Một điểm đáng chú ý là nhà ta chỉ phân biệt "mút giáp 3", "mút giáp 5" mà không thấy nói đến phân biệt 4 đời nòng và thước ngắm của mút cơ tông. Hoặc có thể nhà ta có phân biệt mà tớ chưa được bít, vậy ai bít thì cho xem cùng nhé.
Nếu như các cụ không phân biệt đạn thật thì chuối nhỉ. Thế là, trừ đời "mút" hoán cải sáng đạn 7,5mm, có 3 đời bắn đạn 8mm, khác nhau cả nòng và thước ngắm. Các cụ nhà ta chả nhẽ bắn chung đạn tuốt. Mút đã là loại súng yếu so với Mosin hay Mauser, trong khi kích thước na ná, nếu bắn chung đạn thì tầm tụt xuống, yếu xìu đến xỉu luôn.

---------------------
Súng và Đạn của Mút có tiến trình phát triển tương đương với súng đạn các nước Anh-Mỹ-Pháp-Ý, đây là nhóm các nước có kinh tế, kỹ thuật tiên tiến nhưng kể từ cuối thế kỷ 19 tụt hậu trước Nga-Đức trong phát triển súng đạn. Có lẽ việc tụt hậu của họ vẫn kéo dài cho đến nay.
Vào khoảng những năm 188x, hàng loạt những phát triển thuốc nổ mới thay thế cho "Thuốc nổ đen" truyền thống. Ban đầu, yêu cầu đặt ra chỉ là thuốc nổ có năng lượng mạnh hơn và không có khói. Bông thuốc súng, nitro-cellulose và glycerine của Nobel được dùng. Ngày nay thấy lấy thuốc nổ dẻo làm thuốc đẩy đạn từ nòng thì buồn cười, nhưng ngày đó như vậy, nười ta chỉ cần mạnh và không khói. Thực chất, thuật phóng vẫn cháy tức thời như của thuốc nổ đen. Thuạt phóng trong dùng viên rắn chỉ được Đức tính toán và áp dụng hoàn hảo vào pháo 1902-1903, cùng lúc với súng trường. Thuốc viên rắn dựa vào keo nitrocellulose ép đúc khuôn và TNT đúc. Sau đó, Nga áp dụng.
"
Poudre N", Poudre Noire là thuốc nổ đen.
Poudre B (Tiếng Tây: Poudre Blanche), "thuốc nổ trắng", "Thuốc nổ Vieille" là những tên đặt cho loại thuốc nổ được nhà hóa học Pháp Paul Vieille phát triển từ 1884 và đăng ký 1886. Đây là những tiến bộ lớn trong việc sử dụng nitrocellulose, người ta dùng kiềm và rượt hòa tan chất này rồi ép thành loại nhựa trong, nhờ đó, thuốc nổ có dạng viên rắn và nhiệt độ cháy ổn định. Dạng viên rắn vì thuốc được hóa nhựa và đúc thành viên có độ bền cao. Cháy ổn định vì tẩy sạch các axit, nguyên nhân làm bay hơi NH
3, nguyên nhân làm kích nổ ngoài mong muốn. Tuy có viên rắn, nhưng Poudre B không nắm được lý thuyết thuật phóng trong và hoàn toàn không muốn điều khiển sự cháy, Poudre B chỉ dùng phần tránh bay hơi NH
3, thuốc là hỗn hợp của collodion và guncotton, với rượu ethanol và ether. Collodion chính là nitrocellulose được hòa tan vào kiềm hay rượu alcohol kèm dung môi ether hoặc acetone, rồi ép thành phim mỏng, sấy khô. Trong Poudre B, collodion được cắt thành miếng nhỏ mỏng, rất giống viên đạn Mosin hay AK, ngoại trừ hình dáng khá tự nhiên vì chưa biết tính. Guncotton, bông thuốc súng, là dạng nguyên thủy của nitrocellulose, được tạo thành bởi bông tự nhiên nitrat hóa, giữ nguyên hình dáng bông. Rượu ethanol và ether là dung môi gắn collodion vào guncotton, tiết kiệm collodion.
"Poudre B" là loại thuốc nổ dùng cho "mút" cho đến "32 N". Đây cũng là loại thuốc đã làm cho đức giáo chủ Ri-sơ-li-ơ rụng nòng ngay trong trận đánh đầu tiên.

Bản thân Nobel cho ra "
Ballistite". nó có 10% long não, còn lại là đều, 45% nitroglycerine và 45% collodion (nitrocellulose). Đây là thuốc súng được đáng kỹ năm 1887 và được dùng ở Ý (M1890 Vetterli), Anh, Thụy Điển, đối địch với Poudre B. Ballistite được sản xuất lớn ngay từ lúc mới ra đời ở Ý. (% là khối lượng).
Anh và sau đó là Mỹ cải tiến Ballistite thành
cordite, bởi James Dewar, 1889 chứa 58% nitroglycerine, 37% guncotton và 5% vaseline (mỡ bò, mỡ nguồn gốc dầu mỏ). Dùng acetone hóa tan rồi ép hỗn hợp thành sợi như mỳ, sấy khô. Người ANh đã lập một "hội đồng thuốc súng" để tìm cách đối địch với Ballistite, Poudre B, liền nghiệm thu Cordite. Thuốc cũng có đặc tính viên nhưng không rắn và hình dáng viên không phù hợp, người ta làm ra viên với vaseline để bền hơn là bột có diện tích mặt ngoài lớn, chứ không phải để điều khiển tốc độ cháy. Cordite là thuốc nổ cơ bản của Anh-Mỹ cho đến hết Thế chiến II với một số bản cải tiến đối chút, tiếp thu kỹ thuật "thuật phóng trong", internal ballistic của Đức, mới làm tính chất này cho cordite, nhưng thời điểm đó đã thừa.
Nhìn chung, đó là 3 loại thuốc cơ bản của phương Tây, được dùng chung cho tất cả các loại súng pháo, súng pháo của phương Tây có thuật phóng trong tồi tệ cho đến hết Thế chiến II. Các loại thuốc trên có thể có dạng rắn bền chắc, nhưng người ta chưa biết tính hình dáng kích thước cho chúng. Trong khi ở Nga và Đức, các loại thuốc súng được thiết kế riêng cho mỗi loại đạn và do đó, thuốc súng là một dãy ký hiệu xấu xí. Đến 193x, đạn "32 N" của mút cũng dùng thuốc viên cầu, một sự bắt chước thiếu hiểu biết Mauser và Mosin.
Kẹp đạn 3 và 5

Đạn nguyên thủy, đầu đạn xoáy có trục cố định, chưa có mũi đường đạn và chưa có cả vỏ mềm, 1886. Đạn ký hiệu "M".

Đạn vẫn chưa có mũi đường đạn nhưng đã có vỏ mềm, 1897. Đạn ký hiệu "M".

Đạn D có mũi đường đạn, 1902, vỏ đạn dài 39,20 mm đầu đạn nặng 12,80 g. sơ tốc 701 m/s. Năm 1905 (bài trên viết nhầm là 1901). Tương đương đạn 03-06 của Mỹ về lớp kỹ thuật đầu đạn (nhưng vãn là gờ móc).

32 N, đạn có thuốc nổ viên. 690 m/s. 15 g.

Hộp đựng đạn

Bản vẽ tiêu chuẩn đạn