Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 01:53:57 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Vũ khí Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến.  (Đọc 721382 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
huyphuc1981_nb
Thành viên
*
Bài viết: 788



« Trả lời #140 vào lúc: 12 Tháng Giêng, 2008, 03:02:06 am »

Thật ra, trung liên dùng phổ biến nhất trong đánh Mỹ là RPD. RPK mãi sau đánh Mỹ mới có.

Ручной пулемет Дегтярева (РПД) là trung liên năm 1944 .
Cỡ đạn 7,62x39 mm
nặng rỗng 7,4 kg
dài 1037 mm
dài nòng 520 mm
Tốc độ bắn 650 phát/phút
Tốc độ đầu nòng 735m/s

http://world.guns.ru/machine/mg14-e.htm
http://world.guns.ru/machine/mg34-e.htm
http://baike.baidu.com/view/416784.html

Đây là loại súng đầu tiên được thiết kế dùng đạn mới, 7,62x39mm Nga, đạn sẽ được dùng cho CKC và AK. Súng được thiết kế thay thế vai trò của trung liên, hỏa lực của tiểu đội bộ binh. Súng được trang bị rộng cùng và sau chút thời của CKC-từ những năm thập niên 1950 dang 1960, rồi được thay thế bởi RPK. Việc thay RPD bởi RPK có nhiều dư luận đánh giá là không tốt. RPK mạnh hơn, nhưng không thật sự đủ năng lực làm một súng trung liên. Súng được Trung Quốc sản xuất lớn với tên Type 56 LMG, súng trung liên kiểu 56, 56式轻机枪, 56 thức khinh cơ thương. Vì Trung Quốc không được chuyển giao RPK cho đến khi họ tự phát triển được kiểu gần giống năm 1981 nên RPD là trung liên chủ lực của họ trong 30 năm đó.
RPD có cấu tạo giống như trung liên Degtyarov, một bước tiến tiếp theo của DP-1927 LMG. Súng có piston hánh trình dài đi qua lỗi điều tiết khí nằm dudới nòng. Kiểu khóa nòng bằng ngạnh xòe ra hai bên, chống vào hai thành vỏ máy súng để khóa nòng. Súng chạy bằng băng, nhưng băng có thể cuốn trong cối băng kiểu trống, có chỗ lắp cối dưới súng. Không như các súng máy khác của Degtyarov , đẩy về lắp trong. Nòng rất nặng không thay dễ dàng ngoài dã chiến nhưng súng vấn bắn tốt ở tầm 800 mét.. Súng có hai càng dưới nòng và dây đeo, dây đeo để bắn khi đeo vai.

RPG Liên Xô


Đồ tầu


Băng

Logged

Ờ, ừ, thì ký.
huyphuc1981_nb
Thành viên
*
Bài viết: 788



« Trả lời #141 vào lúc: 12 Tháng Giêng, 2008, 04:15:26 am »

DP (Ручной пулемет, súng máy cầm tay) là trung liên.
DP được Degtyarev thiết kế sau cách mạng tháng 10, đây là một trong những súng đầu tiên Hồng Quân tự thiết kế. Súng DP được chấp nhận năm 1927. Trước khi Thế chiến 2 kết thúc, đã có 795 ngàn khẩu được chế tạo, một con số khổng lồ với súng máy. Sau Thế chiến 2, súng được hoàn thiện với tên RP-46, được dùng như đại liên và trung liên ở các đơn vị tiền tiêu đến khi được thay thế bởi đại liên PK vào những năm 1960. Súng được xuất khẩu sang nhiều nước, tên tầu là kiểu 58, 58式7.62毫米连用机枪, 58 thức 7,62 hào mễ liên dụng cơ thương, súng máy 7,62mm dùng lẫn lộn kiểu 56.

Với học thuyết quân sự mới sau đó, Liên Xô tách ra súng máy cộng đồng và súng máy cá nhân, sản xuất nhiều đại liên PK đưa xuống các trung đội, song song với đó là sản xuất các súng máy tiểu đội như RPD và RPK. Sau này, RPK thay thế RPD, nhưng việc này gây nhiều dư luận phản đối. RPK giống nhiều súng trường tầm xa hơn là một súng máy, nó không thể bắn nhịp độ cao lâu được như RPD.

Tên súng DP và DPM, RP-46 
cỡ đạn:  7.62x54mm R  7.62x54mm R 
nặng:  8,4 kg rỗng; 11,3 kg có đạn 46 viên;  13rỗng; 21,3 kg đạn trong băng 
dài:  1266 mm  1272 mm 
chiều dài nòng:  605mm  605 mm 
Băng đạn băng đĩa hướng tâm 46 viên; băng đạn 200-250 viên-cũng dùng được đĩa.
Tốc độ bắn 600 phát/phút
sơ tốc 840 m/s

Một số súng được dùng như súng máy phòng không hoặc trên xe, tên như DT, DTM hay DA. Chúng thường có nòng nặng hơn, khác biệt về báng hay giá, băng đạn nhưng không khác nhiều với anh em "bộ binh".
DP là súng được thiết kế mang đặc phong cách Degtyarev. Súng dùng trích khí, ống piston dài dưới nòng có điều chỉnh lưu lượng khí qua đó điều chỉnh tốc độ bắn khi bảo dưỡng.
Súng có khóa nòng đặc trựng như RPD, khi lò xo đẩy về đẩy kim hỏa lên đến vị trí đóng khóa nòng, chiều dầy cả kim hỏa đẩu hai ngạnh khóa nòng chống ra hai bêb, vào thành vỏ súng, thực hiện khóa nòng và tiếp theo là nổ đạn. Sau đó, kim hỏa lại lùi về, kéo hai ngạnh khóa nòng về bệ khóa nòng rồi khóa nòng lùi lại. Súng dễ tháo nòng và thay thế nòng. Lò xo đẩy về nằm dưới nòng, dọc theo cán piston.
Một trở ngại khi thiết kế là quá nhiệt lò so này. Một trở ngại nữa là đĩa. Đạn có gờ móc không thuận tiện để kéo, nên Degtyarev dùng băng đĩa mỏng. Nhưng băng này vừa nặng vừa không an toàn, cũng không hiểu sao ông không chọn phương án băng trên cao như trung liên Anh đã dùng.

Kinh nghiệm chiến đấu được áp dụng để thiết kế lại DPM. Cải tiến quan trọng là thay đổi phần sau khóa nòng, đẩy về để chưa phần đệm. Băng đạn thay cho băng cổ nhưng không hiểu vì sao mãi đến năm 1946 mới được áp dụng. Bản 1946 (RP-46) được trang bị rộng rãi sau đó. Một số cải tiến quan trọng của RP-46 là nòng to và dễ thay thế, dễ điều chỉnh gas tăng tốc độ bắn, đệm lùi... để dễ dàng tăng tốc độ bắn thực tế nhưng lại dùng lại được phần lớn thiết kế cũ. Súng được thiết kế trong cuộc đua với các súng máy khác xuất hiện trên chiến trường, RP-46 đảm nhiệm vai trò súng của tiểu và trung đội, giữa trung và đại liên ngày nay.

DP-27


DPM


RP-46


Khóa nòng
« Sửa lần cuối: 12 Tháng Giêng, 2008, 09:50:37 am gửi bởi huyphuc1981_nb » Logged

Ờ, ừ, thì ký.
chiangshan
Thành viên
*
Bài viết: 3405


No sacrifice, no victory


WWW
« Trả lời #142 vào lúc: 12 Tháng Giêng, 2008, 08:40:52 am »

RPK được đánh giá là nhẹ (4,8kg), phù hợp với thể trạng người VN nên trong KCCM đã có dự án copy hàng loạt mẫu súng này với tên VN là TUL-1.

Đĩa 75 viên


Băng 45 viên


À mà không hiểu khẩu DP với đại liên MG34 Đức vào VN ta từ năm nào các bác nhỉ.
Logged

Dân ta phải biết sử ta
Cái gì không biết cần tra Gúc gồ
huyphuc1981_nb
Thành viên
*
Bài viết: 788



« Trả lời #143 vào lúc: 12 Tháng Giêng, 2008, 10:53:36 am »

Việc súng vào Việt nam thời gian nào thì phải hỏi ông Đoành, nhưng hồi này mải tán gái ở đâu vậy.

Chúng ta đã thấy RPK được thiết kế như một súng đa năng của tiểu đội, bao gồm ba chức năng là súng trường tầm xa, súng trường tấn công và súng máy tiểu đội (trung liên, LMG). Nhưng, khi thay thế súng máy tiểu đội (LMG, Trung Liên) RPD bằng RPK có nhiều dư luận phản đối dó chức năng súng máy của RPK còn hạn chế. Như các súng máy nhẹ khác, súng RPK nhanh nóng nòng.

Nhược diểm trên chỉ được khắc phục khi sử dụng thế hệ đạn mới, các AK-74 và RPK-74 dùng đạn 5,45x39mm. Đạn này cho sơ tốc cao hơn, súng gọn hơn. Đạn có sức sát thương nhỏ hơn đạn cũ, nhưng sức sát thương được cải thiện nhờ cấu tạo đầu đạn tiên tiến và độ chính xác cao.
Nhược điểm vẫn còn tồn tại là băng hộp, không cho phép lắp liên tục 200-300 viên hay hơn nữa khi sử dụng như một súng máy, nhất là khi làm hỏa lực yểm trợ-bắn áp chế cho tiểu đội xung phong.
Súng dùng máy AK, cơ cấu trích khí xung.
Bán kính ngắm 555mm, sơ tốc cao... quá tốt cho một súng trường tầm xa.
RPK-74M có khe lắp kính ngắm, các bộ phận được thay bằng nhựa đen.

Cỡ đạn 5,45x39 mm
khối lượng 4,7 kg rỗng
dài cả súng 1060 mm
chiều dài nòng 590 mm, bằng RPK 7,62mm, dài hơn AK (cả AK-47 và 74 đều có chiều dài 415mm)
Băng đĩa 75 viên, băng dài 45 viên, chung băng với AK
Tốc độ bắn 600 phát/phút
Sơ tốc: 960 m/s, sơ với RPK-7,62mm là 745m/s, AK 7,62mm thường là  710 m/s (2,329 ft/s), AK-74 là 900 m/s (~2952 f/s). Sơ tốc này là ưu thế nổi trội của đạn mới.
Có mẫu 5,56x45 RPK-201 dùng đạn NATO.

Tầu phản lại anh cả đỏ khi chưa chuyển giao xong công nghệ AKM. Vì vậy, Tầu mãi đến thời đánh nhau với Việt Nam những năm 1980 chưa có khái niệm súng máy tiểu đội. Tầu lúc đó vẫn sản xuất và trang bị súng lái giữa đại liên và trung liên cho tiểu và trung đội dùng chung, súng đại liên cho đại đội. Type 67 machine gun, Type 88 general purpose machine gun (Chinese designation QJY 88)  là những súng như vậy. Sau khi va đập với Việt Nam, Tầu thảm bại, Đặng nhân cơ hội đó thực hiện 4 hiện đại hóa, trong đó có chương trình type 81, gồm AK và súng giống như RPK. Nhưng Type 81 không tồn tại lâu, sau đó Tầu sử dụng thiết kế lai căng FAMAS khóa nòng Tầu: Type 95 light machine gun (Chinese designation QBB-97) . Type 81 và Type 95 là những súng máy tiểu đội của Tầu.


Kiểu cơ bản 1974, bnăng đạn và phụ kiện bằng nhựa đỏ.


Kiểu nay vẫn đang sản xuất, băng đạn và báng, ốp lót nhựa đen.


Kiểu RPK-74M, báng xếp và ray bên sườn để lắp kính ngắm.


Xếp báng.

« Sửa lần cuối: 12 Tháng Giêng, 2008, 12:15:16 pm gửi bởi huyphuc1981_nb » Logged

Ờ, ừ, thì ký.
huyphuc1981_nb
Thành viên
*
Bài viết: 788



« Trả lời #144 vào lúc: 12 Tháng Giêng, 2008, 12:09:58 pm »

Đây là loại đạn mới dùng cho AK-74 và RPK-74.

Cũng như nhnững vũ khí ưu việt khác của Nga, phương Tây đưa đi đẩy lại nhiều tin đồn về nó, ví như nó có động năng thấp, nó kém này nọ, hay là nó được chế tạo lại từ một ý tưởng phương Tây.  Về cỡ đạn, trước đấy có thể đã có những cỡ đạn gần giống dùng trong súng nhỏ. Nhưng khác biệt của đạn này ở chỗ khác. Đây là đạn tiên tiến. Tiêu chuẩn đạn không chỉ bao gồm hình dáng bề ngoài, cân nặng đầu đạn và thuốc, loại thuốc, áp lực....

Một tiêu chuẩn đạn là đầu đạn. Nó vẫn được gọi là đạn cầu, xuất phát từ định nghĩa đạn cầu là đạn ổn định xáy. Nhưng về hình dáng thì không cầu chút nào. Không như những tiêu chuẩn đầu đạn khác chỉ chú ý đến những đặc điểm hình dáng bề ngoài, vỏ bọc mềm, khối lượng... Tiêu chuẩn đạn mới là một bản thiết kế đàng hoàn. Bản thiết kế này đem lại những lợi điểm:
+Đưa một vùng tỷ khối thấp lên trước bằng một đầu rỗng, điều này làm đường đạn tốt. Kết cấu khối rỗng này là một bí quyết của đường đạn, thông thường, đạn ổn định xoáy có tỷ lệ đường kính/chiều dài nhỏ (đạn ngắn), nhưng với kết cấu này, đạn 5,45x39mm phát triển chiều dài, giảm lực cản. Hệ số lực cản thấp hơn nhiều đạn 7,62mm cũ.
+đằng sau đầu rỗng là lớp đệm chì. Lớp này trước đây được những nghiên cứu của NATO miêu tả như lớp đệm để đạn không vỡ. Thực chất, lớp này di chuyển tỷ khối về trước bù vào đầu rỗng. Cũng có thể lớp này giúp đạn không lộn xoaý trong mục tiêu mềm Huh? hay là ngược lại, nhưng người ta không dự tính như thế.
+đạn 5,45x39mm có sức xuyên lớn. Với cách thử bắn keo gielatin như phương Tây, đạn xuyên hơn 50cm ở tốc độ trên 900m/s.

A: vỏ mềm
B: lõi thép
C: khoang rỗng
D: lớp chì
E: thuốc phóng






 5.45mm x 40 Ball (5,45 PSGS) (Russia)
 5.45mm x 40 Ball (5.45 PS ú ST WZ.74) (Poland)
 5.45mm x 40 Tracer (5.45 T-74GS) (Romania)
 5.45mm x 40 High Pressure Test (5.45 DE SUPRAPRESIUNE) (Romania)
 5.45mm x 40 Blank (Bulgaria)
 5.45mm x 40 Blank (5.45 DE MANEVRA) (Romania)
 5.45mm x 40 Dummy (Romania)
 5.45mm x 40 Dummy (Poland)


Logged

Ờ, ừ, thì ký.
dongadoan
Administrator
*
Bài viết: 7256


Cái thời hoa gạo cháy...


WWW
« Trả lời #145 vào lúc: 12 Tháng Giêng, 2008, 01:36:17 pm »

Theo cuốn Lịch sử ngành kỹ thuật QĐNDVN thì đầu năm 1958, trang bị cho các sư đoàn chủ lực của ta đã có AK, CKC và RPD (2/3 bộ binh trong sư đoàn được trang bị các loại này, 1/3 còn lại vẫn sử dụng ũ khí cũ như K-50).
Logged

Duyên ấy kiếp sau tình chưa nhạt, thà phụ trời xanh chẳng phụ nàng!
huyphuc1981_nb
Thành viên
*
Bài viết: 788



« Trả lời #146 vào lúc: 12 Tháng Giêng, 2008, 07:21:16 pm »

Theo cuốn Lịch sử ngành kỹ thuật QĐNDVN thì đầu năm 1958, trang bị cho các sư đoàn chủ lực của ta đã có AK, CKC và RPD (2/3 bộ binh trong sư đoàn được trang bị các loại này, 1/3 còn lại vẫn sử dụng ũ khí cũ như K-50).

Thế B40 thì đến bao giờ bác ơi.
Logged

Ờ, ừ, thì ký.
Ngocvancu
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 580



« Trả lời #147 vào lúc: 12 Tháng Giêng, 2008, 10:35:43 pm »

Làm sao phân biệt được SKS của Tàu và SKS của Liên xô?Nhìn trong ảnh không làm sao phân biệt được.Súng Mauser được Pháp trang bị cho lực lượng Bảo chính đoàn từ sau 1946,nhưng cụ thể là loại nào(Kar 98k,hayMauser 98k carbines)thì cần phải tìm hiểu thêm nữa huyphúc 1981 ạ
Logged
chiangshan
Thành viên
*
Bài viết: 3405


No sacrifice, no victory


WWW
« Trả lời #148 vào lúc: 12 Tháng Giêng, 2008, 11:03:13 pm »

SKS LX dùng lê phẳng, TQ dùng lê 3 cạnh.

Khẩu Mauser 7,92 (Tàu Tưởng sản xuất) vào VN từ 9-45 theo chân lính Tưởng, đến năm 50 TQ CS viện trợ ta 1 loạt nữa, trở thành súng trường chủ lực trong các đại đoàn. Đợt viện trợ này có cả Mosin 7,62, nhưng chủ lực không thèm dùng, đưa hết cho địa phương để dùng Mauser với Mas Pháp.

Mosin cũng được dùng ngay từ 45-46, hồi trước có bác nào nói là Mosin nguyên bản đời 1891, Nhật thu được từ quân Nga thời chiến tranh 1904-1905.
Logged

Dân ta phải biết sử ta
Cái gì không biết cần tra Gúc gồ
huyphuc1981_nb
Thành viên
*
Bài viết: 788



« Trả lời #149 vào lúc: 13 Tháng Giêng, 2008, 12:14:53 am »

Chiangsan có biết khẩu Pạc-hoọc hay được các hồi ký kể chuyện là khẩu gì không Huh? Khẩu này được mô tả là rất hay hóc và là súng Tầu Thưởng sản xuất, chẳng lẽ là ... Mauser.
Logged

Ờ, ừ, thì ký.
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM