Bài hát Khỏe vì nước
Nhạc sĩ Hùng Lân
Khoẻ vì nước
Tác giả: Hùng Lân
Lời bài hát:
Khỏe vì nước kiến thiết Quốc Gia.
Đoàn thanh niên ta góp tài ba.
Tạo nguồn dân sinh mới hùng mạnh trong năm giới.
Hợp lực xây hưng thịnh chung nước Nam.
Khỏe vì nước chí khí cương kiên.
Giống Lạc Hồng uy hùng vô biên.
Trong khốn nguy can trường sống thác ta coi thường.
Việt Nam thanh niên anh dũng muôn năm.
Thanh niên ơi, hồn thiêng núi sông đợi chờ !
Nơi tay ta toàn dân ngóng trông từng giờ.
Mang máu anh hùng ta đừng làm nhơ máu anh hùng.
Trai đất Việt phải nêu đèn sáng thế giới soi chung.
Dân sinh yếu nhược lôi ta đến đường vong quốc.
Dân sinh dũng cường đưa ta tới đài vinh quốc.
Mau gây lấy phong trào khỏe khắp nơi xa gần.
Cho dân trí quật cường và hưng phấn.
Nghìn đời không mờ ánh Duy Tân.
Nghe nhạc
http://mp3.zing.vn/mp3/nghe-bai-hat/Khoe-vi-nuoc-Nhieu-ca-si.IWZC8I0D.htmlĐôi điều về nhạc sĩ Hùng LânNhạc sĩ Hùng Lân tên thực là Hoàng Văn Cường, nhưng do nhầm lẫn, giấy khai sinh ghi là Hoàng Văn Hường (sau lại đổi là Hoàng Văn Hương) sinh ngày 23/6/1922 tại Hà Nội, quê gốc ở làng Hương Điền, tỉnh Sa Đéc. Ông nội nhạc sĩ là cụ Nguyễn Minh Châu từ Sa Đéc ra Hà Nội làm việc. Dường như nhạc sĩ Hùng Lân muốn gửi gắm nguồn gốc miền Nam của mình trong bài hát khá nổi tiếng khác của ông: “Việt Nam - minh châu trời Đông” (giải nhất sáng tác toàn quốc năm 1944).
Từ năm 8 tuổi, Hùng Lân bắt đầu học nhạc và được tuyển vào ban hợp xướng Nhà thờ lớn Hà Nội. Từ 1934 đến 1945, Hùng Lân tiếp tục học nhạc tại chủng viện Hoàng Nguyên, rồi sau đó là đại chủng viện Saint Sulpice. Liên tiếp trong hai năm 1945 - 46, thân mẫu rồi đến thân phụ của Hùng Lân qua đời. Ông phải rời bỏ học để có điều kiện lo lắng cho gia đình vì các em còn nhỏ. Bút hiệu “Hùng Lân” được ghép từ hai tên của người em thứ năm và thứ tám của ông.
Hùng Lân dạy học ở trường Kẻ Giảng (cách Phủ Lý chừng 5, 6 cây số). Trong nhà thờ vùng đó, có một cây quản cầm (harmonium) rất tốt. Đó chính là người bạn thân của Hùng Lân trong suốt hai năm 1945-46 và là nơi ông khai sinh ra nhiều bài hát nổi tiếng. Có lẽ hoàn cảnh lúc này của Hùng Lân có nhiều điểm giống với thầy giáo-nhạc sĩ Franz Xaver Gruber (1787-1863, người Áo), đồng tác giả với cha xứ Joseph Mohr của bài hát Giáng sinh nổi tiếng nhất thế giới: Stille Nacht, Heilige Nacht (Silent Night, Holy Night), nên ông đã là người đầu tiên viết lời Việt cho bài ca Giáng sinh đó, dưới tên gọi: “Đêm thánh vô cùng”.
Năm 1948, Hùng Lân dạy âm nhạc ở trường Chu Văn An (Hà nội). Năm 1949, sách dạy âm nhạc khai tâm “Cây đàn sống” được ấn hành. “Bộ sách giáo khoa âm nhạc cho lớp đệ Thất, đệ Lục, đệ Ngũ, đệ Tứ” (tức các lớp phổ thông cấp II ngày nay) cũng được nhà xuất bản này cho ra đời trong năm 1952, 1953. Có thể nói ông là người đầu tiên soạn sách giáo khoa dạy âm nhạc trong nhà trường phổ thông.
Sau khi vào miền Nam, quê hương gốc của ông, năm 1956, Hùng Lân là một trong những người tham gia sáng lập Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch Nghệ Sài Gòn (hiện nay là Nhạc Viện TP. Hồ Chí Minh). Ở đó, năm 1957, ông được bổ nhiệm dạy về Nhạc pháp (tức Ký xướng âm).
Sau ngày đất nước thống nhất, Hùng Lân dạy nhạc tại tư gia. Với tâm huyết của một nhà giáo, với lòng nhiệt thành và say mê âm nhạc của một nhạc sĩ, ông vẫn âm thầm cống hiến cho nền giáo dục âm nhạc của đất nước. Báo Thanh Niên, số cuối năm1989, đã ghi nhận như sau trong mục ”Guinness Việt Nam": “Một trong những người tham khảo tài liệu nhiều nhất để soạn nhạc lý là nhạc sĩ Hùng Lân (Tp.HCM) để nghiên cứu đề xuất một phương pháp mới dạy nhạc cho thanh niên vào năm 1979”.
Nhạc sĩ Hùng Lân qua đời vào ngày 17/9/1986 trong niềm thương tiếc của gia đình, bạn hữu và nhiều thế hệ học trò. Đã có khá nhiều nghệ sĩ, nhạc sĩ nổi tiếng đã một thời học thầy Hùng Lân. Trong số đó có các ca sĩ Hồng Vân, Quý Dương, Nhà giáo Ưu tú - nghệ sĩ đàn tranh Phạm Thúy Hoan, Nhà giáo Ưu tú Nguyễn Thị Nhung (nguyên trưởng khoa Guitare-Accordéon-Orgue của Nhạc viện Tp.HCM)… Nhân dịp nghe giáo sư - nhạc sĩ Hoàng Đạm giới thiệu về bản fugue 3 bè viết cho piano của ông có tên “Khát vọng”, chúng tôi được nghe ông tâm sự: “Chủ đề của bài fugue này được lấy từ một giai điệu trong bài “Nguyện xin” mà tôi còn nhớ được trong những ngày theo học Ns. Hùng Lân, người thầy âm nhạc đầu tiên của tôi về môn Ký xướng âm tại Hội Khuyến nhạc Hà Nội. Đó là một trong những giai điệu đẹp nhất mà tôi còn giữ được cho đến nay”.
Bài hát "Khoẻ vì nước"Đối với một ca khúc, lời ca giữ vai trò quan trọng. Một lời ca mang ý nghĩa sâu xa, có chất thơ, thường lưu lại trong lòng người nghe không kém gì một giai điệu hay. Như đã nói ở trên, bài hát này được gợi hứng từ lời dạy của Bác Hồ. Trong thư Bác Hồ gửi bộ trưởng Bộ Thanh niên thời đó để kêu gọi toàn dân tập thể dục có câu:
“Dân cường thì nước thịnh. Tự tôi ngày nào cũng tập…”
Hùng Lân đã viết thành lời ca được dệt nhạc rất hợp trong đoạn 2 của "Khoẻ vì Nước" :
“Dân sinh yếu nhược lôi theo mối nhục vong quốc
Dân sinh dũng cường đưa ta tới đài vinh quốc”.
Lòng yêu nước cộng với thi hứng của người nghệ sĩ đã khiến Hùng Lân viết nên lời vừa mang tính thi ca thể hiện trong cách gieo vần, âm tiết, vừa mang tính hiện thực trong cách dùng từ rõ ràng, đơn giản nhưng súc tích, khác với lối văn hoa mỹ, sáo rỗng thường gặp trong lối hành văn của giới trí thức lúc bấy giờ.
“Khỏe vì nước kiến thiết quốc gia/ Đoàn thanh niên ta góp tài ba/ Tạo nguồn dân sinh mới/ Hùng mạnh trong nam giới/ Hợp lực xây hưng thịnh chung nước Nam//
Khỏe vì nước chí khí cương kiên/ Giống Lạc Hồng uy hùng vô biên/ Trong khó nguy - can trường/ Sinh thác ta - coi thường/ Việt Nam thanh niên anh dũng muôn năm//"...
Xét về ngôn ngữ âm nhạc, về điệu thức, toàn bài bài "Khoẻ vì nước" được viết hoàn toàn trong điệu thức ngũ cung với chủ âm La, dạng I gọi là điệu Bắc, hơi Nhạc (Lễ):
Hùng Lân không dùng một bậc nào khác ngoài các bậc chính của điệu thức trên đây, nhưng ông khéo vận dụng ở những quãng 8 khác nhau. Các quãng 7 gián tiếp, những bước đi quãng 2 tiếp theo, cùng chiều chuyển động với một quãng 4, hay quãng 5 (lên hay xuống), như trong ví dụ dưới đây, là những nét đặc thù của âm nhạc cổ truyền Việt Nam trong "Khoẻ vì Nước".Mặc dù bài hát là môt hành khúc nhưng ông đã giữ nguyên được bản sắc dân tộc cho giai điệu, kết hợp một cách khéo léo với đặc tính về tiết tấu của âm nhạc Tây phương.
Một sáng tạo khác nữa của Hùng Lân trong ngôn ngữ âm nhạc là dùng những quãng 6 trưởng đi lên thay cho những quãng 4 đúng, quãng 5 đúng vốn thường được các nhạc sĩ phuơng Tây dùng để diễn tả sự hùng tráng, vinh quang trong giai điệu mở đầu cho các bản hành khúc. Quãng nhạc đầu tiên dệt lời “Khỏe vì nước kiến thiết quốc gia” là một quãng 6 trưởng vừa trong sáng vừa nên thơ.
Trong cả ca khúc, những quãng 6 này thường được gặp nhiều nhất, làm cho bài hành khúc mang thêm tính lãng mạn. Chúng tôi càng cảm thấy thú vị khi thấy bài hát được viết ở điệu thức La với 3 dấu thăng , bởi đây chính là giọng phù hợp với âm vực phổ biến của người châu Á.
Về cấu trúc hình thức, “Khoẻ vì Nước” mang dáng dấp của thể ba đoạn: A -B - A. Trong đó, đoạn A gồm 2 câu từ “Khỏe vì nước…..” đến “anh dũng muôn năm” được phát triển theo thủ pháp lặp lại giai điệu chủ đề (motiv) có biến đổi (varied repetition) ở nửa sau của câu nhạc. Đoạn B có chủ đề gồm 5 nốt Do thăng cùng một quãng 8, được lặp lại với những trường độ bằng nhau (nốt móc đơn) tạo nên tính marcato tạo thành một lời khẳng định. Giai điệu chủ đề được phát triển tiếp tục bằng thủ pháp mô tiến (sequence), lặp lại nét nhạc ở quãng 2 thấp hơn. Tác giả dùng quãng 2 êm ái, nhẹ nhàng để mô tiến chứ không dùng quãng 3 vui tươi, hay quãng 4 có màu sắc hùng mạnh.
Như vậy, xét cả về ca từ lẫn âm nhạc, bài hát "Khoẻ vì Nước" của Hùng Lân đứng vững trong hơn nửa thế kỷ qua là một điều tự nhiên. Chúng ta có thể lấy bài hát làm mẫu mực cho việc sáng tác ca khúc, nhất là những ca khúc yêu nước mang tính xây dựng, tích cực, cổ động và giáo dục quần chúng.
giaidieuxanh