Tiền, Hậu Lý Nam Đế Và Triệu Việt Vương
Phần cuối
Hồi ấy, phong tục tập quán của nước ta vẫn còn tục gửi rể (bây giờ ở một số dân tộc thiểu số vẫn còn tục lệ này), cho nên sau lễ thành hôn, đương nhiên Nhã Lang sẽ ở lại làm phò mã trong triều đình của Triệu Việt Vương.
Trong những tháng đầu năm đầu, tình yêu của nàng công chúa với chàng phò mã cũng chan chứa nồng đượm, chẳng khác nào Mỵ Châu, Trọng Thủy trước kia. Và cũng như Mỵ Châu, Trọng Thủy, tình yêu của Cảo Nương là ngây thơ, chân thực, còn của Nhã Lang thì chỉ là bề ngoài, giả tạo.
Khi nhận thấy Cảo Nương đã thương yêu mình hết lòng, đến mức không còn đề phòng gì nửa, thì Nhã lang bảo cảo Nương dẫn tới các nơi trọng yếu như kho tàng, chỗ đóng doanh trại của quân đội ..., lấy cớ đi dạo chơi cho biết. Triệu Việt Vương do hết sức thương yêu và nuông chiều con gái, thấy thế cũng chẳng nhắc nhở điều gì. Thế là, chỉ mấy tháng sau, mọi đường đi lối lại trong thành Vũ Ninh cùng thực lực trong thành thế nào, Nhã Lang đều đã nắm rõ và có thể ghi chép , họa lại thành bản đồ được.
Tiến thêm một bước nữa, Nhã Lang hỏi Cảo Nương rằng vua cha (tức triệu Việt Vương) có pháp thuật gì mà đánh quân Lương tài tình đến thế? Cảo Nương thật lòng kể lại là vua cha có "vuốt rồng cài lên mũ đâu mâu", rồi lén đi lấy cho Nhã Lang xem. Nhã Lang ngắm nghía, suýt xoa, rồi thừa lúc Cảo Nương đi ra ngoài lâu, đã lấy chiếc vuốt giả thay lấy vuốt thật. Khi Cảo Nương quay lại rồi đi cất mũ, đã hoàn toàn không hay biết gì.
Cả Triệu Việt Vương và triều đình Vũ Ninh cũng không ai hay biết điều gì, bao gồm tất cả mọi việc làm của Nhã Lang và dã tâm mà hai cha con y đang ráo riết theo đuổi.
Sau mấy năm điều tra hết nội tình và pháp thuật của triều đình Vũ ninh, Nhã Lang lên đường về nước, lấy cớ là lâu ngày chưa về thăm nhà. Lớit âu trình của y được Triệu Việt Vương chấp thuận ngay vì nó thật hợp tình. Nhà vua lại ban cho Nhã Lang rất nhiều tặng vật quý để về làm quà biếu thông gia, như phong tục tốt đẹp từ lâu đời vẫn thế. Khi vào từ biệt vợ để lên đường, Nhã Lang tặng nàng một chiếc áo lông ngỗng, nói là mùa đông đã đến mà ở một mình thì lạnh lẽo, rồi y nói thêm:
- Nếu chẳng may có sự gì xảy ra, đi đến đâu nàng cũng nhỗ một chiếc lông trên áo nvứt xuống, để tôi còn biết dấu vết mà tìm.
Cảo Nương bùi ngùi, hai tay nân mê chiếc áo, hoàn toàn chẳng đoán được thâm ý của Nhã Lang qua lời dặn dò này. Nàng chỉ gật gật đầu, rồi tự nhiên, hai mắt nhòa đẫm lệ ...
Về đến nhà, Nhã Lang đem hết mọi chuyện đã biết ở triều đình Vũ Ninh nói lại cho Lý Phật Tử. Phật Tử cả mừng, hết lời khen ngợi đứa con chí hiếu đã biết nghe lời cha (!). Khi giở đến tặng vật mà Triệu Việt Vương đã biếu, Lý Phật Tử cười tít mắt. Vàng bạc châu báu thì ông ta chẳng thiếu thứ gì, nhưng ông ta cười là vì Triệu Việt Vương tài ba lỗi lạc mà sao lại vô tâm đến như vậy!
Sau mấy năm vẫn giữ hòa hiếu để che mắt Triệu Việt Vương nhằm chuẩn bị thêm lực lượng, rồi đến một ngày, hai cha con Lý Phật Tử bí mật hành binh tiến đánh Triệu Việt Vương. Khi quân của Lý Phật Tử tiến vào biên giới, Triệu Việt Vương cả giận, vội điểm binh mã ra đối địch. Vẫn hùng dũng như xưa, ngồi trên mình ngựa, đầu đội mũ đâu mâu, aty xách đại đao, Triệu Việt Vương đứng dưới cờ thách thức hai cha con Lý Phạt Tử ra đấu. Nưng cha con Lý Phật Tử hèn nhát đâu dám ra! Chỉ có mấy viên tướng trẻ hùng hổ cầm vũ khí xông tới. Trận đấu diễn ra quyết liệt. Thật đáng tiếc cho Triệu Việt Vương, bây giờ vuốt rồng trên mũ đầu mâu chỉ còn là vuốt giả, nên sức lực của Ngài đã không còn được như xưa.
Bây giờ càng đánh sức lực của Ngài càng suy giảm chứ không phải càng đánh càng mạnh như hồi chống quân Lương!
Ngó thấy ba mặt, quân của Lý Phâït Tử đang trùng trùng kéo đến bao vây mà trong khi đó quân của Ngài rõ ràng là thua kém về số lượng (do mấy năm Lý Phật Tử chiêu tập binh mã rất nhiều, còn Ngài thì vẫn giữ nguyên quân số) nên Ngài gạt một đường đao rồi quay ngựa, hét bảo tướng sĩ lui binh.
Quân của Triệu Việt Vương chạy vào thành Vũ Ninh xong thì chốt ngay cánh cổng lại. Quân của Lý Phật Tử bao vây bên ngoài. Hai bên cầm cự nhau có đến cả tháng trời. Nhã Lang dâng kế với Lý Phật Tử cho y dẫn một toán quân lẻn vào thành đốt kho lương thực, vì y biết rõ mọi vị trí. Lý Phật Tử lưỡng lự bởi ông ta lúc ấy chỉ có mỗi Nhã Lang là con nối dõi, nhưng muốn phá thành thì chẳng còn cách nào khác, nên cuối cùng đ ành phải chấp nhận.
Lừa thời cơ đ êm tối, Nhã Lang cùng tốp lính đã vào được thành, qua một con đường bí mật mà y đã biết từ trước. Nhưng ngọn lửa của y vừa đốt lên thì quân của Triệu Việt Vương từ đâu xông tới. Nhã Lang đã bị chém chết ngay tại trận. Bọn lính đi theo y cũng bị chém chết cũng không còn một mống nào. Nhưng lúc ấy ngọn lửa đã bốc lên rất cao. Những người lính của Triệu Việt Vương tức giận, ném tất cả chục cái xác vào đống lửa. Không một ai, kể cả người lính đã làm việc này, biết rằng chàng phò mã quý hóa của thành Vũ Ninh, thế là đã bị thiêu thành tro bụi!
Nhận được tin kho lương thực bị cháy Triệu Việt Vương gầm lên một tiếng, bảo tướng sĩ ngày mai mở thành quyết sống mái một trận. Mọi người có mặt lúc ấy đều hiểu rằng nhà vua chẳng còn có cách lựa chọn nào khác.
Sáng hôm sau, cổng thành vừa mở, Triệu Việt Vương nai nịt gọn gàng, ngồi trên mình ngựa có Cảo Nương khoát áo lông ngỗng ngồi ở đằng sau, cầm đại đao xông ra phá vòng vây của Lý Phật Tử. Tướng sĩ và quân lính cùng ùn ùn kéo ra theo Ngài.
Cơn giâïn đã làm cho sức lực của Trệu Việt Vương tăng lên gấp bội, mặc dù vuốt thần nay đã mất hiệu lực. Cây đại đao của Ngài khua đi đến đâu là lính của Lý Phật Tử phải dạt ra đến đấy.
Vòng vây bị phá, tướng sĩ và quân lính của Triệu Việt Vương chạy tản đi khắp nơi. Lý Phật Tử hô quân đuỏi theo, nhưng suốt một buổi chiều hôm ấy vẫn không bén gót được Triệu Việt Vương. Đêm xuống, cả hai bên đều nghỉ để sáng sớm hôm sau lại tiếp tục cuộc chạy, đuổi, và như thế, kể đã được mấy ngày đ êm liền.
Triệu Việt Vương, mặc dù đã chọn được những lối đi bất ngờ, nhưng không hiểu hiểu sao, quân của Lý Phật Tử vẫn cứ laÜng ngaÜng bám theo sau. Còn những cánh quân khác, hoặc bị bắt, hoặc đều đã tìm được lối thoát rồi.
Khi chạy đến cửa biển Tiểu Nha, thấy trước mắt chỉ mặt nước mênh mông trắng xóa, ngó lại , thì thấy quân của Lý Phật Tử vẫn đang đuổi theo mỗi lúc một gần. Nhà vua bảo con gái xuống ngựa, rồi Ngài cũng nhảy xuống đến bên mép nước, chắp hai tay lại mà khấn: "Xin Long Vương hãy hiện về cứu giúp chúng con!".
Đó là lời cầu khẩn đã được truyền lại ngay từ đời các vua Hùng, mỗi khi có ai bị gặp nạn. Khi Triệu Việt Vương vừa dứt lời, thấy rồng vàng đội nước nhô đầu lên bảo:
- Tại nhà vua quá tin vào con gái và chàng rể đó! Hãy nhìn chiếc áo lông ngỗng kia.
Triệu Việt Vương vẫy con gái lại gần, bảo nàng quay lưng lại, và Ngià không còn tin vào mắt mình nữa: Chiếc áo xơ xác, lông ngỗng đã bị bứt đi gần hết!
Ngài gầm lên: "Đồ phản bội", rồi vung đao chém xuống, Cảo Nương gục xuống chết ngay tại chỗ.
Nhà vua nhảy lên mình ngựa, phi tiếp. Nhằm phía đông, vượt qua một cánh đồng, đến cửa Đại Nha thì Ngài vẫn chỉ thấy mặt nước mênh mông phía trước. Đang định nảy xuống ngựa để khấn vái như lần trước,thì Ngài đã thấy rồng vàng hiện ra. Rồng vàng quẫy đuôi, nước rẽ sang hai bên, và Triệu Việt Vương phóng ngựa chạy theo.Nước ở đằng sau cũng từ từ khép lại ngay ...
Sự việc đó xảy ra vào mùa đông năm 570, chấm dứt 23 năm đánh giặc và trị vì đất nước của một vị tướng tài ba thao lược, nhưng đã vô tình để mất cảnh giác, đến nỗi phải sa cơ bởi dã tâm của một kẻ phản bội.
Từ trước đến nay đã có nhiều người nói đến sự giống nhau của hai tấn bi kịch An Dương Vương, Mỵ Châu và Triệu Việt Vương, Cảo Nương. Quả là lịch sử đã có sự lặp lại gần giống nhau như thế thật! Có nhà nghiên cứu bảo đây là sự lặp lại của môtíp dân gian trong truyện kể thời trước. Vâng, điều ấy, đương nhiên là đúng, không thể bác bỏ được về mặt lý thuyết. Tuy nhiên nếu ta quan sát cuộc sống, thấy rằng: Bao nhiêu mẹo lừa cũ rích mà người thời hiện đại nay vẫn còn mắc phải, thì thử ngẫm, sự giống nhau của hai tấn bi kịch kể trên cũng có gì khó hiểu đâu!
Lý Phật Tử sau khi hại xong Triệu Việt Vương bèn dẫn quân vào Vũ Ninh thu vén vàng bạc châu báu, bắt đ àn bà con gái, rồi rút về Ô Diên, tự đắc lên ngôi Hoàng đế , cũng xưng là Lý Nam Đế, người đời sau gọi Lý Bí là Tiền Lý Nam Đế, còn Lý Phật Tử là hậu Lý Nam Đế.
Những ngày mới lên ngôi, tuy bề ngoài hớn hở vui tươi, nhưng bên trong thì Hậu Lý Nam Đế đau xót âm thầm vì đứa con nối dõi đã chết. Việc đầu tiên mà Hậu Lý Nam Đế làm là cho xây dựng ở thành Ô Diên (xã Hạ Mỗ, Từ Liêm) một ngôi đền đã tờ Nhã Lang, đứa con mà xác đã thành tro bụi ở thànhVũ Ninh từ mấy tháng trước.
Nhận thấy ở Ô Diên chỉ gợi lại nỗi buồn phiền làm cho lương tâm luôn luôn cắn rứt, nên Hậu Lý Nam Đế cho dời đô về Phong Châu,nơi đất Kinh đô của các vua Hùng thuở trước. Ý của Hậu Lý Nam Đế là nối lại chính thống của các vua Hùng từ xa xưa để lại, chứ Tiền Lý Nam Đế bất quá cũng chỉ là người ngang hàng với ông mà thôi.
Vị Hoàng đế không còn chút liêm sĩ này, chỉ có mỗi một tài là tài lừa lọc, đã không nhìn thấy Ô Diên (ở ngay cành thành Đại La, tức là thành Thăng Long sau này)là vị trí trung tâm để chấn hưng đất nước và phát triển quân đội (đặc biệt thủy quân) nhằm kế sách lâu dài,mà chỉ thấy trước mắt cần phải chính thống ngay tức khắc.
Quả là Hậu Lý Nam Đế đã chính thống được cái tước hiệu.Thực tế ông ta đã kéo lùi sự phát triển của đất nước lại 32 năm, tức là cả thời gian hết cha đến con trị vì.
Mặc dù lúc bấy giờ đã lớn tuổi, nhưng Hậu Lý Nam Đế vẫn mãng "đi lại" với các cung nữ. Thế rồi ông ta cũng sinh được một người con trai nữa đặt tên là Lý Sư Lợi.
Là một kẻ vô lại, nên dưới quyền Hậu Lý Nam Đế, chỉ là một lũ quan lại bất tài, vừa tham vừa ác chẳng nghĩ gì đến dân, đến nước. Cũng may, một thời gian dài phương Bắc có loạn liên miên, hết nhà Lương là đến nhà Trần ngắn ngủi, nên cha con Hậu Lý Nam Đế mới bình yên kéo dài được 32 năm (571 - 602).
Quả nhiên, nhà Tùy vừa chính vị được năm thứ nhất (602) đã cử ngay Dương Tố sang làm Tổng quản Giao Châu. Tố tiến cử Lưu Phương, người Trường An, vốn là một kẻ mềm mỏng, dẫn đại binh đi trước mở đường.
Quân Lưu Phương ùn ùn kéo sang, lúc bấy giờ Hậu Lý Nam Đế đã mất được mấy năm, và Lý Sử Lợi, cũng vẫn tự xưng là Lý Nam Đế, đang trị vì.
Vị Hậu Lý Nam Đế thứ hai này, đang trẻ người non dại, vốn chỉ quen ăn chơi hưởng lạc, nên vừa nghe tin quân giặc tới, là đã mặt xanh nanh vàng, mất hết can đảm của một người điều binh khiển tướng.
Lưu Phương đánh đến núi Đô Lương thì gặp một tốp lính nhỏ người địa phương xông ra chống cự, y cho quân dẹp được ngay, rồi tiến vào Phong Châu, đóng doanh trại ngay sát cạnh dinh của Lý Sư Lợi.
Nếu gặp phải một triều đình có sĩ khí nào khác, thì trước khi đến đây, ít nhất quân của Lưu Phương cũng phải bị sứt trán bứu đầu, đằng này Lưu Phương vẫn cứ dẫn quân lẳng lặng mà tiến, hầu như không vấp phải một sức đề kháng nào đáng kể.
Lý Sư Lợi cùng triều đình hèn nhát đã đ ành. Ngay cả hai người tôn thất, một là Lý Đại Quyền làm Thái Bình hầu giữ thành Long Biên, và một người nữa là đại tướng Lý Tấn Đỉnh làm An Ninh hầu giữ thành Ô Diên, ca hai viên tướng này trong tay đều cóhàng vạn quân, vậy mà vẫn ngồi yên, không đi tiếp ứng! Thật đúng là cha nào con nấy, vua nào tướng ấy, kể từ đời Lý Phật Tử, họ chỉ mang lại nỗi nhục cho dân cho nước!
Lưu Phương cho người sang tận triều đình Lý Sư Lợi để dụ hàng. Vị Hoàng đế hèn mạt cùng trăm quan vội vàng quỳ ngay xuống để nghe chếu chỉ. Thế là Hậu Lý Nam Đế thứ hai cũng chấm dứt nốt.
Lưu Phương cho quân dẫn Lý Sư Lợi về phương Bắc, rồi cho chết biệt tăm ở nơi đất khách quê người. Còn các viên tướng của triều đình Hậu Lý Nam Đế, Lưu Phương cho bắt tất cả, rồi mang ngay ra bãi chém hết!
Chắc đến lúc chết, cả Sư Lợi và các tướng đãhiểu được thế nào là lời lẽ phủ dụ của những ke chuyên đi xâm lược!
Sau khi Triệu Việt Vương đi xuống biển ở cửa Đại Nha (cũng có sách viết rằng nhà vua đã tự tử) mọi người trong vùng thương tiếc bèn lập đền thờ ở đấy để thờ Ngài.
Về sau những người họ Lý cùng chi phái của Lý Phật Tử cũng lập ở của Tiểu Nha đền thờ Hậu Lý Nam Đế.Tiểu Nha đối diện Đại Nha, codnghĩa là Hậu Lý Nam Đế đã đối mặt với Triệu Việt Vương mà song song tồn tại vậy!
Chả biết vì thần linh không cho có sự đánh lộn sòng hay do trời xui đất khiến thế nào, mà một đ êm mứa gió bão bùng, sấm sét nổ ra dữ dội, sáng hôm sau thấy ngôi đền Tiểu Nha bị đánh bạt xuống sông, không còn tăm tích.
Dân làng Độc Bộ, vốn đã lập đền thờ Triệu Việt Vương ở Đại Nha, nay dựng thêm ngôi đền khác ở Tiểu Nha. Họ không thờ Hậu Lý Nam Đế như làng Phù Xa trước kia, mà thờ Ngô Nhật Khánh, một trong 12 vị xứ quân của đời sau, cách gần 400 năm.
Đại Việt sử ký toàn thư vân gọi Lý Phật Tử là vua, là đế, nhưng cũng không ngần ngại đưa ra lời bình "không bằng chó lợn" để chỉ nhhững hành vi và việc làm của vị đế này.
Ngày nay, tên cua Triệu Việt Vương và Tiền Lý Nam Đế đã được đặt cho nhiều đường phốm, trường học. Về tên của Triệu Việt Vương thì đương nhiên là rõ ràng, không có gì để bàn bạc. Nhưng tên của (Tiền) Lý Nam Đế. Phải chăng cũng nên có cách gì để phân biệt với Hậu Lý Nam Đế? Chỉ ghi là Lý Nam Đế, e có người sẽ tưởng nhầm là Hậu Lý Nam Đế (tức Lý Phật Tử) cũng được hậu thế tôn vinh, vì Lý Phật Tử cũng xưng là Lý Nam Đế, như Lý Bí.
Đ.Hải
sưu tầm từ Internet