mình cần phải rời nơi làm việc. Trong vài ngày chị ở tại một bệnh viện, xin thuốc trị sốt rét, trí óc chị luôn luôn nhớ đến gia đình. Thuốc tây à? Thuốc tây vẫn còn sao? Tôi ngạc nhiên khi thấy Khmer Đỏ chấp nhận dùng nó khi mà họ tỏ ra căm ghét tất cả mọi thứ thuộc về thế giới phương tây hiện đại. Chị Ra nói giống như một người kể chuyện hết sức linh động bằng mắt và cử chỉ, như một đứa bé kể một câu chuyện hào hứng. Mak bèn hỏi chị làm sao có thể rời Phnom Korg Va được và tại sao chị Chea không cùng đi với chị.
Chị Ra cười, ấm áp, mắt chị sáng rỡ. Chị thuật lại “Con giả một bức thư nói rằng người mekorg của con cho phép con trở về làng vì mẹ bị đau nặng. Con ký luôn tên bà ta”. Chị lại cười. “Con chạy khỏi Phnom Korg Va lúc trời chưa tối và đưa lá thư ra trình tại các trạm gác. Họ để cho con đi qua, chẳng hỏi han gì cả. Con đi nhờ xe bò từ làng này sang làng khác, cho đến khi về gần đây” Chị thở một hơi thật dài, nét mặt nhẹ nhõm, đưa mắt nhìn Mak.
Cuối cùng chị đưa cho Mak những viên thuốc màu trắng, tròn, nhỏ. Mak lấy vài viên, nuốt chửng một cách tham lam. Bà nghiêng nghiêng đầu như để cho các viên thuốc trôi tuột xuống họng. Tôi nhìn mẹ, tim tôi thắt lại khi thấy khuôn mặt sưng phù, tái nhợt và mái tóc khô xơ xác của bà. Chầm chậm bà đưa tay về phía chị Ra “Cho Mak thêm thuốc nữa, có lẽ nó sẽ làm cho Mak mau lành bệnh hơn”.
Chị Ra đưa chiếc khăn gói thuốc cho Mak “Mak, nhiều lắm đấy”, chị kêu lên, báo động cho mẹ.
Chị co rúm người lại khi thấy Mak vốc một nhúm thuốc bỏ vào miệng. Tôi không biết có bao nhiêu viên Mak đã nắm trong bàn tay. Chỉ sau đó tôi mới hình dung ra là bà đã uống rất nhiều. Mak trở bệnh rất nặng, thân thể bà lăn lộn, khích động và nghẹt thở. Tiếng nôn ụa khan liên hồi của bà làm tôi thấy nhói nơi dạ dày. Tôi thấy may là mình chỉ uống hai viên thuốc sốt rét. Lặng lẽ tôi cầu nguyện. Tôi cầu nguyện trời cho mẹ tôi thoát qua được vụ uống thuốc quá liều này. Đến sáng, tôi nhẹ người khi thấy bà đã khá hơn.
Một tháng sau, chị Chea trở về. Thật kỳ diệu, chị mang theo thức ăn: gạo và cá khô ướp muối. Chị còn mang một hộp đựng cơm và cá đã nướng, một thứ xa xỉ từ lâu rồi chúng tôi không được ăn. Thoạt đầu tôi không nhận ra được chị Chea. Chị trông rất khác, vẻ mặt khoẻ mạnh, da chị đỏ thẫm, vạm vỡ. Tóc chị dày, xoã xuống vai. Chị mập mạp trở lại, trông giống như chính chị trước đây khi Khmer Đỏ chưa cai trị.
 Chị về mang theo những câu chuyện buồn. Nhiều tuần trước đây, trong khi đang phát khu rừng dày ở Phnom Korg Va để trồng bông vải, một nhánh cây đã cắt đứt chân chị, tạo ra một vết thương nhỏ và nhanh chóng nhiễm trùng. Chị không thể đi đứng được và như vậy thì chị không làm việc được. Chị biết rằng như thế số phận của chị được tính từng ngày. Người trưởng đoàn bây giờ đã có cơ hội tốt để kết án chị, buộc tội chị là đã “không làm tròn nhiệm vụ đối với Angka”. Với ý tưởng ấy trong lòng, chị Chea bèn nghĩ ra một cách để cứu chính mình.
Một mình trong trại, chị viết một bài nhạc chiến đấu cho người trưởng đoàn của mình. Một bài hát về thiên nhiên, về rau cải xanh tốt, về trái cây, vụ mùa, tất cả những gì mà chị đã tạo ra trong mấy tháng lao động vừa qua. Đó là một bài hát ca ngợi lao động nặng nhọc ở Phnom Korg Va.
“Rồi một buổi tối chị đến thăm bà mekorg,” chị Chea nhớ lại. “Chị hỏi bà có khoẻ không. Bà ta có vẻ ngạc nhiên. Rồi chị tán tụng bà, khen bà rất hấp dẫn. Chị bảo bà rằng nếu ở vào sangkummun (xã hội trước), nhiều đàn ông hẳn điên lên vì bà. Họ hẳn sẽ huýt sáo và tán tỉnh bà. Em biết sao không? Bà ta trở nên rất thoải mái”. Chị cười, mắt sáng lên hài lòng. “ Rồi chị hát cho bà ta nghe bài hát ấy. Bà ta có vẻ hài lòng lắm”.
Mắt tôi mở rộng, như là tấm gương phản ánh nét mặt linh hoạt của chị. “Bà rất hài lòng thấy chị đã viết bài hát ấy, nhất là viết cho bà. Sau đó bà ta không làm khó chị nữa. Bà đối xử với chị tử tế hơn, còn đem thức ăn cho chị nữa. Bà cho phép chị về làng khi trông thấy cái chân sưng của chị. Vào thời nào cũng  vậy, p’yoon srey”, chị nhìn tôi nói, “Người ta đều thích kẻ khác khen ngợi mình, và nhiều người đều thích được hối lộ”.
Nhưng bây giờ vào năm 1977, nhiều thay đổi đang xảy ra. Angka Leu gởi cho chúng tôi một dấu hiệu rõ ràng, bảo cho chúng tôi biết là chúng tôi sẽ không còn gì riêng tư nữa. Trong một cuộc mít tinh, chúng tôi được cho biết rằng sẽ không còn phân phối gạo, muối và rau như trước nữa. Mọi thứ đều được gởi đến nhà bếp của công xã. Thức phẩm như rau cải, gà, vịt, nếu một ai trong chúng tôi nuôi trồng được, cũng đều thuộc về công xã. Với lệnh mới này, chúng tôi phải di chuyển đến một ngôi lều mới cách ngôi lều cũ khoảng nửa dặm. Cũng giống như lều cũ, dựng bằng cột tre và lá dừa, hơi rộng hơn chỗ cũ một chút. Nó nằm trong số các túp lều khác ở rải rác, nhà nào cũng có nhiều không gian hơn ở mặt trước và mặt sau – đây là đất mà chúng tôi có thể trồng rau, trái bằng công sức lao động của gia đình mà tôi không muốn công xã Khmer Đỏ lấy mất. Như thế có nghĩa là tôi phải chuẩn bị tinh thần cho cái ngày họ đến gặt hái rau quả của gia đình này.
Tôi gần bình phục khỏi bệnh sốt rét và Mak cũng vậy, nhưng sức khoẻ của bà dần dần lại xấu đi theo một cách khác. Trong ngôi lều mới này bà sống cùng với chúng tôi, cùng ăn tối bằng gạo trộn lá khoai và muối như chúng tôi, nhưng bà luôn luôn nhìn ra khoảng xa, mắt đăm đăm nhìn một vật gì đó vô hình. Tôi biết Mak đang than khóc. Từ khi năm 1975, lúc Pa bị hành hình đến nay đã gần hai năm, bà không bao giờ nhắc đến ông cho đến bây giờ, mùa xuân 1977. Nhớ lại, bà nói về ông và buồn vì ông . Bà nói lớn lên rằng Pa đã chết đau đớn như thế nào, hình như bà nói với chính bà hơn là với chúng tôi. Kể từ khi em Avy chết, bà đã thay đổi. Bà trở thành thẫn thờ, chán nản, thường kêu nhức đầu, chóng mặt và mệt mỏi. Bị bệnh gần cả tháng trời, Mak không làm được việc gì, chỉ ăn và ngủ. Tất cả chỉ có chừng đó. Bộ mặt của Mak nói lên hết nỗi thất vọng của bà.
Một buổi sáng tôi thức dậy khi nghe tiếng Mak “Mẹ muốn đi nhỏ cỏ, mẹ muốn làm việc tay chân một tí”. Bà nói khẽ với chính mình. “Mẹ không muốn bị nhốt mãi trong lều”.
Mak vọt dậy ra khỏi lều. Chị Chea và chị Ra đã đi làm việc, chỉ còn lại Map ở trong nhà. Với con dao trong tay, dụng cụ mà bà dùng cho bất cứ công việc gì, Mak xới đất khô trước cửa lều, bứt và nhỏ cỏ dại. Có lẽ ra ngoài nắng giúp cho sức khoẻ của bà tốt hơn, nhưng tôi sợ bà bị các cặp mắt rình mò của mấy tên chỉ điểm nhìn thấy .
“Đồng chí kia, tại sao không đi làm việc?” một giọng nói gầm gừ. Tim tôi đập liên hồi khi nghe giọng nói quen thuộc. “Mọi người đi làm việc còn đồng chí thì lại ở nhà! Có muốn tôi đem đi cải tạo không?”
“Tôi bệnh, cả người tôi sưng phù lên” Mak yếu ớt trả lời, phản đối. “Tôi đói, tôi muốn nhổ ít cỏ để mấy đứa con có thể trồng rau. Thật khó nằm hoài trong lều”. Mak van nài “Tôi bị bệnh, làm sao làm việc như những người khác được?”
Tên chỉ điểm gắt gỏng “Đi đến peth nếu bà bị bệnh, còn không được ở nhà!”
“Hai đứa con tôi đã chết ở đó. Chẳng có ai giúp đỡ chúng cả. Nếu tôi đi nữa, ai lo cho tụi con tôi ở đây? Tôi còn một đứa con trai nhỏ đang cần tôi. Tôi phải ở nhà để chăm sóc nó. Xin Angka Leu hiểu và để tôi ở nhà để chăm sóc con tôi được không? Nếu tôi đi, tôi sẽ chết tại đó như mấy đứa con tôi”.
Lời van xin không hề lọt vào tai hắn. Hắn đưa ra một lời tối hậu “Nếu bà không đi peth, tôi sẽ cho người đưa bà đi! Nếu không làm việc được, thì bà phải ở bệnh viện!”
Buổi tối khi chị Chea, chị Ra và chị Ry về, Mak báo tin xấu.
“Họ muốn Mak vào peth và chết ở đó. Họ không cho mẹ ở nhà. Tất cả các con phải chăm sóc cho p’toon proh (em trai), nó còn nhỏ, không hiểu gì. Đừng nổi nóng với nó. Cố chăm sóc lẫn nhau. Mẹ không biết bao giờ mới trở về. Mẹ không muốn đi nhưng tên chhlop đe doạ Mak. Mẹ không muốn chúng làm hại các con. Cuộc đời sao khắc nghiệt quá…Mak đã xin Preah để cho Mak sống thêm một năm nữa, thế vậy mà…”
giọng Mak lặng dần, trong lều chỉ còn sự im lặng. Trong một lúc chúng tôi chìm trong tuyệt vọng, chúng tôi nghẹn lời vì sự chấp nhận của bà. Chúng tôi thầm sợ rằng một ngày nào đó Mak sẽ mất ở bệnh viện, nhưng không ai trong chúng tôi nói ra điều đó. Cuối cùng chị Chea phá vỡ im lặng “Mak, đừng lo cho tụi con. Mak hãy chăm sóc cho mẹ, còn tụi con sẽ săn sóc lẫn nhau”.
“Mẹ đã cầu xin Preah cho mẹ sống thêm một năm nữa…” một ước muốn khiêm tốn, nhỏ bé và vô vụ lợi biết bao! Chỉ một năm, không ngắn hơn, không dài hơn, tôi ước chi đó không phải là Mak tiên đóan số phận của mình. Tôi không muốn biết, tôi không sẵn sàng, ước muốn của Mak gợi cho tôi nhớ ước muốn của Pa gần hai năm về trước.
trở lại vào lúc đó, cuộc sống của gia đình chúng tôi đã vô cùng hỗn loạn. Ngôi nhà của chúng tôi ở Takeo, con chó của chúng tôi là Aka Hom bị giết, anh Tha chết, rồi em Bosaba. Pa bị đau viêm ruột thừa, bệnh nặng hơn vì thiếu thuốc men trong thời gian chiến tranh. Ông bảo với chúng tôi ước vọng đơn giản và tuyệt vọng của ông là được sống cho đến tuổi 42, “Để ba được thấy các con lớn lên”. Lời ước của ông đã được thực hiện, ở tuổi 42, Khmer Đỏ đã chặt đầu ông. Cho nên tôi sợ lời ước của Mak cũng thành sự thật. Trời sẽ chấp thuận, một năm, không hơn.
Ngày Mak đi bệnh viện Preahnethe Preah, lòng tôi chất đầy ý tưởng sợ sệt, hoang mang. Khi tôi làm việc trong rừng, tay tôi thì vẹt cỏ nhưng tâm trí tôi nghĩ đến Mak. Việc chia cách gia đình tôi bây giờ đảo ngược. Thay vì xa cách anh chị tôi, bây giờ tôi xa cách mẹ tôi, bà là người duy nhất bị tách khỏi chúng tôi. Tôi sợ mình trở về lều, hình dung ra cảnh Map đứng đợi một mình trong căn lều vắng.
Logged
gicungduoc
Thành viên
*
Bài viết: 95


« Trả lời #47 vào lúc: 13 Tháng Mười Một, 2008, 01:39:02 pm »

Không có Mak, chị Chea trở thành người mẹ thay thế. Ban đêm Map ôm chặt lấy chị, nó vòng tay qua để ôm chị hay để chị ôm nó. Vào lúc đó tôi nhận ra được cái nhu cầu cần thiết của một đứa trẻ muốn được chở che, và một người chị đặt tất cả tình yêu thương vào cái mà mình đang có. Kể từ khi mẹ tôi rời gia đình, chúng tôi rút lại gần nhau hơn, như con tim và trí óc buộc chặt vào nhau bởi một sợi dây vô hình. Khi chúng tôi cùng nhau đi lao động, chúng tôi đọc vào mắt nhau như thể kiểm tra xem người kia có nhớ Mak không hay buồn vì bệnh tình của Mak. Chúng tôi dọn bữa ăn tối có cơm và lá lên đĩa như những người lớn nhỏ bé, đưa thức ăn cho nhau, lễ phép, kính trọng nhau. Chúng tôi giữ ý tưởng cho chính mình, không nói ra lời. Bởi vì nói ra những sợ hãi chỉ làm cho chính chúng trở nên trầm trọng thêm, mở ra những khả năng đen tối hơn mà thôi.
Tại bệnh viện, bệnh nhân phải cố tìm cho mình sự tự tin để tồn tại. Những người thành công ở đây đã học được những thủ thuật này. Những kẻ cạnh tranh với họ trong cuộc chơi sống còn này là lũ chuột, những cư dân của bệnh viện ẩn kín vào ban ngày. Chúng có đủ loại, từ nhỏ bằng ngón chân đến lớn bằng trái đu đủ. Chỉ đến đêm cuộc chơi mới bắt đầu. Từ đâu đó phía dưới gầm nhà, chúng nhẹ nhàng chui ra. Tiếng chân của chúng lớn dần lên rất nhiều trong đêm tối im lặng. Chúng bò đi rồi ngừng lại. Mak cũng như nhiều bệnh nhân đang đói khác, cũng làm như chúng – không cử động, yên lặng hoàn toàn. Với tấm chăn phủ cả lên người và đầu, một vài hạt gạo rải rác trên sàn làm mồi, bà đợi, bàn tay đói khát chuẩn bị để phóng ra. Các chú chuột ngửi thấy mồi. Cái đói kéo chúng lại cái chết khi tay Mak chộp lấy chúng. Bà mau chóng giết chết chúng bằng cách bóp cổ cho đến khi chúng bất động. Thật là một cái vòng tròn kỳ lạ - loại gặm nhấm đến gặm đồ của người bệnh và người chết, còn kẻ đang chết thì chờ đợi bắt bọn ăn cắp thức ăn của họ. Các con chuột này sẽ là bữa ăn của mẹ ngày hôm sau, nếu như những người chia xẻ với bà cái sàn nhà chật chội này không ăn cắp của bà.
Chị Ry kể cho tôi nghe về Mak, về cái thủ thuật làm sao sống sót của bà trong bệnh viện. Nhưng điều này thì tôi biết rồi. Đấy chính là điều tôi đã làm trong chính căn lều này. Ban đêm trùm kín lên người và đặt một lon sắt trong bỏ vài hạt thóc làm mồi bên cạnh, rồi nằm chờ chuột. Về sau tôi cứ ngủ, ngáy nhè nhẹ cho đến khi cảm thấy hoặc nghe thấy tiếng chân chuột bò lên lon sắt. Đôi khi tôi chụp được hai con hoặc hơn nữa, cả bốn con trong một dịp. Đến sáng, tôi lột da, vứt ruột đi và buộc thân thể nhỏ bé của chúng trên một cái gậy. Mỗi con chuột nhỏ bé chỉ vừa đủ một miếng cho nên tôi cố ăn cả xương. Vào buổi chiều, tại bếp ăn tập thể, tôi nướng chúng trên ngọn lửa. Tại đây có vài đứa bé trai lén nhìn tôi ghen tỵ, thì thào với nhau. Chúng không biết làm sao tôi bắt được chuột vào thời gian này trong năm.
Thoạt đầu bắt được nhiều, rồi nguồn dự trữ cũng cạn dần đi. Tôi không còn có dịp để bổ sung vào phần ăn của mình như Mak ở bệnh viện Preahnethe Preah. Nhưng vài tuần sau khi Mak đến đây, bệnh phù của bà trầm trọng hơn. Bụng bà to ra và phình lên như người đàn bà có chửa. Chị Ry về kể lại cho tôi, mắt chị đỏ quạch.
Lại nhiều tuần nữa qua đi, chị Ry trở về làng với nhiều tin tức hơn. Một nhân viên ở bệnh viện đã đề nghị chị đưa Mak đến một bệnh viện khác ở làng Choup, không giống như ở Preahnethe Preah, ở đó có thuốc men điều trị, người nhân viên hứa với chị Ry như vậy. Chúng tôi chưa bao giờ nghe nói đến bệnh viện này. Mặc dù thật đau lòng khi hình dungmẹ chúng tôi ở một nơi không ai biết đến, cái viễn cảnh mẹ được điều trị bằng thuốc men đàng hoàng làm nhẹ nỗi đau này đi rất nhiều. Nó làm cho chị Ry hy vọng, và chị muốn thuyết phục chúng tôi nghe theo, chị đợi ý kiến của cả gia đình.
Ngày trước hôm Mak rời khỏi Preahnethe Preah, chị Ry mang Map đến bệnh viện với chị. Map ở lại đó một đêm với Mak và chị Ry. Ngày hôm sau họ nói lời từ biệt với Mak. Chị Ry nhớ lại và miêu tả cảnh tượng ấy.
Dưới một tàn cây, che khuất khỏi ánh nắng mặt trời buổi chiều, Mak ngồi sụp xuống đất trước cửa bệnh viện, chờ họ mang tới Choup. Mak nói lời từ biệt với chị Ry, còn tay mẹ ôm lấy Map, mẹ chậm chạp khuyên:
“Koon, mẹ không biết đến khi nào thì mẹ được gặp các con lại. Hãy chăm sóc lẫn nhau. Nếu Map làm gì sai, hãy chờ cho nó ăn xong rồi thì la mắng nó. Nó còn nhỏ, không biết gì, hãy tội nghiệp nó…” Mắt mẹ đỏ quạch vì khóc quá nhiều.
Nói xong câu cuối cùng, mẹ quay đầu nhìn Map đăm đăm. Nước mắt mẹ lại tràn ra. Map vùng ra khỏi cánh tay mẹ, ôm  cứng lấy cổ bà. Một tiếng khóc cao vút, trong trẻo phát ra từ miệng nó. Cảnh chia ly diễn ra rất ngắn ngủi. Một chiếc xe ngựa tiến đến gần. Mak quay đầu đi, buông Map ra. Tiếng khóc của Map biến thành tiếng thét, chân của nó quắp lấy chân Mak. Chị Ry cố kéo nó ra khỏi mẹ và hai người lạ mặc đồng phục đen từ trên xe bước xuống kéo mẹ ra.
Map gào lên “Mẹ, mẹ đừng đi!”
Chị Ry cứng người, hút hồn nhìn thân hình gầy gò yếu ớt  của Mak khi họ đỡ bà lên xe như đỡ một bà già. Chị đăm đăm nhìn theo chiếc xe trong khi cố giữ Map, chận không cho nó chạy theo xe. Tay nó quơ quào, giơ về phía chiếc xe, ngón tay nó duỗi ra chỉ về phía chiếc xe mỗi lúc một xa dần và biến mất.
Thế là vào tuổi lên ba, Map hàng ngày bị bỏ ở lều một mình để tự chăm lo lấy bản thân. No ngồi bất động giữa lối vào không cửa như một bức tượng nhỏ trong đền. Khi chị Chea, Ra hay tôi đi làm việc trong rừng về, nó lục lọi khăn của chúng tôi, tay nó sục trong đám lá mà chúng tôi hái về để tìm thứ gì ăn được – một củ khoai hay một rễ cây ngọc giá. Khi chúng tôi bảo nó chẳng có gì ăn đâu, nó không khóc. Mắt nó lấy lại cái nhìn xa vắng và nó lại trở thành một pho tượng nhỏ, hững hờ như trước.
Vào gần giờ ăn trưa, Map mang theo muỗng và bước đi. Nó đã học cách tìm đường đến bệnh viện Preahnethe Preah. Tại đó nó tìm chị Ry. Chị chia cho nó phần cháo gạo của mình, tuy ít ỏi nhưng vẫn còn hơn những gì chúng tôi có ở Daakpo.
Đôi khi Map trở về với một bụng thức ăn. Hoặc có khi chị Ry còn gởi nó mang về cả thức ăn  buổi chiều. Đó là một hành động thương em liều lĩnh. Vì chị là một bệnh nhân, nên chị sở Khmer Đỏ bắt được chị chia phần thức ăn của mình với em. Chị sợ hình phạt sẽ là bắt chị trở lại trại lao động cưỡng bách. “Sốt xạo” – đó là từ mà Khmer Đỏ dùng để chỉ những công nhân giả vờ ốm đau. Mệt nhọc và đói kém không phải là vấn đề, nhưng chị Ry chưa lành bệnh, bụng chị còn sưng vù lên vì bệnh phù. Vì vậy sợ việc chị chia phần cho em hay gởi thức ăn về nhà có thể làm cho họ hiểu là chị đã lành bệnh và điều này sẽ mang lại sự trừng phạt cho cả hai người. Mặc dù sợ như vậy, chị vẫn tiếp tục chia phần ăn cho Map bất cứ khi nào không có ai dòm ngó.
Tại lều, các thứ rau chúng tôi trồng đang mọc lên rất tốt, nhô lên những đọt mầm xanh ngắt quanh lều. Phía trước mặt lều là những luống bắp cao, những trái bắp màu kem đã nở rộ, râu bắp thò ra, phủ nặng cả thân bắp. Phía bên cạnh và phía sau lều là hàng ớt. Cạnh bên đó là luống tiêu và bạc hà Mvorg, trước hàng bắp mọc thêm vài luống khoai sọ. Dây leo từ giàn bí lan ra giống như cây trường xuân, nở hoa vàng rộ, lá xanh và đầy gai. Dù cho Angka nói rằng tất cả các rau quả đó đều thuộc về công xã, mọi người đều tự thu hoạch lấy trong vườn của mình.
Tôi thức giấc trong làn sương mù mờ đục của một buổi sáng mùa hạ. Chị Chea bảo tôi hôm ấy hãy ở nhà. Chị bảo tôi chỉ đường cho Map đường đến lều của Yiey Om, em gái của Kong Houng, và cũng là người cô của Pa mà trước đây ông rất ưa thích. Không biết làm cách nào mà cuối cùng gia đình bà cũng đến ở làng Poi-kdurg, cạnh Daakpo.
Khi Map và tôi đến nhà bà, thì bà và mấy người con gái mà tôi gọi là Kao (cô) đang làm gì giống như là dệt, luồn những sợi chỉ ngang qua trên và dưới những sợi chỉ dọc, đã được gắn vào một khung gỗ. Tôi đã thấy công việc này rồi, rất lâu về trước, khi Pa dẫn tôi đến nhà bà. Lúc đó tôi mới chừng ba tuổi.
Yiey Om đón chúng tôi bằng một cái nhìn dài, đôi mắt bà nhìn qua phía trên của cặp kính, nghiên cứu những kẻ đang đứng trước mặt bà.
“Chao (cháu) đến thăm yiey đấy hả?” bà hỏi, giọng cất cao có vẻ lưu tâm.
“Thưa bà, chị Chea bảo cháu mang Map đến đây”, cuối cùng tôi nói, hơi do dự vì sợ sẽ xúc phạm đến bà. “Chị muốn Map đổi ớt và bạc hà để lấy thứ gì ăn” Tôi lập lại đúng những gì chị Chea dặn tôi nói. Tôi cảm thấy hai chúng tôi chẳng liên hệ gì đến từ “đổi” đang trôi qua môi tôi hết.
“Được, các cháu có gì nào?” Bà Om đưa tay ra đón chiếc khăn trong đó tôi gởi cả một mùa thu hoạch nhỏ gồm ót và bạc hà mvorg.
Bà nhìn vào túi khăn và khen ngợi hết sức nhiệt tình giống như trước đây tôi đã từng nghe bà nói khi Pa đem tặng bà xà phòng hay thuốc tẩy. Nó giống như tiếng vọng bị quên lãng của sự phấn khích của bà. Cúi mình xuống bên một nồi nước sôi sùng sục trên ngọn lửa, bà lấy một chiếc mủng dẹt, rồi xúc vào đó những bao kén nhỏ nổi lềnh bềnh trong nồi.
“Đến đây ăn đi các cháu”, bà hất đầu về phía tôi và Map ra hiệu.
Tôi nhặt lấy một cái bao nóng nhỏ bằng hạt đậu phụng lên. Bên ngoài của bao kén thô xù xì như một miếng vải thấm nước. Tôi cầm cái kén bằng hai ngón tay. Cuối cùng tôi hỏi “Yiey, đây là cái gì thế? Bà ăn như thế nào?”
“Như thế này này cháu…” Bà ngưng dệt, lấy ngón tay xé cái bao kén. Bà đưa cho tôi xem bên trong, một con nhộng nhăn nhúm màu kem cỡ bằng hạt đậu. Tôi rùng mình, người rúm lại khi thấy con sâu bất động màu trắng xanh đó. Bà cười tủm tỉm, mấy người con gái bà cũng cười. Đó là con nhộng tằm, bà bảo, và người ta thường ăn thứ này.
Tôi bỏ một con vào miệng. Tôi hơi rúm người lại, nhai thật nhanh rồi nuốt vội con côn trùng nhả tơ màu kem này. Vị ngon. Nhưng ý tưởng ăn một con nhộng thì thật khiếp.
Map thì rất thích. Ngón tay nhỏ xíu của nó lột kén như lột đậu phụng, miệng nhai tóp tép như nhai kẹo.
Gia đình Yiey Om có đặc ân hơn hầu hết “dân mới” tại làng Daakpo và các làng lân  cận. Thay vì phải ở trong lều dựng tạm như nhiều “dân mới” khác, gia đình bà được ở trong một ngôi nhà gỗ lớn dựng trên cột sàn. Có vẻ như Khmer Đỏ chấp nhận họ nhiều hơn hầu hết chúng tôi. Đó là nền tảng của  cách đánh giá của Khmer Đỏ, đó là cách sống cổ truyền mà nhà bà Om đã thành thạo từ lâu – nghề dệt, và không một ai trong họ bị bệnh phù thủng cả.
Bà Om để chúng tôi ăn bao nhiêu nhộng thì ăn, rồi bà lấy lá gói một nắm đưa cho Map đem về.
 
*
Mùa hè này chúng tôi có thu hoạch. Những trái bắp lớn hơn, chĩa thẳng lên trời, màu vàng nhạt, ép vào nhau như những hàm răng ấm áp. Đây là lần đầu tiên chúng tôi trồng  được nhiều rau quả, thế mà Mak lại không có ở đây để hưởng.
“Athy, em đem một ít bắp cho Mak, đem Map đi theo với em” Chị Chea ra lệnh, giọng chị cương quyết, lời chị tuôn ra như thể chị đợi nói điều này đã từ lâu lắm rồi “Đừng đi làm việc. Mang bắp cho Mak và mang Map đi theo để nó thăm mẹ. Mak không gặp nó đã lâu rồi”.
Ý tưởng được gặp lại Mak thật dễ chịu nhưng tôi sợ. Tôi nhắc chị Chea về bọn chhlop, về người lãnh đạo làng, về sự trừng phạt có thể có. Chị quay sang nhìn tôi, nét mặt chị có vẻ trầm tư. Điều này thường xảy ra khi chị muốn dạy bảo hay chia xẻ điều gì đó với tôi.
“Nếu mang thức ăn cho mẹ mình là một tội ác, thì chị sẽ chịu trách nhiệm về chuyện đó. Chị sẽ trình bày với lãnh đạo. Em chỉ mang thức ăn cho mẹ, không phải cho kẻ thù của Angka”.
Tôi đặt lòng tin vào chị. Khi chị bảo cho Map nghe  về chuyến đi, mắt nó ngời sáng. Nó theo tôi đi quanh nhà trong khi tôi lấy tám trái bắp, bốn cho Mak và hai cho mỗi chúng tôi – Map và tôi. Tôi bỏ bắp vào nồi nấu. Map giúp tôi bằng cách lượm các cành cây nhỏ bỏ vào hố nấu trong khi tôi làm bột me bằng cách nghiền trái me xanh chua với muối thô.
Đến giữa trưa thì chúng tôi ra đi. Tôi bỏ bắp vào túi khăn, hãy còn nóng, ép vào gói nhỏ đựng muối me. Chúng tôi đi thật nhanh, mắt tôi canh chừng, thường xuyên ngoái lại nhìn phía sau vai. Tôi nắm chặt tay Map. Chúng tôi đã qua làng Daakpo từ lâu và vào một dãy đường trải đá vụn chung quanh không có bóng dáng chiếc lều nào. Nỗi lo sợ bị bắt gặp đã giảm, nhưng thân thể tôi và Map đã yếu đi, chậm đi vì ánh nắng mặt trời gay gắt.
Logged
gicungduoc
Thành viên
*
Bài viết: 95


« Trả lời #48 vào lúc: 13 Tháng Mười Một, 2008, 01:39:41 pm »

Con đường đá nóng bỏng dưới chân chúng tôi. Tôi phải cõng Map lên cho đến khi quá mệt tôi không thể nào cõng nó được nữa. Nghe tiếng Map khóc, một người đàn bà bảo chúng tôi dừng lại và cho chúng tôi một ít nước. Tôi cảm động vì lòng tử tế của bà, nó giúp cho tôi thêm can đảm để tiếp tục cuộc hành trình. Chúng tôi đến một vựa chứa thóc cũ kỹ, hư nát, chung quanh toàn rau xanh, nơi một gia đình nào đó trồng rau trước và sau lều của họ. Ngay phía trước vựa lúa là những luống bắp, bí và ngọc gía. Nhưng có một cái gì đó không phải. Có một cái mùi nồng nặc, giống như mùi hôi bốc lên từ cánh đồng rải rác phân người bị bệnh kiết lỵ và tiêu chảy.
“Thy, na Mak?”  Mak đâu, Map hỏi, giọng nó run run vì sợ.
Chúng tôi tiến gần đến cái vựa lúa không cửa, mùi hôi càng nồng nặc hơn. Những tiếng rên rỉ chào đón chúng tôi.  Đi trước Map, tôi nắm chặt tay nó và tiến vào bên trong. Trong ánh sáng câm lặng, chúng tôi nhìn thấy những con người nhợt nhạt, sưng phù, có lẽ chừng ba mươi người, nằm trên những chiếc giường sắt xấu xí, trơ trụi dựa sát vào vách. Chừng mười hai bệnh nhân khác nhét cứng vào lối đi giữa hai dãy giường, người này chỉ cách người kia vài phân. Họ nằm trên đất bẩn, một số nằm trên tấm vải dầu, người khác nằm trên quần áo bẩn. Phía dưới giường ngay gần họ là đám ruồi nhặng bay vù vù trên những đống phân đọng thành vũng trên nền nhà. Ruồi cũng đậu trên mắt, trên vết thương, quanh lỗ mũi, cạnh miệng, hút những chất bẩn thỉu trên thân người đang chết.
Tôi nhìn từ giường này sang giường khác để tìm Mak nhưng không thấy bà. Tôi kéo tay Map, dẫn nó đi theo lối giữa hai hàng giường. Nó cứng người lại vì kinh hãi, tôi cứ kéo nó đi như kéo một bao gạo. Chầm chậm tôi nhìn kỹ từng bệnh nhân. Dù quanh cảnh quanh đây làm tôi hãi hùng, mắt tôi vẫn cố nhìn lấy tất cả - cảnh bệnh tật, sự bẩn thỉu, cảnh chen chúc – nhưng tôi vẫn không tìm thấy mẹ tôi.
“Thy, na Mak?” Map bắt đầu khóc “Na Mak?” Nó lập đi lập lại nhiều lần, giọng nó đã bắt đầu có vẻ động kinh.
Cuối cùng tôi đành trả lời “Thy không biết”.
Bỗng một cô gái nhỏ bước nhanh về phía chúng tôi. Nó bảo “Bang (chị), bà ấy là mẹ chị đó!” Nó đưa tay chỉ. Trong một vài giây, tôi nhìn nó chăm chú.
Ai đây? Làm thế nào nó biết mẹ tôi? Và biết cả tôi nữa?
“Bà ấy kia kìa” con bé nói và lại đưa tay chỉ, giọng gấp rút của nó đưa tôi về với thực tại.
Tôi nhìn theo tay nó và tôi thấy một người đàn bà yếu ớt đang ngồi trên chiếc giường sắt trống trơn, xấu xí. Trán bà tựa vào đầu gối, mặt bà nhợt nhạt và mí mắt sưng húp. Đó không phải là Mak! Tôi quay sang cô bé, tìm một lời khẳng định. Nó nhìn tôi rồi nhìn người đàn bà. Tôi ngắm kỹ người đàn bà yếu đuối, bệnh hoạn một lần nữa, rồi nhận ra quần áo bà đang mặc.
“Thy, Mak đó hả?” Map kéo tay tôi hỏi, nhưng tôi đang cuống lên trước những gì tôi trông thấy, thật là một cơn ác mộng.
“Ừ, Mak yurg (mẹ của chúng ta)” Tôi nhẹ nhàng trả lời, rồi tôi thả tay, buông mấy ngón tay của Map ra. Mắt tôi nhìn xuống chiếc áo hoa của bà từng in hình một bó hồng rực rỡ với chùm lá xanh tươi. Giờ đây áo bạc màu cũ kỹ quá, hoa bạc thành một màu nâu xám như màu bùn.
Mak chầm chậm nhấc đầu lên khỏi đầu gối, tai bà cố dò tim giọng nói của chúng tôi.
“Koon srey Mak, koon srey Mak, koon proh meas mdaay. Con trai yêu quý của mẹ, con trai nhỏ của mẹ, đến đây với mẹ. Mẹ nhớ con lắm”.
“Mak” Map với tới mẹ, cả hai tay nó níu lấy cánh tay bà, mắt nó đăm đăm nhìn bà.
Mak ôm lấy nó, cánh tay sưng vù của bà cử động khó khăn, dường như nó quá nặng.
“Mak, con là Thy đây” tôi nói với bà, nhìn vào mí mắt căng phồng của mẹ. Chắc bà không nhìn thấy tôi được. Đây giống như là nhìn một bản sao vặn vẹo của khuôn mặt mẹ tôi – bộ mặt nhợt nhạt, chảy dài của một người béo phì, hai bên thái dương thụt vào, tóc dựng đứng như dây thép gai. Cử động của mẹ chậm chạp và nặng nề như một bà già. Thay vì hỏi han mẹ, tôi chỉ đứng nhìn bà. Quai hàm tôi như cứng lại, tôi cố tìm những lời nói thích hợp với những gì tôi thấy. Bởi vì tôi biết tôi đang nhìn vào cái chết. Tôi phải nói gì với mẹ để cho mẹ hy vọng, cả khi điều đó cũng không đáp ứng đi nữa. Ít nhất nó có thể làm cho bà vui được trong một chốc.
“Con đem Map lại đây thăm mẹ đó” lời nói trôi ra khỏi miệng tôi. Tôi muốn an ủi bà, làm bà cảm thấy dễ chịu hơn một chút. Tôi cố gắng nói sao cho có vẻ bình thường ở cái nơi lạ lùng này. “Con có đem cho mẹ bắp trồng ở quanh nhà, con cũng có làm cho mẹ bột me nữa. Mak, chắc mẹ thích bột me trộn với cơm – chính vì thế mà con làm cho mẹ đấy”.
“Koon, mẹ không thể ăn bột me được, mẹ bị kiết lỵ mà” Bà nhẹ thở dài. “Con và em con ăn đi. Mẹ ăn bắp được rồi. Nào, đưa bắp cho mẹ đi”.
Tay tôi mở nút thắt khăn, tim tôi đau nhói. Tôi ước chi tôi biết phép thuật. Trong một lúc tôi trở lại là đứa bé hồi xưa, ngồi trên đi văng xem các cuốn phim về pháp thuật Cambodia và muốn đến Hymalaya để kiếm một ít pháp thuật riêng cho mình. Nhưng điều duy nhất bây giờ tôi thấy là nước mắt bắt đầu dâng đầy trong mắt tôi.
“Mak, bắp của mẹ đây”
“Chỉ đưa bắp cho mẹ thôi nhé, koon Mak” Giọng bà ngọt ngào và khao khát. Nhưng…
“Athy, con, bắp này còn sống, nó sẽ làm mẹ bị tiêu chảy thêm mà thôi”. Mak nói, giọng bà đầy thất vọng. Chầm chậm, bà đưa trả trái bắp lại cho tôi.
Sức nóng từ cả người tôi bốc lên mặt. Tôi thấy tổn thương, thất vọng, giận mình vì bắp chưa chín. Tôi nhìn vào chỗ bà cắn nơi trái bắp và kiểm tra phần còn lại – đúng là bắp còn sống. Tôi điên lên vì giận mình. Ngu biết mấy! Tôi kêu thầm. Tại sao mình lại làm cho mẹ khổ thêm, tại sao mình không xem kỹ bắp đã chín chưa?
Tôi cứ tưởng là mình đã coi kỹ rồi.
 Theo lời chỉ dẫn của Mak, tôi chạy ra phía sau vựa để tìm than nướng lại bắp. bước ngang qua những bệnh nhân đang rên rỉ, những nạn nhân của padewat (cách mạng). Trong một cái hố người ta đào để nấu ăn, tôi tìm được một ít than còn hồng, chưa tắt. Tôi gom một ít các cành khô gần đấy, nhẹ nhàng chồng chúng lên nhau. Quỳ sụp trên nền đất, tôi phùng má thổi đống củi, cời lên một ngọn lửa nhỏ và khói. Tôi thêm vài thanh củi lớn hơn nữa  rồi vùi trái bắp xuống dưới đống tro, ngay phía dưới ngọn lửa đang cháy.
Khi tôi trở lại với trái bắp chín, Map đang ngồi với Mak trên giường. Trong khi Map ăn cơm với bột me, bà vuốt tóc nó, mắt vẫn nhắm nghiền. Lần đầu tiên tôi thấy khuôn mặt nó sáng lên. Người nó thư giãn. Nó hết sức thoải mái khi ngồi bên cạnh Mak, ngay cả ở đây, trên chiếc giường bẩn thỉu nhớp nháp này.
Tôi chùi đống bẩn dưới giường Mak, tôi rắc lên đó tro xúc từ ngoài bếp vào, vừa lắng nghe cuộc trò chuyện của Mak và Map. Trông như chúng tôi đang ở nhà. Giọng bà hiền từ, dịu dàng, chăm sóc. Mặc dù đang đau, giọng bà vẫn đều, bình tĩnh và tự nhiên. Nếu quả bà chia xẻ những cái mà tôi sợ, bà cũng hề biểu lộ ra. “Mak nhớ koon proh Mak” bà vỗ nhẹ lên lưng Map. “Họ có cho con ăn đủ không, koon proh Mak?”
“Otphong (không), ngày nào con cũng đói cả”. Map nói, đưa mắt nhìn Mak.
Mak im lặng, trí óc bà làm việc.
Tôi chen vào cứu mẹ “Họ không bao giờ cho chúng con đủ ăn cả. Nhưng Map hái ớt và bạc hà đem đổi với Yiey Om để lấy thức ăn. Nó giỏi lắm, mẹ. Nó biết tìm đường đến nhà Yiey Om sau khi con dẫn nó đi có một lần thôi”. Tôi thấy một nụ cười thóang nơi mẹ, chỉ thoáng cười thôi. Mặt bà vẫn sưng phù và bất động như một pho tượng.
Mí mắt bà nhắm chặt suốt thời gian chúng tôi đến. Bà làm cho tôi nhớ đến một người đàn bà mù, Yiey Tot, bà cố của chúng tôi.
“Ở đây họ có cho mẹ thuốc không mẹ?” tôi hỏi, sung sướng  cố tìm một thoáng cười nơi nét mặt bà.
Đột nhiên bà khóc “Koon Mak!” Bà sụt sịt “Họ đã không cho mẹ nước uống bốn ngày nay, koon, mà mẹ thì không đi lấy được. Cuộc sống ở đây thật khổ khi mà mẹ không có ai chăm sóc cả”. Mak bật khóc.
Map ngẩng đầu nhìn mẹ mắt nó cũng đẫm nước. Mẹ nức nở “Nhiều lần mẹ ước ao có một trong mấy đứa con ở đây, để đi lấy nước cho mẹ. Mẹ chỉ mong có thế thôi, koon srey Mak…”
Nước mắt của Mak chảy qua hai mí mắt sưng vù, rơi xuống gò má, miệng bà ngưng nhai bắp. Map niú lấy cánh tay Mak, đầu nó dựa vào đó, còn mặt nó thì đỏ bừng.
Mắt tôi cũng mờ đi vì nước mắt, nhưng trí tôi vẫn nhớ  trước đây Mak đẹp như thế nào. Tôi nhớ rõ ngày bà trang điểm, ăn mặc chỉnh tề, mặc một chiếc váy lụa đen ôm sát thân hình, dưới gấu váy có thêu hoa. Áo trên màu ngà ôm nhẹ làn da mịn màu mật dưới mái tóc đen mượt thả xuống vai. Lúc đó vào tuổi lên bốn, tôi đã bị thu hút bởi sắc đẹp của bà, nhưng bây giờ nhìn bà, lòng tôi đau đớn, lưỡi tôi khô cứng, tim tôi nhức nhối. Nơi khuôn mặt sưng vù ấy tôi có thể thấy được số phận của mẹ tôi. Chưa chi tôi đã chuẩn bị tinh thần cho cái ngày mẹ tôi mất.
Khi mẹ chết, không biết mình sẽ khóc chừng nào. Tôi đã từng hỏi câu này trước đây và bây giờ tôi hỏi lại một lần nữa. Câu trả lời có vẻ rất gần. Điều duy nhất tôi biết chắc là – sẽ là một nỗi khổ đau ghê gớm.
Thời gian không ủng hộ chúng tôi. Dù chúng tôi ở đây không lâu, có vẻ như điều chúng tôi chia sẻ với nhau thật đau đớn. Giờ Map và tôi phải về.
Mak yêu cầu “Athy koon, khi con về, con hãy hỏi xin người điều hành cho con đến đây để săn sóc cho mẹ, để lấy nước cho mẹ…Ban đêm con có thể ngủ bên ngoài trên chiếc ghế dài”. Mak chậm chạp cử động cái đầu “Đừng quên nhé, koon srey mdaay. Nhờ Chea giúp con nói với người chỉ huy. Nhớ đừng quên…”
Bây giờ tôi đã biết. Tôi đã thấy nhiều lần, trước người chết mình phải hứa điều mà mình không thể giữ lời được.
“Cha (vâng), Mak, con không quên đâu. Khi con trở về, con sẽ bảo chị Chea giúp con nói với người chỉ huy. Con sẽ trở lại ngay thôi”. Miệng tôi nặn ra những lời nhằm trấn an bà, rồi tôi lập lại một lần nữa.
“Mak, tụi con đi đây” Tôi không muốn nói lời từ biệt, cổ họng tôi cứng đơ.
“Ừ, đi nhanh lên và trở lại với Mak, Athy. Cả con nữa, con trai của Mak”.
Map nói lời từ biệt với mẹ, cổ nó quay đi, mắt ướt nhèm. Mak thì không nói từ biệt, tất cả những gì mẹ nói, lập đi lập lại nhiều lần là “ Nhớ sớm trở lại, đừng quên…” Tôi bảo đảm với Mak chúng tôi sẽ trở lại trong khi nước mắt chảy tràn.
Mặt trời màu vàng cam chiếu sau lưng chúng tôi trên đường chân trời. Chuyến đi về lại Daakpo ngắn hơn, con đường đất đã mát đi nhiều dưới chân chúng tôi. Tâm trí tôi không nghĩ điều gì ngoại trừ Mak.
Như Mak dặn, tôi nhờ chị Chea giúp tôi. Cả hai chúng tôi đều đến gặp người chỉ huy. Tại căn lều của công xã, tôi đứng bên  chị Chea trong khi chị giải thích hoàn cảnh của mẹ tôi và yêu cầu của bà với người chỉ huy. Ông ta nhìn ra xa, lắng nghe rồi nói “Em gái của đồng chí có thể đi nếu mẹ của đồng chí phục hồi lại được. Nhưng nếu mẹ của đồng chí chết thì em gái của đồng chí sẽ bị trừng phạt”.
Thế là chúng tôi đi ra. Mặt của chị Chea bừng lên vì giận dữ.
“ Thế em phải làm gì đây, chị Chea ? ” Trí tôi dồn hết về hình ảnh của mẹ.
Chị chỉ biết quàng tay lên vai tôi làm tôi cảm thấy ấm áp, dễ chịu. Ai sẽ lấy nước cho mẹ đây? Mẹ sẽ buồn biết chừng nào, phải đợi chờ tôi và Map trở lại!
"Thế Mak sao đây, chị Chea?" Tâm trí tôi vẫn không thể thoát những lời mẹ dặn. Tiếng van nài của Mak còn dội trong trí tôi.
"Khi họ cho chúng ta nhiều thức ăn hơn" chị nói giọng dịu dàng và bình tĩnh "bang sẽ đi đến Mak. Chị sẽ nói với mẹ rằng em đã không quên lời mẹ dặn".
Nhiều đêm tôi nằm thao thức, ngắm nhìn tấm màn đêm và nghĩ đến mẹ. Lời bà rõ ràng vẫn còn vang trong tai tôi, hình ảnh bà ngồi trên chiếc giường sắt sống động trong trí tôi. Chiếc áo hoa bạc màu của bà đã chỉ dẫn cho tôi biết đó chính là mẹ tôi. Tôi nhìn bà trong tâm trí, như nhìn vào chiếc gương thần. Mẹ là tất cả những gì chúng tôi có, thế mà chúng tôi lại không thể chăm sóc cho bà.
Trong nhiều đêm liền, tiếng nói, lời van nài của bà vẫn dội lên trong đầu tôi như thể mẹ đang gọi tôi từ xa. Nhưng rồi cái đói và việc lao động cưỡng bách đã làm tiêu tan hết sức lực , làm mờ trí óc tôi, khiến tôi càng ngày càng ít nghĩ tới Mak. Thay vào đó, tôi chỉ còn nghĩ đến phần cháo ít ỏi mình nhận được từ bếp tập thể, và chỉ còn đủ sức để nghĩ đến sự sống còn của chính mình mà thôi.
Hôm nay Angka đã ra lệnh cho bếp tập thể làm bún với xúp cá – một thứ xa xỉ mà chúng tôi chỉ có khi Angka muốn chúng tôi đến dự mít tinh. Đối với nhiều người trong chúng tôi, mít tinh có nghĩa đơn giản là một ngày nghỉ lao động. Chúng tôi không phải làm việc, chỉ ngồi và lắng nghe tất cả những gì Angka muốn giảng giải cho chúng tôi – Sản xuất – Cách Mạng – Dọa dẫm. Mắt tôi nhìn theo họ một cách tuân phục nhưng trí óc tôi thì diễu cợt họ, tôi nhớ lại câu nói tôi thường nghe Mak bảo "Doch chak tirk leu kbaaltea – nước đổ đầu vịt". Họ chỉ phí hơi mà thôi.
Trong căn lều lợp tranh, cả người lớn lẫn con nít nóng lòng ngồi đợi trên bốn chiếc ghế dài. Bún đã nấu xong, và mùi ấm nóng của nước xúp cá nấu với lá chanh nghiền, rễ cây kchiey và bột nghệ tuôn vào lều. Chỉ cần ngửi mùi các thứ gia vị ấy thôi cũng đủ sướng đến tận trời. Có lẽ bây giờ đã chín giờ rồi, tôi đoán như vậy thôi, bởi vì chẳng ai trong chúng tôi còn đồng hồ cả. Đột nhiên tôi thấy mọi người quay đầu lại khi chúng tôi thoáng thấy mấy người nhà bếp đi về phía chúng tôi , mấy người phụ nữ mang mấy rổ bún và nồi xúp cá. Họ phát những sợi bún trắng nhỏ, đưa cho chúng tôi mỗi người ba nắm bún lòng thòng. Tôi gạt một ít sang một cái đļ/body>
Logged
gicungduoc
Thành viên
*
Bài viết: 95


« Trả lời #49 vào lúc: 13 Tháng Mười Một, 2008, 01:41:38 pm »

Hành trình qua cánh đồng chết
________________________________________
CHƯƠNG 10
Chanrithy Him
Hành Trình Qua Cánh Đồng Chết
Dịch giả: Mịch La
CHƯƠNG 10
LINH HỒN KẺ SỐNG SÓT
Ánh mặt trời đi xuyên qua kẽ hở trong lều. Một mình, tôi nằm co người lại, đắp chiếc khăn, mắt tôi nhìn đăm đăm vào những hạt bụi thật đẹp tung lên trong ánh nắng ban mai. Suốt cả ngày, tôi cứ nằm tại đây, nhìn vào bóng tối cho đến khi mệt lử. Ngày hôm sau mặt trời lại mọc lên, mắt tôi lại mở ra nhìn vào đám bụi bay trong nắng, rồi lại chờ đợi màn đêm buông xuống. Tôi suy nghĩ, nhưng không biết chắc mình đang suy nghĩ điều gì. Tôi không nhớ được làm sao mình lại đến đây – một trại lao động. Thậm chí tôi cũng không nhớ được tên của nó nữa. Tôi mơ hồ nhớ điều gì khủng khiếp đã xảy ra với Mak, nhưng vết thương về cái chết của mẹ thì vẫn còn tươi rói.
Đêm và ngày trôi qua. Tôi tự hỏi không biết điều gì đã xảy ra với các chị tôi. Ai đã mang tôi đến đây? Người tôi rất yếu nhưng tôi không thấy thèm ăn. Bên ngoài những chỗ hở của căn lều, tôi nghe thấy tiếng nói. Những tiếng nói ấy, những mệnh lệnh ấy không bao giờ đến với tôi. Một người đàn bà mặc đồ đen thò đầu vào trong lán, bà ta nói nhỏ "Đồng chí, dậy đi làm việc" Tôi đưa mắt nhìn bà ta rồi nhìn đi chỗ khác.
Một tiếng nói bên trong tôi cất lên – sai rồi, mình phải ăn! Cuối cùng tiếng nói đó đánh thức tôi dậy và tôi vâng lời.
Khi mặt trời chói loà, tôi đứng dậy. Khi tôi bước ra ngoài lều, tôi mang theo cả muỗng đĩa. Tôi bước đi xiêu vẹo, cố không để bị ngã. Tôi đi về phía rừng cây, ở đó có một đám trẻ em, đứa sắp hàng chờ lãnh thức ăn, đứa thì ngồi xổm đang ăn. Tôi lê chân đứng vào hàng, bao tử của tôi dâng lên rồi hạ xuống.
"Đồng chí ở đoàn nào?" một người đàn bà cầm muôi múc cơm, trán bà ta nhíu lại vì tò mò.
"Tôi bệnh", tôi trả lời nhỏ nhẹ, lấy chỗ trước mặt bà. Bà ta trút vào dĩa tôi một muỗng cơm, rồi bỏ một nhúm muối thô bên cạnh. Tôi thấy cái nhìn chăm chăm, cặp mắt dò hỏi của bà ta, nhưng tôi cứ bước đi, tay giữ dĩa cơm.
"Chưa thấy con bé này trước đây bao giờ" bà ta nói.
"Đồng chí này bệnh, trước nay toàn nằm bẹp trong lều" một giọng nói khác cất lên.
"Thế mà tôi múc cho nó y như những người lao động khác!" người đàn bà càu nhàu.
Thức ăn làm cho tôi thay đổi. Mỗi miếng cơm nuốt vào ,sự sống trở lại dần dần với tôi. Trí óc tôi minh mẫn hơn. Ý tưởng về sự sống sót của mình trước đây hầu như bị xóa hết trong trí óc, nay trở lại. Nhưng người tôi vẫn còn trống rỗng không thể đi làm việc được cho Khmer Đỏ.
Trong khi mọi người cặm cụi trên cánh đồng nắng cháy để đào mương, tôi vẫn ngồi trong lều, một mái tranh thấp lè tè. Dưới chân tôi cỏ cạ vào gây ngứa. Tôi nhìn ra lối vào không cửa. Tâm trí tôi bị hút ra ngoài. Tôi muốn nói với Trời:
Hỡi Trời, sao ngày rạng rỡ vậy mà đối với tôi lại tăm tối đến thế? Đời sống của tôi không có ý nghĩa gì. Tôi nghe chính mình nói. Tại sao người tôi trống rỗng đến thế? Đau đớn từ bên trong đến thế? Có phải đây là điều mà mẹ đã cảm thấy? Có phải chính điều đó đã khiến mẹ suy sụp nhanh đến vậy?
Khi tôi hỏi tôi những câu hỏi này, trí tôi lại nhớ đến hình ảnh của mẹ tại bệnh viện Choup, không còn sức đề kháng. Có phải Mak đã hy sinh rất nhiều cho chúng tôi? Mẹ có nhớ Pa, Avy và Vin? Trời, xin đừng để cho người ta chết, xin hãy chấm dứt nỗi đau này.
Lần đầu tiên trong mười hai năm của cuộc đời tôi, tôi không cầu xin Trời Phật ngừng nỗi đớn đau này. Tôi còn đòi hỏi hành động của Người. Tôi muốn có một lời nói cho nỗi đau của tôi, của gia đình tôi và của những người khác. Tôi còn phải chịu đựng bao nhiêu nữa đây?
Tôi tra vấn lòng thương xót, tính chất thiêng liêng của Trời, giống như trước kia tôi từng tranh luận với cha tôi. Chính ngay bao giờ tôi vẫn còn nhớ lại về một mùa hè ở Phnom Penh ngày trước, khi tôi xin ông cho tôi đi học ở một trường tư thục.
Pa không trả lời được hay không, ông chỉ bảo tôi còn nhỏ (lúc đó tôi tám tuổi) và chưa cần phải học trrường tư. Pa mỉm cười giải thích "Nếu tất cả các đứa con của ba đêu muốn học trường tư, thì tiền sách, tiền trường không sẽ làm ba chết mất".
Nhưng tôi không chấp nhận điều đó. Tôi bảo với Pa nếu chị Chea vào học trường tư thục Anh ngữ được và mua những cuốn sách bìa cứng đắt tiền được thì tại sao tôi lại không đi học hè ở trường tư?
"Con muốn học thêm tóan, tại sao con lại không được làm thế, Pa?"  Tôi nói, đứng trước mặt cha mẹ khi Pa đang ăn sáng.
Pa im lặng, miệng vẫn nhai. Mak nhìn ông. Pa vẫn im lặng. Sáng đó tôi cần đến trường dự buổi học đầu tiên, tôi đã cầm sẵn giấy và bút. Tất cả những gì Pa cần phải làm là trả tiền thôi.
Vẫn im lặng.
Tôi bật khóc "Koon muốn đi học mà Pa không muốn trả tiền cho con học. Con thật chẳng có quan trọng đối với ba gì hết" mắt mũi tôi đỏ ké.
Pa ngạc nhiên. Ông chưa thấy đứa bé nào trạc tuổi tôi lại đòi đi học quyết liệt như vậy.
"Thôi đừng khóc nữa" Pa nhăn răng cười "Thôi được rồi, Pa sẽ trả tiền cho con học, con bé hạt tiêu nhiều tham vọng này".
Mặt Mak rạng rỡ. Tôi cười qua hàng nước mắt rồi ba chân bốn cẳng chạy tới trường.
Đó là người cha trần thế của tôi. Ông hiểu được khi tôi lý luận với ông. Một nhà sư có lần bảo với Mak rằng tôi là koon Preah (con Trời), nếu quả thật là thế thì Trời hẳn phải hiểu nỗi đau khổ của tôi và chấm dứt nó cho tôi chứ.
Tôi nhắm mắt lại, tim tôi lại nhức nhối.
Ngồi trên nền đất ngay lối đi vào lều, tôi đưa mắt ngắm mặt trời xa đỏ rực. Mặt trời đang lặn. Lạ thay, không ai bắt tôi làm việc. Có lẽ mọi người chững lại vì cách tôi cử động, cách tôi nhìn và nhất là thấy tôi đang lạc lối trong chính đầu óc của mình. Trong một thời gian dài tôi đã lo lắng, nhưng bây giờ thì tôi cũng không biết nữa. Tôi cũng không sợ cả bà lãnh đạo đoàn, thậm chí không nhớ nổi bà ta ra sao. Có lẽ bà là người thường dí đầu vào lều tôi, gọi tôi là "đồng chí". Bà có thể gọi tôi nhưng tôi thì đã lẩn trốn trong tâm trí mình. Đôi khi tôi thoáng nhớ Mak nhưng không gì hơn là những mảnh vụn của ký ức. Rồi cánh cửa tâm hồn tôi đóng sập lại. Và tôi lại lặng yên như đêm tối.
Mặt trời chìm xuống, tôi lại rút vào một góc lều. Đột nhiên
Một bóng người bò tới làm tim tôi nhảy dựng.
"Athy!" giọng người phụ nữ thì thào "Chị em cho em cơm cháy đây!"
"Chị Ra đó hả?" Tôi buộc miệng kêu lớn hơn mình tưởng.
Chị Ra suỵt tôi, chị gấp gáp bảo tôi là ngày mai chị sẽ trở lại, rồi chị biến đi. Chị đến rồi đi ngay lập tức. Tôi cầm miếng cơm cháy trong bóng tối, người vẫn còn tê liệt vì sự xuất hiện đột ngột của chị. Làm sao chị biết tìm tôi ở đây?
Bao tử tôi réo lên và miệng tôi ứa nước bọt khi tôi hít mùi thơm của miếng cơm cháy. Tôi ăn từng miếng một, thưởng thức mùi vị hơi giống cà phê của miếng cháy. Mỗi một miếng cắn, tôi hy vọng. Tôi trông đợi đến ngày mai, đó là điều tôi không cảm thấy từ lâu nay.
Ngày u ám, hãy còn sớm. Trẻ con và các đoàn cơ động đã lên đường đi làm  việc. Chị Ra đến như đã hứa, bước vội vào lều tôi, chị đưa ra chỉ thị ngắn gọn "Mình đi ngay đến khu 3". Chị nắm tay dẫn tôi, đúng hơn là kéo tôi ra khỏi lều. Tôi để chị kéo, một phần thân thể tôi căng ra, tôi bước gấp theo chị.
"Vội lên, bước nhanh hơn nữa", chị ra lệnh cho tôi, lo lắng.
Tôi theo sau chị, nhìn chân chị lướt đi. Tôi muốn bước nhanh như chị nhưng chân tôi chỉ bước được khoảng một phần ba khoảng cách mà chị bước. Ống quần đen của chị đập phành phạch vào bắp chân. Chiếc áo cũ sờn tay áo được xắn lên cao của chị để lộ cánh tay nâu vàng, trẻ trung. Vẻ đẹp mượt mà của chị làm tôi ngây ngất, sung sướng . Cánh tay chị đong đưa như thể chị đang chèo để băng tới trước. Lao động nhọc nhằn đã không cướp nổi vẻ đẹp "thành thị" của chị. Ngay cả trong bộ đồng phục tả tơi, bạc màu, chị vẫn trông khoẻ mạnh đầy sức sống. Người chị tràn đầy sinh lực so với tôi. Chị nhanh nhẹn như con thỏ còn tôi thì ì ạch đàng sau như con rùa. Tôi không thể tiếp tục được nữa.
"Chị Ra, tại sao chúng ta phải đến khu 3?"
"Để xin thức ăn, đi nhanh lên!" Chị giục "Dar muy, muy (đi chậm)" chị bỗng nói "Có thể bọn chhlop trông thấy chúng ta đó, thôi bước dài chân, lẹ lên!"
Chị đưa mắt nhìn xuống chân, như để chỉ cho tôi biết cách bước dài hơn. Tôi cố gắng đưa cái chân cứng đơ của mình về phía trước. Cũng chẳng bước nổi. Chị Ra lo lắng quay đầu về phía sau. Chị lại ra lệnh cho tôi bước nhanh hơn. Giọng chị căng thẳng, sắc và bực tức.
"Nhưng em nhỏ hơn chị, vả lại em còn yếu mà!" Tôi thấy giận chị. Với chị Chea, chẳng bao giờ như vậy. Tôi ra lệnh cho mình đi vội lên. Tôi nghe chị đủ thứ nhưng có vẻ như chị không lưu ý, chỉ di chuyển nhanh về phía trước.
Mặt trời bây giờ chói chang. Từng giọt mồ hôi rơi từ trên đầu tôi xuống. Theo sau chị Ra, tôi vừa đi vừa chạy. Nước mắt tôi tràn ra, nóng bỏng. Tôi có cảm giác như bị những cặp mắt vô hình quan sát. Tôi tưởng tượng một tiếng nói mạnh mẽ ra lệnh cho chúng tôi dừng lại. Chính sự tưởng tượng đó thúc cho chân tôi bước nhanh hơn. Bỗng trước mặt tôi hiện ra một chỗ trũng xuống rộng và dài. Phong cảnh thay đổi. Tôi hụt hơi. Chị Ra đi chậm lại còn tôi thì thở hổn hển. Một chiếc cầu màu xanh nằm phía xa bên trái.
Một con sông! Tôi sững sờ. Một dòng nước lớn với những làn sóng lăn tăn lung linh trong ánh nắng. Đơn độc trước sự khám phá này, chúng tôi cảm thấy như con sông thuộc về chúng tôi. Tôi cảm thấy tự do khi đứng trên bờ con sông này. Bên kia bờ sông là những tàn cây cao phủ bóng dài cùng với những khóm cây rậm rạp lá xoè rộng. Cây cối phía bên đó mọc tươi tốt hơn bên bờ chúng tôi đang đứng – trơ trọi, chỉ có cỏ khô và đá. Xa xa, nhô ra khỏi những tàn cây cao là bóng cây cọ, cây dừa lá xum xuê. Cảnh vật này thực đẹp, tuy nhiên nó gợi ra một cảm giác nguy hiểm ẩn giấu dưới vẻ đẹp dịu dàng của thiên nhiên này.
"Athy, sao cứ đứng đó? Leo xuống đi. Trời ơi, xem em kìa, em cứ đứng như  trời trồng vậy". Chị Ra nói với giọng gay gắt, chừng như không tin nổi.
Giọng gay gắt của chị kéo tôi về với thực tại. Trong chốc lát tôi đã quên mất tại sao chúng tôi lại đến đây. Khi tôi mới leo xuống theo chị Ra, một trận mưa đá, đất đổ rầm rầm sau lưng tôi, lăn xuống triền dốc. Tay tôi bám lấy bờ đất, chân ngập ngừng. Tôi sợ té.
"Chị Ra, có chiếc cầu kia kìa!" tôi nói, đưa mặt chỉ về phía cây cầu.
"Tại sao chúng ta không đi qua cầu?" Tôi co người lại.
"Em điên đấy à? Bọn chhlop!" Chị giận dữ.
"Đợi em với, chị Ra, em sợ lắm!" Tôi vẫn ngồi yên, đưa tay về phía chị.
Chị Ra phải trèo lên lại dắt tôi bò xuống. Tôi cứ ước chi rằng tôi không đến đây, để khỏi vướng mắc vào chuyện đi tìm thức ăn này.
Hãy can đảm lên! – tôi tự nói với mình. Tôi lý luận, nếu chúng tôi quay trở lui, chúng tôi có thể bị Khmer Đỏ ở khu chúng tôi trừng phạt và bỏ đói. Còn nếu tiến lên thì chúng tôi sẽ chạm trán với con sông. Và cũng có thể bị bọn chhlop bắt. Nhưng cũng có thể chúng tôi may mắn và kiếm được thức ăn. Trong một lúc liều, tôi quyết định đi với chị Ra.
Nhưng nhìn dòng nước xanh ngắt rộng mênh mông, tôi lại thấy sợ. "Làm thế nào mà chúng ta đi qua sông được, chị Ra? Em không biết bơi" Tôi nhìn dòng nước mát lạnh đang chảy. Tôi biết câu trả lời nhưng tôi không muốn nghe.
Chị Ra lội xuống nước, chân chị tạo ra tiếng bì bõm. Tôi đứng yên nhìn chị, chân như mọc rễ trên nền đất cứng. Mình không bơi được – tôi tự nhắc mình.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM