Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 07:52:08 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch Sử Quân Sự Việt Nam - Tập 1  (Đọc 125123 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #130 vào lúc: 14 Tháng Mười Hai, 2008, 09:38:21 am »



Việc phát hiện ra mũi tên đồng Cổ Loa có ý nghĩa rất lớn, bởi nhiều người coi là, nó đã hiện thực hoá truyền thuyết Nỏ thần của An Dương Vương - hay đó chính là những tư liệu vật thật về loại vũ khí đánh xa nổi tiếng của người Việt - cung nỏ, như đã được nói tới trong các thư tịch cổ.  Thêm nữa, ba phần tư số mũi tên tìm thấy ở Cầu Vực là bán thành khí. Do đó, kho mũi tên này không thể là hiện vật mang từ nơi khác tới, nó phải được đúc ngay tại Cổ Loa.
 
Năm năm sau phát hiện kho mũi tên đồng Cầu Vực, trong cuộc điều tra tổng thể khu di tích Cổ Loa, do trường Đại học Tổng hợp tiến hành lại sưu tầm được một chiếc lẫy nỏ bằng đồng do một người dân Cổ Loa tìm thấy trong khi làm đồng. Lẫy được đúc bằng đồng thau có độ cứng cao, cấu tạo hệt như loại lẫy làm bằng xương mà ta thường thấy ở loại nỏ hiện vẫn đang dùng trong dân gian, nhưng kích thước thì lớn hơn nhiều. Căn cứ vào kích thước của lẫy nỏ và trọng lượng của đầu tên, các nhà nghiên cứu cho rằng, chúng khó có thể là lẫy và tên của loại nỏ cá nhân. Có nhiều lý do có thể khẳng định, đây là loại nỏ lớn, thân được đặt trên bệ hoặc trụ, khi bắn phải có nhiều người trương dây.

Với việc phát hiện chiếc lẫy nỏ này, dường như đã mang lại cho chúng ta hình ảnh khá hoàn chỉnh của cây nỏ thần của An Dương Vương.
Cũng trong cuộc điều tra này, đã tiến hành đào thám sát một địa điểm phía Đông Bắc toà thành có tên là Đường Mây, một khu di chỉ cư trú. Trong số những hiện vật đào được ở đây cũng tìm thấy ba đầu tên bằng đồng. Tuy cấu tạo đầu tên Đường Mây cũng chia làm hai phần: phần mũi và phần chuôi, nhưng hình dáng và cấu tạo hoàn toàn khác với đầu tên Cầu Vực. Chiếc thứ nhất có mũi hình lá dẹt, chuôi tròn; chiếc thứ hai là loại đầu tên hai cánh cân, sống nổi cao, chuôi khá lớn so với đầu; chiếc thứ ba hình lá đa nhọn có mặt cắt hình tam giác, chuôi lớn gần bằng chỗ rộng nhất của phần thân. Kích thước các đầu tên đều rất nhỏ, toàn bộ dài 3,5cm - 2,5cm. Người ta có thể dễ dàng nhận ra đây là đầu mũi tên của cung hoặc nỏ cầm trên tay - hay còn gọi là nỏ cá nhân 1.
 
Năm 1982, lại có thêm một phát hiện lớn “... đánh dấu một bước phát triển trong công cuộc tìm hiểu Cổ Loa lịch sử”.

Trong khi canh tác trên cánh đồng màu có tên là Mả Tre - nằm sát phía Tây Nam cửa thành, kẹp giữa hai vòng thành Trung và thành Nội, những người chủ của thửa ruộng này đã  tình cờ phát hiện được một chiếc trống đồng được chôn dưới độ sâu khoảng 0m30 so với mặt đất. Đây là một chiếc trống đồng Đông Sơn thuộc nhóm những trống đẹp nhất. Trống có đường kính mặt là 73,8cm, cao 58cm, nặng 72kg. Điều đặc biệt lý thú chưa từng có trong các phát hiện khảo cổ học từ “ trước đến nay ở nước ta là, bên trong chiếc trống đồng có chứa tới 192 hiện vật, 19,09 kg hiện vật không thể xác định được hình dáng và tên gọi, 950 mảnh đồng vụn. Số hiện vật  chứa trong chiếc trống có nhiều chủng loại khác nhau gồm: nhạc khí, công cụ sản xuất , đồ dùng sinh hoạt, tiền đồng. . .  đặc biệt có một số lượng lớn vũ khí. Tất cả khối di vật kể trên đều được chế tác bằng đồng thau.  Số lượng vũ khí chiếm tới 25,5% so với tổng số hiện vật chứa trong lòng trống, gồm cán chủng loại sau:

- Giáo đồng có 16 chiếc, chia thành hai chủng loại chính: giáo có họng và giáo hình lá mía và sáu phụ loại căn cứ trên những chi tiết của mũi và thân. Chiếc lớn nhất không kể phần mũi bị gậy còn dài tới 33cm.

- Dao găm có bốn chiếc cùng một loại: cán hình chữ T, chắn tay hình sừng trâu, lưỡi có mặt cắt hình tam giác.

- Dao phạng có một chiếc. Đây là loại dao phạng có họng tra cán, nhưng cán bị gãy chỉ còn phần lưỡi.

- Đầu tên bằng đồng có tám chiếc. Cả tám chiếc đều giống những mũi tên đồng đã được phát hiện ở Cầu Vực.

- Rìu lưỡi xéo có 27 chiếc được chia thành sáu loại. 26 chiếc rìu thuộc năm loại là rìu lưỡi xéo - thứ vũ khí độc đáo của thời dựng nước và giữ nước đầu tiên của dân tộc, chiếc còn lại có kích thước lớn, lưỡi hẹp, rìa lưỡi thẳng, rộng hơn thân và vát chéo về phía gót, họng có mặt cắt hình lục giác, được các nhà khảo cổ học gọi là búa rìu.

Có thể nói, bộ sưu tập vũ khí tìm thấy trong chiếc trống đồng ở Mả Tre là bộ sưu tập vũ khí lớn nhất thời Đông Sơn được để tập trung tại một điểm.

Từ những phát hiện về vũ khí ở Cổ Loa trong những năm qua, nổi lên một số đặc điểm sau:

1. Trần Quốc Vượng: Cổ Loa, những kết quả nghiên cứu vừa qua và nhũng triển vọng tới, Tạp chí Khảo cổ học, số 3-4, tháng 12-1966. .  .
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #131 vào lúc: 14 Tháng Mười Hai, 2008, 09:40:40 am »



- Những loại vũ khí cơ bản nhất của thời đại đồng thau đều có mặt ở Cổ Loa. Vũ khí cận chiến có rìu xéo, dao găm, dao phạng; vũ khí đánh xa có. giáo, lao và cung nỏ.

- Căn cứ vào tỷ lệ hiện vật tìm được có thể đoán định rằng, cung nỏ là loại vũ khí được sử dụng phổ biến nhất. Ngoài cung nỏ cá nhân mang theo người, còn có nỏ lớn của quân đội giữ thành. Kích thước và trọng lượng cũng như sự tập trung một khối lượng lớn đầu tên cho phép dự đoán, rất có thể, một lực lượng đặc biệt chuyên sử dụng cung nỏ lớn đã ra đời .

- Khi nghiên cứu bộ sưu tập vũ khí Mả Tre, các nhà khảo cổ học nhận thấy, giáo loại một tìm thấy khá phổ biến trong các địa điểm khảo cổ học vùng tả ngạn sông Hồng như: Trung Mầu, Đình Tràng, Quả Cảm (Bắc Ninh); giáo loại hai- hình lá mía, tập trung nhiều ở các di chỉ Đông Sơn (Thanh Hoá), làng Vạc (Nghệ An); giáo loại bốn là kiểu giáo đặc trưng cho khu vực miền núi của văn hoá Đông Sơn như: Lào Cai, Yên Bái. Còn dao găm thì hoàn toàn giống với những con dao đã tìm thấy ở các di chỉ Đông Sơn, Làng Vạc. Từ thực tế ấy cho phép ta đoán định: Cổ Loa đã trở thành trung tâm của cả nước trong sự nghiệp giừ nước. Nhân dân mọi miền của nước Âu Lạc: từ miền núi Tây Bắc xuống đồng băng Bắc Bộ, vào đến vùng Thanh - Nghệ xa xôi, đều đã mang về Cổ Loa những thành tựu và kinh nghiệm chế tạo vũ khí bảo vệ đất nước.

- Hầu hết những vũ khí trong bộ sưu tập Mả Tre đều là những hiện vật bị gãy, vỡ: phần lớn các mũi giáo chỉ còn họng hoặc lưỡi, dao găm chỉ còn cán. . . chứng tỏ chúng từng trải qua một quá trình sử dụng lâu dài, những cuộc chiến ác liệt và được gom về các lò đúc quan xưởng để được tái sinh.

- Qua khảo sát bộ sưu tập vũ khí và vị trí phát hiện chúng, có thể nghĩ tới tính chuyên nghiệp của các công xưởng chế tạo vũ khí ở Cổ Loa. Bước đầu, có thể xác định được hai địa điểm đó là : Cầu Vực - nơi chuyên đúc đầu mũi tên bằng đồng và xóm Nhồi là nơi đúc giáo, lao.

Những phát hiện trên cho thấy Cổ Loa, thủ đô của nhà nước Âu Lạc cũng là một căn cứ chiến đấu.
 
III. Ý NGHĨA KHOA HỌC KỸ THUẬT QUÂN SỰ
CỦA THÀNH CỔ LOA

Là một công trình quân sự vĩ đại trong buổi đầu dựng nước và giữ nước của dân tộc, ý nghĩa khoa học quân sự của thành Cổ Loa được thể hiện trên ba điểm sau:

1. Chọn địa điểm:

Trong bất kỳ một cuộc chiến tranh nào, việc xác định vị trí xây dựng các công trình quân sự là một công việc có tầm quan trọng đặc biệt, nó không chỉ thể hiện trình độ quân sự mà đôi khi còn quyết định sự thành bại của cuộc chiến.

Cổ Loa ở vị trí khá đặc biệt trong tam giác châu sông Hồng và nằm trong vùng thượng đỉnh của tam giác này. Các nhà địa lý học phân tam giác châu sông Hồng thành ba vùng. Vùng cao, vùng giữa và vùng thấp. Cổ Loa nằm trong vùng “đất cao Tây Bắc”.

Sự phân chia này xuất phát từ cốt địa hình của Cổ Loa, cao hơn hẳn các vùng còn lại của châu thổ.Nếu như ở đây có mặt của các đường gờ cao tới 13-15m thì độ cao ở vùng giữa và vùng thấp chỉ khoảng 5-6m.  Theo đường chim bay, Cổ Loa cách đỉnh tam giác châu Việt Trì 35km, cách biển khoảng 65 km, sườn phía đông của núi Tam Đảo chỉ cách Cổ Loa có 18 km. Điểm cao này được bao quanh bởi một hệ thống sông ngòi chằng chịt, nối liền với hai dòng sông lớn nhất của châu thổ sông Hồng và sông Đống.

Những yếu tố địa lý trên, đã hội tụ đủ cho Cổ Loa trở thành một cao điểm quân sự lý tưởng thời bấy giờ. Cao điểm này có chỗ dựa vững chắc vào vùng núi đồi trung du - cái nôi của nhà nước Văn Lang, trước khi tràn xuống chinh phục vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng rộng lớn. Từ điểm cao này, Cổ Loa có thể kiểm soát được toàn bộ vùng đồng bằng thấp ra tới biển. Quân địch nếu tiến vào đất liền theo đường biển sẽ dễ dàng bị phát hiện.
 
Trên thực tế, Cổ Loa là tiền đồn ngăn quân địch thọc sâu vào đất liền. Hệ thống sông ngòi dày đặc quanh điểm cao không chỉ trở thành ngoại hào thiên nhiên vô cùng lợi hại ngăn chân giặc, mà đồng thời cũng là những con đường giao thông thuỷ vô cùng thuận lợi cho việc tấn công kẻ địch, cũng như trong trường hợp cần phải thoát khỏi thành một khi lâm vào thế bị bao vây.

Khi chọn đất để xây dựng công trình quân sự kiên cố như Cổ Loa, cha ông ta đã không chỉ dựa vào vị trí địa lý thuận lợi của nó, mà còn vì đây là một nơi dân cơ đông đúc.

Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #132 vào lúc: 14 Tháng Mười Hai, 2008, 09:43:13 am »



Như chúng ta đã biết, vào buổi ấy, đồng bằng Bắc Bộ còn là vùng lầy lội hoang sơ. Vùng Gia Lâm, Du Lâm, Mai Lâm... đều còn là rừng cây. Rừng tre, vầu, rừng nứa còn mọc đầy ven sông Đống. Đất Đình Bảng tới thời Lý vẫn còn là rừng báng... Hà Nội được coi là miền đất ven biển. Cho đến đầu công nguyên, đồng bằng Giao Chỉ “hơi độc còn bốc lên ngùn ngụt”.
 
Vì thế, những người đi khai phá đồng bằng phải cơ trú trên các gò đất cao ven sông - Cổ Loa chính là vùng đất cao đó. Từ Cổ Loa xuôi ra biển, cho đến nay, ta vẫn chưa thấy có dấu vết cư trú rõ rệt của con người buổi ấy.

Những công trình khai quật của khảo cổ học trong gần 30 năm qua cho thấy, nhiều làng xưa xóm cổ đã hình thành, trước lúc nơi đây được An Dương Vương chọn đất xây thành.

Đó là các di chỉ:

- Đồng Vông, di chỉ nằm trên doi đất cao ven sông Hoàng, phía bắc cây cầu dẫn vào chợ Sa. Người Đồng Vông đã định cư, sống bằng nghề nông, đánh cá, săn bắn. Họ là những người chế tác đồ đá toàn thịnh, đặc biệt là đồ trang sức. Đồ gốm đã được chế tác bằng bàn xoay, hoa văn trang trí đặc biệt phong phú. Nhiều chì lưới, bi gốm, dọi xe chỉ, xương động vật.., cho thấy người Đồng Vông là cơ dân ở Cổ Loa lâu đời nhất.

- Di chỉ Bãi Mèn, nằm trên bờ hữu ngạn sông Hoàng, cách Cầu Vực không xa. Người Bãi Mèn sống ở Cổ Loa vào giai đoạn sau người Đồng Vông. Họ cũng sống bằng nghề sông, săn bắt, đánh cá, đã tìm thấy rìu đồng thau và các công cụ sản xuất bằng đồng khác của họ.

- Di chỉ Đình Tràng, nằm trên bờ tả ngạn sông Hoàng, bên ngoài vòng thành ngoại Cổ Loa. Tầng văn hoá di chỉ dày tới 2m - chứng tỏ sự định cơ rất lâu dài của người dân ở khu vực này. Nếu như ở Bãi Mèn, công cụ đồ đồng còn chưa thấy phổ biến, thì ngược lại, ở Đình Tràng đã tìm thấy nhiều rìu đồng lưỡi thẳng, rìu lưỡi xéo, mũi giáo, lưỡi câu, mũi nhọn, nhạc khí. . . Đồ gốm Đình Tràng tuy không được trang trí hoa mỹ như đồ gốm ở giai đoạn trước, nhưng độ cứng thì đã vượt trội.
 
- Di chỉ Đường Mây, nằm trên doi đất cao ven bờ sông Hoàng và ven bờ Đầm Cả, dưới chân thành Ngoại. Ngoài đồ gốm, cuộc khai quật năm 1969 đã tìm được mũi tên đồng, nhiều cục sắt, mảnh hiện vật sắt và đồ đá.

- Ngay trong thành Nội tuy chưa được phép khai quật nhưng tại xóm Thượng, xóm Nhồi đã phát hiện nhiều dấu tích như: rìu đồng, lưỡi cày đồng, mảnh trống đồng có hoa văn người hoá trang lông chim chứng minh sự có mặt của con người vào thời điểm trước lúc thành được xây dựng 1.

Những chứng tích nêu trên chứng minh Cổ Loa đã được con người chọn làm nơi cơ trú suốt từ đầu thời đại đồng thau liên tục cho tới thời đại sắt và các thời kỳ lịch sử tiếp sau.  Chọn vùng đất như thế để xây dựng thành tất nhiên là rất dễ dàng huy động được sức người, sức của không chỉ cho việc xây dựng, mà một khi có chiến tranh xảy ra đã có ngay trong tay một đạo quân đông đảo, gồm những người dân đủ mọi lứa tuổi tham gia chiến đấu, không cần phải tổ chức những đạo quân thường trực đông đảo.

Có thể nói, công trình quân sự Cổ Loa đã được chọn trên hai điều căn bản là: lợi dụng sự thuận lợi về địa hình và không tách rời dân. Đó có thể được coi là những thành tựu về tư tưởng quân sự đầu tiên của dân tộc ta. Tư tưởng đúng đắn đó đã trở thành truyền thống quân sự của dân tộc ta trong suốt mấy nghìn năm lịch sử.

2. Thành tựu về mặt kỹ thuật quân sự:

a.  Một công trình quân sự được quy hoạch và thiệt kế hoàn hảo

Cấu trúc thành Cổ Loa cho thấy, đây là một công trình được quy hoạch rất hoàn hảo. Theo truyền thuyết ở Cổ Loa và qua thư tịch cổ Trung Hoa cho thấy “công trình sư” thiết kế thành Cổ Loa là Cao Lỗ.

Thành được xây dựng trên bờ Bắc sông Hoàng để sử dụng dòng sông này như một đầu mối giao thông quan trọng. Từ đây qua hệ thống chằng chịt sông giăng, có thể tới khắp mọi miền châu thổ và ra biển, đồng thời nó cũng là một ngoại hào thiên nhiên lợi hại.

Nước sông Hoàng trở thành nguồn phong phú cho hệ thống ngoại hào của cả ba vòng thành. Hệ thống đầm hồ trong thành được quy hoạch để trở thành một “quân cảng” có sức chứa hàng trăm thuyền bè. Nếu nhìn trên bản đồ, ta thấy rất rõ “quân cảng” này nằm lọt vào giữa hai vòng thành Trung và thành Nội. Cả bốn mặt đều có tường vây, chỉ có một cửa dẫn vào thành Trung, cửa này được đặt ở ngay “cổ họng” của năm Lạch nước trong lòng thành và chỉ vừa đủ cho thuyền nhỏ ra vào. Một khi cần phải ra khỏi thành bằng đường thuỷ, kẻ địch rất khó phán đoán quân ta sẽ chọn nhánh nào trong năm nhánh của con đường rút này.  Rõ ràng thành được thiết kế khoa học và được bảo vệ một cách cẩn mật.

1. Trần Quốc Vượng: Cổ Loa, những kết quả nghiên cứu vừa qua và những triển vọng tới, Tạp chí Khảo chọc, số 3-4, tháng 12-1966
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #133 vào lúc: 14 Tháng Mười Hai, 2008, 09:45:17 am »



Từ trước tới nay, các nhà nghiên cứu thường nhấn mạnh vai trò của thành Cổ Loa như một công trình phòng thủ bộ binh kết hợp với thuỷ quân. Nhưng nếu như nghiên cứu quy hoạch Cổ Loa chúng ta sẽ thấy ngược lại. Cổ Loa chính là một căn cứ hải quân và lấy quân thuỷ làm lực lượng tác chiến chủ đạo.
 
Nếu Cổ Loa là một căn cứ phòng vệ lấy bộ binh làm lực lượng tác chiến chủ đạo thì thành Nội là nơi  nhà vua và bộ phận đầu não không thể đặt ở vị trí dịch sát bờ sông như ta thấy, mà phải được đặt ở trung tâm của toà thành. Nhưng trên thực tế, thành Nội lại nằm ở vị trí sátphía Đông Nam của thành. Từ thành Nội ra bờ sông, đoạn này ba vòng thành cách nhau rất gần, như vậy cũng có nghĩa, từ thành Nội ra sông Hoàng không xa. Bản quy hoạch này đã thể hiện rất rõ hai ý đồ quân sự vô cùng sáng suốt: một là, đối phó với hướng tấn công chính của kẻ thù từ hướng Đông Nam theo đường biển vào; hai là, cơ quan đầu não phải được đặt nằm kề với sông Hoàng. Có thể khẳng định, Cổ Loa là một căn cử hải quân. Điều này rất phù hợp với truyền thống “thạo thuỷ chiến” của người Việt mà sử sách Trung Quốc đã từng ghi.

Một chi tiết khác cũng được các nhà nghiên cứu chú ý, có thể Cổ Loa không phải là căn cứ hải quân đơn độc. Trong thần tích Cao Lỗ có một chi tiết là, khi bị An Dương Vương truất quyền ông đã về “bản doanh” của mình ở Đại Than.  Điều đó có nghĩa là, ở Đại Than, Cao Lỗ đã được phép duy trì một đạo quân, chắc chắn là quân thuỷ. Căn cứ này hẳn có nhiệm vụ chặn đánh giặc từ xa và sẵn sàng về kinh đô ứng cứu một khi Cổ Loa có sự cố.

Thực tế lịch sử diễn ra sau đó khẳng định sự phán đoán của Cao Lỗ là hoàn toàn đúng.

Một trong những sáng tạo tuyệt vời khác của người thiết kế thành là, tác giả đã biết tận dụng triệt để các gò đất cao tự nhiên đắp nối liền chúng lại với nhau tạo nên những vòng thành khép kín, nhờ vậy đã tiết kiệm được rất nhiều sức lực lao động của con người và tiền của. Cũng chính vì vậy, mà thành Trung và thành Ngoại uốn lượn tự do không có hình dáng cân xứng và chặt chẽ. Yêu cầu về cái đẹp đã bị đẩy xuống hàng thứ yếu, mối quan tâm hàng đầu của công trình sơ là tính chất kiên cố của một công trình quân sự.

b. Kỹ thuật xây dựng công trình trên địa hình lầy thụt

Trong kho tàng truyền thuyết Cổ Loa, có một truyền thuyết kể về những gian khó mà An Dương Vương đã gặp phải trong quá trình xây thành.

Sách Lĩnh Nam chích quái chép . . . “vua xây thành ở đất Việt Thường, hễ đắp tới đâu lại lở tới đó, Vua bèn lập đàn trai giới, cầu đảo bách thần. Ngày mồng 7 tháng 3 bỗng thấy một cụ già từ phương Đông tới  trước cửa thành mà than rằng: “Xây dựng thành này biết bao giờ cho xong được?” Vua mừng rỡ đón vào trong điện, thi lễ hỏi rằng: “Ta đắp thành này đã nhiều lần băng lở, tổn nhiều công sức mà không thành, thế là cớ làm sao?”. Cụ già đáp: “Sẽ có sứ Thanh Giang tới cùng nhà vua xây dựng mới thành công”, nói xong từ biệt ra về. Hôm sau vua ra cửa Đông chờ đợi chợt thấy một con Rùa vàng từ phương Đông lại, nổi trên mặt nước, nói sõi tiếng người, tự xưng là sứ Thanh Giang, thông tỏ việc trời đất, âm dương, quỷ thần. Vua mừng rỡ nói: “Điều đó chính cụ già đã báo cho ta biết trước”. Bèn rước vào trong thành mời ngồi trên điện, hỏi “vì sao xây thành không được” . Sau đó nhờ thần Thanh Giang giết chết con Gà trắng thành tinh và yêu quái nên “Thành xây nửa tháng thì xong” 1.

Thông qua câu chuyện mà Lĩnh Nam chích quái mô tả chúng ta có thể thấy công cuộc xây dựng thành Cổ Loa của An Dương Vương vô cùng gian khó, trong đó nổi lên hai nguyên nhân căn bản: một là, do xây trên vùng đất nhiều ao hồ, lầy thụt và hai là, những cuộc xung đột bộ Lạc vẫn chưa chấm dứt
.
Hình tượng tinh con Gà trắng phải chăng là hình tượng của các bộ Lạc vùng cao - với biểu tượng là con Gà và các bộ Lạc vùng thấp - với biểu tượng Rùa vàng. Cuối cùng, chính nhờ vào kinh nghiệm và sức mạnh của các bộ Lạc vùng thấp, An Dương Vương đã chinh phục được các lực lượng chống đối và áp dụng kinh nghiệm chống lầy thụt của họ mới có thể thành công trong việc xây thành.

Để làm sáng tỏ vấn đề này, các cơ quan khoa học như trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và Viện Khảo cổ học đều đã tiến hành cắt một số đoạn tường thành để nghiên cứu. Lát cắt ở góc thành Nội của trường Đại học Tổng hợp cho thấy kết cấu tường thành Nội có hai lớp:
- Lớp trên là đất thịt nhẹ pha cát có màu vàng nhạt. Lẫn trong đất là các mảnh sành sứ muộn, thậm chí còn có hiện vật đương đại.

1. Vũ Quỳnh-Kiều Phúc: Lĩnh Nam chích quái, Nxb. Văn hoá, Hà Nội, 1960, tr. 59. 
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #134 vào lúc: 14 Tháng Mười Hai, 2008, 09:47:52 am »



- Lớp dưới là đất mịn và chắc, nhưng khác nhau từ trên xuống dưới.

Trên cùng là đất thịt pha đất feralitic màu đỏ, dưới lớp đất này, đất thịt pha sét màu vàng. Dưới cùng là đất thịt bị giây hoá mạnh. Trong lớp đất bùn lầy giây hoá này, ở độ sâu 1m20 phía trong và 1m60 ở phía ngoài đã phát hiện một lớp gốm cứng, màu xám - các nhà khảo cổ học gọi là “gốm Cổ Loa” được rải thoai thoải ra hai phía chân thành. Dưới lớp gốm là một lớp đá tảng hoặc đá cuội trải vững chắc ở bên dưới lớp gốm 1.

Từ mặt cắt này các nhà khảo cổ đã cho chúng ta biết kỹ thuật xây thành như sau: đầu tiên rải một lớp đá tảng hoặc cuội sỏi trên nền đất lầy thụt, bên trên lớp đá này là một lớp gốm cứng màu xám mốc, sau đó dùng đất sét có pha đất đồi feralitic đắp thành tường thành. Với kỹ thuật chống lầy lún như vậy, những bức tường thành đồ sộ của Cổ Loa đã đứng vững gần 2000 năm qua.

Tuy chỉ cắt một đoạn thành Nội, nhưng quan sát ở nhiều điểm trên cả ba vòng thành và cả luỹ ngoài thành, các nhà khảo cổ học cho biết, kỹ thuật xây dựng này đã được áp dụng với tất cả các tường thành. Dưới đây là những địa điểm xuất lộ khác mà ta có thể quan sát được một cách dễ dàng:

- Phía Nam thành dọc theo bờ của con hào cũ.
 
- Hầu hết đoạn tường thành phía Tây Nam đều có đá hộc ở dưới và gốm ở trên.

- Tường thành Trung, đoạn từ phía Nam chạy qua phía Đông men theo bờ đầm có thể nhìn rất rõ dải gốm dày tới 1m.

- Phương pháp chống lầy bằng đá và gốm càng thấy rõ hơn đối với thành Ngoại. ở đoạn thành phía Đông, chạy men theo sông Hoàng, ngược lên Đầm Cả, có thể thấy rất rõ đá nền và gốm lát. Đoạn thành phía Đông dường như đã được đắp rất kiên cố. Bên trên lớp đá, gốm Cổ Loa đã được rải suốt từ lưng chừng ra mãi tới chân thành, v.v...

Ngoài những đoạn tường thành đã kể trên, kỹ thuật xây dựng này còn được áp dụng cho một số luỹ đất bên ngoài thành. Sự có mặt của kỹ thuật rải gốm dưới chân các luỹ khẳng định nó được đắp cùng thời với các tường thành. Như vậy, không ai có thể phủ nhận vai trò của các công trình phòng ngự tiền duyên của thành Cổ Loa.

Có thể nói, đây là một thành tựu kỹ thuật đặc biệt nhất trong xây dựng thành quách quân sự trong lịch sử dân tộc ta.  Những vòng thành Cổ Loa, kể cả thành Nội, mà ta thấy hiện nay, có thể đã được tu sửa nhiều lần sau thời An Dương Vương. Nhưng theo chúng tôi, chúng đã được xây đắp đầu tiên từ thời An Dương Vương.

Cổ Loa xứng đáng là một công trình quân sự đồ độ, một ký công lao động, một sự hội tụ tài trí và thể hiện lòng yêu nước thiết tha của dân tộc ta trong buổi đầu dựng nước và giữ nước.

IV. VỊ TRÍ CỦA THÀNH CỔ LOA TRONG SỰ NGHIỆP
GIỮ NƯỚC ĐẦU TIÊN CỦA DÂN TỘC
 
     
Thành Cổ Loa được xây dựng ở trung tâm của nước Âu Lạc, nơi được chọn làm quốc đô nên có vị trí của một quốc thành. Lãnh đạo liên minh Âu - Lạc chống Tần thắng lợi, Thục Phán hợp nhất đất đai của hai bộ tộc là Âu Việt (hay Tây Âu) và Lạc Việt, lập thành quốc gia Âu Lạc.
 
Thục Phán không đóng đô ở trung tâm cũ thuộc vùng núi cao Việt Bắc, Đông Bắc và lưu vực Tả Giang, Hữu Giang thuộc phía Nam tỉnh Quảng Tây ngày nay, cũng không sử dụng đô thành cũ của triều Hùng ở vùng ngã ba Hạc mà chọn Cổ Loa - một rìa nhọn sâu nhất của vùng trước núi vươn xuống vùng đồng bằng bát ngát vừa mới và còn đang tiếp tục hình thành, mở rộng ra biển - làm nơi trấn trị và điều hành đất nước.
 
Trong ngổn ngang công việc xây dựng kinh đô và phục hưng đất nước, Thục Phán đã sớm nhìn ra sự bức xúc và tầm quan trọng hàng đầu của việc trước mắt phải có ngay một thành trì kiên cố để giữ yên đất nước, trước hết là giừ yên triều chính.

Trước và trong liên minh chống Tần, hai khối, hai cộng đồng tộc người Tây Âu và Lạc Việt - thành phần chủ yếu của cơ dân nước Âu Lạc - đã từng có mối quan hệ mật thiết về nhiều mặt. Xu thế hợp nhất đã khiến hai khối người này hoà đồng vào nhau. Quá trình hoà hợp đó chủ yếu diễn ra êm ả.

1. Trần Quốc Vượng: Cổ Loa, những kết quả nghiên cứu vừa qua và những triển vọng tới, Tạp chí Khảo chọc, số 3-4, tháng 12-1966.
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #135 vào lúc: 14 Tháng Mười Hai, 2008, 09:53:12 am »



Song cũng có lúc gặp thác ghềnh sóng gió như việc thông hiểu gặp trở ngại, hay có những va chạm xung đột vũ trang đã được ghi trong sử sách, hay trong ký ức dân gian, phản ảnh qua truyền thuyết về vua Thục cầu hôn con gái vua Hùng không thành, về các cuộc chiến tranh Hùng - Thục...
 
Cuối cùng, việc hợp nhất trọn vẹn đã diễn ra nhờ sự thúc đẩy của quá trình chiến đấu chống Tần và sau cuộc chống Tần thắng lợi. Sự thống nhất này là đòi hỏi khách quan mang tính tất yếu nhằm mở mang bờ cõi, thúc đẩy kinh tế phát triển và bảo vệ cộng đồng, bảo vệ đất nước mới dựng.

Mặc dù vậy, sự thống nhất đó đã đụng chạm đến địa vị và quyền lợi của một số người thuộc tầng lớp quý tộc ở các bộ Lạc riêng lẻ.  Sự chống đối được hiện ra mờ tỏ qua hiện tượng thành xây bị đổ nhiều lần và cuối cùng phải viện tới thần linh (như trong chuyện kể về sự tích Rùa vàng được ghi trong Lĩnh Nam chích quái) và phải mất ba năm mới hoàn thành. Về mặt này, sự hiện diện của thành quách - cụ thể của thành Cổ Loa - được xem như lá chắn vững chắc, vật cản hữu hiệu ngăn chặn sự gây rối phản loạn của các thế lực chống đối bên trong.

Mặt khác, nhân dân Âu Lạc vừa thoát ra khỏi cuộc kháng chiến trường kỳ với biết bao hy sinh gian khổ, trong khi dồn toàn bộ công sức cho chiến đấu đã xây dựng một lực lượng vũ trang mạnh, chiến thắng oanh liệt, tích luỹ được những tri thức và kinh nghiệm chiến đấu có giá trị, đặc biệt là đã ý thức được yêu cầu phải giữ nước, bảo vệ cuộc sống của mình. Trong cuộc chiến tranh, một phần đất đai của liên minh Âu-Lạc đã bị mất và sau khi chiến tranh chấm dứt vẫn còn bị đe doạ về nguy cơ xâm lược từ phía kẻ thù cũ.

Mặc dù tình thế và tương quan lực lượng đã đổi thay, đất nước của “thiên triều’ đã kiệt quệ và mệt mỏi vì những cuộc chiến tranh xâm lược Nam chinh Bắc phạt và những cuộc nội chiến loạn ly bên trong; nhà Tần bị diệt vong, nhà Hán lên thay, đang còn phải lo củng cố địa vị, phục hồi sức mạnh, trấn an đất nước, trước mắt chưa thể tổ chức tiếp các cuộc xâm lược mới để bành trướng lãnh thổ; song vào thời điểm đó, lại xuất hiện các thế lực cát cứ.

Sát nách với nước Âu Lạc là nước Nam Việt mới lập của tập đoàn phong kiến Hán tộc do Triệu Đà cầm đầu. Triệu Đà đã có ý đồ cát cứ ngay từ khi được nhà Tần cử đem viện binh cùng Nhâm Ngao tăng cường cho đội quân xâm lược do Đồ Thư thống xuất (năm 214 Tr.CN). Đội quân này bị cầm chân ở vùng sông Tây Giang trên bước đường tiến sâu vào đất Việt, sau khi đã lấy được phần lớn đất đai của người Tây Âu ở Quảng Tây và người Nam Việt ở Quảng Đông, lập ra ba quận mới là Nam Hán, Quế Lâm và Tượng.
 
Viện binh của Nhâm Ngao - Triệu Đà là đoàn quân tạp hợp gồm những kẻ bị nhà Tần đày đi biên cương trấn giữ vùng đất mới chiếm. Ý đồ cát cứ và bành trướng của tập đoàn Ngao - Đà lần đầu tiên được bộc lộ rõ rệt và mạnh mẽ khi chúng mang danh nghĩa “thiên triều’ mở cuộc xâm lược đầu tiên vào năm 210 Tr.CN, đánh thẳng vào vùng đất cơ trú của người Lạc Việt, mở gọng kìm phía Nam đỡ đòn cho cánh quân chủ lực ở phía Bắc đang bị nguy khốn.

Lúc này, nước Nam Việt chưa ra đời, song Ngao - Đà đã bàn nhau chiếm lấy vùng đất đai trù phú ở lưu vực sông Hồng gộp vào đất đai lưu vực sông Châu để lập thành một quốc gia mạnh. Trong cuộc tiến quân này, Triệu Đà chiếm được một phần đất của người Lạc Việt. Do tương quan lực lượng, liên minh Âu-Lạc buộc phải cắt đất giảng hoà, coi đó là một sự nhượng bộ tạm thời.

Sau khi buộc phải rút quân, Triệu Đà vẫn chưa từ bỏ ý đồ xâm lược; y được Nhâm Ngao bày mưu, xúi giục: “Nhà Tần sẽ mất nước thôi nếu ông biết dùng mưu đánh lấy Thục thì có thể lập được nước đấy” 1.

Do đó, Triệu Đà vẫn nuôi hy vọng, chờ thời cơ. Và thời cơ đó đã đến vào khoảng năm 183-179 Tr.CN, khi Triệu Đà cảm thấy mình đã đủ mạnh, bèn xưng đế, dùng binh lực và của cải chiêu dụ Mân Việt và bắt Tây Âu - Lạc Việt lệ thuộc. Sau đó, Đà đem quân tiến đánh Âu Lạc. Đây là cuộc xâm lược Âu Lạc lần thứ hai của Triệu Đà.

Lúc này thành Cổ Loa đã được xây xong. Mục tiêu của việc xây thành mà vua Thục và các tướng lĩnh của ông theo đuổi là tạo ra một thành luỹ vững chắc, có thể kìm chân và chủ động tiến đánh địch theo kế sách đã định trước.  Việc xây thành Cổ Loa thể hiện quyết tâm giữ nước và tài mưu lược của Thục Phán và các tướng lĩnh của ông.  Thành kiên cố có tác dụng làm yên lòng quân sĩ, tạo ra tâm lý phấn chấn và kích thích lòng dũng cảm của họ.

Các nguồn sử liệu thành văn của nước ta, cũng như củaTrung Quốc không mô tả diễn biến các trận đánh vào kinh đô Âu Lạc của Triệu Đà.

1. Quốc sử quán triều Nguyễn: Việt sử thông giám cương mục, Nxb. Văn-sử-địa, Hà Nội, 1960, tr.62
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #136 vào lúc: 14 Tháng Mười Hai, 2008, 09:56:02 am »


Nhưng các truyền thuyết lưu truyền đến nay cho thấy, trước sự chống trả kiên cường của đối phương, Triệu Đà không thể dùng sức mạnh quân sự mà phải dùng nhiều mưu ma chước quỷ, dùng kế ly gián, chia rẽ Thục Phán với các tướng sĩ của ông và thâm độc hơn, đã dùng kế cầu hôn, cho con trai luồn vào tận dinh luỹ của Thục Phán để dò la và lấy cắp bí mật quân sự, trước hết là “nỏ thần” có sức mạnh kỳ diệu, từng một phen làm khiếp đảm đội quân xâm lược của “thiên triều’ do Ngao - Đà thống lĩnh đánh thọc vào sườn Nam đất Việt trong cuộc chiến tranh lần trước.
 
Rõ ràng, thành Cổ Loa đã phát huy được tác dụng tích cực góp phần bẻ gãy các cuộc tiến công của kẻ thù. Nhưng cuối cùng Cổ Loa vẫn bị thất thủ, không thế quy nguyên nhân thất bại là tư tưởng chỉ đạo tác chiến bị động, dựa vào thành cao, hào sâu để phòng thủ của Thục Phán. Nguyên nhân chính là do Thục Phán đã trúng kế ly gián của kẻ thù, có những việc làm mất lòng tướng sĩ, làm tổn hại đến khối đoàn kết của người Việt.

Trong lịch sử, việc xây thành đắp luỹ, dựng pháo đài phòng thủ là phổ biến đối với mọi quốc gia. Thành luỹ là phương tiện che chắn để bảo toàn lực lượng trước sự tiến công của kẻ thù. Tuỳ từng lúc, từng nơi, nhất là tuỳ vào tài ứng biến của người sử dụng, thành sẽ phát huy được tác dụng hay bị mất tác dụng.

Thành Cổ Loa được xây dựng với quy mô lớn, vững chắc, có vị trí quan trọng trong buổi đầu giữ nước của dân tộc ta. Thành bị mất tác dụng do những sai lầm của Thục Phán và mưu đồ thâm hiểm của kẻ thù. Đây là bài học sâu sắc trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc.

Trong buổi bình minh của thời kỳ đầu đựng nước và giữ nước, thành Cổ Loa là một công trình lao động đồ sộ, biểu thị sự cố kết của dân tộc, khẳng đỉnh vị thế của đất nước. Thành Cổ Loa gắn với những chiến công giữ nước đầu tiên; khởi đầu cho kỹ thuật xây thành và nghệ thuật sử dụng thành trong lịch sử quân sự nước ta.


CHƯƠNG IV

NHỮNG CUỘC CHIẾN  TRANH GIỮ NƯỚC ĐẦU TIÊN: CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG QUÂN TẦN
VÀ KHÁNG CHIẾN CHỐNG TRIỆU ĐÀ XÂM LƯỢC

I. SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẾ CHẾ TẦN VÀ ÂM MƯU MỞ RỘNG
CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC XUỐNG PHÍA NAM

Sau gần 20 thế kỷ, kể từ nhà Hạ - nhà nước đầu tiên của người Hoa được thành lập (khoảng thế kỷ XXI đến thế kỷ VII Tr.CN), tiếp đến Ân - Thương, Tây Chu, Đông Chu (còn gọi là Xuân Thu - Chiến Quốc), đất nước Trung Hoa đã trải lụa thời kỳ “tranh bá đồ vương” khốc liệt.
 
Lục địa Trung Hoa mênh mông thuở ấy bị cắt nát ra như một miếng bánh đa vỡ. Theo sử sách Trung Quốc, đời Tây Chu có tới gần 1000 nước, sau khi thôn tính lẫn nhau đến thời Xuân Thu (770-475 Tr.CN) vẫn còn tới hơn 100 nước.

Trong cuộc chiến hỗn loạn thời Xuân Thu, nhiều nước nhỏ đã bị tiêu diệt, nên khi bước sang thời Chiến Quốc (475-221 Tr.CN) chỉ còn lại bảy quốc gia lớn là : Yên - Tề - Sở - Hàn - Nguỵ - Triệu - Tần.
 
Bảy quốc gia này tiếp tục lao vào cuộc chiến đẫm máu hơn để giành quyền bá chủ thiên hạ. Trong số bảy quốc gia đó, nước Tần là nước ở phía Tây, Lạc hậu hơn so với các quốc gia khác, nhưng từ giữa thế kỷ thứ IV Tr.CN, nhờ thực hiện những cải cách của tể tướng Thương Ưởng  còn gọi là “biến pháp Thương Ưởng” đã tạo ra một động lực mới trong xã hội, làm cho nước Tần dần dần cường thịnh.
Những cải cách của Thương Ưởng có nội dung chính sau:

Về kinh tế, chủ trương khuyến khích phát triển sản xuất, đẩy mạnh khai hoang phục hoá, thừa nhận sự tư hữu về ruộng đất.

Về mặt xã hội, ra lệnh bãi bỏ chế độ công quốc, hạn chế đặc quyền, đặc lợi của tầng lớp quý tộc.

Về mặt hành chính, thực hiện cải cách sâu sắc, làm cho đất nước có một thể chế vững chắc dựa trên cơ sở của các đơn vị hành chính từ trung ương đến địa phương: xã, huyện, tỉnh.  Các quan lại trong bộ máy hành chính đều do nhà nước trực tiếp bổ nhiệm, v.v...

Chính nhờ vào những cải cách đó, đến năm 221 Tr.CN, nước Tần đã có đủ sức mạnh tiêu diệt sáu nước, kết thúc cục diện tranh hùng thời Chiến Quốc, thống nhất toàn bộ lãnh thổ Trung Hoa lập nên nhà Tần - một Nhà nước quân chủ chuyên chế hùng mạnh. Vua Tần là Tần Doanh Chính lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là Thuỷ Hoàng đế tức Tần Thuỷ Hoàng.  Sự nghiệp thống nhất Trung Quốc của Tần Thuỷ Hoàng đã được bề tôi ngợi ca “Ngày xưa đất Tần chẳng qúa nghìn dặm, nay nhờ bệ hạ thần linh sáng suốt nên bình định được bốn biển” ... Lần đầu tiên làm nên nghiệp lớn, dựng nên cái công vạn đời...” 1.


1. Tư Mã Thiên Sử ký, Nxb. Văn học, hà Nội, 1998, tr. 46.
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #137 vào lúc: 14 Tháng Mười Hai, 2008, 10:02:00 am »



Lãnh thổ của nhà Tần được mở rộng “phía Đông đến biển và đất Triều Tiên; phía Tây đến Lâm Thao; phía Nam đến miền cửa nhà quay mặt về hướng bắc; phía Bắc lấy Hoàng Hà làm biên giới và men theo âm Sơn đến tận Liêu Đông” 1.
 
Sau khi lên ngôi, Tần Thuỷ Hoàng bắt tay ngay vào việc củng cố chế độ trung ương tập quyền với quyền lực tối thượng trong tay Hoàng đế.

Về mặt đối nội “Bèn chia thiên hạ làm 36 quận, đặt các quan thú, uý, giám, đổi gọi dân là đầu đen...” 2. “thống nhất luật pháp, các cân, phép đo lường, các thạch, trượng thước; trục xe đều đặt dài như nhau, chữ viết cùng lối như nhau” 3.  Song song với việc xây dựng chính quyền trung ương tập quyền, Tần Thuỷ Hoàng cũng đã nhận ra “Thiên hạ đều khổ về việc chinh chiến liên miên. . . muốn được thái bình nghỉ ngơi...”, nên đã cho “thu tất cả binh khí trong thiên hạ tập hợp ở Hàm Dương, đúc làm chuông, giá chuông và mười hai người bằng kim khí mỗi người nặng 1000 thạch, đặt ở trong cung” 4. Đồng thời, cho thi hành một loạt chính sách nhằm phát triển nông nghiệp, khuyến khích ngoại thương, mở mang đường sá: “Năm thứ 35 (211 Tr.CN) sau làm con đường thông từ huyện Cửu Nguyên đến đất Vân Dương, đục núi, lấp các khe núi, nhờ vậy đường đi suốt và thẳng”5.
 
Nhờ một số chính sách mới, nền kinh tế chẳng những nhanh chóng khôi phục, mà còn phát triển mạnh mẽ. Kinh đô Hàm Dương trở thành thủ đô của đế chế, đồng thời là một trung tâm thương mại phồn thịnh.

Bên cạnh những mặt tích cực, nhà Tần cũng nhanh chóng bộc lộ là một chế độ chuyên chế và bạo ngược. Nghe theo lời tâu của bầy tôi, Tần Thuỷ Hoàng đã ra lệnh “đốt sách vở của trăm nhà”, chôn sống 460 học trò. “Trừ những người làm chức bác sĩ, ai cất giấu Kinh Thi, Kinh Thư, sách vở của trăm nhà thì đều đem đến các quan Thái thú, Thái uý mà đốt đi, hai người dám bàn nhau về Kinh Thi, Kinh Thư thì chém giữa chợ, lấy đời xưa mà chê đời nay thì giết cả họ...  Lệnh ban ra trong ba mươi ngày không đốt sách thì khắc vào mặt cho đi thú để xây và canh giữ trường thành 6.  

Để phục vụ cho đời sống xa hoa của vua chúa, khắp nơi đều xây dựng cung thất, phủ đệ “ở Quan Trung số cung đến 300 cái, ở ngoài Quan Trung hơn 400 cái”. “Thuỷ Hoàng ra lệnh : “Trong vòng 200 dặm xung quanh Hàm Dương, 270 cung điện ở đấy có đường phúc đạo và đường ống liền nhau; đem màn trướng, trống chiêng cùng gái đẹp đưa vào các cung không cho xê dịch” 7.

Trong số gần 1000 cung điện đó, nổi tiếng nhất là cung A Phòng. Cung được xây dựng phía Nam sông Vị. Trước khi xây cung, Tần Thuỷ Hoàng đã cho xây một điện dài 500 bộ rộng 50 trượng “có thể ngồi được một vạn người” 8. Để xây dựng công trình đại quy mô này đã phải huy động tới “hơn 70 vạn người chia nhau xây” 9.

Dân cơ trong nước bị xáo trộn rất lớn. Chỉ riêng việc xây “cửa phía Đông nhà Tần” ở bờ biển Đông Hải đã cho “dời ba vạn dân đến Ly ấp, năm vạn nhà đến Vân Dương” 10.

Những luật lệ hà khắc đến quái gở được áp dụng. “Theo phép nhà Tần không được làm hai nghề, làm sai là chết ngay”. Khi vua đến đâu, kẻ nào nói nơi vua ở cũng bị chém đầu. Với những luật lệ như vậy, người phạm tội bị giải về kinh đô đi chật cả đường sá, các nhà tù đầy ắp người. Đó là chưa kể tới hàng trăm vạn tù nhân đã phải đi lao dịch xây dựng cung thất, trường thành, đi canh giữ các vùng đất mới chiếm được.

Sự bạo ngược của Tần Thủy Hoàng được xem như một sở thích, “Nhà vua thích việc hình phạt chém giết để ra uy”.
 
Về mặt đói ngoại, nhà Tần cũng đã nhanh chóng phơi bày bộ mặt đế quốc của nó, qua việc mở những cuộc chiến tranh xâm lược đại quy mô bành trướng mạnh mẽ ra phía ngoài.  Về phía Bắc, năm 215-214 Tr.CN, nhà Tần đem 30 vạn  quân đánh người Hung Nô, chiếm đất phía Nam Hà Sáo, lập ra 34 huyện. Xây Vạn Lý trường thành dài hơn 5000 dặm, kéo dài từ Lâm Thao phía Tây đến Liêu Đông ở phía Đông. Về phía Nam, tiếp tục và đẩy mạnh cuộc chiến tranh bình Bách Việt.

Từ phía Bắc, cuộc xâm lược của nhà Tần như một đám mây đen đang hiện ngày một rõ phía chân trời, trôi dần về phương Nam.

Nhân dân các dân tộc phía Nam đứng trước nguy cơ xâm lược của một kẻ thù vô cùng hung bạo.

1., 2., 3., 4., 5. , 6., 7., 8., 9., 10  Sđd, tr 46, 51, 53.
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #138 vào lúc: 14 Tháng Mười Hai, 2008, 10:14:57 am »

II. CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG TẦN CỦA NGƯỜI VIỆT

Thực ra, không phải đến thời Tần Thuỷ Hoàng, người Việt mới đứng trước hoạ xâm lăng của các thế lực phong kiến phương Bắc.

Một trong những truyền thuyết được ghi trong sách Lĩnh Nam chích quái cho thấy dã tâm xâm lược các nước phương Nam của các thế lực phong kiến phương Bắc đã có từ lâu.

Truyền thuyết kể, vào thời Lạc Long Quân, vua phương Bắc là Đế Lai (?) trong lần chu du xuống phía Nam “thấy hoa kỳ, cỏ lạ chim quý thú hiếm, ngọc ngà, vàng bạc, các thứ đá quý, các cây trầm hương, cùng các sơn hào, hải vật không thiếu thứ gì, khí hậu bốn mùa không lạnh không nóng. Đế Lai rất thích thú, vui quên trở về. Dân phương Nam khổ vì bị người phương Bắc quấy nhiễu, không được sông yên như xưa...” 1. 

Trong thời Chiến Quốc, phía Nam sông Trường Giang có ba nước là Sở,  Ngô, Việt. Lãnh thổ của ba nước này nằm trong địa bàn cơ trú của người Việt, mà sử sách Trung Quốc thường gọi là Bách Việt. Trong quá trình giao tranh để giành quyền bá chủ thiên hạ, cả ba nước đều có mưu đồ bành trướng xuống phía Nam. Theo sách Sử ký, khởi đầu là nước Sở. Sau khi thất bại trong cuộc tấn công lên Trung Nguyên, vua Sở là Điệu Vương đã cho thi hành những cải cách đất nước của tể tướng Ngô Khởi, nhờ vậy, nước Sở trở nên hùng mạnh. “Kết quả phía Nam bình định Bách Việt, phía Bắc lấy đất Trần, đất Thái, cự tuyệt Tam Tấn, phía Tây đánh Tần” 2.
 
Nước Ngô và nước Việt cũng đã một thời làm chủ vùng Giang Đông. Năm 473 Tr.CN vua Việt Câu Tiễn diệt được nước Ngô, làm bá chủ cả một vùng đất duyên hải rộng lớn từ Sơn Đông đến Quảng Đông . “Việt Câu Tiễn đã sai sứ tới dụ, Hùng Vương chống cự lại” 3. Sự kiện này, đáng tiếc chỉ được ghi lại vẻn vẹn có vài chữ như vậy.

Mặc dù vậy, có thể khẳng định, cuộc chiến tranh xâm lược của nhà Tần vào đất Bách Việt là sự tiếp nói dã tâm không thành của các thế lực phong kiến trước đó.
 
Kể về cuộc xâm lăng của nhà Tần, cho đến nay các nhà sử học nước ta căn bản vẫn dựa vào sử sách Trung Quốc, trong đó có hai tài liệu quan trọng nhất. Một là sách Hoài Nam tử của Lưu An. Tác giả sách Hoài Nam tử là người được phong đất ở Hoài Nam năm 164 Tr.CN và mất vào năm 122 Tr.CN.
 
Như vậy, thời ông sống chỉ cách cuộc xâm lược của nhà Tần vào đất Bách Việt khoảng nửa thế kỷ. Đất Hoài Nam lại liền kề vôi đất Bách Việt. Do vậy, những ghi chép của ông được coi là nguồn sử liệu có giá trị nhất về sự kiện lịch sử này.  Hai là sách Sử ký của Tư Mã Thiên. Tư Mã Thiên tự là Tử Trường sinh năm 145 Tr.CN. Cha ông là Tư Mã Đàm làm Thái sử lệnh đời nhà Hán. Năm 108 Tr.CN, sau khi cha mất, ông được phong làm Thái sử lệnh. Như vậy, Sử ký được viết vào khoảng cuối thế kỷ II Tr.CN. Sử ký được coi là bộ sử đồ sộ và tác giả của nó được coi là “người cha của sử học Trung Hoa” nên cũng như Lưu An, tài liệu của Sử ký cũng được coi là những tư liệu có độ tin cậy cao.

Sách Hoài Nam tử viết: nhà Tần lại ham sừng tê, ngà voi lông trả, ngọc châu và ngọc cơ của đất Việt, bèn sai thái uý Đồ Thư phát 50 vạn binh, chia làm năm đạo quân: một đạo đóng ở đèo Đàm Thành, một đạo đóng giữ ở ải Cửu Nghi, một đạo đóng ở Phiên Nhung, một đạo giữ miền Nam Dã, một đạo đóng ở sông Dơ Can. Trong ba năm (quân Tần) không cởi giáp dàn nỏ. Giám Lộc không có đường chở lương, lại lấy binh sĩ đào cừ cho thông đường lương, để đánh nhau với người Việt. Giết được quân trưởng Tây Âu là Dịch Hu Tống. Nhưng người Việt đều vào trong rừng, ở với cầm thú, không ai chịu để cho quân Tần bắt. Họ cùng nhau đặt người tuấn kiệt lên làm tướng để ban đêm ra đánh quân Tần, đại phá quân Tần và giết được Đồ Thư.quân (Tần) thây phơi máu chảy hàng mấy chục vạn người. (Nhà Tần) bèn phát những người bị đày đến đóng giữ 4.

Cuộc xâm lược của nhà Tần vào đất Việt được Tư Mã Thiên chép có nội dung cơ bản giống sách Hoài Nam tử,  nhưng có thêm một số chi tiết rất đáng lưu ý. Sách viết: nhà Tần sai uý Đồ Thư đem quân lâu thuyền xuống Nam đánh đất Bách Việt, sai Giám Lộc đào cừ chở lương để vào sâu đất Việt Người Việt bỏ trốn. (Quân Tần) đóng giữ lâu ngày. Lương thực bị tuyệt và thiếu. Người Việt ra đánh.  Quân Tần đại bại. nhà Tần bèn sai Uý Đà đem binh đóng giữ đất Việt. Lúc bấy giờ, nhà Tần ở phía Bắc thì mắc họa với người Hồ, ở phía Nam thì mắc họa với người Việt. Đóng binh ở đất vô dụng, tiến không được, thoái cũng không xong.  Trong hơn 10 năm đàn ông mặc áo giáp, đàn bà phải chuyên chở, khổ không sống nổi. Người ta tự thắt cổ trên cây dọc đường. Người chết trông nhau. Kịp khi Tần Thuỷ Hoàng đế băng hà thì cả thiên hạ nổi lên chống 5.


1. Vũ Quýnh - Kiều Phú: Lĩnh Nam chích quái, Nxb. Văn hoá Hà Nội, 1960.
2. Tư Mã Thiên: Sử ký, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1988, tr. 328.  
3. Việt sử lược, Nxb. Văn-sử-địa, Hà Nội, 1960, tr. 14.
4., Dẫn theo Đào Duy Anh: Lịch sử Việt Nam, quyển thượng, Hà Nội, 1956.
5.,
Tư Mã Thiên: Sử ký, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1988,
« Sửa lần cuối: 15 Tháng Mười Hai, 2008, 12:06:56 am gửi bởi UyenNhi05 » Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #139 vào lúc: 14 Tháng Mười Hai, 2008, 11:31:57 pm »

Trong phần Bản kỷ sách Sử ký còn chép thêm:

“Năm thứ 33 (214 Tr. CN) Thuỷ Hoàng đưa những người thường trốn tránh, những người ở rể và những người đi buôn đánh lấy đất Lục Lương, lập thành Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải; cho những người đi đày đến canh giữ” 1. “năm thứ 34 (213 Tr. CN) đem đày những quan coi ngục không thanh liêm đi xây trường thành và đi thú ở đất Nam Việt” 2.
 
Ngoài hai tác giả trên, khoảng cuối thế kỷ I Tr.CN còn có thêm một người nữa là Ban Cố, tác giả của bộ sử Tiền Hán thư đã chép lại bức thơ của Lưu An gửi Hán Vũ Đế, có nhắc  lại sự kiện cuộc chiến của người Việt chống quân Tần: “Thần nghe các cụ phụ lão nói rằng, thời Tần từng sai uý Đồ Thư đánh đất Việt, lại sai giám Lộc đào cừ mở đường. Người Việt  trốn vào núi sâu rừng rậm, không thể đánh được. (Nhà Tần) lưu quân ở lại đóng giữ đất không, lâu ngày sĩ tốt mệt mỏi,  người Việt bèn ra đánh, quân Tần đại bại. (nhà Tần) phát tù bị đày đến đóng giữ” 3.

 Đó là những tư liệu cổ nhất về cuộc kháng chiến chống  Tần của người Việt mà chúng ta có được. Lượng thông tin của ba tác giả có thể có khác nhau, nhưng những nội dung căn  bản thì hầu như cả ba tác giả đều chép khá thống nhất, khẳng định có cuộc xâm lược của quân Tần vào đất Bách Việt cuộc kháng chiến của người Việt đã làm cho quân Tần khốn đốn và thất bại thảm hại.

Từ những dòng sử liệu ngắn ngủi trên, muốn làm sáng tỏ hơn giai đoạn lịch sử này, cần phải trả lời một loạt các câu hỏi như: thời điểm diễn ra cuộc chiến? Địa bàn xảy ra cuộc chiến? Hướng tiến công và diễn biến của cuộc chiến?

Về thời điểm xảy ra cuộc chiến tranh, các nguồn sử liệu trên không chỉ ra một cách cụ thể, song dựa vào các nguồn tư liệu khác ta có thể phán đoán được thời gian xảy ra sự kiện lịch sử này.

Theo Sử ký thì “Trong hơn 10 năm đàn ông mặc áo giáp, đàn bà phải chuyên chở, khổ không sống nổi”. Như vậy có nghĩa là, cuộc chiến tranh xâm lược của nhà Tần trên đất Bách Việt kéo dài trong khoảng 10 năm.

Theo sử sách Trung Hoa, Tần Thuỷ Hoàng chết năm 210 Tr.CN, con Thuỷ Hoàng lên ngôi lấy hiệu là Tần Nhị Thế. Sau khi Tần Thuỷ Hoàng chết, nước Tần rơi vào tình trạng rối ren, trong triều các đại thần mâu thuẫn, nhiều kẻ âm mưu phản loạn. Bên ngoài chư hầu nổi dậy, nông dân khởi nghĩa khắp nơi, làm cho nền thống trị của nhà Tần lung lay.
 
Trước tình hình đó,  năm 208 Tr.CN, Tần Nhị Thế đã ra lệnh bãi binh ở đất Việt.  Nếu lấy năm nhà Tần ra lệnh bãi binh ngược lên 10 năm  trước khi có lệnh, thì đó là năm 218 Tr. CN.
Cũng dựa vào nguồn sử liệu do Hoài Nam tử và Sử ký ghi chép, ta còn có thêm dẫn chứng xác định năm nhà Tần khởi binh. Theo Sử ký “Năm thứ 33, Thuỷ Hoàng đưa những  người thường trốn tránh, những người ở rể và những người đi buôn đánh lấy đất Lục Lương, lập thành Quế Lâm, Tượng  Quận, Nam Hải...”.

Năm thứ 33 nhà Tần là năm 214 Tr.CN. Trong khi đó Hoài Nam tử lại chép, nhà Tần phải mất ba  năm để đào kênh vận chuyển lương thực mới vào được đất Tây Âu. Như vậy, năm quân Tần vào được Tây Âu muộn nhất cũng là năm 217 Tr.CN.


1., 2.,  Tư Mã Thiên: Sử ký, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1988, tr.48.
3. Theo cuốn sách Quận huyện thời đại chí An Nam của Lê Chính Phủ do Thương vụ quán Trùng Khánh và Thượng Hải ấn hành năm 1944 “Người cầm đầu dân binh Việt đánh quân Tần, giết Đồ Thư là Thục Phán”.
« Sửa lần cuối: 15 Tháng Mười Hai, 2008, 12:07:09 am gửi bởi UyenNhi05 » Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM