Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 18 Tháng Tư, 2024, 06:22:32 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Vũ khí Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến.  (Đọc 722107 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
dongadoan
Administrator
*
Bài viết: 7256


Cái thời hoa gạo cháy...


WWW
« Trả lời #20 vào lúc: 22 Tháng Chín, 2007, 09:17:24 am »

Lựu đạn là một loại vũ khí được chế tạo phổ biến nhất trong cả nước để trang bị cho hàng triệu chiến sĩ bộ đội chủ lực và dân quân. Trong những năm đầu kháng chiến có nhiều kiểu lựu đạn như kiểu ở Mỹ Tho, Tân An (bộ đội ta rất thích dùng loại lựu đạn này vì không phải rút chốt an toàn, chỉ cần ném chạm mục tiêu là nổ); kiểu đốt ngòi ở Trà Vinh, kiểu quẹt (như đánh diêm) để phát hoả, kiểu có đuôi khi rơi chúc đầu chạm nổ ở Bến Tre, Thanh Hóa; kiểu rơi đập nổ hình lọ mực của xưởng Phan Đình Phùng. Về sau chỉ còn ba kiểu thông dụng hơn cả là lựu đạn mỏ vịt (còn gọi là lựu đạn cần) cải biên từ các kiểu lựu đạn của Pháp, Mỹ, Anh; lựu đạn kiểu đập (cải biên từ kiểu của Nhật) và lựu đạn chầy, rút nụ xoè (cải biên từ kiểu của Trung Quốc). Cả ba kiểu này chỉ nặng 0,5-0,7 kg, có vỏ đúc bằng gang có khía để tạo mảnh. Nói chung, để chế tạo lựu đạn đã có sẵn nguyên liệu dễ kiếm, dễ gia công chế tạo.

Đúc vỏ mìn ở công binh xưởng
Mìn cũng có nhiều loại tuỳ theo công dụng như diệt bộ binh, phá xe cơ giới, máy bay, công sự, cầu đường. Do đó, mìn có hình dạng, trọng lượng khác nhau, nguyên vật liệu chế tạo khác nhau. Ban đầu, mìn được chế tạo từ đạn pháo, đạn cối, bom lép của địch, chỉ cần tháo ngòi cũ, lắp ngòi nổ mới. Vỏ mìn có thể làm bằng các vật liệu khác nhau như kim loại, sành sứ, gỗ, ống tre và vừa dễ nguỵ trang, vừa dễ kiếm tại chỗ. Một số nơi còn chế tạo mìn muỗi, mìn nhảy, mìn đạp. Với quả mìn dễ chế tạo, nhưng hiệu quả lớn, được sử dụng bất ngờ đã gây ra biết bao nỗi khiếp sợ cho quân Pháp từ chiến trường Nam Bộ đến chiến trường Việt Bắc. Thí dụ, mìn FT là loại mìn lõm, có thiết kế chế tạo đơn giản, dùng lượng nổ ít nhưng sức công phá lớn để phá tháp canh, lô cốt, một thời được quân Pháp gọi là “vũ khí khủng khiếp của Việt Minh”. Mìn pê-ta dùng hai kilôgam thuốc nổ TNT ứng dụng nguyên lý hai lần sóng nổ ngược chiều được điều khiển nổ từ xa bằng ngòi điện đã từng đánh sập hàng loạt đồn bốt, tháp canh, gieo nỗi kinh hoàng cho địch.
Thuỷ lôi của ta chế tạo thường có vỏ bằng tôn nhồi từ 20 đến 50 kg thuốc nổ, có ngòi giật hoặc ngòi điện hoạt động bằng pin hoặc động cơ điện quay tay, được sử dụng phổ biến trên các địa bàn có nhiều kênh rạch, sông ngòi như ở Nam Bộ. Thời kỳ đầu kháng chiến, thuỷ lôi của Quân giới Nam Bộ được chế tạo bằng cách cải tiến thuỷ lôi cỡ lớn của địch.
Logged

Duyên ấy kiếp sau tình chưa nhạt, thà phụ trời xanh chẳng phụ nàng!
dongadoan
Administrator
*
Bài viết: 7256


Cái thời hoa gạo cháy...


WWW
« Trả lời #21 vào lúc: 22 Tháng Chín, 2007, 07:38:21 pm »

Ngay cả những vũ khí được coi là hiện đại lúc bấy giờ cũng được cải tiến để dễ chế tạo nhưng vẫn có hiệu quả sát thương cao.
SS là một loại súng không giật, giống như SKZ có kết cấu dựa theo nguyên lý bảo toàn động lượng. Trong SKZ của các nước, động lượng của đạn bắn ra phía trước được cân bằng với động lượng của khối khí phụt ra phía sau. Còn trong SS của ta, động lượng đó được cân bằng bởi một khối gỗ chắc phóng ra phía sau. Nhờ vậy, kết cấu súng đơn giản, tiết kiệm được nhiều thuốc phóng. SS là sản phẩm của Quân giới Nam Bộ dùng thay thế bazoka. Trong điều kiện Nam Bộ lúc đó thiếu nhiều thứ để sản xuất bazoka như thép ống đuôi, thuốc phóng, máy dập. Bằng nỗ lực và sáng tạo đặc biệt, Quân giới Nam Bộ chế tạo ra nhiều kiểu SS như SSAF đánh phá thành, tường; SSAT chống tăng; SSAC lắp đầu đạn nổ lõm; SSB để bắn đạn pháo 75mm thu được của Pháp, v.v…
Súng phóng bom và bom phóng được chế tạo để bắn quả đạn lớn từ nòng súng bé. Đạn giống như quả bom có 4 cánh bằng tôn, chuôi đạn bằng gỗ, có đầu bịt sắt để cắm vừa nòng súng. Thân đạn lúc đầu tận dụng quả bom 10 kg của Pháp, về sau ta tự đúc bằng gang. Ngòi đạn đúc bằng kim loại màu. Bom phóng có sức công phá lớn, bắn đi xa 300 mét, dùng để đánh phá doanh trại, đồn bốt. Cuối năm 1947 ta đã sản xuất được hàng trăm quả.
Súng và đạn cối 51mm cũng là một công trình công phu, sáng tạo. Thân súng và đạn được rèn từ thép đường ray xe lửa. Khâu khó giải quyết nhất là ngòi đạn. Các nước công nghiệp phát triển chế tạo ngòi bằng các máy chuyên dụng. Ta không có loại máy đó. Cái khó không bó được cái khôn. Ta đã thiết kế loại đạn có ngòi cấu tạo đơn giản. Quân giới Khu 2 đúc các chi tiết bằng thiếc với khuôn ép chính xác, đúc xong chỉ cần xử lý qua là được. Phần thuật phóng và thuốc phóng khá phức tạp cũng được các kỹ sư quân giới giải quyết tốt. Súng cối 51mm bắn đạn xa 2.000m, gây mảnh sắc, tán xạ trong phạm vi quy định. Quân giới Nam Bộ có sáng kiến chế tạo súng cối 60mm kiểu Brăng của Pháp. Nòng súng được chế từ ống giảm sóc máy bay vỡ 65mm. Đạn cối 60mm thu được của Pháp được lắp thêm đai đạn để bắn từ nòng có cỡ súng lớn hơn. Trong trận Tân Thới Hiệp (Gò Vấp), lần đầu tiên cả một tiểu đoàn địch hoảng loạn bỏ chạy vì không ngờ ta có súng bắn cầu vồng (súng cối). Đạn chống tăng AT được chế tạo để gá vào đầu súng trường bắn bằng khí nén do Cục Quân giới ta thiết kế chế tạo cũng là loại vũ khí chống chiến xa, dễ sử dụng, có hiệu quả chiến đấu cao, bộ đội ta rất ưa dùng.


  Đúc đai đạn cối 60
Logged

Duyên ấy kiếp sau tình chưa nhạt, thà phụ trời xanh chẳng phụ nàng!
dongadoan
Administrator
*
Bài viết: 7256


Cái thời hoa gạo cháy...


WWW
« Trả lời #22 vào lúc: 26 Tháng Chín, 2007, 07:28:27 pm »

Nói chung, vũ khí tự tạo căn bản của ta kết hợp một cách sáng tạo, tài tình các ý tưởng thiết kế vũ khí có trình độ khoa học cao trong các kiểu vũ khí của các nước với điều kiện kinh tế kỹ thuật cực kỳ khó khăn của ta hồi đó để nhanh chóng tạo ra các phương tiện chiến đấu thích hợp, hiệu quả cao. Công thức vũ khí tự tạo + lối đánh du kích tạo ra sức mạnh của chiến tranh nhân dân rộng khắp, đáp ứng nhu cầu bức thiết của sự nghiệp giành và giữ vững nền độc lập của đất nước trong những năm tháng bão táp cách mạng.

 Một số loại chông.
Từ các loại vũ khí trang bị kỹ thuật thô sơ như giáo mác, cung tên, đến các loại vũ khí căn bản như lựu đạn, mìn và các loại vũ khí được coi là tối tân, hiện đại lúc bấy giờ (súng không giật, súng phóng bom, bazoka) đã góp phần tạo ra sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân chống lại các phương tiện chiến tranh hiện đại nhất của Pháp, góp phần quan trọng làm phá sản chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh, “chiến thuật giao thông”, “chiến thuật cố thủ” trong các lô cốt vững chắc, v.v… của đối phương.

  Tập phóng lao

Logged

Duyên ấy kiếp sau tình chưa nhạt, thà phụ trời xanh chẳng phụ nàng!
MEO
Thành viên
*
Bài viết: 78


« Trả lời #23 vào lúc: 27 Tháng Chín, 2007, 01:10:12 pm »



  Sơn pháo 75mm thu được của địch dự trận Đông Khê.



Hình như khẩu sơn pháo 75mm này là của bọn Nhật thì phải, bác Dongadoan???
« Sửa lần cuối: 29 Tháng Chín, 2007, 12:51:50 pm gửi bởi admin » Logged
dongadoan
Administrator
*
Bài viết: 7256


Cái thời hoa gạo cháy...


WWW
« Trả lời #24 vào lúc: 27 Tháng Chín, 2007, 07:47:56 pm »

Hình như khẩu sơn pháo 75mm này là của bọn Nhật thì phải, bác Dongadoan???
--------------------------------------------------------------------------------------------
  Khẩu sơn pháo 75mm này của Pháp, Nhật không có loại 75mm mà chỉ có loại 94mm.
Logged

Duyên ấy kiếp sau tình chưa nhạt, thà phụ trời xanh chẳng phụ nàng!
dongadoan
Administrator
*
Bài viết: 7256


Cái thời hoa gạo cháy...


WWW
« Trả lời #25 vào lúc: 27 Tháng Chín, 2007, 07:57:25 pm »

Đặc trưng thứ hai: tính khoa học kết hợp với tính cách mạng.
Công nghệ vũ khí trang bị kỹ thuật của các lực lượng vũ trang nhân dân khẳng định, trong điều kiện và hoàn cảnh nước ta thiếu một trong hai yếu tố đó chúng ta không thể tạo ra được vũ khí trang bị kỹ thuật cần thiết để chiến thắng.
Thông thường, để có được tính hiệu quả cao, vũ khí trang bị kỹ thuật phải được chế tạo theo những nguyên lý khoa học khách quan, chặt chẽ. Dù là loại vũ khí trang bị nào, nhưng nguyên lý cấu tạo, uy lực và cách đánh đòi hỏi một trình độ khoa học nhất định. Vật liệu, cách làm, hình dáng mỗi loại khác nhau, nhưng bất kỳ loại nào cũng đều vận dụng nguyên lý cơ bản cấu tạo của vật chất và của các mối quan hệ tác động lẫn nhau giữa các loại vật chất khi được liên kết với nhau như: độ rắn, mềm, dẻo, sức xuyên sâu, sức đàn hồi mạnh, sức phóng, sức nổ, hoặc trọng lượng và tốc độ, v.v…
Uy lực sát thương của mỗi loại tuy có phạm vi và mức độ nhất đinh, nhưng đều vận dụng các nguyên lý khoa học (sát thương tại chỗ, sát thương xa trong một cự ly nhất định) để tạo nên hiệu suất chiến đấu cao, từ những loại phải đánh trước, đánh cố định một nơi, đến các loại mang đeo gọn nhẹ, đánh nhanh, uy lực lớn, thu hồi nhanh, cơ động trong nhiều tình huống chiến đấu phức tạp.
Tuy nhiên, với điều kiện và hoàn cảnh của cuộc kháng chiến chống Pháp hồi đó, trong quá trình sản xuất, sử dụng các loại vũ khí chúng ta phải nghiên cứu, vận dụng kinh nghiệm, đồng thời vừa sáng tạo và nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật của vũ khí tự chế tạo.
Một phần rất lớn vũ khí tự tạo của ta (còn gọi là vũ khí địa phương), đặc biệt là ở Nam Bộ, được chế tạo theo công nghệ-kinh nghiệm, công nghệ-kỹ xảo. Đặc điểm của công nghệ này là vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, vừa sáng tạo để luôn luôn có vũ khí thích hợp với từng cách đánh ở từng chiến trường, tận dụng nhiều kiểu loại vũ khí trang bị của địch trong khi chúng ta không có được bất kỳ một thông tin nào về chúng. Để làm được điều đó, nhiều cán bộ chiến sĩ quân giới và nhân dân ta đã phải hy sinh thầm lặng trong quá trình chế tạo vũ khí. Rõ ràng không có được tinh thần hy sinh cách mạng anh dũng đó của các cán bộ và chiến sĩ quân giới, chúng ta không thể nhanh chóng có được vũ khí tự tạo trong những năm đầu kháng chiến.

  Thủy lôi tự tạo
Đồng thời, để có được vũ khí tự tạo hiện đại lúc bấy giờ nhằm chiến đấu lâu dài, trong hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn mọi bề chúng ta vẫn phải tiến hành nghiên cứu sáng tạo khoa học với tinh thần khẩn trương, quyết tâm rất cao. Về phương diện này, dư luận trong và ngoài nước thường dẫn chứng súng bazoka sử dụng hiệu ứng nổ lõm. Hiệu ứng nổ lõm của thuốc nổ được phát minh từ năm 1864. Trong tranh thế giới thứ hai (1939-1945) được nhiều nước công nghiệp vận dụng chế tạo đạn nổ lõm để đánh phá các công trình kiên cố, chống xe tăng và xe bọc thép. Nguyên lý khoa học đó được kỹ sư Trần Đại Nghĩa-người đại diện tiêu biểu cho đội ngũ các kỹ sư Quân giới Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp cùng tập thể cán bộ nghiên cứu, kỹ thuật viên của quân đội ta vận dụng sáng tạo để chế tạo nhiều vũ khí của các lực lượng vũ trang nhân dân ta, trong đó điển hình nhất là súng bazoka. Bác Hồ, Trung ương Đảng, Bộ Quốc phòng chú ý đến việc sản xuất súng bazoka ngay từ đầu năm 1946. Đây là một loại vũ khí gần như lý tưởng của ta lúc đó, đã góp phần quan trọng hạn chế ưu thế mạnh nhất của địch là xe cơ giới, xe bọc thép, xe tăng và công sự kiên cố. Lịch sử chế tạo và sử dụng loại vũ khí này là những trang sinh động về tinh thần cách mạng, tự lực tự cường của ngành Quân giới ta trong những năm tháng nước ta bị phong toả bốn bề.
Logged

Duyên ấy kiếp sau tình chưa nhạt, thà phụ trời xanh chẳng phụ nàng!
dongadoan
Administrator
*
Bài viết: 7256


Cái thời hoa gạo cháy...


WWW
« Trả lời #26 vào lúc: 29 Tháng Chín, 2007, 11:25:28 am »

Năm 1946, ta thu được một khẩu bazoka của địch. Có được mẫu súng và đạn bazoka, cán bộ, công nhận xưởng Giang Tiên của Cục Quân giới ta tháo viên đạn mẫu ra từng bộ phận để vẽ kiểu và chế thử. Ban đầu, khi chế thử, xưởng gặp khó khăn về thiết bị, nguyên liệu như thiếu máy dập đồng lá, thép lá. Cán bộ, công nhân xưởng Giang Tiên đã tìm ra phương pháp gia công thích hợp. Đầu đạn và thân đạn được tiện từ các đoạn thép hoặc nhôm đặc. Còn phễu đồng được tiện từ những khúc đồng đúc. Ống đuôi đạn cũng tiện từ khúc thép đặc. Không có máy hàn điện, anh em hàn bằng thiếc gắn cánh đuôi vào cuống đuôi đạn. Phần cơ khí cuối cùng cũng được giải quyết khá trót lọt, quả đạn đầu tiên được chế tạo đúng hình dạng, kích thước. Khó khăn chính lúc này là tính toán buồng thuốc đẩy, loa phụt, liều thuốc đẩy, thuốc gây nổ. Nói chung là toàn bộ phần hóa chất, hoả thuật. Phải làm thế nào để viên đan bay đi theo tốc độ, tầm bắn quy định và khi chạm đích thì đạn nổ xuyên, phát huy được uy lực theo hiệu ứng lõm của khối thuốc nổ.

 Bazooka Việt Nam
Kỹ sư Trần Đại Nghĩa được Bộ Quốc phòng cử đến xưởng Giang Tiên (11 năm 1946) trực tiếp nghiên cứu hoàn chỉnh đạn bazoka. Lúc này, đồng chí Tạ Quang Bửu vừa là nhà khoa học kiêm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng đang trực tiếp chỉ đạo xưởng Giang Tiên về hướng nghiên cứu-chế tạo súng đạn bazoka. Sau khi kiểm tra phần cơ khí và qua tính toán, thử nghiệm, kỹ sư Trần Đại Nghĩa xác định được chủng loại và liều lượng thuốc đẩy, thuốc phóng. Nhưng lúc này ta không có những nguyên liệu như đạn của Mỹ, phải nghiên cứu để tìm được loại thay thế mà ta đang có. Khi đem bắn thử, đạn bay tốt, nổ nhưng lại chưa xuyên.
Mười ngày sau khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, việc nghiên cứu hoàn chỉnh đạn bazoka lại được tiếp tục, với tinh thần khẩn trương hơn, ngay tại cơ quan Cục Quân giới vừa di chuyển đến Ứng Hoà, Hà Đông. Một tổ cán bộ, công nhân, dưới sự hướng dẫn của đồng chí Trần Đại Nghĩa, nghiên cứu, hoàn chỉnh đạn bazoka. Còn súng bazoka thì giao cho xưởng K1 (Khu 11) chế thử theo mẫu của Cục. Một số quả đạn từ xưởng Giang Tiên gửi về Cục đem bắn thử. Đạn nổ nhưng vẫn không xuyên, còn phát sinh nhiều khuyết tật khác như vỡ ống đuôi (do tiện dày mỏng không đều) và tuột cánh đuôi (do hàn thiếc). Khắc phục những khuyết tật này không khó. Khó nhất là lúc này vẫn là làm cho quả đạn phải xuyên phá tốt.
Qua nghiên cứu nguyên nhân, các bộ phận nghiên cứu đi đến kết luận đạn không xuyên là do khối thuốc ở thân đạn không nổ hết, không tạo được tốc độ lớn, luồng xuyên mạnh, nhiệt độ cao, do thuốc gợi nổ ở ống quả đạn chưa đúng liều lượng. Anh em tiếp tục bắn thử với ống nổ mới (nhồi 50% fuminat thuỷ ngân và 50% axit piric). Lần bắn vào cuối tháng 2 năm 1947 đạt kết quả tốt, bức tường thành (như bia bắn) bị phá tan, lỗ xuyên vào tường sâu 75cm. So với một quả đạn của Mỹ nguyên vẹn còn lại được bắn tiếp để so sánh thì các hiện tượng nổ, khối lửa, lỗ thủng, sức xuyên đều tương đương.
« Sửa lần cuối: 29 Tháng Chín, 2007, 08:03:27 pm gửi bởi dongadoan » Logged

Duyên ấy kiếp sau tình chưa nhạt, thà phụ trời xanh chẳng phụ nàng!
dongadoan
Administrator
*
Bài viết: 7256


Cái thời hoa gạo cháy...


WWW
« Trả lời #27 vào lúc: 29 Tháng Chín, 2007, 08:08:03 pm »

Gần như cùng lúc, Cục Quân giới thử nghiệm thành công đạn bazoka ở Ứng Hoà. Ngay đêm hôm sau, đồng chí Phan Mỹ - Chánh văn phòng Bộ Quốc phòng hồi đó đến trực tiếp yêu cầu cung cấp ngay súng đạn chống chiến xa để chặn quân Pháp trên đường số 6. Cán bộ và công nhân thức thâu đêm dưới ánh đèn dầu lửa, khẩn trương nhồi lắp hoàn chỉnh được 10 quả đạn trước khi trời sáng. Quân ta đã dùng số súng đạn bazoka đó diệt xe tăng địch ở Trúc Sơn-Chùa Trầm, số xe còn lại hốt hoảng quay về Hà Nội, góp phần bẻ gãy cuộc tiến quân của địch quét vùng Chương Mỹ-Quốc Oai (Hà Đông-Sơn Tây).
Nhưng chỉ mấy ngày sau đó, trong cuộc bắn thử ở Chợ Bến (Hà Đông), để tiếp tục hoàn chỉnh súng đạn bazoka, hai công nhân của tổ nghiên cứu bazoka đã hy sinh vì đạn nổ cướp ngay trong nòng súng. Về sau, ta tìm ra nguyên nhân là do gia công vách ngăn giữa buồng thuốc đẩy và buồng kim hoả không đúng quy cách.
Tổ nghiên cứu bazoka ở lại Khu 2 cùng xưởng B4 tiếp tục nghiên cứu hoàn chỉnh. Chỉ mấy ngày sau, trong trận đánh trên sông ở Dinh Dược (Ninh Bình), một chiến sĩ của trung đoàn 34 bắn phát thứ nhất làm bị thương một ca nô địch, nhưng phát thứ 2 lại bị nổ cướp, chiến sĩ đó hy sinh. Nguyên nhân là do khi lắp ráp, so với đạn Mỹ, anh em ta còn thiếu một miếng tôn đệm giảm va đập ở cuối buồng thuốc.
Logged

Duyên ấy kiếp sau tình chưa nhạt, thà phụ trời xanh chẳng phụ nàng!
dongadoan
Administrator
*
Bài viết: 7256


Cái thời hoa gạo cháy...


WWW
« Trả lời #28 vào lúc: 29 Tháng Chín, 2007, 08:14:33 pm »

Sau một thời gian nữa hoàn chỉnh, đến tháng 4 năm 1947, súng đạn bazoka do Cục Quân giới trực tiếp nghiên cứu-chế tạo đã ổn định, chính thức phổ biến mẫu đạn bazoka đến Ty quân giới các khu từ Việt Bắc đến Khu 4, Khu 5 để sản xuất.
Sau đó, các khu đều có 1 đến 2 xưởng chuyên chế tạo bazoka. Trên cơ sở bản vẽ mẫu hoàn chỉnh và Quân uỷ kinh nghiệm sản xuất, anh em cán bộ, công nhân lại có thểm nhiều phương pháp công nghệ sáng tạo như chóp đạn, côn đồng được dập bằng máy dập vít, thân đạn được rèn sát kích thước hơn; đuôi đạn (buồng thuốc đẩy) làm bằng ống thép nồi hơi xe lửa (những nơi có) thay thép đặc; khúc nối thân đạn với đuôi đạn đúc bằng kim loại màu, năng suất tăng nhiều lần. Nhiều xưởng chuyên sản xuất súng đạn bazoka với năng suất khá cao.
Sản xuất thành công súng đạn bazoka ngay trong năm đầu toàn quốc kháng chiến trong điều kiện nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậc, đất nước bị bao vây bốn bề là thành quả tiêu biểu cho việc kết hợp nỗ lực cách mạng phi thường, lòng yêu nước với khả năng vận dụng nguyên lý khoa  học hiện đại lúc bấy giờ vào điều kiện công nghệ thô sơ của ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
Gần 40 năm sau, năm 1981, đoàn vô tuyến truyền hình Pháp, Mỹ, Anh đến Việt Nam để xây dựng bộ phim “Lịch sử 30 năm bằng truyền hình”, đã phỏng vấn đồng chí Trần Đại Nghĩa, trong đó có nhiều câu hỏi về bazoka. Họ cho biết, theo chỉ thị của quân đội Pháp (Bộ tổng tham mưu), họ muốn biết vì sao ta sản xuất bazoka nhanh như vậy? Họ còn cho biết, ý đồ của quân Pháp hồi đó định dùng sức mạnh của xe tăng-thiết giáp nhanh chóng thọc sâu, để đè bẹp ta, kết thúc chiến tranh, nhưng đã không thành.

  Mẫu Bazooka-M1 của Mỹ
Ở Nam Bộ, để có được một kiểu bazoka phù hợp với điều kiện chế tạo và sử dụng ở địa phương, kỹ sư Lê Tâm cùng các cán bộ, chiến sĩ quân giới nơi đây thiết kế chế tạo súng SS với nhiều kiểu khác nhau để đánh phá tường thành, lô cốt, chống tăng. Ngoài ra quân giới Nam Bộ còn áp dụng các nguyên lý khoa học để cải biên, cải tiến các loại vũ khí của Pháp, Nhật, Mỹ do ta thu được phù hợp với cách đánh du kích trên địa bàn chằng chịt sông ngòi, đầm nước. Thí dụ, cải tiến những quả thủy lôi nhỏ từ 20 kg đến 30 kg để đánh tàu địch trên sông, cải biên đạn pháo 75mm, 90mm, 105mm của địch thành thuỷ lôi dùng ngòi nổ điện, v.v…
Logged

Duyên ấy kiếp sau tình chưa nhạt, thà phụ trời xanh chẳng phụ nàng!
dongadoan
Administrator
*
Bài viết: 7256


Cái thời hoa gạo cháy...


WWW
« Trả lời #29 vào lúc: 30 Tháng Chín, 2007, 02:12:35 pm »

Đặc trưng thứ ba: về cơ bản, công nghệ vũ khí trang bị kỹ thuật tự tạo của ta trong giai đoạn này vẫn là công nghệ-kinh nghiệm bước đầu phát triển sang giai đoạn công nghệ-khoa học.
Trước ngưỡng cửa năm 2000, chúng ta đang chứng kiến giải quyết phát triển mới của khoa học-kỹ thuật, trong đó quan trọng nhất là cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mà đặc trưng cơ bản là hàm lượng khoa học trong công nghệ ngày càng cao. Khoa học đã có thể xác định ngay từ trước tính khả thi và hiệu quả của công nghệ. Khoa học đã mách bảo chúng ta cách chế tạo được sản phẩm A hoặc B theo ý muốn.
Còn trong những năm 40 của thế kỷ XX nước Pháp cũng như các nước công nghiệp phát triển khác đã bước vào giai đoạn thứ 4 của nấc thang tiến hoá công nghệ của nhân loại. Trong khi đó, Việt Nam ta đang ở giai đoạn phát triển công nghệ-kinh nghiệm, hoặc công nghệ-kỹ xảo. Từ giới hạn đó, được tư duy khoa học soi rọi, công nghệ-kinh nghiệm phong phú tích luỹ được trong suốt hàng ngàn năm lịch sử đã từng bước phát triển sang giai đoạn công nghệ-khoa học. Mặc dù hàm lượng khoa học trong đó còn rất thấp, nhưng đã tạo khả năng cho các nhà quân sự của ta từ chỗ “có gì đánh nấy” sang giai đoạn có thể tạo ra những thứ cần thiết để đánh giặc. Cần vũ khí chống tăng, quân giới trung ương ta đã chế tạo được bazoka, quân giới Nam Bộ cũng tự chế tạo được kiểu bazoka riêng là loại vũ khí hiện đại hơn bom ba càng chống tăng của Nhật hồi đó. Cần vũ khí đánh lô cốt chống lại chiến thuật co cụm của quân Pháp cuối năm 1949-1950, ta đã chế tạo ra bộc phá tường FT, súng SKZ, súng phóng bom, v.v…

Súng phóng bom trong một trận phục kích trên đèo An Khê, 1950
Đứng ở thời điểm thập kỷ 90 nhìn lại lịch sử có thể có ý nghĩ cho rằng đây chưa hẳn là một nét đặc trưng của công nghệ vũ khí trang bị kỹ thuật của ta. Nhưng chỉ cần so với các nước châu Âu phải mất gần hàng mấy trăm năm để chuyển từ công nghệ-kinh nghiệm sang công nghệ-khoa học mới thấy được tầm vóc của bước phát triển lớn lao đó. Đặc trưng này giúp ta hiểu thêm một nét đặc trưng của thời đại ngày nay là một dân tộc có tiềm năng đổi mới công nghệ, một khi được chuẩn bị tốt và có chiến lược phát triển đúng, có thể tạo ra bước nhảy vọt công nghệ rấ lớn mà không cần đi theo quy luật tiến hoá tuần tự.
Logged

Duyên ấy kiếp sau tình chưa nhạt, thà phụ trời xanh chẳng phụ nàng!
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM