Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 18 Tháng Tư, 2024, 11:48:45 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch Sử Quân Sự Việt Nam - Tập 1  (Đọc 125444 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #30 vào lúc: 07 Tháng Mười Hai, 2008, 09:14:19 pm »



Theo Việt sử lược, nước Văn Lang được thành lập vào đời Trang Vương nhà Chu (696-681 Tr.CN). Ghi chép này có phần phù hợp với tư liệu khảo cổ học ở giai đoạn đầu của văn hoá Đông Sơn khi các đặc trưng cư bản của văn hoá Đông Sơn trong đó có các loại hình vũ khí đã xuất hiện và có mặt đầy đủ. Trong tình thế, trong bối cảnh xã hội như vậy, tổ chức nhà nước đã xuất hiện tuy còn đơn sơ.

Một trong những đặc trưng cư bản của nhà nước là bộ máy quyền lực được thể hiện ở các mặt quan trọng như bộ máy hành chính, lực lượng vũ trang thường trực, luật pháp...  Về bộ máy hành chính với hệ thống quan chức của nó đã được ghi chép sơ sài trong thư tịch và được lưu ảnh trong ký ức dân gian qua truyền thuyết, có thể thấy được ba cấp độ quan chức tương ứng với ba cấp của bộ máy cai trị.

Đứng đầu các kẻ chạ, các làng xã là các bồ chính. Đó là các chức dịch nhỏ ở các cư sở được sách gọi là trăm quan. Bồ chính hay pôtrơring là những già làng có kinh nghiệm sống, có uy tín được kính nể như bố mẹ. Uy quyền của họ ngày càng tăng nhờ giàu sang và nhờ có chức quyền. Trước Cách mạng Tháng Tám, ở một số vùng nông thôn nước ta, người đứng đầu một tổng gọi là bồ đình.
Ở các bộ có các Lạc tướng đứng đầu, cha truyền con nối gọi là phụ đạo. Lạc tướng vốn là các tù trưởng bộ lạc chuyển hoá mà thành. Họ có các trưởng tá và đội thân binh giúp việc cai quản và bảo vệ.

Trên hết là bộ máy trung ương do Hùng Vương đứng đầu và các Lạc hầu giúp việc cùng đội thân binh làm nhiệm vụ bảo vệ. Danh hiệu Hùng có lẽ là một từ Hán phiên âm một từ Việt cổ có âm nghĩa gần với những từ như Kun, Thun của người Mường, người Thái chỉ người tù trưởng, thủ lĩnh đứng đầu một mường lớn.

Tính chất của lực lượng vũ trang cũng là một đặc điểm quan trọng để xem xét quá trình và mức độ hình thành hay hoàn chỉnh của một nhà nước. Vấn đề này sẽ được đề cập cụ thể trong chương sau. Ở đây chỉ xin nhấn mạnh rằng qua phân tích các nguồn tư liệu khảo cổ học cho thấy lúc này đã hình thành một lực lượng vũ trang chuyên với tổ chức và trang bị tương ứng cùng với tổ chức dân binh tạo thành sức mạnh vũ trang toàn dân được manh nha, có những tiền đề để tiếp tục phát triển và hoàn thiện ở các thời kỳ lịch sử tiếp theo.
Những dấu hiệu khác của nhà nước như luật pháp, thuế khoá . . . hiện chưa được tài liệu khảo cổ soi sáng.

Tuy nhiên, các hiện tượng đó cũng được gợi ra, được ghi lại trong thư tịch nói về việc Mã Viện tâu lên vua Hán về những điều khác biệt của luật người Việt so với luật người Hán, nói về hiện tượng Lạc hầu “ăn ruộng” hẳn muốn nói dện các lạc hầu được hưởng bổng lộc của vua Hùng qua việc thu lợi từ nguồn ruộng đất được cấp phát.

Từ những tài liệu vừa được trình bày ở trên cho thấy, xã hội Việt cổ mà văn hoá Đông Sơn phản ánh và được đánh dấu trong tâm khảm của nhân dân qua các truyền thuyết, các huyền thoại về thời dựng nước hay được le lói ít nhiều trong các đoạn thư tịch cổ, xã hội đó đã trải qua một thời kỳ quá độ kéo dài ngót một thiên niên kỷ mà trên quãng đường dẫn tới văn minh hình thái nhà nước ở chặng đầu và chặng cuối bộ mặt xã hội Đông Sơn này không giống nhau, có chuyển hoá tiệm tiến và có chất biến.

Những dấu hiệu, những đặc điểm của thời kỳ quá độ này được các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác phân tích một cách toàn diện theo một lô gích biện chứng chặt chẽ và phương pháp lịch sử xít xao, có thể hiểu như những hiện tượng phổ biến hay những đặc thù riêng của mỗi xã hội khi bước vào văn minh.

Gần đây khi nghiên cứu lịch sử cổ đại các nước ở khu vực Đông Nam Á, một số học giả nước ngoài (Tong En gheng 1992, C.Higham 1989...) cũng chú ý tới những đặc thù phương Đông, đã có công bóc tách và khái quát những đặc thù đó thành nội hàm của một giai đoạn phát triển của lịch sử nhân loại - một thời kỳ quá độ riêng biệt nằm giữa xã hội không giai cấp và xã hội có giai cấp. Tổ chức xã hội đó được gắn với một khái niệm, được gọi bằng một cái tên Chiefdom mà qua tiếng Việt có thể tạm gọi là tù trưởng quốc hay thủ lĩnh quốc.
Đối chiếu với những tiêu chuẩn chung của xã hội dạng này như: lao động công ích, phân hoá xã hội thành giàu nghèo, sang hèn, thương mại, chiến tranh... có thể dễ dàng nhận ra xã hội thời Hùng Vương - An Dương Vương, nói cách khác khi xã hội Đông Sơn này mang đầy đủ những đặc trưng cư bản của xã hội thủ lĩnh quốc, song có những đặc điểm khiến nó cuối cùng không còn dừng lại ở mức phát triển này nữa.


Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #31 vào lúc: 07 Tháng Mười Hai, 2008, 09:17:25 pm »



Nhìn một cách khái quát, những nét tù trưởng quốc của xã hội Đông Sơn được thể hiện:
Về mặt kinh tê. Đã có những chuyên hoá nhất định trong các ngành sản xuất cư bản và quan trọng. Hoạt động thương mại không còn là trao đổi ngẫu nhiên mà đã được kích thích bởi quan hệ thị trường. Đơn vị sản xuất cư sở là các gia đình nhỏ, song đã có những liên kết tự nhiên và tất yếu giữa các gia đình và các công xã thông qua các tổ chức quản lý của xã hội để tiến hành các hoạt động công ích, phục vụ nhu cầu chung.
Về mặt xã hội: Quan hệ thân tộc vẫn ở vị trí trội vượt bên cạnh quan hệ láng giềng. Xung đột và chiến tranh đã trở nên thường xuyên hơn và không còn chỉ là do hằn thù hay do vi phạm những điều cấm kỵ, vi phạm những tập tục của nhau mà nguyên nhân chính được tìm ở các động cư kinh tế - xã hội chi phối.
Về mặt chính trị: (tức bộ máy quản trị xã hội) đã bỏ xa cái tổ chức được điều hành bởi thủ lĩnh và hội đồng già làng với tổ chức dân binh khi có biến mà xã hội đã được vận hành bởi một tổ chức mà ở đó người thủ lĩnh cai trị không chỉ bằng uy tín và tài năng mà còn bằng uy quyền áp đặt cưỡng chế và thông qua các cá nhân thân tộc được liên kết theo thứ bậc và quyền hạn của mình cũng như thông qua tổ chức thân binh như lực lượng bảo vệ các nhóm quý tộc này.
Tuy nhiên ở nửa sau của sự phát triển văn hoá Đông Sơn, xã hội đã vượt qua khuôn khổ của xã hội tù trưởng quốc do có những sự biến tạo ra tình thế mới dẫn đến những kết cục mới, đưa xã hội Đông Sơn vượt qua giai đoạn quá độ tất yếu để bước vào xã hội giai cấp với những đặc điểm riêng của mình.
Quá trình hình thành và phát triển nhà nước cổ đại của người Việt được sơ đồ hoá như sau (xem bảng 5).
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #32 vào lúc: 07 Tháng Mười Hai, 2008, 09:19:26 pm »



III. NỀN VĂN MINH SÔNG HỒNG


Văn minh sông Hồng, văn minh Đông Sơn hay văn minh Việt cổ đều có chung một nội dung phản ánh quá trình dựng nước và giữ nước buổi đầu của dân tộc Việt Nam nhìn từ góc độ địa lý nhân văn, khảo cổ học hay lịch sử tộc người.  Về thời kỳ lịch sử này, tổ tiên ta từ xưa đã sớm nhận ra nền văn hiến được dựng xây lâu đời, hào quang văn minh toả sáng. Nguyễn Trải trong Bình Ngô Đại Cáo đã tuyên bố long trọng, khẳng định đanh thép:

“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Cõi bờ sông núi đã riêng
Phong tục Bắc - Nam cũng khác”...


Còn Vũ Quỳnh trong lời tựa sách Lĩnh Nam chích quái đã khái quát: “Nước ta khởi đầu từ Hùng Vương đã khá văn minh. Núi non kỳ lạ, đất đai linh thiêng, nhân dân anh hào, chuyện tích thần kỳ, thường thường vẫn có...”.

Bằng cảm quan của tâm thức sâu thẳm, của tâm linh huyền diệu, tác giả đã tái hiện nên bức tranh thoáng nhìn có phần nhuốm màu, đượm vẻ thần tiên, song đã làm nổi lên được cái thực chất của bước chuyển mình của dân tộc; những đổi thay to lớn của đất nước, xã hội và con người trong khí thế hào hùng tiến vào văn minh.

Núi sông, đất đai, bờ cõi, không gian sống này của thời các Vua Hùng quả đã khác xưa lắm lắm. Đầm lầy đã được phủ lên màu xanh của lúa. Rừng rậm lùi xa, xóm làng, đồng ruộng, bến sông cứ mở rộng, trải dài mãi mãi... Một cuộc đổi đời thực sự như vậy há chẳng phải là điều kỳ lạ, linh thiêng?

Và cái sức mạnh tạo ra sự đổi thay kỳ lạ đó, tạo ra bộ mặt văn minh đó chính là nhân dân anh hào đã lớn lên lẫm liệt trong khí thiêng sông núi - cái khí thiêng do chính con người tạo ra bằng biết bao mồ hôi, nước mắt và cả máu đào, nó được hoà nhập trở lại vào họ, tạo ra những điều thần kỳ. 

Bức tranh lịch sử, bộ mặt văn minh buổi đầu dân tộc được khôi phục lại bằng ký ức và suy tưởng đó, đã phần nào phản ảnh được sự thật, đáp ứng được tình cảm của nhân dân ta hướng về cội nguồn, ngưỡng mộ thành kính tiên liệt.
 
Chỉ đến ngày nay, cùng với ý thức dân tộc được khơi dậy mạnh mẽ, lịch sử nhiều nghìn năm được động viên góp vào đổi mới đất nước, chấn hưng dân tộc, những giá trị, những chuẩn mực chứa đựng trong di sản văn hoá được khai thác, bảo tồn và phát huy, văn minh Việt Nam thời dựng nước đầu tiên được dựng lại ngày một chính xác hơn, đầy đủ hơn. Câu nói nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước. . .” như kim chỉ nam chuẩn xác, định hướng cho những tìm tòi về cội nguồn dân tộc, phục dựng văn minh.
Quá trình hình thành và diễn biến của nền văn minh sông Hồng được phục dựng chủ yếu trên các cứ liệu khảo cổ học thu thập được có không gian phân bố và thời gian tồn tại được thư tịch cổ và truyền thuyết gọi là nước Văn Lang đời các Vua Hùng và nước Âu Lạc đời vua Thục.

Các mạch văn hoá khởi đầu chảy từ các văn hoá Hoà Bình và hậu Hoà Bình hình thành các nguồn hợp tiếp theo qua các văn hoá hậu kỳ đá mới được ngưng kết lại trong văn hoá Phùng Nguyên - nhân lõi đầu tiên và điểm xuất phát của văn minh sông Hồng.

Văn hoá Phùng Nguyên có niên đại khởi đầu khoảng 4000 năm cách ngày nay, có địa vực phân bố chủ yếu là các tỉnh thuộc trung du và đồng bằng cao sông Hồng lan rộng ra cả ven biển và toả xa xuống phía nam. Các di tích Phùng Nguyên thường có quy mô rộng (hàng vạn mét vuông) tầng văn hoá dày (trên một mét) chứng tỏ mật độ dân cư đông đúc và cư trú lâu dài ổn định của cư dân nông nghiệp mà chứng tích của hoạt động kinh tế này là bộ công cụ bằng đá đồ sộ và phong phú cùng với vết tích nhiều hạt lúa gạo tìm được. Bước đầu đã có sự chuyên hoá một số nghề thủ công: làm đá, nung gốm. Vết tích sử dụng và chế tạo kim loại đã thấy ở nhiều nơi (ít ra là ở 11 địa điểm). Tài năng kỹ thuật và nghệ thuật đạt đỉnh cao biểu lộ trên các đồ trang sức tinh tế bằng đá, những đồ gốm có hoa văn trang trí, cân xứng, mềm mại, hài hoà.  Đặc điểm của tư duy mỹ cảm của người Phùng Nguyên là phản ánh thế giới khách quan một cánh ước lệ, không chuộng chi tiết, tỉa tót mà chú trọng làm bật cái thần, cái sống động có thể thấy qua các tượng đầu gà bằng đất nung ở Xóm Rền (Phú Thọ), tượng người đàn ông bằng đá ở Văn Điển (Hà Nội)...


Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #33 vào lúc: 07 Tháng Mười Hai, 2008, 09:21:12 pm »



Theo dõi quá trình hình thành và phát triển các văn hoá tiền Đông Sơn và Đông Sơn có thể nhận ra những nét đặc Trưng cư bản của các nền văn hoá này là đều có khởi nguồn từ văn hoá Phùng Nguyên. Từ hình dáng công cụ, vũ khí, đồ trang sức và nghệ thuật đều được tạo lập từ thời Phùng Nguyên, chúng chỉ được đa dạng về kiểu loại và chất liệu ở các giai đoạn sau.

Từ khoảng thế kỷ XIII-VIII trước công nguyên, trên địa bàn văn hoá Phùng Nguyên và các văn hoá ở bình tuyến Phùng Nguyên kế tiếp nhau phát triển thành các văn hoá Đồng Đậu, Gò Mun ở vùng sông Hồng, Bái Man, Quỳ Chữ ở vùng sông Mã và Rú Cật, Rú Trăn ở vùng sông Lam.

Tiếp tục phát triển truyền thống Phùng Nguyên, một trong những đặc trưng quan trọng của các giai đoạn kế liền trước Đông Sơn là sự phát triển bùng nổ của kỹ thuật luyện kim đồng thau và kỹ thuật đúc chế đồ đồng thau.

Nhân tố mới, thể hiện cuộc sống sôi động, mạnh mẽ phóng khoáng, bám trụ vững chắc và mở rộng không gian sinh tồn xuống miền châu thổ sông nước mênh mông được in dấu trên đồ gốm với các hoa văn khuông nhạc cuộn sóng.  Văn hoá Gò Mun lại thể hiện sự nhân lên và trở về với truyền thống Phùng Nguyên ban đầu được nhận biết qua hàng loạt di vật và nhất là qua hoa văn biểu trưng.
 
Ý nghĩa tạo nền cho văn minh sông Hồng ra đời của các văn hoá tiền Đông Sơn này thể hiện ở tiến bộ kỹ thuật, ở sự chọn lọc, xác lập và góp mới những yếu tố văn hoá, biến chúng thành đặc điểm, thành truyền thống văn hoá phản ánh tính cách và sở đắc chung, định hình những thói quen lao động, tâm lý, thẩm mỹ của một cộng đồng người phát triển đang đi vào ổn định.

Văn hoá Đông Sơn - Hiện thân của văn minh sông Hồng

Những tiền đề vật chất xã hội được chuẩn bị từ các giai đoạn trước, nay trong hoàn cảnh sống và các mối giao tiếp mới đã được phát huy mạnh mẽ tạo ra diện mạo Đông Sơn với những đường nét hết sức phong phú, đa sắc và độc đáo thể hiện sự đổi thay chất biến trong toàn bộ đời sống của người Việt cổ.

Người Đông Sơn lúc này đã cư trú trên mọi địa hình trong nhiều vùng sinh thái khác nhau trải rộng từ vùng núi phía Bắc đến vùng sông Gianh.

Chính do đặc điểm cư trú trong các vùng sinh thái khác nhau cộng với những khác biệt về sắc tộc và tốc độ phát triển của từng nhóm tộc cụ thể đã tạo ra sự khác biệt vùng, sự khác biệt địa phương của văn hoá Đông Sơn ở ba trung tâm sông Hồng, sông Mã và sông Lam.
Nét độc đáo của loại hình Đường Cồ vùng sông Hồng thể hiện ở đồ gốm có chất lượng chế tác cao, gốm mịn màu trắng ngả xám hoặc phớt hồng được trang trí hoa văn thừng dập thành mắt võng hoặc ấn lõm nhăn hình tổ ong, đồ đồng có lưỡi cày hình tim, dao gặt hình vỏ trai, rìu lưỡi xéo gót vuông, giáo lao họng ngắn rìa lưỡi lượn. . . Trong khi đó, ở loại hình Đông Sơn vùng sông Mã nét riêng lại thể hiện ra ở đồ gốm thường có áo đỏ, lưỡi cày hình chân vịt, rìu lưỡi xéo gót tròn, giáo lao họng dài bản lưỡi rộng hình tam giác có rãnh thoát máu. Còn ở loại hình Làng Vạc vùng sông Lam, cư dân ở đây lại ưa chuộng dùng đồ gốm có áo nâu sẫm, lưỡi cày đồng vai ngang, vòng trang sức đồng có đính các chuông nhạc...  Song tính thống nhất Đông Sơn được thể hiện tập trung ở bộ vũ khí bao gồm những rìu lưỡi xéo, dao găm có đốc hình củ hành, ở những trống, thạp, thố đặc sắc...

Từ những di tồn vật chất đúc kết lại hình thành những đặc Trưng cư bản của văn hoá Đông Sơn có thể nhận ra những đặc điểm và giá trị tiêu biểu của nền văn minh sông Hồng.  Các di tồn vật chất nói lên sự vận động chất biến của văn hoá Đông Sơn thể hiện ở sự xuất hiện một loạt những sản phẩm mới, những loại hình di vật mới bằng đồng, bằng sắt, cho thấy nền văn minh sông Hồng được hình thành và phát triển trên cư sở cuộc cách mạng luyện kim diễn ra như kết quả phát triển nội tại tất yếu của những thành tựu kỹ thuật mà những thế hệ, những lớp lớp cư dân ở đây kế tiếp sáng tạo và giành được.

Những thế hệ cư dân thời Hùng, thời Thục, khi họ nấu chảy kim loại, cũng là lúc họ từng bước đúc nên nền văn minh sông Hồng.
Bằng những công cụ tiên tiến có hiệu suất cao, với những kinh nghiệm làm ăn lâu đời được đúc kết lại, người dân Lạc, dân Âu, tuy không rời bỏ nền kinh tế khai thác mà lúc này đối tượng đánh bắt, thu hái vẫn còn rất phong phú dồi dào, dễ kiếm, đã tập trung sức vào canh tác nông nghiệp, đưa kỹ thuật trồng lúa nước đạt tới đỉnh cao của thời đại, hình thành phức hợp kỹ thuật canh tác tiên tiến: Thuỷ lợi - cày kim loại - sức kéo trâu bò - cấy trồng hai vụ. Ngoài lúa, người thời đó còn trồng rau quả như bầu bí, đỗ, cà, dưa hấu, trám, nhãn, vải, na, cau, dưa. . . mà vết tích của chúng được các nhà khảo cổ học phát hiện ở nhiều nơi, trong nhiều di tích tiền Đông Sơn, Đông Sơn.

Trong nền nông nghiệp trồng lúa nước, thì nước nổi lên như một yếu tố quan trọng, một biện pháp kỹ thuật hàng đầu Người xưa đã biết đắp đê để ngăn chặn lũ. Vùng Đông Anh - Cổ Loa đã phát hiện được dấu tích một đoạn đê cổ có trước thời Bắc thuộc. Họ cũng biết lợi dụng thế nước cao thấp để đưa nước vào tưới ruộng theo nước triều lên xuống (được ghi trong Giao Chỉ thành ký, được dẫn lại trong An Nam chí lược đời Trần). Bảo đảm cho cây lúa đủ nước để sinh trưởng quả là một việc làm đầy gian lao vất vả. Khi gặp hạn hán phải đưa nước vào ruộng để chống hạn, khi mưa bão quá nhiều gây ngập lụt, cần tiêu nước chống úng, tất cả đều cần đến sự có mặt của các con kênh mương nhân tạo và điều đó chỉ có thể thực hiện nhờ sự hiệp lực chung của nhiều gia đình, nhiều làng xóm, dưới sự điều hành chung của bộ máy quyền lực công.


Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #34 vào lúc: 07 Tháng Mười Hai, 2008, 09:27:22 pm »


Như vậy là, nước ảnh hưởng quyết định đôi với lúa nước, một loại cây lương thực chính của cư dân thời đó; đồng thời nước cũng cung cấp nguồn đạm thuỷ sản dồi dào cùng nhiều sản vật quý hiếm khác như ngọc trai - đồi mồi. . . Nước còn là không gian nối liền các làng xã lại với nhau và với các miền đất xa xôi trong khu vực. Định tính sông nước này của nền văn minh sông Hồng đã có ảnh hưởng sâu sắc tới mọi mặt đời sống của cư dân Văn Lang, Âu Lạc. Từ những sinh hoạt vật chất hàng ngày như ở, ăn, mặc, đi lại đến những phong tục tập quán tín ngưỡng, lễ hội, tâm lý, ý thức đều dựa trên nền tảng của nông nghiệp lúa nước, là sản phẩm và là hiện thân của xã hội nông nghiệp.

Bức tranh văn hoá toàn cảnh này hiện lên đậm đà độc đáo ở mọi mặt của đời sống.

1. Về ở:

Nổi bật lên là cách chọn đất định cư của người Việt cổ.  Họ thường chọn nơi vừa thuận lợi cho đi lại làm ăn, lại vừa an toàn cho cuộc sống. Thế đất đó thường là có sông suối bọc quanh, có đồi gò che chở (như ở Làng Cả, Đông Sơn, Làng Vạc Cổ Loa... những trung tâm cư trú của người thời Đông Sơn).

Sách Lĩnh Nam chích quái có chép việc dựng hàng rào gỗ (mộc sách) để bảo vệ nơi ở thời Hùng Vương. Cách phòng ngự truyền thống của các làng người Việt là trồng tre gai thành luỹ quanh làng. Lưu An tác giả sách Hoài Nam tử (thế kỷ II Tr.CN) có nhận xét “Bách Việt không có thành quách thôn ấp. Họ ở trong vùng lau trúc, bên bờ sông giữa rừng tre”. Luỹ tre xanh đã trở thành biểu tượng làng quê của người Việt, một kiểu làng trại , “làng chiến đấu” hết sức độc đáo. Qua những đám gỗ cọc, cột tìm thấy ở di chỉ Đông Sơn qua hình khắc ngôi nhà trên trống đồng có thể thấy ngôi nhà của cư dân Đông Sơn là nhà sàn rất thích hợp với điều kiện ở trên thế đất dốc, sống giữa cây rừng, nước lội. . .

2. Về ăn uống:

Lương thực chủ yếu của người thời Hùng Vương - An Dương Vương là lúa gạo 1, trong đó gạo nếp được dùng phổ biến 2. Bữa ăn truyền thống của cư dân Đông Sơn là cơm-rau-cá. Đồ ăn được chế biến thích hợp cho từng dạng sinh hoạt: bánh dày, bánh chưng cho các ngày lễ tết. Bỏng rang, cơm nắm, cơm lam cho những cuộc đi săn thú rừng hay hành quân chiến đấu . . .

3. Về trang phục:

Về đầu tóc, phổ biến là lối cắt tóc ngắn ngang vai 3 và búi tóc sau gáy 4 đôi khi cũng thấy hình người tết tóc hoặc buộc tóc thành đuôi sam, thả dài sau lưng hay vấn cuộn trên đỉnh đầu. Các tài liệu đều phản ánh lối ăn mặc giản dị của người Đông Sơn: ở trần, đóng khố, đi chân đất. Sự trang điểm ở người phụ nữ, nhất là những phụ nữ thuộc lớp người quyền quý có phần cầu kỳ sang trọng hơn: Khăn, yếm, áo, váy, thắt lưng đều được thế hiện trên chuôi cán dao găm hay kiếm ngắn cùng với mũ, váy lông chim được hoá trang thấy ở mọi lớp người trong ngày hội, khảo cổ học còn phát hiện ra những tấm đồng che ngực hình vuông hay hình chữ nhật uốn cong có vòng khuyên hay lỗ buộc trên mặt trang trí hoa văn người chèo thuyền, cặp cá sấu, chồn cáo điển hình của nghệ thuật Đông Sơn, những bộ khoá thắt lưng hình tượng rùa hay chim . . . có thể đó là võ phục của các thủ lĩnh.

4. Về giao thông:

Phương tiện giao thông quan trọng nhất của người Đông Sơn là thuyền, ghe, bè, mảng. Con thuyền còn là phương tiện cư động chiến đấu rất quan trọng. Đời sống sông nước và hình ảnh con thuyền đã đi vào tâm thức, trở thành đối tượng phản ánh của nghệ thuật hay trở thành vật thiêng đưa xác và hồn người chết về thế giới cội nguồn của họ.

Nếu như thuyền gắn với sông nước thì voi gắn với đời sống núi rừng. Người Đông Sơn đã thuần dưỡng voi để chuyên chở. Hình voi chở trên lưng chiếc trống đồng trang trí trên cán dao găm Làng Vạc đã nói lên điều đó. Voi còn được người Đông Sơn và tổ tiên ta sau này sử dụng trong chiến trận. Sử sách đều nhắc đến những con voi đầy dũng mãnh và nghĩa cử của Bà Trưng, Bà Triệu, của đức Thánh Trần Hưng Đạo trở thành con vật thiêng, được khắc hoạ trên qua đồng của người Đông Sơn, đắp thành tượng voi chầu ở các cổng đình làng người Việt. Thêm vào đó, trong một chừng mực nhất định thì ngựa chắc hẳn cũng đã được sử dụng trong giao thông hay trong trận mạc.

1.   Nhiều hạt thóc, vỏ trấu tìm được ở các di chỉ như Đồng Vông, Xuân Kiểu, Đồng Đậu, Từ Sơn, Đồng Dền, Gò Mun, Gò Chiền, Chợ Ghềnh, Trung Màu, Chiền Vậy, Làng Cả, Đồng Tiến, Làng Vạc . . .
2. Khảo cổ học đã tìm được nhiều mảnh chõ vỡ và cả chõ nguyên, thấy ở nhiều di chỉ như An Đạo, Đông Sơn, Đồng Tiến, Làng Vạc . . .
3. Lối để tóc này thể hiện ở các tượng trên nắp thạp Đào Thịnh, hình người khắc trên trống đồng.
4. Hình người trên các thuyền ở trống Làng Vạc - Đồi Ro - tượng người trên muôi đồng Việt Khê.
Hình tượng người Việt cổ cắt tóc ngắn ở trần đóng khố, đi chân đất đã gây ấn tượng mạnh mẽ với người phương Bắc, như một cái gì đó thô, thấp, gần với hoang dã. Song nó lại rất thích hợp với điều kiện tự nhiên môi trường khí hậu, sinh hoạt và chiến đấu của người thời đó. Cắt tóc ở trần, đóng khố đi chân đất rất tiện cho việc bơi lội dưới nước, hoạt động và chiến đấu trên mặt nước.

Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #35 vào lúc: 07 Tháng Mười Hai, 2008, 09:30:49 pm »



Nền văn minh Đông Sơn phát triển rực rỡ, độc đáo, có sức sống mãnh liệt, được thể hiện cực kỳ phong phú và đa dạng trên mọi lĩnh vực của đời sống tinh thần.

Về phương diện thẩm mỹ từ những cảm xúc và sự thể hiện cái đẹp của người Đông Sơn nổi lên cái trau chuốt, cái tinh tế qua các hoa văn hình học đôi xứng hài hoà trên đồ gốm và đồ đồng, ở đó các đường nét hay nền móng của trang trí đều được thể hiện rất tỉ mỉ, tinh tế. Cảnh vật và sinh hoạt sống động của con người khắc hoạ trên đồ đồng lớn, các bức tượng tròn Đông Sơn được phác dựng đại thể về khối hình, song các chi tiết được nhấn mạnh ở những bộ phận, những vị trí mà nghệ thuật cho là đắt nhất, nhằm nêu bật cái bản chất, cái thần thái tàng ẩn trong đó.

Các pho tượng người tạc trên chuôi dao, kiếm đều có chung một phong cách thể hiện là người đứng thẳng, hai mắt mở to, hai tay chống nạnh, hai tai đeo vòng lớn trễ vai.  Tượng người Gò Mun được tạc ở tư thế ngồi xổm bó gối đầu hơi nghiêng toát lên cái nội tâm của nhân vật đang trầm tư suy ngẫm. Tượng người thổi kèn trên cán muôi đồng Việt Khê được làm nổi lên cái hình bóng chung, bàng bạc của một đêm trăng nước mênh mang...

Nghệ thuật tạo dáng và cách chọn màu cũng nói nhiều đến tính cách của người sáng tạo ra chúng.

Điểm lại toàn bộ đồ vật mà chủ nhân văn minh sông Hồng tạo ra, chúng ta nhận ra cái độc đáo thấm đậm một cảm xúc thẩm mỹ chung là cái mềm mại dịu nhẹ và trầm đọng sâu lắng biểu hiện qua những vòng trang sức bằng đá quý ở đó sản phẩm được tạo ra có hình dáng thanh thoát với các gam màu nhã, dịu nhẹ, xanh lơ, trắng ngà, xanh lá mạ, vàng nhạt...

Cũng vậy, những bình vò bát đĩa, những đồ đựng nói chung dù là bằng gốm hay bằng đồng thì dáng chung của chúng đều tròn trịa, ít những đường gãy góc, những mảng đắp nổi gồ ghề. Nhìn chung nhịp nhàng và cân xứng là hai mẫu số chung của mô hình thẩm mỹ Đông Sơn.

Nhạc cụ đào được hay được khắc hoạ trên đồ đồng Đông Sơn như cồng, chiếng, sênh, phách, chuông, đèn, sao. . . đặc biệt là trống đồng đều là những dụng cụ truyền tín hiệu hành động hay tạo ra sự hưng phấn được cuốn hút vào sinh hoạt cộng đồng như nhảy múa, ca hát, hò reo...

Những nhạc cụ này chứa rất nhiều nét riêng phản ánh tâm lý, mỹ cảm, tính cách riêng của chủ nhân chúng.

Có thể tìm thấy nhiều phong tục, tập quán, tín ngưỡng, trò chơi, lễ hội còn in dấu trên các đồ vật của người Đông Sơn.
Xăm mình giống loài thuỷ quái là xuất phát từ nhu cầu cuộc sống luôn tiếp xúc với nước, ở đó có nhiều con vật hung ác như cá sấu, thuồng luồng, rắn. . . nhằm tránh sự làm hại của chúng. Vết tích xăm mặt, xăm trán còn thấy trên một số chuôi tượng dao găm. Và dần trở thành một tiêu chí đẹp, mạnh mẽ của người Việt Cổ. Tục nhuộm răng đen, cũng như tục ăn trầu, hàm chứa một chuẩn mực đạo đức ứng xử của con người trong giao tiếp.

Các tập tục sinh hoạt cộng đồng khác như đánh cồng, giã cối hát đối, bơi thuyền, đâm trâu, đánh trống đồng. . . cũng được phản ánh đậm nét trên trống đồng Đông Sơn.

Có những tập tục phản ảnh tư tưởng căn bản của người Việt cổ về cách nhận thức và ứng xử với cái sông và cái chết.  Từ quan sát sự sống của bản thân và vạn vật xung quanh, ở người Việt cổ đã nảy sinh, dần hình thành một quan niệm biện chứng thô sơ về sự hình thành, vận động và phát triển của sự vật với sự kết hợp và tách biệt của hai mặt đối lập: Đất-trời, Nước-Lửa, Đêm - Ngày, Mưa-Nắng, Đực-Cái được cô đúc lại trong ý niệm phồn thực và được thể hiện ra ở vô vàn các hiện tượng cụ thể khác nhau: từ những linga-yoni bằng đất nung tìm được ở di chỉ Mả Đống (Hà Tây) đến những cặp tượng nam nữ giao hợp trên nắp thạp Đào Thịnh; từ những cặp lồng -yoni, những cặp hưu, nai, chồn, cáo đực-cái nối đôi trong vòng quay trời đất đến trò chơi chồng nụ - chồng hoa, khoèo chân ngoắc tay dưới nhịp trống được khắc hoạ trên mặt trống đồng...
 
Ý thức về giống nòi, về cộng đồng được thể hiện thành tín ngưỡng sùng bái tổ tiên và những người đã khuất; lo tang ma chôn cất chu đáo, lo mồ yên mả đẹp, coi đó là nơi đất thiêng được các thế hệ con cháu sau chăm nom cẩn trọng, tục tảo mộ hằng năm của dân ta là biểu hiện lòng sùng kính đó.
 
Sùng kính, tôn thờ những anh hùng văn hoá, anh hùng chiến trận cũng làm nên nét đặc sắc của tín ngưỡng thời Văn Lang - Âu Lạc. Sơn Tinh, Gióng, Cao Sơn, Quý Minh, Cốt Tung... được thần thoại hoá. Những Bà Dâu, Bà Đậu, Bà Nành. . . tên gọi gợi lên công lao của họ trong sản xuất nông nghiệp, trong việc tìm ra và thuần hoá các cây con mới, được tôn thờ ở khắp nơi.

Đời thường với những con người và cảnh vật đậm đà sắc thái đồng quê, trong tâm linh người Đông Sơn đã được khác hoạ, tô phóng thành những biểu tượng riêng cho từng mặt hay trọn vẹn cho cả cái đời thường đó.

Chim lạc - hay con cò - một loại chim nước kiếm ăn theo đàn rợp bóng trên mặt đầm hay đơn chiếc bên bờ ao - được khắc hoạ ở vị trí trang trọng trên mặt trống đồng, được nghệ nhân Đông Sơn chọn làm biểu tượng cho thấy đức tính chuyên cần làm ăn, chịu đựng lam lũ cốt giữ tiếng ở đời, sống sao cho trong sạch , thanh cao.


Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #36 vào lúc: 07 Tháng Mười Hai, 2008, 09:32:10 pm »


Cá sấu một loại vật dũng mãnh vẫy vùng làm chủ nơi sông nước được cách điệu thành con giao long, hoá thân vào con thuyền để nâng đỡ các chiến binh đang ngồi trên đó, hoặc cuộn chầu từng đôi dưới mũi thuyền (như ở thạp Đào Thịnh) hoặc được thể hiện từng cặp trên bốn góc tấm đồng che ngực hàm súc sức mạnh siêu nhiên che chở và nâng đỡ, hỗ trợ con người chiến thắng kẻ thù. Sau này cá sấu được hoá thân thành con rồng - rồi thành biểu tượng tổ tiên khai sinh ra dòng giống người Việt.

Có thể phân tích hình ảnh nhiều loài vật thân quen được phản ảnh trong các tác phẩm nghệ thuật của người Đông Sơn như cóc, rùa, rắn, voi, hổ... để tìm ra biểu tượng của từng mặt đời thường, đã được siêu nhiên hoá trong đời sống tâm linh.

Ở trên, văn minh sông Hồng đã được phản ảnh cái định tính cư bản của nó là một nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước ở đồng bằng, mọi hoạt động của đời sống gắn liền với nước, đậm đà chất sông nước cùng với sắc thái núi và sắc thái biển, tạo ra tính đa dạng cho nền văn minh này.

Môi trường sinh thái với nền kinh tế then chốt và bao trùm đó đã tạo cho nền văn minh sông Hồng một diện mạo riêng độc đáo, xét về mặt xã hội. Đó là nền văn minh thôn dã - nền văn minh nông nghiệp xóm làng, dựa trên cư cấu công xã nông thôn kiểu châu Á, ở đó xã hội phân hoá chưa sâu sắc, nhà nước sơ khai đã xuất hiện. Với chức năng hên kết các làng xã trong tổ chức khai hoang, làm thủy lợi và đấu tranh giữ gìn, củng cố và mở rộng đất đai.

Những công xã nông thôn trong tiếng Việt cổ được gọi là kẻ, chạ, chiếng... là một tổ chức xã hội bao gồm một số gia đình đồng tộc và khác tộc, một dạng làng - họ , nắm sở hữu ruộng đất công xã chung và có quyền tự trị rộng lớn. Song do những nhu cầu kinh tế - xã hội trên, họ tự nguyện liên kết và được liên kết lại với nhau trong một cộng đồng rộng lớn hơn hình thành các liên làng, siêu làng mà sau này được gọi là tổng. Cứ lần lượt như vậy, các tổ chức liên kết rộng lớn hơn hình thành và bao trùm lên tất cả là cộng đồng quốc gia. Gia đình vừa là đơn vị kinh tế cư sở quan trọng, vừa là tế bào hạt nhân của tổ chức xã hội.

Thế kết hợp của kết cấu xã hội nhà - làng - nước này mang hình bóng của xã hội Việt cổ truyền được phóng dọi lên từ kết cấu xã hội của văn minh sông Hồng qua vết tích những ngôi nhà Đông Sơn còn lại và dựa vào kiểu liên kết chùm - thang bậc của các di chỉ cư trú thời Đông Sơn.
 
Trong các làng xóm thời Đông Sơn, vết tích văn hoá mà chủ nhân nó để lại cho thấy kết cấu dân cư và nội dung cuộc sống ngày càng trở nên phong phú hơn, phức tạp và đa dạng hơn. Điều đó được tạo ra không chỉ bởi các nhân tố văn hoá của các nền văn hoá bản địa bên trong mà còn hội nhập tiếp nhận và chuyển hoá nhiều yếu tố văn hoá của các nền văn minh gần xa.

Trống đồng Đông Sơn, nghệ thuật Đông Sơn toả sáng khắp khu vực Đông Nam Á Vành chim Lạc trên trống Đông Sơn được mô phỏng và được trang trí trên vai bình gốm văn hoá Bản Chiếng (Thái Lan). Dao găm chuôi tượng người Đông Sơn tìm được trong mộ ở Thụ Mộc Lãnh, Hồ Nam (Trung Quốc)... hẳn là bằng trao đổi mà có.

Và sức hút của văn hoá Đông Sơn cũng cực kỳ mạnh mẽ.  Chủ nhân văn hoá Đông Sơn ưa chuộng đồ trang sức bằng thuỷ tinh và đá quý của văn hoá Sa Huỳnh (Nam Trung Bộ Việt Nam), của thế giới Tây và Nam Á. Khuyên tai hai đầu thú, khuyên tai hình trái lê có ba mấu nhọn đặc trưng của văn hoá Sa Huỳnh có mặt ở Xuân An (Hà Tĩnh), ở Làng Vạc (Nghệ An) . . . Điều quan trọng ở đây là chủ nhân văn minh sông Hồng đã biết “Đông Sơn hoá”, bản địa hoá các yếu tố văn hoá nhập ngoại, chuyển hoá chúng, nhuần nhuyễn chúng với các yếu tố văn hoá nội sinh làm phong phú thêm bộ mặt văn hoá Việt cổ.
 
Có thể nhận ra dấu ấn “Đông Sơn hoá” trên rất nhiều di vật. Chiếc búa chiến bằng đồng có lỗ tra cán, một vũ khí điển hình của cư dân đồng cỏ Á - Âu trong thời đại kim khí đã có mặt trong khu mộ táng Làng Vạc được Đông Sơn hoá bằng các hoạ tiết vòng tròn xoắn ốc thành hình chữ S. Những lưỡi qua đồng có hoa văn trang trí hình cá sấu, hình chim nước, hình voi, hổ... ở Núi Voi, Đông Sơn. Chiếc liềm đồng ở Đá Đỏ (Sơn La)...

Phong cách nghệ thuật tả thực của văn hoá Điền với các đề tài người thú đầu sức rất dữ dằn qua lăng kính nghệ thuật Đông Sơn được thể hiện ít “căng” hơn, nhẹ nhàng hơn qua cảnh hổ vồ mồi trên nắp thạp Vạn Thắng. Dù có tiếp thu chất tả thực thì nghệ nhân Đông Sơn cũng chỉ đưa vào, tạo cái hình bóng mà thôi để làm nổi lên cái thần thái mà nghệ nhân muốn diễn tả.

Có thể dễ dàng nhận ra điều này qua hình ảnh người múa được thể hiện trên mặt trống Quảng Xương (Thanh Hoá). Sự bay bổng của tâm hồn người múa siêu nhập vào cõi tâm linh được thể hiện ở đường cong vút của thân thể với chân co, bước duỗi và tấm khoác choàng lật hẳn sang một bên làm lộ đường cong cơ bắp của chân tay.
 
Nhiều yếu tố của văn hoá Hán cũng được Đông Sơn hoá rất nhuần nhuyễn. Ví như chiếc chậu đồng, trong lòng đáy chậu đúc nồi đôi cá chép “song ngư”, nhưng khi chậu được đặt úp miệng xuống, thì chậu lại mang dáng trống với những hoa văn trang trí rất Đông Sơn của nó...

Tính mở của văn minh sông Hồng đã tạo cho nó một sức sống mạnh mẽ, phát triển ổn định trong nhiều thế kỷ và luôn được đổi mới, được tiếp thêm sức mạnh tạo ra những hằng số làm thành bản sắc văn hoá Việt.  Nhìn từ tụ điểm thời gian và xét trong mối tương quan khu vực rộng lớn, thì văn minh sông Hồng thấm đượm, tràn đầy nhất anh hùng ca thời đại. Hào khí Đông Sơn hun đúc và chứa đựng trong nó lòng yêu nước và tinh thần dân tộc của người Việt cổ toát ra trên nhiều mặt của đời sống lúc ấy.  Bộ vũ khí đồng sắt đồ sộ với nhiều hình loại phong phú, số lượng không kém bộ công cụ sản xuất phản ánh cuộc sống sôi động, đầy biến động. Nhu cầu phải thường xuyên đấu tranh chống lại mọi mưu đồ xâm lược và đe doạ từ bên ngoài đã tạo ra ở người Việt truyền thống giữ nước dẻo dai, mạnh lẽ kiên cường, tạo thành mặt hữu cơ của truyền thống dựng nước và giữ nước gắn liền với nhau suốt chiều dài lịch sử của dân tộc. Người anh hùng làng Gióng là hình tượng dân tộc Việt Nam trưởng thành nhanh chóng, vừa tự ý thức được về mình thì hai vai đã gánh nặng hai nhiệm vụ làm ăn và đánh giặc. Đó là hai mặt cư bản nhất trong cuộc sống của nhân dân ta.

Giai đoạn Văn Lang - Âu Lạc là một thời kỳ lịch sử hết sức trọng yếu, ở đó đã nảy nở nền văn minh sông Hồng, đã ra đời một hình thái nhà nước sơ khai. Chính trong thời kỳ này nhiều giá trì văn hoá, nhiều yếu tố văn hoá tạo thành truyền thống, thành bản sắc văn hoá Việt Nam được hình thành, đồng thời diễn ra quá trình hình thành ý thức dân tộc, xây dựng nên nền tảng văn hoá Việt Nam, nền tảng dân tộc Việt Nam và truyền thống tinh thần Việt Nam.
Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #37 vào lúc: 07 Tháng Mười Hai, 2008, 09:34:53 pm »



IV. SỰ HÌNH THÀNH BƯỚC ĐẦU BẢN SẮC VĂN HÓA
DÂN TỘC, NHỮNG YẾU TỐ TRUYỀN THỐNG
TRONG CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC.
QUÁ TRÌNH Ý THỨC DÂN TỘC.

1. Bản sắc văn hoá và những yếu tố truyền thống trong cộng đồng dân tộc:

Nhìn nhận và khái quát lại những giá trị, những đặc điểm tiêu biểu của nền văn minh sông Hồng có thể thấy bức tranh tổng quát về quá trình hình thành văn hiến, quốc gia, dân tộc Việt Nam diễn ra trong những điều kiện lịch sử đặc thù về đấu tranh khắc phục những bất lợi của thiên nhiên về lũ lụt hạn hán để phát triển nền nông nghiệp trồng lúa nước nhiệt đới, về đấu tranh chống lại sự đe doạ xâm lược, môi hiểm hoạ xâm lược thường xuyên từ ngoài để bảo vệ đất đai quê hương và cuộc sống. Cuộc đấu tranh đó đòi hỏi một sự liên kết, chung sức hành động vì cái chung, vì lợi ích cộng đồng của mọi nhóm tộc, có chung số phận và cùng chung sống trên dải đất này.

Quá trình hình thành dân tộc cũng là quá trình hình thành và nâng cao ý thức dân tộc. Ý thức dân tộc thể hiện trước hết ở ý thức về một lãnh thổ chung, ý thức về sự cần thiết và cốt tử phải bảo vệ cái không gian sinh tồn của cộng đồng và cho toàn cộng đồng. ý thức dân tộc còn thể hiện ở ý thức về một cội nguồn chung, một gốc ngôn ngữ chung, một nền văn hoá vật chất và tinh thần chung. ý thức dân tộc xem như là cái thần thái, cái thần sắc dân tộc, ý thức về độc lập dân tộc, về tự chủ của đất nước có chủ quyền.

Lòng yêu nước, tình đoàn kết gắn bó là cư sở sức mạnh cho sự bảo tồn và phát triển dân tộc.  Ý thức dân tộc và lòng yêu nước đã thấm sâu vào mọi hoạt động, hướng dẫn mọi hành vi ứng xử của con người trong những hoàn cảnh sống cụ thể, tạo ra những giá trị văn hoá mang màu sắc riêng, hình thành hệ giá trị phản ánh bản sắc văn hoá riêng của mỗi dân tộc.

Bản sắc văn hoá là những nét văn hoá riêng làm thành hệ giá trị được một dân tộc chấp nhận, được xem là phù hợp và thích hợp với dân tộc đó và được vận hành trong cuộc sống nhằm thoả mãn nhu cầu sống và phát triển của dân tộc trong nền cảnh lịch sử tương ứng và phù hợp. Trong bản sắc văn hoá dân tộc chứa đựng tính nhân loại, tính khu vực và tính tộc. Tính nhân loại và tính khu vực của văn hoá được đa dạng hoá, được biến đổi và được kết hợp với cái riêng dân tộc và dân tộc đó sáng tạo ra trong những hoàn cảnh lịch sử riêng của mình. Tất cả những cái đó làm thành bản sắc văn hoá dân tộc, chứ bản sắc dân tộc không phải chỉ là những cái gì riêng của dân tộc đó nghĩ ra, làm ra. Như vậy có thể hình dung bản sắc dân tộc của văn hoá như một vòng chính tâm đa sắc, hội kết và chiết xuất muôn vàn vòng sáng đa sắc của văn hoá nhân loại.

Bản sắc văn hoá Việt Nam được hình thành và phát triển trong suốt chiều dài mấy nghìn năm lịch sử. Nền văn hoá đó, mà những yếu tố làm thành bản sắc luôn được tuyển chọn và chắt lọc, luôn được đổi mới, thêm giàu có và đầy sức sống, phát triển, vươn lên không ngừng.

Văn hoá Việt cổ ở buổi sinh thành và ấu thơ, mang ý nghĩa là nền tảng giá đỡ và bệ phóng cho sự cất cánh của dân tộc và văn hoá ó các thời kỳ lịch sử tiếp theo. Bởi vậy, tìm về cội nguồn và nhận ra cái cốt lõi đầu tiên của bản sắc văn hoá Việt Nam là việc làm hết sức quan trọng và cần thiết nhằm kế thừa, bảo vệ, đổi mới và phát huy những tinh hoa; đẩy lùi, loại bỏ những cái lạc hậu, thiếu văn hoá, thực hiện được chức năng làm nền và định hướng cho cách ứng xử (thể hiện ở tâm hồn, đạo lý, lối sống, hành vi...) của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng hướng tới cái chân, thiện, mỹ trong quan hệ với mình, với người, với xã hội và với tự nhiên 1.

Ở bên trên đã chỉ ra cái trường lịch sử, tức môi trường tự nhiên và nền cảnh xã hội, trong đó hình thành các đặc Trưng văn hoá tạo thành bản sắc văn hoá của nền văn minh Việt cổ thời kỳ Đông Sơn, khi ấy đời sống, lẽ sống được người Việt cổ hiểu rất hồn nhiên, nôm na, nhưng cũng thật bản chất, chính xác súc tích và sâu sắc được diễn tả qua ngôn từ đời thường rất ngắn gọn thể hiện hai mạch sống cư bản: việc làm ăn (lao động sản xuất, hoạt động kiếm sống nói chung) và cách ăn ở (nếp sinh hoạt, cách ứng xử, đấu tranh, các quan niệm đạo đức tâm lý, thẩm mỹ, tâm linh...), trong đó làm và ăn được chú ý trên hết, quán xuyến hết thảy.

1 Hà Văn Tấn: Bản sắc văn hoá Việt cổ in trong Văn hoá -  phát triển và bản sắc, Hà Nội, 1995, tr. 28.

Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #38 vào lúc: 07 Tháng Mười Hai, 2008, 09:37:03 pm »



Dựng nghiệp trên một không gian sống rộng lớn và đa dạng với trung tâm hoạt động và hưng khởi là miền đồng bằng sông nước mênh mông tựa núi và tiếp biển. Không gian sinh tồn đặc sắc đã đào luyện nên tính cách, tâm lý hoá thân vào đồng đất và mở rộng cõi bờ với hướng chảy dọc theo các mạch đồng bằng ven biển. Màu nâu của nón áo và đồng đất cùng với màu xanh của đồng lúa và tre làng đã tạo nên sắc thái độc đáo của văn hoá nông nghiệp - xóm làng Việt.
 
Những chứng tích khảo cổ học về nhà ở và mộ táng, cùng   với những tài liệu về công điền, về tổ chức làng xã sau này cho thấy vị trí của gia đình như một tế bào xã hội và như một đơn vị sản xuất cư bản. Chính mối quan hệ giữa quyền sở hữu ruộng đất thuộc về làng xã và quyền sử dụng ruộng đất thuộc về cá nhân và gia đình là cư sở và là động lực cho phát triển sản xuất suốt chiều dài lịch sử dân tộc, trở thành cung cách làm ăn, cách thức tổ chức và truyền thống trong sản xuất nông nghiệp nước ta, mà ngày nay chúng ta đang khai thác và phát huy sức mạnh của kinh tế gia đình.

Nhìn sang lĩnh vực thủ công nghiệp, một hiện tượng nổi lên và bao trùm là các lò thủ công tràn ngập trong các xóm làng nông nghiệp, các làng nghề hoà nhập quyện chặt vào các làng nông. Nền kinh tế tự cấp tự túc phát triển còn ở mức thấp khiến dường như mọi người, mọi gia đình có thể làm ra những đồ dùng tối thiểu dùng cho cuộc sống bản thân và gia đình trong các lúc nông nhàn. Nền kinh tế phụ gia đình này nột thời đã là sự hợp lý, cân bằng hài hoà trong việc điều tiết sức lao động xã hội. Song mặt khác, lại làm chậm lại tốc độ chuyên hoá sản xuất và phân công lao động xã hội lần thứ hai, khiến kinh tế hàng hoá thị trường ra đời muộn và kém phát triển. Trong những nghề thủ công truyền thống được hình thành từ thời Đông Sơn phải kể đến nghề đúc đồng, khắc gỗ, chạm đá, nơi mà óc sáng tạo và bàn tay tài hoa của nghệ nhân Đông Sơn được thể hiện rõ nlất. Đây cũng là một mặt, một khía cạnh quan trọng thể hiện tính trí tuệ cao của văn hoá Việt cổ. Tính trí tuệ trong văn hoá hay cũng có thể nói văn hoá trí tuệ, là một nền văn hoá có sức sống, sức vươn lên mãnh hệt, một nền văn hoá có tầm cỡ hay nói cách khác là ở vị trí tiên tiến của thời đại. Kỹ thuật và nghệ thuật trống đồng Đông Sơn là biểu hiện của trí tuệ Việt, đã toả sáng vùng trời Đông Nam Á, góp tạo nên cho nền văn hoá Việt Nam nổi tiếng vì sự bao dung và trí tuệ 1.
 
Sắc thái trí tuệ Việt của văn hoá dân tộc được thể hiện chói lọi nhất trong sự nghiệp chiến đấu, giữ nước. Trong lĩnh vực này thuật giữ nước của người Đông Sơn cũng thật đặc sắc tài ba. Bộ vũ khí Đông Sơn với những lưỡi rìu chiến cong vút những thanh kiếm ngắn, lưỡi dao găm chắc khoẻ, những mũi lao sắc nhọn đủ kích cỡ được tra lắp những cán bằng cây song nhẹ, chắc, bền, dẻo, những mũi tên đồng ba cánh hình múi khế... đã mách chỉ sở trường đánh gần, tài cung nỏ của chủ nhân nó.

Cũng vậy, đời sống sông nước cùng với những con thuyền chiến, thuyền đồng lại nói lên tài đánh thuỷ của người Việt cổ giỏi bơi lội, thạo dùng thuyền. Vị thế và cảnh quan thiên nhiên đất nước cũng như bối cảnh xã hội khách quan tồn tại bên cạnh một nước lớn, một đế chế đang có xu hướng bành trướng mạnh mẽ đã khiến người Đông Sơn, người Việt cổ có thể khai thác, tận dụng thế mạnh thiên nhiên hiểm yếu, rừng rậm, khe vực, đầm lầy... dùng chiến thuật bất ngờ, đánh du kích; huy động sức mạnh và dựa vào sức mạnh toàn cộng đồng để chống lại sức mạnh to lớn gấp bội của đối phương.

Bộ đồ tuỳ táng và nghi thức mai táng trong các ngôi mộ Đông Sơn cho ta thấy công cuộc dựng nước và giữ nước, lao động và chiến đấu thấm đậm và nhuần nhuyễn vào nhau tạo thành nếp sống của người Đông Sơn, từ già, trẻ, gái, trai là mầm mống hình thành chiến tranh nhân dân. Trong lĩnh vực nghệ thuật quân sự, thành Cổ Loa có thể coi như hiện thân của tài trí Việt cổ, sự hội tụ và kết hợp nhuần nhuyễn của hai thế mạnh Núi - Âu, tài cung nỏ và Nước - Lạc, thạo thuỷ chiến, giỏi dùng thuyền.

Năng lực trí tuệ của người Đông Sơn được thể hiện trong vũ trụ quan của họ, trong đó vũ trụ gồm ba tầng và bốn thế giới được thể hiện trên trống Đông Sơn. ở đó, tầng trên là Trời, bầu trời, Nhiên giới hay Thiên giới được tượng trưng bằng mặt trời ở chính giữa và nổi cao trên mặt trống. Tầng giữa là mặt đất, Trần giới hay Nhân giới, ở đó người và sinh vật cạn được thể hiện trên các vành hoa văn tả thực trên mặt trống. Tầng dưới là Nước và lòng đất, thuỷ giới, âm ty. Nước được biểu hiện qua hình ảnh con thuyền lướt trên tang trống và thế giới âm là ảnh xạ lộn ngược của thế giới Trần... của cải sống với những hình ảnh như cảnh đâm trâu...

Mặt trống Đông Sơn còn thể hiện quan niệm về dịch chuyển có thể coi là hệ thông triết học - biểu tượng của người Việt cổ trong đó hai mặt đối lập của sự vật liên tục vận động và chuyển hoá lẫn nhau. Từ đây còn có thể nhìn thấy tri thức về lịch nông của người Đông Sơn với sự chuyển hoá của hai mùa lạnh - nóng, khô- mưa, Đông Xuân - Hè Thu qua các cặp biểu tượng hưu , chim . . . Tất cả cho thấy trí tuệ và năng lực sáng tạo là động lực tạo ra sự phồn vinh và phát triển lâu bền của quốc gia.

Nhưng thành tựu cơ bản nhất, di sản quý giá nhất mà người Đông Sơn đã để lại cho hậu thế là ở chỗ người Đông Sơn đã tạo lập được, đã định hình được những đường nét lớn, cư bản của một nền văn hoá mang đậm đà bản sắc dân tộc, bản sắc Việt, mà ở đó cái thần của nền văn hoá được hun đúc từ hệ thống những giá trị, những bản tính, những phẩm chất, những tính cách, những truyền thông về đức tính kiên nhẫn, cần cù lao động, kiên định, kiên trì, nhẫn nại, chịu đựng gian khó khi phải đối mặt với một thiên nhiên hà khắc, dữ dằn, lắm lũ lụt, nhiều hạn hán tàn phá mùa màng, nơi ở.  Cũng như nhẫn nại chịu đựng áp bức, chờ thời cư vùng lên tự giải phóng.

1 Theo F.Childe: Bài phát biểu tại Hội thảo phương pháp luận về văn hoá trong phát triển, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993.

Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
UyenNhi05
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 2589


Vì nước quên thân, Vì dân phục vụ.


« Trả lời #39 vào lúc: 07 Tháng Mười Hai, 2008, 09:40:11 pm »



Mặt khác của tinh thần kiên nhẫn là thái độ kiên quyết, ý chí kiên cường. Bền bỉ, kiên cường khắc phục thiên nhiên bằng cách ra sức đắp đê khơi mương, làm mới lại những cái bị tàn phá nhằm có được những vụ mùa bội thu. Dẻo dai kiên quyết chống lại kẻ thù giành lại độc lập tự do. Chữ kiên còn thể hiện ở tấm lòng kiên tâm, kiên trung, trung thành một lòng một dạ không thay đổi. Người xưa đã lấy hình tượng con rùa và con cóc để biểu trưng cho đức tính kiên đó (cóc trên các trống đồng Đông Sơn, rùa trên các khoá đai lưng ở Làng Cả, Làng Vạc...). Đức tính kiên thể hiện lòng tự tin, mà lòng tự tin lại được xây dựng trên cư sở ý thức được sức mạnh của bản thân mình. Tính cách kiên của người Đông Sơn được sản sinh ra trên cơ sở sức mạnh của một nền văn hoá có trình độ phát triển cao, sức chịu đựng lớn, sự hồi sinh mau lẹ.

Tinh thần tập thể, tính cộng đồng được gói lại trong chữ công và được mở ra ở hai vế cư bản: Công cộng và công ích.  Từ đó ánh lên vẻ đẹp của tâm hồn Việt Nam, đọng lại trong hai tiếng trách nhiệm. Đức tính này được tạo ra do nhu cầu khách quan của cuộc sống. Sở hữu chung về ruộng đất và tổ chức làng - xã đã liên kết con người lại với nhau. Nền sản xuất nông nghiệp trồng lúa nước đòi hỏi phải tuân thủ sít sao tính thời vụ, từ khâu làm đất đến khi thu hoạch; không thể để chậm trễ, ách tắc ở khâu nào. Cây lúa nước cần nước đủ, không thiếu, không thừa. Muốn vậy phải có biện pháp chống úng, chống hạn, đòi hỏi sức lực của nhiều gia đình, của cả làng.

Cũng vậy, việc chống lại một đối tượng lớn mạnh thường xuyên đe doạ xâm lấn đòi hỏi sức mạnh của cả cộng đồng. Gánh vác việc công là bổn phận, là nghĩa vụ tự giác của mỗi người dân. Trong bối cảnh sống như vậy thì cái cộng đồng bao giờ cũng là tiền đề cho cái cá thể. Từ đó, cái nghĩa vụ, cái vị tha được nhấn mạnh, được đề cao trước cái vị kỷ, ý niệm sống ở làng..., một miếng giữa làng... trở thành thang bậc giá trị trong chuẩn mực ứng xử của người Việt Nam chắc hẳn có cội rễ từ thời dựng nước đầu tiên. Người Đông Sơn đã lấy hình ảnh con cò, đàn cò làm biểu tượng cho lối sống này. Đàn cò được cách điệu thành đàn chim lạc nối tiếp nhau bay quanh mặt trời; con bay, con đậu kiếm ăn trên các cánh đồng.

Dĩ nhiên ở khía cạnh này, con cò còn tượng trưng cho nhiều phẩm chất khác nữa như tính chuyên cần, lối sống thanh bần pha chút lam lũ nhưng thanh cao... Hẳn cũng vì vậy mà hình tượng con cò còn được khắc hoạ nhiều nhất với nhiều dáng vẻ sinh động nhất, đậm đà nhất trong nghệ thuật Đông Sơn mà chúng ta dễ dàng nhận ra.

Lòng nhân ái, khoan dung, sống rộng bụng, có tình nghĩa là truyền thống quý báu của nhân dân ta. Nhân hậu, nhân ái bao dung với người thân trong nhà, trong họ, ngoài làng, ngoài nước. Lấy khoan sức dân làm gốc của phép trì nước.  Khoan hoà, khoan dung với kẻ thù, kẻ chống đối một khi họ đã quy thiện. Tính nhân bản này có cội rễ sâu xa, nảy sinh từ tính ôn nhu của người làm nông trồng lúa nước hẳn đã được hình thành từ thời Đông Sơn. Chính ở nơi đồng đất mà cái công việc làm ăn đầy vất vả và nhiều éo le này, cái thực tiễn ba tháng trồng cây không bằng một ngày trông quả này, khiến con người luôn sống trong thấp thỏm lo âu. Cái sầu bi, cái hoạ “nước lụt thì lút cả làng” này không chỉ ập đến với riêng ai, đã khiến con người ý thức được phải đùm bọc lẫn nhau. Có thể nói, chính cái hoạ đồng lần này đã làm nảy sinh trong con người đòng vị tha, nhân đức.

Tính mềm dẻo, lối ứng xử linh hoạt, không câu nệ cũng bắt nguồn từ hoàn cảnh sống của người Đông Sơn. Cái thiên nhiên đa dạng mà sự chinh phục được nó con người đã phải đổ bao mồ hôi, tốn bao tâm trí, mỗi tấc đất có giá trị như mỗi tấc vàng, khiến con người phải triệt để tận dụng nó để làm ra của cải, trồng cấy mọi thứ cây có thể trồng, xen canh tăng vụ trồng đỗ bên ngô, đưa cây lúa lên nương, xuống đầm thụt.  Lúa trồng hai vụ gọi là lúa Giao Chỉ (Dị vật chí của Dương Phù đời Đông Hán thế kỷ I sau công nguyên).

Về mặt bối cảnh xã hội, người Việt cổ sống bên cạnh một nước lớn có nền văn minh rực rỡ. Để tồn tại, để giữ được cái Ta dĩ nhiên người Việt phải có thái độ ứng xử linh hoạt.  Không thể cứng khi cần mềm, không thể bài khi cần nhập.  Nhún nhường hay vay mượn không phải lúc nào cũng là biểu hiện của thế yếu lực kém. Trái lại nhiều khi lại nói lên cái mạnh. Mạnh và nhờ thông minh chấp nhận nhân nhượng để tránh tổn thất vô ích. Mạnh và có bản lĩnh để tiếp thu có chọn lọc làm giàu thêm vốn liếng của mình. Từ thực tiễn cuộc sống đó đẻ ra nghệ thuật ứng xử linh hoạt, lối tư duy vừa “hằng” vừa “biến”, khả năng thích ứng vô hạn, hành động theo phương châm “nước chảy đá mòn”, “nhu đạo thắng cương cường”. Con rắn - biểu tượng của Nước cũng được người Đông Sơn lấy làm biểu tượng cho bản sắc hoạt này của họ.

Người Đông Sơn đã tạc tượng những đôi rắn quấn nhau miệng đỡ lấy chân voi, hoặc chân hổ, tạo thành chuôi dao găm được các chiến binh Đông Sơn mang bên người như một vũ khí tự vệ, như một thứ bùa hộ mệnh.

Triết lý dung hợp được biểu hiện trong chữ hoà cũng góp tạo nên bản sắc văn hoá Việt Nam. Khi trở thành dân tộc, người Việt cổ vốn là một cộng đồng nhỏ bé so với và ở bên cạnh một nước lớn mạnh. Nhưng nhờ lòng yêu quê hương tha thiết mảnh đất đã phải tạo bằng mồ hôi và xương máu để có được đã khiến người Việt sớm có được tinh thần độc lập, ý thức tự cường, tự khẳng định cái Ta, tự tạo cho mình một chỗ đứng dưới bầu trời.
 
Xuất phát từ ý thức đó, trong bối cảnh lịch sử đó, người Việt cổ đã tìm mọi cách để tạo sức mạnh cho mình, đã thâu tóm mọi cái hay của người, “hoà” để mạnh mà không tan, va đập mà không vỡ cũng như đã đồng tâm hiệp lực trong lao động, đoàn kết trong đấu tranh chống xâm lược. Biết nhân nhượng để tránh thương vong, giữ hoà khí để “hoà cả làng” . . . Trong tinh thần Việt, tính hoà đồng làm nhạt nhoà cái Một và cái Một ở đây mang trong chính bản thân nó sự đa dạng. Tôi chỉ là tôi khi tôi là người dân của làng và trước hết là người dân của làng. Vậy cái một của sự hoà đồng là cái một cảm tính. Nó chính là tài sản tinh thần thuần Việt, là sợi dây gắn kết cộng đồng thành một thể hoà đồng. Cá nhân hoà quyện vào cộng đồng tạo thành sức mạnh, khi làng nước có việc, quốc gia hữu sự. Có thể nói tư duy dung hoà chi phối toàn bộ văn hoá truyền thống Việt Nam 1.

1 Theo Hà Văn Tấn (chủ biên): Văn hoá Đông Sơn ở Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994. 


Logged

"Đời chiến sỹ máu hòa lệ, mực _ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi..."
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM