Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 11:01:32 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Ký Sự Chiến Tranh - Tập 1  (Đọc 41194 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #40 vào lúc: 25 Tháng Mười Một, 2008, 01:50:41 pm »

Một lúc sau, nhìn vào mặt Phong, biết anh đã mệt lắm, tôi giục :
- Phong! Cậu hãy xuống nghỉ để anh em khác thay cho một lúc .
- Báo cáo! Còn một chút hơi thở, tôi quyết chưa rời mâm pháo!

Bỗng một trái bom nổ ở phía trận địa bên cạnh. Tôi không kịp nói thêm gì với Phong nữa, vội vàng chạy sang xem tình hình ra sao. Vượt qua mấy đoạn hào đã nhừ nát, tôi đứng sững lại trước một hố bom như một cái phễu khổng lồ. Đất cồn lên bời bời ở bốn chung quanh. Gần đấy, hai chiến sĩ đang từ trong một đống đất, vùng vẫy chui ra. Đó là Mươi và Phùng, hai xạ thủ súng máy. Nhưng khi vừa mới lảo đảo đứng dậy được, Mươi đã lại ngã giúi xuống. Tôi vội đỡ anh lên. Mặt anh trắng bệch như sáp, hai con mắt dại đờ. Mấy giây sau mới hồi tỉnh lại, nom thấy tôi anh cố gượng nở một nụ cười. Tôi mừng rỡ định dìu anh vào hầm thì anh đã vội toài ra phía khẩu súng, và nói gần như gào lên trong những tiếng máy bay còn đang gầm rít trên đầu.
- Không! Báo cáo đồng chí, cho tôi được tiếp tục chiến đấu! Tôi chỉ bị choáng một tí thôi.
- Đã có Phùng rồi. - Tôi thét lại.
- Không. Đồng chí vừa báo tin Thái Văn A bị thương vẫn tiếp tục anh dũng chiến đấu, vậy tôi cũng xin làm được như Thái Văn A - Vừa nói, mắt anh nhìn tôi cầu khẩn tha thiết. Biết không thể làm gì hơn được nữa, tôi đành phải gật đầu. Vừa quay gót trở lại trận địa pháo, tôi đã nghe thấy tiếng súng của Mươi vang lên đanh, giòn mãnh liệt như không hề có chuyện gì vừa xảy ra.

Mấy loạt pháo rền lên liên tiếp. Một chiếc AD6 nữa trúng đạn. Nó lộn đi một vòng rồi như chiếc diều từ trên cao đứt dây, rơi xuống. Cuộc chiến đấu kịch hệt tới lúc đó cũng vừa vặn chấm dứt. Những tên "giặc nhà trời" còn lại như đã nhược cả ra rồi. Chúng réo lên ầm ĩ rồi từng chiếc quay đầu, vượt ra phía biển nối nhau vùn vụt chạy thẳng. Lại một lần nữa, tất cả anh em chúng tôi hò la khắp các trận địa, giũ đất giũ cát trên mũ, áo, đứng dậy, siết chặt tay, ôm chầm lấy nhau, vui đến nổ trời nổ đất. Gió biển hình như bị trận chiến đấu đánh bạt đi mất, giờ đây lại dào dạt trở về, xua đuổi những đám khói còn quẩn trên khắp các trận địa. Không gian trở lại yên tĩnh. Những mảng trời trong xanh hiện ra qua những màn khói đang tan dần. Rồi ánh nắng ban chiều lại tràn ngập, sáng lóa trên biển lớn và giội xuống chói chang trên các trận địa còn khét nồng mùi thuốc nổ. Chuông điện thoại lại đổ hồi. Đồng chí chính trị viên đã có thì giờ kể cho chúng tôi nghe câu chuyện về Thái Văn A, người chiến sĩ ưu tú đã được Đảng bộ trên đảo chăm chút giáo dục từ lâu.

Đúng như sự phỏng đoán rất tinh của Thiêm : Thái Văn A là người đã nổi hiệu báo động kịp thời cho toàn đảo. Cũng giống như quân khí viên Nguyễn Đức Báu, hôm nay không phải phiên mình trực ban, nhưng với tinh thần tự giác, hăng hái, A đã ra xung phong giúp bạn. Những chiếc máy bay lao đến, rồi hàng loạt bom nổ tới tấp chung quanh đài quan sát cao ngất. Chỉ trong chớp mắt, cả cái phần trên có mái che, có lan can của chiếc đài đã bị phá hủy tan tành. Mảnh rốc-két, mảnh bom bắn vào thang, vào sàn đài chi chít. Nhưng Thái Văn A hầu như quên tất cả mọi sự nguy hiểm, quên cả thân mình, anh vẫn đứng sừng sững trên đó, giữa nơi bốn bề lửa khói ấy để tiếp tục quan sát. Đồng chí chính trị viên đã ba lần ra lệnh cho đồng chí tiểu đội trưởng Cảnh gọi Thái Văn A tạm xuống, nhưng cả ba lần A đều trả lời : "Báo cáo, tôi cần phải ở đây; không quan sát được máy bay nữa, tôi quan sát tàu chiến, đề phòng chúng thừa cơ này lẻn vào tập kích!". Tới lần thứ hư, Cảnh vừa ra đã thấy có mấy vệt máu chảy dài ở chân thang, anh gọi cuống quýt :
- Cậu A! Cậu A! Cậu bị thương rồi, xuống đi thôi. Mình lên thay cho. Xuống đi!
Chẳng những A không xuống, A còn trả lời :
- Báo cáo, tôi đã bị thương. Nhưng mới bị vào đùi thôi. Tôi đã rút được mảnh bom rồi. Xin cứ để cho tôi tiếp tục làm nhiệm vụ.
Cho đến khi đợt oanh kích của bốn chiếc F.105 bị đánh bại, bây giờ Thái Văn A mới chịu rời chiếc đài quan sát của anh leo xuống.

Đồng chí chính trị viên đã biết cặn kẽ việc này nên khi nom thấy Thái Văn A tập tễnh đi tới, một bên ống quần ướt đẫm máu suốt từ ngang đùi xuống tới gấu, anh đã ứa nước mắt, chạy vội đến ôm chầm lấy A. Và ngay trong giây phút ấy, nhân danh bí thư Đảng ủy, anh đã trịnh trọng tuyên bố kết nạp A ngay tại chỗ - chỗ ấy lửa vẫn còn nghi ngút cháy trên những đám cỏ gianh, mảnh bom mảnh đạn vẫn còn ngổn ngang khắp trên mặt đất đã bị cày xới đến nhừ nát. Đến lượt Thái Văn A chảy nước mắt. Anh sung sướng đến nghẹn lời. Bắt tay đồng chí bí thư Đảng ủy mà tay anh cứ run lên : "Tôi không biết nói thế nào... Đời tôi từ nay đã hoàn toàn thuộc về Đảng...".

Câu chuyện về Lê Ngọc Vân cũng đã được đồng chí chính trị viên kể lại với tất cả niềm xúc động mạnh mẽ của mình. Khi máy bay địch tới, Lê Ngọc Vân cùng với Lĩnh, một xạ thủ người Mường, đã kịp thời nổ súng đánh ngay chiếc F.105 đầu tiên, phối hợp rất đẹp với trận địa pháo. Khẩu súng của anh đánh rất hay, nghe tiếng nổ của nó ở góc chiến hào nào là anh em biết ngay Lê Ngọc Vân có mặt ở chỗ đó.

Khẩu súng của Vân, Lĩnh góp phần xứng đáng vào việc bắn rụng chiếc F.105 thứ hai. Ụ súng của các anh đã bị sập bốn lần. Cả bốn lần, Vân đều kịp thời di chuyển và tiếp tục bắn không biết mệt mỏi. Súng hỏng chữa hỏng, súng tắc chừa tắc, bình tĩnh và linh hoạt lạ thường. Nhưng tới vị trí thứ sáu thì một quả bom đã rơi gần đó. Lê Ngọc Vân vừa lăn ra, hai chân đã đỏ những máu... Lĩnh thấy vậy òa khóc, quỳ vội xuống ôm ghì lấy anh. Mấy giây sau Vân tỉnh lại tươi cười an ủi bạn : "Ấy, sao lại khóc thế Lĩnh? Tớ có việc gì đâu! Xoàng thôi mà!". Nhưng Lĩnh đã biết vết thương của Vân đâu có nhẹ, và Lĩnh cũng thấy rất rõ nụ cười trên đôi môi đã trắng nhợt của Vân chỉ là kết quả của một sự cố gắng cao độ mà hôi. Lĩnh càng khóc to hơn và cố dìu Vân vào trong hầm. Tới lúc đó Vân mới nói thật : "Thôi, giấu cậu làm gì, tớ bị cũng khá nặng đấy, có lẽ không được ở trận địa nữa đâu, Lĩnh ạ!". Và rất nghiêm trang, tha thiết, anh cầm lấy tay Lĩnh, dặn dò : "Nhờ cậu chuyển lời chào tới Đảng ủy, chào các thủ trưởng và chào các đồng chí trong ban chấp hành chi đoàn Thép, chào tất cả anh em. Nói hộ rằng : Vân rất nhớ, rất yêu các anh, các bạn, và tất cả. Vân chúc các anh, các bạn và tất cả hãy cố gắng tiêu diệt thật nhiều máy bay Mỹ hơn nữa, kiên quyết giữ vững lấy Cồn Cỏ của Tổ quốc!”. Cáng thương tới. Vân được đưa ngay về trạm quân y phía sau. Trên dọc đường, gặp bất cứ ai, Vân đều ân cần chào hỏi và nhắn lại những lời tương tự như vậy. Khi Vân tới ngang chỉ huy sở thì các đồng chí bí thư Đảng ủy và chỉ huy trưởng... đều đã có mặt ở đấy mọi người bàng hoàng, xúc động nắm chặt lấy bàn tay đã trắng xanh của Vân. Anh lại cố mỉm cười, gượng nói : "Các thủ trưởng ạ, tôi rất sung sướng vì đã làm tròn nhiệm vụ, đã được đổ máu trên mảnh đất thân yêu này để góp phần bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa và giải phóng miền Nam! Tôi rất sung sướng. Không có điều gì đáng ân hận cả!". Kể tới đó, đồng chí chính trị viên ngừng lại mấy giây, rồi mới nói tiếp, giọng anh rung lên :
- Khoa ạ! Các chiến sĩ của chúng ta là như thế đấy! Chúng ta thật đáng được tự hào, kiêu hãnh và tin tưởng ở anh em! Đảng của chúng ta quả là đã đào tạo nên những lớp người thật gang thép, anh hùng.

...Ngay đêm ấy, một cuộc liên hoan mừng chiến thắng đã được mở ra chớp nhoáng trên toàn đảo. Vừa liên hoan vừa tranh thủ rút những kinh nghiệm nóng hổi để tiếp tục trừng trị bọn Mỹ. Mặc dầu suốt cả một buổi chiều chiến đấu liên tục đã thấm mệt, nhưng tất cả chúng tôi đều hết sức phấn chấn, vui vẻ. Chính những niềm vui ấy đã làm cho sức khỏe của chúng tôi hồi phục rất mau chóng. Lâm Văn Hiếu lại đem cây đàn bầu của mình ra chơi. Những cái láy, những cái vuốt của anh lại làm cho các chiến sĩ say mê. Bao khuôn mặt còn chưa rửa sạch vết thuốc súng và đất, cát ở chiến hào giờ đây lại mơ màng đắm chìm vào trong những niềm rung động dịu dàng, tha thiết. Bường - “Tý Trâu chỉ tiến không lùi” - và Duyến... những cây đơn ca quen thuộc lại nối tiếp nhau lên tiếng hát. Dưới bầu trời vằng vặc ánh trăng, giữa nơi bốn bể tiếng sóng rì rầm, trên trận địa hãy còn nóng bỏng tro than, nghe những tiếng hát của các chiến sĩ cất lên trong sáng và tươi trẻ, sao mà thích đến thế! Tiếng hát như làm sáng thêm cả hòn đảo.

Và không ngờ liền đó, chúng tôi lại có thêm một việc vui mừng. Một số thuyền đánh cá của đồng bào cặp đảo. Những lá buồm nâu rộng lớn, từ ngoài khơi dần dần tiến lại. Rồi những người thân yêu của đất liền, tươi cười bước lên, với những thúng cá đầy. Có cả một thiếu nữ to khỏe, da cháy nắng, cặp mắt sáng ngời, cặp mắt quen thuộc của những cô gái miền biển. Tất cả đều siết chặt tay chúng tôi. Những bác già ôm chầm lấy từng chiến sĩ mà sờ đầu, nắm tay, bóp vai, rồi reo lên sung sướng :
- Giỏi quá! Trời ơi! Các con giỏi quá! Ở ngoài khơi, bà con nom thấy chúng nó rơi xuống biển nhiều lắm, chứ không phải chỉ vài chiếc như các con nói đâu! Có ít cá ngon đây, ăn đi! Ăn cho nhiều cho khỏe mà tiêu diệt giặc Mỹ! Hết rồi lại có, các con ạ.
Mấy phút đầu, chúng tôi không ai đáp được câu nào. Trước sự đùm bọc vô bờ bến của đồng bào, tất cả chúng tôi đều rưng rưng nước mắt.
...

X

Lá cờ "Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược" của Bác vẫn tiếp tục vẫy gọi, cổ vũ chúng tôi chiến đấu Màu cờ như luôn luôn tỏa ra đỏ thắm trên khắp đảo. Những dòng chữ vàng lấp lánh như có hồn sống. Không một ngày nào trên các chiến hào, các trận địa, chúng tôi không nhắc nhở nhau : "Chúng ta đã được cờ Bác. Phải làm sao cho xứng đáng hơn nữa!".

Trắc, Kỳ..., những chiến sĩ trước đây còn có lúc lúng túng trong chiến đấu, giờ đây đã hiên ngang ngồi ở những ghế pháo thủ số 1, thành thạo và rất bình tĩnh. Tứ cũng càng trở nên giàu kinh nghiệm. Anh vẫn đứng sừng sững giữa trận địa, mặc cho bom đạn réo quanh mình làm cho các pháo thủ đã phải kháo nhau : "Không khéo ông Tứ đã tới trình độ có thể nhìn thấy cả luồng đạn của bọn Mỹ. Chỉ thấy ông ấy né mình sang một bên là đã tránh gọn!". Đinh Minh Vị, anh giáo chưa tốt nghiệp, người chiến sĩ của đại đội Lê Hồng Phong trước đây, nay giữ cây thượng liên cũng càng đánh càng vững, và càng đánh càng ăn khỏe, xem chừng cũng là đấu thủ đáng gờm của "trạng ăn" Nguyễn Văn Tảo. Tấm lưng của anh đi trong giao thông hào nào cũng thấy chật chội. Lĩnh, anh chiến sĩ ở một phân đội pháo khác, đã có đêm dũng cảm bắn trúng tàu biệt kích địch khi chúng liều lĩnh vào gần đảo, nay cũng luôn luôn xông ra chỗ cao xạ xin xung phong tiếp đạn...

Toàn đảo thi nhau lập công. Ai ai cũng muốn trở nên người chiến sĩ vững vàng nhất, đáng tin cậy nhất của Đảng. Ai ai cũng muốn trong dịp này phải làm được một việc gì tốt hơn trước, cao hơn trước để xứng đáng với phần thưởng của Bác...
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #41 vào lúc: 25 Tháng Mười Một, 2008, 01:53:09 pm »

*
*    *

Ít ngày sau, tôi được trên trao cho một nhiệm vụ hết sức đột ngột, đó là nhiệm vụ : thay mặt toàn thể cán bộ, chiến sĩ trên đảo, về Thủ đô dự Đại hội “Thi đua quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Lòng những bồi hồi sung sướng. Tôi đã được vinh dự nhận một nhiệm vụ vẻ vang mà bản thân tôi chưa bao giờ dám mơ ước tới. Về Thủ đô dự Đại hội, chắc chắn tôi sẽ được hạnh phúc gặp Trung ương Đảng, Chính phủ và Bác... Cũng sẽ được gặp biết bao đại biểu của các đơn vị, các địa phương anh hùng của Tổ quốc... Ôi, mới thử mường tượng ra cái giây phút đầu tiên được nom thấy Bác, là người tôi đã nóng ran lên, và nước mắt muốn tuôn chảy vì hạnh phúc. Tôi biết nói thế nào đây để báo cáo được tất cả mọi điều trên Cồn Cỏ với Trung ương, Chính phủ và Bác? Ngày và đêm trên hòn đảo tiền tiêu bé nhỏ này đã xảy ra biết bao sự kiện vẻ vang, đẹp đẽ. Những người bảo vệ, xây dựng nên chiến công của Cồn Cỏ thực ra chẳng phải chỉ có chúng tôi. Nhiều lắm! Đã có biết bao nhiêu Đảng bộ, bao nhiêu đồng bào, đồng chí, bè bạn xa, gần chi viện, ủng hộ cho chúng tôi làm tròn nhiệm vụ...
Bồi hồi sung sướng xen lẫn lo lắng bàng hoàng!...

Buổi sáng hôm ấy, tôi đi các trận địa thăm lại anh em, rồi trèo lên cái đài quan sát đã dày đặc mảnh bom đạn của Thái Văn A, ngắm nhìn lại toàn cảnh của Cồn Cỏ thân yêu trước khi tạm biệt nó ít ngày. Từ trong đất liền nhìn ra hòn đảo giống như một chiến hạm nổi hoặc một con cọp đang chồm trên sóng như nhiều người đã nói, nhưng lúc này đứng ở trên cao nhìn xuống, lại thấy nó có hình một lá cờ đang bay trước biển sóng. Trước kia, đảo toàn là một màu xanh mượt mà của cây cỏ. Nhưng tới hôm nay, các khu rừng ấy cùng mọi vật ở trên đảo đã bị quân thù phá trụi hầu hết. Từng khu đất lớn trơ ra đỏ loét, lồi lõm hố bom đạn. Nơi này một đống lửa còn đang âm ỉ cháy. Chỗ kia mấy luồng khói vẫn còn đang đùn lên nghi ngút. Ở khu trung tâm văn hóa nay không còn lấy một mẩu gạch nhỏ. Muốn tìm lại dấu vết của những nền nhà xưa, chỉ có thể nhìn phương hướng mà phỏng đoán. Tuy nhiên, tất cả những vết nham nhở ấy giờ đây lại làm cho hòn đảo thêm gân guốc, cứng cỏi. Ngoảnh nhìn về phía "khu Hà Nội" vẫn thấy cây cột cờ kỳ lạ của đảo. Nó vẫn đứng sừng sững bất chấp mọi thứ bom, đạn của giặc Mỹ. Một bóng người đang lúi húi ở những "vườn" rau mới trồng bên những hố bom lớn. Tôi nhận ra ngay Đinh Kinh với điếu thuốc lá vấn to xù ngậm ở bên mép và chiếc bao tải vắt trên vai... Lại thấy mấy bóng người nhỏ nhắn khác đang nhanh thoăn thoắt đi dọc theo một đường hào ra trận địa. Đó là Duyến và Bường, hai chiến sĩ thông tin, những người đã cùng anh em lăn lộn ngày đêm không quản ngại, xông pha vào bất cứ chỗ nguy hiểm nào để bảo đảm đường dây thông suốt trên đảo. Một con chim hoàng yến ức vàng mịn bỗng ở đâu bay tới gần chỗ tôi rồi ngập ngừng đỗ trên một thân cây đã bị bom phạt gãy. Đưa cặp mắt đen láy nhìn tôi, rồi chú chim bé nhỏ ấy cất tiếng hót trong trẻo. Chú chim hình như muốn nói : "Anh xem, tôi vẫn đẹp, vẫn vui đấy chứ?", rồi cất cánh bay vút lên cao tít, nhẹ nhàng, thanh thản. Ở nhiều nơi, những mầm chuối non đã đâm lên, cái nhọn hoắt, đỏ tía, cái xòe đôi ba lá xanh biêng biếc. Cả một số chồi đu đủ cũng đang nhú lên, và những mầm cỏ non cũng đã trải ra ở đó đây. Từ phía trận địa cao xạ bỗng vẳng lại những tiếng cười giòn như ngô rang của những anh chiến sĩ trẻ nào đó...

Trước khi tôi vượt biển, một lần nữa các chiến sĩ lại nhộn nhịp kéo tới. Anh dặn dò : về Đại hội phải ghi chép kỹ, để khi trở ra, kể lại thật tỉ mỉ cho anh em nghe. Anh vui vẻ nhắc tôi : Khi nào được gặp Bác phải báo cáo thật rõ với Bác rằn g: "Chúng cháu ở Cồn Cỏ kiên quyết thực hiện lời dạy của Bác, cụ thể là trong hoàn cảnh nào cũng đoàn kết cùng nhau tiêu diệt thật nhiều bọn đế quốc xâm lượt Mỹ và bè lũ tay sai, giữ vừng Cồn Cỏ mãi mãi là hòn đảo yêu quý của Tổ quốc". Khẩu đội này nhét cho tôi một túi đầy những mảnh bom Mỹ đủ các loại để về tặng các đồng chí và bà con trên đất liền. Phân đội kia bắt tôi đèo về bằng được một số dụng cụ như thìa, muôi múc canh, kẹp tóc, nhíp nhổ râu, ống khói bếp Hoàng Cầm... mà anh em đã nhặt các đuôi bom bi và ống rốc-két chế tạo ra, cũng để làm quà gửi biếu các nơi. Và hầu như không một đơn vị nào quên các cháu bé. Thôi thì vỏ ốc, mai cua, đuôi đạn... đủ các thứ mà các cháu có thể chơi được, tôi phải cõng tới một ba lô nặng. Những anh chiến sĩ trẻ, tinh nghịch còn ôm lấy tôi "gửi những cái hôn" về cho các bạn thân yêu ở quê nhà.

...Thế rồi, tôi đã đặt chân lên tới đất liền của Tổ quốc với tất cả niềm xúc động đến nghẹn ngào. Mắt tôi đẫm lệ. "Ôi Tổ quốc Việt Nam hùng cường, kiêu hãnh! Ôi mẹ hiền Việt Nam yêu quý!" Tôi muốn reo lên, cúi xuống hôn mảnh đất thiêng liêng mà đã bao ngày qua từ trên bờ đá ngoài kia nhìn vọng về, chỉ thấy một dải mờ xanh với tất cả niềm thương nhớ, tin tưởng.
Tôi bước chân lên tới bờ, cũng là lúc tôi được đắm ngay mình vào biển cả của tình thương yêu nồng nàn chưa từng thấy của Đảng bộ và đồng bào Vĩnh Linh. Muôn ngàn cánh tay đưa ra. Muôn ngàn lời thiết tha âu yếm quấn quít khắp chung quanh, làm cho tôi luôn luôn ngây ngất như say đi trong cái không khí gia đình, trong mối tình đồng chí, và trong cái nghĩa đồng bào. Tất cả chỉ vì một lẽ : chúng tôi là người đại diện của các chiến sĩ ngoài Cồn Cỏ.

*
*    *

Tôi không ngờ lại được gặp Bùi Thanh Phong, Lâm Văn Hiếu và Nguyễn Văn Thiêm ở ngay trên đất Vĩnh Linh. Các đồng chí ấy đã về tới đây từ mấy tuần trước để nghỉ ngơi ít ngày. Mới cách xa có thế, mà tưởng chừng như đã mấy năm trời. Vừa nom thấy, chúng tôi đã reo ầm lên, ôm choàng lấy nhau, nước mắt ứa ra, mừng mừng, rỡ rỡ. Phong vẫn bị ù tai chưa khỏi. Muốn nói chuyện với anh phải dùng bút viết. Lâm Văn Hiếu, Nguyễn Văn Thiêm đã khỏe khoắn như xưa. Đôi môi Hiếu lại đỏ chon chót. Cặp mắt Thiêm lại luôn luôn ngời sáng, tỏa ra một nghị lực và ý chí kiên cường. Hiếu và Thiêm đã ráo riết đề nghị lên cấp trên xin trở ra Cồn Cỏ mặc dầu mấy anh em đang được sống như những người con "cưng" nhất của Đảng bộ và nhân dân Vĩnh Linh. Suốt ngày bà con, cô bác, bạn bè tấp nập tới thăm hỏi, tặng quà bánh. Nghe tin có chiến sĩ Cồn Cỏ trở về, đã có không biết bao nhiêu đơn vị bộ đội, nông trường, cơ quan, xí nghiệp, trường học, hợp tác xã... tranh nhau đến mời đón về chơi để cho anh em, bà con "được biết mặt và chăm sóc cho bõ những ngày gian khổ ở tiền tuyến"...

Thiêm kể lại :
- Chúng tôi không còn biết dùng lời gì để tả lại sự ân cần quý mến vô bờ của cấp trên, của Đảng bộ và bà con cô bác ở đây đối với chúng tôi. Thấy tai Phong bị ù như thế, các mẹ, các chị và các o cứ khóc miết. Anh có biết không, một hôm chúng tôi ra đường chơi, không rõ ai "lộ bí mật" nói cho mọi người biết chúng tôi là người của Cồn Cỏ, thế là trong phút chốc, chúng tôi đã bị vây chặt trong một đám đông không sao đi được nữa, nhiều bác, nhiều bà mẹ cứ ôm chặt lấy chúng tôi, sờ nắn từ mái tóc đến bàn tay, xót xa, âu yếm như mẹ, như cha đối với đàn con nhỏ đi xa trở về. Còn bầy thiếu nhi thì có thể nói, đã yêu chúng tôi đến cuồng nhiệt. Một bữa khác, Phong đi may áo ở một cửa hiệu nhỏ. Khi biết Phong là chiến sĩ Cồn Cỏ, chị thợ may nhất định không lấy tiền công. Chị nói : "Các anh Cồn Cỏ đã cống hiến biết bao nhiêu cho nhân dân, cho đất nước, chúng tôi may giúp anh cái áo phỏng đã có nghĩa lý gì...". Những chuyện tương tự như vậy thực ra kể không biết bao nhiêu cho hết. Chúng tôi đã nói với nhau : "Bọn mình được sung sướng tới cực điểm rồi đó!". Và cũng chính vì thế mà chúng tôi càng tích cực xin trở ra Cồn Cỏ tiếp tục chiến đấu. Ngoài ra, ở đây, hàng ngày mắt trông thấy máy bay Mỹ bắn giết đồng bào, bọn tôi không tài nào chịu nổi. Tay mình đã quen điều khiển khẩu pháo để trừng trị bọn chúng rồi.

Thiêm cho tôi biết tiếp : Thể theo nguyện vọng của mấy anh em, cấp trên đã đồng ý cho Hiếu và anh được trở lại Cồn Cỏ. Riêng Bùi Thanh Phong vẫn phải ở lại đất liền để tiếp tục điều dưỡng. Phong hiện vẫn còn đang "kiện" về vấn đề này rất hăng. Vẫn sôi nổi như xưa, anh thiết tha nói với chính ủy : "Các đồng chí cứ cho tôi ra Cồn Cỏ, tức khắc mọi bệnh sẽ tiêu tan hết ngay!" Nhưng chính ủy chỉ cười và kéo Phong vào sát ngực mình, ôm anh như ôm một chú em yêu quý nhất.
Hiếu và Thiêm đã chuẩn bị xong xuôi, chỉ chờ lệnh là lên đường. Hai anh mang cho tôi xem những đồ hành trang. Tôi phải ngạc nhiên trước cái khối lượng tặng phẩm, quà bánh đồ sộ mà anh em trong cơ quan, bà con địa phương đã tới tấp mang tới cho hai anh. (Đó chỉ là những món quà riêng. Quà chung cho Cồn Cỏ đã để ở một chỗ khác, ở đây không kể tới). Có những o đã chăm chút vót cho hai anh từng bó tăm tre nhỏ tắp, thêu cho các anh những bông hồng rõ tươi có kèm theo những chữ "kỷ niệm" hoặc “lưu luyến” trên góc những chiếc khăn tay còn mới nguyên màu hồ. Một bà mẹ đã gói cho hai anh năm sáu chiếc bánh chưng, mà mỗi cái có lẽ hai người ăn một bữa không hết. Có những cháu bé tặng cho hai anh những quyển sổ tay rất xinh xắn do chính các cháu đóng lấy... Tuy nhiên, giữa những đống tư trang và quà tặng ấy, tôi vẫn thấy có một cây sáo trúc. Lâm Văn Hiếu cười :
- Tôi với nó đi đâu cũng phải có nhau anh ạ! Chuyến này nó lại theo tôi trở ra Cồn Cỏ...
Và anh chiến sĩ trẻ ấy đã giắt cây sáo trúc sau lưng, cùng bạn lại vượt biển ra Cồn Cỏ thật. Hăm hở và vui tươi các chiến sĩ ấy đã lên đường vẫn chẳng khác gì lần đầu tiên được phái ra hòn đảo tiền tiêu nhỏ bé ấy.

Riêng Bùi Thanh Phong vẫn phải ở lại, vẫn phải “giữ trong lòng Đảng và đồng bào” cho tới khi bình phục.
Còn về phần tôi, hướng về Thủ đô, tôi cũng bắt đầu lên đường. Trước khi xe lăn bánh, tôi còn cố ngoái nhìn ra phía Cồn Cỏ. Tuy không nom được rõ nữa, vẫn nghe thấy tiếng máy bay phản lực Mỹ đang quần ngoài ấy cùng với tiếng bom nặng nề theo sóng lan truyền về. Tất cả các trận đỉa, các chiến sĩ thân yêu phút chốc lại như hiện lên đầy đủ trước mắt tôi tưởng chừng như nom thấy rõ mồn một từng đường đạn đỏ chói, thẳng căng của anh em đang đánh lên để lập thêm những chiến công mới gửi tôi đem về dâng Đảng, dâng Bác và làm quà chào mừng Đại hội. Tôi những chỉ mong sao mọi công việc thu xếp được nhanh chóng để có thể sớm trở về. Chiếc xe nhằm thẳng phương Bắc, bắt đầu lao vun vút giữa đôi hàng dương xanh mướt.

Nhưng bên tai tôi vẫn còn như âm vang tiếng sóng, tiếng gió và trước mắt tôi vẫn hiện lên hình ảnh chói lọi của hòn đảo thân yêu : Cồn Cỏ!

10-1965
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #42 vào lúc: 26 Tháng Mười Một, 2008, 10:33:58 am »

HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG

NGÔI SAO TRÊN ĐỈNH PHU VĂN LÂU


I

Mười phút sau khi những quả pháo lớn đầu tiên mang theo những đuôi lửa dài màu da cam giội xuống khu tam giác, mở đầu cuộc tiến công lịch sử của quân Giải phóng vào thành phố Huế, Tụng cũng vừa dẫn mũi tiến đến trước cửa Hữu. Hai ổ trung liên địch từ xóm nhà chi chít hai bên cửa thành bắn chéo góc ra như mưa, đội hình Tụng ùn cả đầu cầu không vào được. Luồn theo bóng tối, Tụng dẫn bốn đồng chí đu người lên, hai bàn tay bám chặt vào thành cầu, lần theo mép cầu vượt sang đầu bên kia,  áp vào cửa thành. Bọn Tụng ném luôn bảy quả thủ pháo về phía hai họng lửa đang lập lòe ở hai bên góc thành, nhưng vẫn không dập tắt được hỏa điểm địch. Vừa lúc ấy, Mác chiếm xong cổng Thủy Quan, cũng vừa triển khai đến. Tiếng Mác gọi từ trên thành cao: “B.40 đâu?”

Tụng cho điều hai cây B.40 đến, bắn bốn quả chéo góc vào hai mục tiêu. Trung liên địch câm họng ngay, nhưng các loại súng khác rải rác từ các nhà vẫn bắn ra chéo chéo. Lúc ấy Mác vừa mở cửa cổng Thủy Quan chiếm mặt thành dẫn tổ triển khai lên vừa đến cửa Hữu. Đứng trên thành, Mác bắc tay hô lớn làm nghi binh : "Sư đoàn Hai tiến vào!". Từ trong kẽ hở của bức thành bị vỡ, một tốp địch nhảy bật ra, chạy tháo vào nhà dân. Mấy thằng ngoan cố còn bám lại bắn rào rào xuống dưới thành. Mác tọng luôn trái thủ pháo vào khe thành, cả bọn chết cháy. Tụng hô xung phong, vừa ôm bộc phá lao tới trước cửa thành thì một tràng tôm-xông và lựu đạn từ một ngôi nhà gần đấy nổ vang rền, quét lên mặt cầu. Rõ đang dẫn mũi chạy qua cầu, vội hô anh em nằm rạp xuống sát hai bên thành cầu. Tụng bỗng thấy chân phải mình tê bại hẳn đi, anh ngã quỵ xuống. Tụng la lớn :
- Tôi bị thương rồi, anh em lên đi.

Ngoài kia, Rõ cũng đã bị thương. Nguyễn Duy Tựa lên thay Rõ, dẫn anh em vừa bắn trả địch vừa lao qua cầu. Khánh cũng đưa mũi mình vượt theo. Đến sát thành, Khánh cho mũi mình tỏa ra hai bên, chồng lên vai nhau trèo lên Thành.
Ổ tôm-xông địch vẫn nổ tạch tạch dai dẳng. Tựa gọi cây B.40 lên, vừa bắn yểm trợ cho đồng chí mình vừa hô lớn : "Bộc phá đâu?". Một trái B.40 nổ ầm, súng địch im hẳn. Ngay lúc ấy, Minh ôm một gói chất nổ nặng hàng chục cân lao như bay đến trước bãi dây thép gai chằng chịt đang bít hẳn cửa Hữu. Minh vốn gầy, lại đang sốt chưa cắt cơn, người còn yếu. Tiếng hô của Tựa lẫn trong tiếng súng nổ rền, trận địa như có một sức mạnh xô Minh lên phía trước. Anh giật lấy khối bộc phá nặng hơn sức vác ngày thường của anh, lao đi như một mũi tên. Một tiếng nổ long trời, những guồng thép gai cự mã bay bổng lên không, bãi thép gai biến mất. Cửa Hữu đã mở. Bộ đội ào ào tràn vào thành.

Vừa ngã xuống, Tụng cố bò ra khỏi trận địa để tránh đạn, đến nằm nép ở dưới chân cầu, lấy băng cá nhân ra băng lại vết thương. Tụng trước đây là nghĩa binh, người Phong Chương, từ nhỏ sống lưu lạc ở Huế, làm nghề mộc. Đến năm mười chín tuổi, Tụng bị bắt đi quân dịch. Ở Quang Trung, Tụng bỏ ngũ về xã tham gia du kích, bám làng đánh giặc ba năm. Tháng mười một năm 1966, địch càn lớn, Tụng bị bắt. Bọn địch ở quận Phong Điền truy tố Tụng về tội "ăn cơm quốc gia, thờ ma Cộng sản" kết án tử hình Tụng. Trước hôm sắp bị chúng đem ra xử bắn, Tụng phá ngục, đưa được mấy đồng chí trong ban lãnh đạo Mặt trận huyện thoát ra luôn, và anh được kết nạp vào hàng ngũ quân Giải phóng, rất được đồng đội quý mến. Trong chiến dịch này, Tụng vừa làm hoa tiêu dẫn đồng đội vào thành, vừa chỉ huy một mũi đánh chiếm Cột Cờ. Bị bắn gãy chân phải, Tụng rất lo không có ai thay mình đưa đường cho anh em. Lúc ấy cửa Hữu đã mở được, Tụng báo cáo với anh Chất :
- Anh cho kiếm xích-lô chở tôi đi để tôi dẫn đường anh em đến Cột Cờ.
Thấy vết thương của Tụng khá nặng, giọng nói Tụng thều thào yếu hẳn đi, anh Chất bảo Tụng yên tâm ở lại đây chờ đưa ra tuyến sau, đồng thời anh ra lệnh cho đồng chí y tá của đơn vị ở lại lo cho Tụng và các thương binh khác. Nhưng Tụng khoát tay, bảo đồng chí y tá :
- Đồng chí đi theo đơn vị đi, đánh nhau còn ác liệt. Anh em vô cửa, rẽ phải, dọc theo thành chạy miết là tới Cột Cờ. Để thương binh ở lại đây với tôi, tôi lo liệu lấy.

Anh em triển khai vào thành. Vào khỏi cửa Hữu, đội hình không còn nguyên như trước nữa. Chất, Khánh, Nguyễn, Tựa, mỗi người dẫn một ít quân, triển khai theo hướng của mình.
Vào thành, chạy dọc theo đường Tôn Thất Thiệp một quãng, Nguyễn Duy Tựa dừng lại ổn định đội hình của mình. Trong tiếng súng ầm vang rung chuyển cả thành phố, Tựa nói với các đồng chí, giọng sang sảng :
- Mũi chúng ta nhận nhiệm vụ đánh chiếm Cột Cờ Huế. Kéo lá cờ mặt trận lên đó là để kêu gọi nhân dân Huế nổi dậy cướp chính quyền, để báo cho cả nước và thế giới biết thành phố Huế đã thuộc về tay nhân dân. Đó là nhiệm vụ vinh quang nhất trong đời bộ đội chúng ta. Chúng ta thề hoàn thành cho kỳ được nhiệm vụ vô cùng trọng đại này. Đội viên hy sinh thì A trưởng xông lên, A trưởng hy sinh thì B trưởng xông lên, còn một người cũng quyết đánh chiếm cho được Cột Cờ. Các đồng chí sẵn sàng chưa?
Dưới ánh pháo sáng, bóng những cây mù u bổ xiên lướt nhanh trên những khuôn mặt đanh lại, chín cánh tay cùng giơ lên, nhiều tiếng thét bật ra cùng một lúc :
- Sẵn sà... àng!

Tựa kéo mũi đi, tất cả rầm rập chạy về phía trước. Thấy trong một căn nhà bên đường có ánh đèn thấp thoáng, Tựa chạy vào, cất tiếng hỏi :
- Cột Cờ Thành-Nội ở đâu, nhờ bà con chỉ hộ.
Ba người đàn bà ngồi sát vào nhau dưới đất, cùng với bảy đứa trẻ con nằm ngồi lổm nhổm dưới một chiếc phản gỗ. Thấy Tựa vào, cả ba chị đưa mắt nhìn nhau, im lặng. Một lát, một chị ẵm đứa con nhỏ trên tay, rụt rè đáp :
- Chị em tui lạ mới tới đây, không biết.
Tựa sốt ruột :
- Chúng tôi là quân Giải phóng, vào giải phóng Huế, chị làm ơn chỉ đường cho chúng tôi kẻo trễ giờ.
Ba chị lại đưa mắt nhìn nhau. Một chị đứng dậy chạy ra ngõ.
- Cột Cờ hướng đó, cách đây cây số thôi.
Nói xong, chị tất tả quay vào nhà.
Tựa dẫn anh em chạy theo hướng chị chỉ. Quá một ngã ba, nghe tiếng kêu ơi ới đằng sau :
- Ơi mấy eng! Đường ni nè, chạy mô ngả nớ!

Tựa quay lại. Chị ôm con hồi nãy đã chạy ra đến đầu ngã ba. Tay trái chị nách đứa bé bên hông, tay phải tóm búi tóc xổ xuống lòng giòng sau lưng, kéo nó nhét vào trong cổ áo. Quần ống cao ống thấp, chị chạy lúp xúp, dẫn anh em chạy theo đường Nguyễn Thiện Thuật. Đến đầu một ngã ba khác, Tựa thấy hai tên lính nguy đội mũ sắt, đạp xe đạp nhong nhong từ đầu xa trờ tới. Thấy bọn Tựa súng ống lô nhô, lại có cả một người đàn bà bồng con đi theo, một tên rà rà xe lại, hỏi :
- Đổi gác rồi hả, còn sớm mà. Súng mô bắn dữ rứa?
Tựa chĩa A.K vào ngực chúng, quát :
- Giơ tay lên! Quân Giải phóng đã vào đổi gác cho chúng mày rồi. Cột Cờ đâu, đưa chúng tao đi ngay.
Hai tên lính ngụy sợ hãi, thả xe đạp cái choảng xuống mặt đường, giơ tay lên, ú ớ :
- Dạ... dạ... xin ông đừng bắn... Chúng em xin đưa đi.
Chúng khai một thằng là chuẩn úy, một thằng là trung sĩ, từ quân vụ đi kiểm tra gác ở các cửa thành.
Lúc ấy, mũi của Khánh cũng vừa chạy tới. Tựa giao tên trung sĩ ngụy cho Khánh, bắt nó dẫn đường vào đánh Đại-Nội. Còn mũi Tựa thì theo tên chuẩn úy tù binh tiến thẳng đến Cột Cờ. Chị bồng con quay về, đi mấy bước chị ngoái lại, dặn với :
- Đánh mau mà ra kẻo sáng rồi, anh nghe!
- Chị về nhé! - Tựa đáp - Chúng tôi đánh rồi ở lại luôn. Sáng thì đánh càng dễ!

Tên chuẩn úy lấm lét nhìn Tựa. Nó dẫn Tựa chạy dọc theo một con đường, hai bên có những cây phượng nhỏ, cành lá lưa thưa. Nhìn trước mắt, Tựa thấy bóng những thành quách lâu đài kiến trúc theo lối cổ hiện ra trong sương. Tên chuẩn úy đưa Tựa rẽ vào một sân cỏ, chỉ về phía trước :
- Cái đài cao, đen đó là Cột Cờ. Bọn lính giữ Cột Cờ ở trong nhà gạch dưới chân thành, gần cây phượng đó.
Tựa nhìn qua vị trí Cột Cờ, rồi anh quay lại quan sát dãy nhà dài mà anh đã để ý ngay khi mới tới. Dãy nhà không tường, bên trong bày chín khẩu pháo lớn thành hai dãy, nòng pháo hướng chênh chếch lên không. Tựa mừng rỡ hỏi dồn tên chuẩn úy :
- Cái gì đây? Trận địa pháo hả?
- Dạ không. Những, khẩu súng thần công hồi xưa đó ạ.
Tựa suýt bật cười. Anh nghiêm mặt lại, quay về phía Cột Cờ, bảo tên chuẩn úy :
- Cậu gọi chúng nó ra đầu hàng đi.
Tên tù binh gãi đầu, ấp úng. Tựa đẩy vào vai nó :
- Nhanh lên!

Tên chuẩn úy "dạ, dạ". Hắn bước đến đứng thu mình sau một gốc phượng lớn, nhô mặt ra khỏi thân cây bắt tay lên miệng làm loa gọi về phía Cột Cờ :
- Ơi anh em binh sĩ giữ Cột Cờ. Quân Giải phóng đã đánh chiếm thành phố Huế. Sĩ quan và binh sĩ sư đoàn Một đã ra hàng. Anh em bảo an, cảnh sát ở Cột Cờ hãy mau mau ra hàng để được sống với vợ con, đừng chống cự lại mà chết uổng mạng.
Vừa gọi xong, hắn thụt đầu ngay vào sau thân cây như sợ bọn kia bắn ra. Bọn địch giữ Cột Cờ vẫn im lặng, chỉ có tiếng nói của tên chuẩn úy dội vang vang vào những vòm cửa Ngọ-Môn.

Để một đồng chí ở lại giữ tù binh, Tựa dẫn một tổ theo cái hồ dẫn nước chạy dọc dưới thành, áp đầu đến trước chân Cột Cờ, trong khi Cường dắt một tổ khác băng qua sân cỏ, tạo một mũi nhọn chọc lên phía trái Cột Cờ. Thấy gọi hàng không có kết quả, Tựa cho thụt một quả B.40 vào căn nhà gạch, và từ bên kia, Cường cũng bắn luôn một quả đạn vào căn nhà. Hai tiếng nổ đánh ầm, ánh lửa xanh chớp lên, chiếc đồn giặc biến thành một đống gạch nát. Tựa cho một đồng chí vào kiểm soát lại mục tiêu, không thấy có xác địch nào, chỉ có một khẩu trung liên bị vùi dưới đống ngói, lấy lên thấy còn dùng được. Có lẽ địch đã chạy lên cố thủ trên Cột Cờ. Tựa để một chốt lại phía dưới phòng địch kéo đến chi viện, rồi anh dẫn đầu các đồng chí chạy lên thành, băng qua những đám cỏ tranh lưa thưa áp đến dưới chân tầng thứ nhất của kỳ đài. Mặt tầng thành này có một vòm cửa tò vò mở ra phía Ngọ-Môn, hai cánh cửa gỗ có khuy sắt này kiên cố khóa chặt, bịt hẳn những bậc thang đi lên cao. Cường ném liên tiếp hai quả thủ pháo vào cánh cửa. Tiếng vôi, gỗ rơi xuống ầm ầm, hai cánh cửa bật tung ra. Tựa tiến vào vòm cửa tò vò, áp sát mép tường nghe ngóng rồi nhảy từng hai bậc một tiến thẳng lên phía trên. Những bậc thang này xây bằng gạch chạy xuyên qua lòng kỳ đài như kiểu một địa đạo, đưa bọn Tựa lên một sân cỏ rộng. Địch núp sau bức thành thấp phía ngoài sông Hương bắn trung liên vào dữ dội, Tựa cúi người thấp xuống, bắn tiểu liên yểm trợ cho một đồng chí khác thụt một quả B.40 vào ổ súng địch đang khạc lửa lập lòe ngoài kia. Ánh lửa tắt ngấm, súng địch cũng im bặt. Còn một tầng thành nữa mới đến chân Cột Cờ. Hai cánh cửa ở đây bỏ ngỏ. Tựa dẫn đồng đội, theo cái hầm thang gác hình bán nguyệt chạy lên phía trên. Miệng hầm mở ra trên một sân cỏ thứ hai. Tựa bước lên sân, đứng thẳng người lên. Trước mặt anh, Cột Cờ hiện ra sừng sững, cao vút chọc lên một bầu trời rộng bao la chấp chới những trái pháo sáng với màu lửa ma-nhê. di-um trắng lạnh. Xen kẽ những vệt khói trắng theo chiều thẳng đứng của phía địch, những đường lửa khác khắp bốn phía từ mặt đất vút lên, chênh chếch trên không, xanh, trắng, vàng, đỏ... đủ các màu. Đó là những pháo hiệu của quân ta báo tin những mục tiêu đã dứt điểm. Không có bóng dáng một tên địch nào ở trên này, chỉ còn lại mấy chiếc ba-lô, mấy tấm vải bạt trải trên sân cỏ, và mớ chăn màn vứt bừa bãi trên mặt đất. Tất cả anh em khác cũng đã kéo lên đứng lố nhố trên sân cỏ vùng dưới chân Cột Cờ. Tựa nhìn vào chiếc đồng hồ dạ quang trên tay, lẩm bẩm “4 giờ 15”.

Nỗi hân hoan của các chiến sĩ vừa hoàn thành nhiệm vụ đã làm cho không khí trên sân cỏ trên cao này rộn rã hẳn lên. Nam và Hải ôm nhau nhảy van. Cường chống hai tay xuống đất, nhào lộn trên sân cỏ mấy vòng.
Với bản tính trầm lặng của một nhà giáo, Tựa chống báng súng trên bờ chiếc thành thấp, nhìn ra sông Hương. Trời còn tối, anh chưa nhìn rõ được dòng sông, chỉ thấy một dải đen dài lấp loáng, những ánh pháo sáng bị nhòe đi trong sương. Mặt thành Huế sáng lờ mờ chạy dọc theo bờ sông, như một con đê. Tựa thấy lòng mình nhẹ nhõm, thoải mái như lúc anh đã cố vượt xong một con dốc thực cao, ngồi nghỉ trên một đỉnh núi bằng phẳng lộng gió. Tựa bỗng thấy thèm thuốc một cách kỳ lạ. Anh mò vào túi áo trên. Bao thuốc bẹp dúm, chỉ còn lại ba điếu. Anh rút một điếu, còn lại ném cho Cường. Điếu thuốc bị ẩm nước lúc anh lội qua sông đốt vất vả mãi mới cháy.

Tiếng Cán thét lên: "Quật mẹ thằng ba que xuống". Như sực nhớ ra điều gì, Tựa cũng buột miệng kêu lên: "Không ai mang cờ theo, lấy gì mà treo lên?" Nói thế, nhưng Tựa biết không phải các đồng chí của anh đã quên mang cờ theo. Với yêu cầu gọn, nhẹ, mũi của Tựa chỉ mang đủ số vũ khí cần thiết để giải quyết trận địa. Lá cờ lớn do một đơn vị khác mang đến sau. Cán nói :
- Cứ kéo đầu thằng ba que xuống cái đã, chốc nữa hẵng hay.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #43 vào lúc: 26 Tháng Mười Một, 2008, 10:36:54 am »

Tựa cho Luận và Cán đứng cảnh giới ở hai góc sân Cột Cờ, Nam cùng một đồng chí khác điều khiển khẩu trung liên ba vừa tịch thu được của địch xuống bố trí trước vòm cửa tò vò ở tầng dưới, còn mấy đồng chí khác xúm lại kéo sợi dây chão hạ lá cờ ba que xuống. Nhưng sợi chão bị cuốn đâu ở trên cao, anh em kéo mãi vẫn không ăn thua gì. Tựa sốt ruột nói :
- Ai biết trèo, trèo lên lôi cổ nó xuống.

Anh em ngước nhìn lên Cột Cờ. Cột Cờ cao ngất, ngửa hẳn mặt lên không vẫn chưa thấy đỉnh, chỉ nghe lá cờ đập gió sàn sạt trên cao như một cánh dơi đi ăn đêm. Anh em lúng túng chưa biết cách nào để trèo lên, thì Tựa cất tiếng nói, khô và đanh :
- Đảng viên đâu?
Cán đang đứng cảnh giới ở đàng xa, đáp :
- Để tôi.
Cán bám những khâu sắt làm sẵn dọc theo trụ cờ, thoăn thoắt trèo lên cao. Anh vừa trèo vừa dừng lại từng chập, quờ tay giật những lá cờ hình tam giác nhỏ đeo trên những sợi dây chung quanh, ném xuống lả tả. Cán vừa trèo lên gần đến cái đài giữa thân Cột Cờ thì nghe tiếng reo ở dưới :
- Được rồi! Được rồi!

Tiếp theo đó, tiếng dây chão bị kéo đi tuồn tuột và bóng lá cờ ba que lướt ngang mặt anh. Khi Cán tuột xuống đến mặt đất thì anh em đang xúm nhau giật lá cờ ra khỏi sợi dây thừng. Nó được làm bằng ny-lông rất chắc, xé mãi không chịu đứt. Cán tức giận, gầm lên :
- Mẹ cái thằng ba que ngoan cố, đến giờ này mày còn chưa chịu buông hả? Này! Này!
Cán hé răng cắn vào biên lá cờ, hai tay nắm chắc sợi dây chão, giật thật mạnh. Lá cờ kêu “soạt” một tiếng thật mạnh. Rồi cứ thế, tiếng “soèn soẹt” kéo dài, the thé như một tiếng rú cất lên trong đêm tối, đuối dần và tắt hơi. Trong phút chốc, chiếc "quốc kỳ An-nam cộng hòa" đã bị giẫm nát dưới những bàn chân mang dép cao-su của các chiến sĩ quân Giải phóng thành phố Huế.

Trời sáng dần. Sương mù xuống trắng cả không gian. Thấy 2 khẩu trọng liên của địch giá sẵn dưới chân Cột Cờ, Tựa đưa bàn chân hất hất vào nó, hỏi tên chuẩn úy ngụy :
- Súng này để đây làm gì?
- Dạ, đó là hai khẩu ca-nông-vanh, để phòng Míc của các ông oanh tạc.
Tựa cười, nhún vai :
- Cần gì Míc với Miếc. Chúng tôi mở cửa thành ra chúng tôi vào chứ.
Tựa chỉ tay sang bên kia sông, bảo nó :
- Cái nhà ba, bốn tầng ở bên kia sông ấy là nhà gì? Ai ở đấy?
Tên chuẩn úy vẫn với giọng lễ phép :
- Dạ, đó là khách sạn Hương-Giang, Mỹ ở.
- À, tốt quá. Cậu quay khẩu súng này bắn vào cái nhà ấy cho tôi.
Tên chuẩn úy vâng lệnh, xoay hướng khẩu súng, lên đạn. Nó loay hoay bóp cò mãi vẫn không nổ. Nét mặt hoảng sợ, nó ấp úng :
- Dạ, thưa anh, hình như súng bị hóc đạn ạ.
Tựa nghĩ thầm, có lẽ thằng này nó không biết bắn.

Tiếng súng trong Đại-Nội vẫn nổ râm ran. Chắc là Khánh gặp khó khăn nên bây giờ vẫn chưa dứt điểm được. Tựa để Nam, Luận, Cán ở lại bảo vệ Cột Cờ và coi giữ tên tù binh, còn anh cùng sáu đồng chí khác đi xuống dưới chân thành để vào cửa Ngọ-Môn. Xuống hết ba tầng thành, anh đứng trên sân cỏ rộng quay lại nhìn. Trong làn sương trắng đục, mênh mông đầy trời, dãy thành cổ lờ mờ hiện ra với những hình khối đồ sộ chồng lên nhau, với cột cờ cao tít, mất hút trong sương. Tựa có cảm giác như toàn bộ kiến trúc đó là một tòa lâu đài cổ tích nằm trên một cái biển nào đó rất xa trong thời gian. Trước khi trận đánh bắt đầu, anh thấy nó như một cái pháo đài bí mật và kiên cố một cách đáng lo ngại. Bây giờ thì cái cảm giác ấy mất hẳn. Một phút thoáng qua rất nhanh, hình ảnh những khẩu súng thần công và những người thanh niên tự vệ Huế hạ cờ quẻ ly xuống kéo cờ đỏ sao vàng lên trên đỉnh Cột Cờ này hiện ra trong trí anh. Tựa lẩm bẩm : "Cái điểm cao này thực ngon lành. Một tổ của chúng tao ở trên ấy thừa sức chọi với hàng đại đội của chúng mày".

Trong chiếc áo ka-ki và chiếc quần cộc, khẩu tiểu liên vác ngay trên vai, với mái tóc bồng bềnh như hồi anh còn là nhà giáo, Tựa đứng nhìn Cột Cờ Huế bằng cái nhìn lặng lẽ mà tha thiết vô ngần, như muốn bao trùm lấy nó. Nhưng chỉ trong một thoáng thôi, anh quay phắt lại, lao mình chạy về phía Đại-Nội.
Mũi của Tựa vừa quay đi thì một đồng chí bộ đội còn rất trẻ từ trên thành chạy nối theo. Đồng chí này trước đây đã được phân công ở lại liên lạc, báo tin đã đánh chiếm được Cột Cờ về chỉ huy sở. Vì chưa nắm được vị trí đóng quân của chỉ huy sở, sợ phải ở lại lâu lỡ mất thời cơ, lòng hăm hở muốn diệt địch, đồng chí đã lặng lẽ nhập vào đoàn tiên phong vào đánh Đại-Nội.

Đúng bảy giờ sáng, tại chỉ huy sở, trước một tấm bản đồ Huế trải vừa kín mặt một chiếc bàn gỗ lớn, anh Bốn đang ngồi nghe báo cáo tình hình qua máy điện thoại, nét mặt chăm chú. Giọng chậm rãi quen thuộc của vị chỉ huy trưởng mặt trận cánh Nam vang lên trong máy :
- ... đã treo cờ lên tòa đại biểu và tòa hành chánh tỉnh ngụy. Chiếm đài phát thanh. Đơn vị X vì lạc đường vào thành phố, đang tiến đánh bót Ngã Sáu. Nhưng chắc chắn ta sẽ giải quyết mục tiêu trong vòng một tiếng đồng hồ nữa. Cơ bản ta làm chủ Khu tam giác. Lực lượng triển khai tốt, bám sát phương án một. Đang tiếp tục đánh chiếm mục tiêu X và Y, có tình hình mới sẽ xin báo cáo sau.

Anh Bốn với tay lấy chiếc bút đỏ khoanh thêm mấy khoanh tròn trên mặt tấm bản đồ, gật gật đầu một mình :
- Tốt lắm. Này M., nhất định thắng chứ?
Tiếng cười sảng khoái của người chỉ huy trưởng mặt trận cánh Nam vang lên từ đầu dây bên kia :
- Báo cáo anh, toàn thắng ắt về ta!
Anh Bốn cũng cười rất tươi, đặt ống điện thoại xuống.

Anh xoa tay, đến đứng trước tấm bản đồ kiểm soát lại tình tình trận đánh trong thành phố. Trên tấm giấy dầu mỏng phủ ngoài mặt tấm bản đồ, ghi chằng chịt những mũi tên lớn và nhỏ chỉ đường tiến quân của các mũi, và những vòng tròn có gạch chữ thập ở giữa đánh dấu những mục tiêu đã đánh chìm được còn lại vài vòng tròng trắng là những mục tiêu quan trọng cần phải đánh chiếm. Cạnh những vòng tròn mang chữ thập có con số ghi giờ mục tiêu bị đánh chiếm : Căn cứ trung đoàn thiết giáp số bảy ngụy, 5 giờ, diệt gọn; cầu Kho Rèn : 6 giờ; cầu Nam giao : 5 giờ; Khách sạn Thuận Hóa, bản doanh Phan Sào Nam : 6 giờ; Cửa An Hòa : 2 giờ 38; Cửa Chánh Tây : 2 giờ 40; Sân bay Tây Lộc, Mang Cá : 6 giờ, làm chủ cơ bản; Cửa Đông B a: 3 giờ 43; Đồn cảnh sát Đông Ba : 5 giờ...

Đầu cán bút trong tay chạy khắp mặt tấm bản đồ Huế. Bỗng nhiên cán bút dừng lại trên một vòng tròn trắng khoanh trên bờ Bắc sông Hương. Đôi mày rậm cau lại, những nếp nhăn nhỏ hiện ra thực sâu giữa hai chân mày, anh đảo đảo cán bút trên mặt bản đồ, lẩm nhẩm : "Mở cửa Hữu lúc 2 giờ 45, chiếm cửa Thượng Tứ 4 giờ. Mãi đến bây giờ vẫn chưa chiếm được Cột Cờ. Lạ thực". Anh ném cán bút xuống bàn, quay máy điện thoại.
- A-lô? Sông Hương đâu?
Có tiếng đáp trong máy điện thoại. Anh Bơn nóng nảy hỏi ngay, anh nói thực to như sợ đầu dây kia không nghe rõ :
- Đã chiếm được Cột Cờ chưa?
Tiếng đáp   :
- Báo cáo anh, có lẽ chưa.
Giọng anh hơi gắt :
- Chưa à? Sao lại có lẽ.
- Ban chỉ huy chưa nhận được tin của mũi ấy báo về. Có thể chưa giải quyết được mục tiêu. Chúng tôi đang cho người đi nắm tình hình.

Một đồng chí mặc binh phục, mang xắc-cốt từ ngoài đi vào đứng nghiêm chào anh Bốn, nói nho nhỏ :
- Báo cáo anh, tôi từ bộ tư lệnh sang.
Anh Bốn ngước lên nhìn, khe khẽ gật đầu, nói tiếp vào ống điện thoại :
- Có tin thông báo tôi ngay. Tôi đợi.
Anh đặt ống nói xuống, quay sang làm việc với đồng chí bộ đội vừa mới đến.

Anh Bốn ở trong ban lãnh đạo Mặt trận giải phóng thành phố Huế. Thuở nhỏ, anh Bốn sống bằng nghề bán báo ở Huế. Năm mười sáu tuổi, anh cùng với một thằng bạn nhỏ hơn đi coi tế Nam Giao. Đứng chen lấn ngoài hàng rào nhìn vô trong đàn Nam Giao, vừa thấy thằng Bảo Đại mặc áo vàng rực rực ngồi chễm chệ trên lưng voi thì anh bị thằng lính tuần sát đến vụt vào lưng một roi đau điếng. Bỗng nhiên trong óc chú bé bán báo nảy ra một ý muốn ngông cuồng phải làm thế nào lật đổ thằng vua này khỏi ngai vàng của nó, mở cửa Đại-Nội cho bà con mỗi ngày làm việc xong chiều chiều vô đó chơi mát. Chú bé bán báo đem chuyện ấy bàn với thằng bạn nhỏ của mình, và hai người bỏ nhà đi từ ngày ấy.

Cái ý muốn “ngông cuồng” ngày nhỏ ấy không ngờ đã biến thành một hoài bão lớn của đời anh Bốn. Trải hơn bốn mươi năm hoạt động cách mạng cùng với một tập thể thừa kế từ lớp người này sang lớp người khác, tâm tư của anh vẫn từng ngày, từng giờ gắn liền với sự nghiệp giải phóng thành phố Huế. Bất cứ ai được dịp gần gũi anh Bốn cũng đều phải ngạc nhiên và cảm phục sự hiểu biết đến độ kỳ dị của anh về thành phố Huế. Anh thích gọi Huế bằng những cái tên thân mật của nó, như xóm Đất Mới, xóm Chỉ, eo Bầy, nghẹo Giăng Xay, Cầu tiệm rượu... như người ta vẫn thích gọi những người thân trong nhà bằng cái tên móc nôi cha mẹ đặt cho hồi còn nhỏ. Và cùng với mỗi tên đường, tên xóm như thế, anh thường nhắc nhớ lại bao nhiêu sự tích của lòng dân, những sự tích cứ sinh sôi nảy nở mãi qua cuộc chiến đấu lâu dài, đã biến thành những sợi máu thắm thiết ràng buộc tâm hồn anh với Huế, ràng buộc tâm hồn Huế với cách mạng. Anh hiểu rõ lai lịch, tính nết của từng thằng địch, hiểu cha nó thích ăn trái vải trạng, anh nó thích nuôi chó béc-giê một cách tường tận khúc nôi như cách anh hiểu tính nết từng con cá trong đầm cần Hai, hiểu hột gạo de trên đồng An Cựu, hiểu các hột sen trong hồ Tịnh nó khác hột sen trong Nội như thế nào. Với tình yêu thiết tha đối với thành phố quê hương nung nấu tâm hồn anh suốt cả đời người, với sự hiểu biết đến độ thấm thía từng hòn đất từng con người ở một tập thể đã gồm nhiều người như anh Bốn, người ta hiểu tại sao bao nhiêu thủ đoạn của thằng địch ở trên đất này, ghê gớm và tàn bạo đến thế, vẫn không ngăn nổi phong trào nhân dân Huế ngày một lớn lên không ngừng.

Bây giờ tóc anh đã hoa râm, và anh được tập thể chỉ định đảm nhiệm chức vụ trưởng ban công kích và khởi nghĩa thành phố Huế.
Cuộc nổi dậy của quần chúng sẽ tạo ra một lực lượng mới, kết hợp với các lực lượng vũ trang, làm nghiêng hẳn cán cân lực lượng về phía cách mạng, đủ sức giành thắng lợi trong chiến dịch này trước gần tám vạn tên địch, trong đó có năm vạn tên Mỹ trên chiến trường Huế, với tất cả vũ khí hiện đại của chúng. Đó là sự khẳng định hết sức sáng suốt và quý báu của tập thể và anh Bốn đang trực tiếp nhận một phần lớn trách nhiệm trước tập thể trong sự triển khai nghị quyết này của thành phố Huế. Gần một tháng nay, anh và các đồng chí lãnh đạo gần như thức luôn trắng đêm để giải quyết hàng đống những khó khăn cao như núi chuẩn bị cho chiến dịch. Những khó khăn càng nhân lên gấp bội khi người ta còn phải chạy đua với thời gian. Nhưng cũng chưa bao giờ niềm tin ở thắng lợi lại vững chãi trong anh như những ngày này.

Những thế kỷ đấu tranh đã đi qua trên thành phố này và đã dựng lên những thành trì vững chãi của truyền thống gấp lại thành những cái nếp của đất từ Nguyễn Huệ đến Cách mạng tháng Tám. Đó là những cái mốc của lịch sử đấu tranh của nhân dân Huế, là cuộc nổi dậy lật đổ Diệm năm 1963, là đồng khởi năm 1964, là phong trào đấu tranh và ly khai năm 1966... Giống như những sóng biển cứ cao mãi dần, đợt sau cao hơn đợt trước, cho đến khi đập vào chân núi Trường Sơn thì vỡ tràn ra. Cái thế của đất đai và thế người trên mảnh đất này đều thể hiện một cách rõ rệt cái quy luật ấy của lịch sử, và đấy chính là niềm tin ở nhân dân vẫn tồn tại trong trái tim của anh Bốn như một nguồn ánh sáng vô tận dù giữa những năm đen tối của thời kỳ thoái trào.

Những tàn bạo của kẻ thù từ giữa năm 1966 trở đi đã làm nảy nở những nhân tố tích cực mới về phía cách mạng. Cuộc chiến tranh bình định vào mùa khô thứ hai của chúng kéo dài mãi đến nay rốt cuộc đã làm dậy lên khắp miền đồng bằng Trị Thiên một câu hát đẹp như một phiến thép hồng cứ rực rỡ mãi trong lửa : Tan nhà nát cửa cũng ừ. Quyết tâm đánh Mỹ cực chừ sướng sau. Và cuộc đàn áp của địch giữa mùa hè năm 1966 chẳng những không làm chùn nổi ý chí đấu tranh của nhân dân Huế, trái lại đã tôi luyện kinh nghiệm đấu tranh của quần chúng thành một bài học hành động vô cùng quý báu : vì cái chủ yếu của kẻ thù là cây súng nên ta cũng phải cầm súng. Chính bài học kinh nghiệm ấy đã đẻ ra những tiếng nổ Nguyễn Văn Trỗi liên tục khắp thành phố, ở đồn cảnh sát Đông Ba, ở nhà bọn ác ôn, ở quân vụ thị trấn, ở 209 Chi Lăng, quán cơm Am Phủ, ở bến tòa Khâm... Rõ ràng là tình thế đã chín muồi cho một cuộc khởi nghĩa vũ trang thành phố, tình thế đang hứa hẹn một bước nhảy vọt mới. Đảng đang duỗi cả hai cánh tay của mình để đón quần chúng lên. Một tay ấn vào cái đòn bẩy để hất tảng đá nặng đè lên lưng quần chúng, và bàn tay kia vẫy gọi nhân dân đứng lên. Quân đội đã đập vỡ cái đầu não kìm kẹp của địch trong thành phố. Bây giờ cần phải giương ngọn cờ cách mạng lên thực cao...
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #44 vào lúc: 26 Tháng Mười Một, 2008, 10:38:49 am »

Đồng chí sĩ quan đã chào anh Bốn ra về. Anh đứng lên quay máy điện thoại.
- A lô! Sông Hương.
Giọng của vị chỉ huy mặt trận cánh Bắc Huế đáp lại trong máy :
- Tôi nghe rõ.
Nét mặt của anh Bốn nghiêm nghị, hơi lạnh, như thể người đối thoại đang đứng trước mặt anh.
- Đồng chí nhận lệnh : tăng cường thêm một mũi lên Cột Cờ, kéo cờ lên bằng bất cứ giá nào!
- Rõ!

Nhận được lệnh, đồng chí Tuyến theo một tiểu đội mạnh mang cờ đi ngay. Đến trước Ngọ-Môn, đơn vị sắp triển khai tiến lên Cột Cờ thì Tuyến nghe có tiếng gọi. Tuyến nhìn lên, thấy các đồng chí đang đứng trên cao vẫy xuống. Lên đến sân Cột Cờ, Tuyến thấy năm, sáu tên cảnh sát dã chiến bị trói gô nằm trong một góc sân. Bọn này do Thuận, Cúc và Sắt bắt trong Đại-Nội đưa lên đây. Mấy đồng chí giữ tù binh đang ngồi tựa lưng vào thành, lau súng bằng những tấm giẻ vàng xé từ lá cờ ba que rách tả tơi ún lại thành một đống lớn trên sân cỏ. Thuận, Cúc và Sắt bê cờ đến buộc vào dây. Lá cờ Mặt trận lớn gần một trăm mét vuông trải ra phủ gần hết khoảng sân cỏ rộng.
Nam đang lúi húi buộc cờ vào dây thừng, chợt có tiếng khàn khàn ở đằng sau :
- Con lạy các ông trăm lạy.

Nam ngoảnh lại. Một tên cảnh sát dã chiến đang cố lê đến gần Nam, run lên bần bật. Nam gắt :
- Cái gì mà lạy với lục?
Tên cảnh sát vừa vập đầu như máy, miệng lắp bắp :
- Con đã vô tay các ông rồi. Con biết con chỉ vì miếng cơm manh áo, không làm chi độc ác, sẽ được các ông khoan hồng. Các ông làm phúc cho con đi nơi khác, kẻo Mỹ nó thấy các ông treo cờ lên, nó đến ném bom thì chúng con chết hết thôi. Con còn một bầy con dại ở nhà... hu hu... hu hu...
Tên cảnh sát bật lên khóc như trẻ con. Nam bật cười hỏi nó :
- Vậy chớ Mỹ nó không sợ chết đồng bào à? Nó không tôn trọng di tích lịch sử à?
- Ôi chao, Mỹ hắn có kể chi chuyện nớ các ông ơi! Mô có các ông là hắn đem bom, đem đạn tới, lính cộng hòa hắn cũng không tha, nói chi đồng bào.
- À ra cái thằng "đồng minh" của các người tốt quá nhỉ! Nó bảo vệ tự do cho các người như thế đấy. Được tôi sẽ cho các người ra khỏi nơi đây. Để các người xem thằng chủ các người nó làm đếch gì được chúng tôi cho biết.

Nghe Nam nói thế, mấy tên tù binh kia vui mừng hớn hở ra nét mặt. Chúng bắt đầu kháo chuyện với tên chuẩn úy :
- Đây đánh, e chỗ khác họ cũng đánh anh hè?
- Đánh tuốt. Nghe nói họ đánh từ đây vô thấu Sài Gòn.
- Ui chao! Điệu ni e họ làm cho bay luôn cả ông Thiệu ông Kỳ có?
Nam để các bạn buộc cờ, anh cùng Cán xách súng đi tuần tiễu. Đến bãi tranh rậm trên mặt thành dưới chân kỳ đài, Nam phát hiện được xác của một tên cảnh sát dã chiến nằm cứng đờ úp mặt xuống đất. Nam khẽ đưa chân hất hất vào mông nó. Nam ngạc nhiên thấy cái mông nó nhổm lên, toàn thân nó gập lại như con sâu đo. Anh chĩa súng vào tên cảnh sát quát lớn :
- Giơ tay lên!
Nó quỳ người lên giữa vạt tranh, hai tay giơ lên đầu.
- Còn thằng nào nữa không?
Nó run rẩy :
- Dạ, còn bốn đứa kia nữa.

Nó vừa nói xong thì từ trong đám tranh, bốn cái đầu khác từ từ ngóc dậy như nấm mọc, đứa nào đứa ấy cúi gầm mặt, da tái ngoét, miệng mếu máo, nước mắt và bùn bê bết cả mặt mũi. Trông chúng thảm hại đến buồn cười. Nam dồn cả năm thằng lại một chỗ, hỏi :
- Súng ống chúng mày để đâu?
Thằng bị bắt đầu tiên, đầu trọc tếu như nhà sư, nhanh nhảu :
- Chúng em vứt ngoài đám tranh, em xin lấy đem nạp.
Nam để Cán bốn thằng kia, anh theo thằng đầu trọc đi lấy súng, có một trung liên ba, một các-bin và ba cực nhanh, tất cả đạn đã lên nòng, ném bừa bãi trong vạt những cây hổ ngươi rậm rạp sát bờ thành. Có lẽ tin rằng mình đã thoát chết, coi bộ tên cảnh sát hớn hở hẳn lên. Nó vừa gãi gãi cái đầu trọc của nó, nói liến thoắng :
- Hồi khuya nghe các anh gọi hàng chúng em không dám chống lại. Tưởng trốn một chập chờ các anh đánh xong rút đi...
Nam bật cười :
- Cậu không ngờ "Việt cộng" đánh xong rồi ở lại luôn hả?
Tên cảnh sát "dạ" thực nhỏ nhẻ. Nó vừa đi vừa kể lể với Nam, nó rất sợ ra trận, phải bán chiếc xe hông-đa đút lót cho thằng thiếu tá trong Mang Cá để được cái chân làm lính giữ Cột Cờ. Nó còn nói thêm là nó biết lái xe, biết chèo đò; Mặt trận cần gì nó xin làm hết mình đái công chuộc tội...

Nam gộp tất cả bọn tù binh lại giao cho Cán dẫn chúng qua giữ tạm dưới cửa Ngọ Môn. Khi anh trở lại trên đài thì Thuận, Cúc và Sắt đang kéo lá cờ lên. Vừa lên cao được gần mười mét, lá cờ đã bung ra, bay phần phật trong gió. Gặp gió, nó trở nên khỏe lạ thường, sức của nó như một con đại bàng vỗ cánh, muốn kéo băng cả sợi dây chão to bay theo nó. Sắt giữ một đầu dây, còn Thuận và Cúc thì rút đầu dây bên kia để kéo lá cờ lên cao. Sáu cánh tay trần nổi vồng những bắp thịt níu vào hai đầu sợi dây chão lớn, ba cái lưng phơi gập xuống trên những cái chân co lại và duỗi ra trong thế triển khai toàn bộ sức mạnh của cơ thể, trông họ giống như những người đi biển đang giương cánh buồm của một con thuyền bắt đầu ra khơi.
Ngọn cờ đã kéo lên đến đỉnh cột. Trên tầng trời cao sương đã tan. Lá cờ Mặt trận vĩ đại bay trên nền trời trong xanh của mùa xuân, màu xanh bao la của hy vọng kết liền với màu đỏ tươi của máu và giữa lòng nó, năm cánh sao vàng như một bàn tay từ trong thăm thẳm của hàng nghìn năm lịch sử xòe ra, vẫy gọi Huế đứng lên. Lúc ấy là tám giờ mười lăm phút ngày ba mươi mốt tháng Giêng năm một nghìn chín trăm sáu mươi tám.


II

Viết đến đây, bỗng nhiên tôi thấy mình bất lực trong một niềm mơ ước kỳ lạ. Tôi ước có được một chiếc ống kính vạn năng có thể thu được chừng hai chục vạn hình ảnh con người trong một lúc ở khắp cả mọi hướng, ống kính ấy không những chỉ thu được những nét mặt mà còn soi chiếu vào tận chỗ sâu thẳm nhất của tâm hồn : không những chỉ thu tiếng động mà còn bắt được tần số của nhũng tiếng nói im lặng, và ống kính ấy không những chỉ ghi được những gì đang diễn ra trước nó, mà đằng sau cái hiện thực ấy, nó còn tái hiện được cả một quá khứ dài chừng hai mươi năm. Tôi sẽ đặt chiếc ống kính mầu nhiệm của tôi trên một điểm cao nào đó, thí dụ trên đỉnh cây thu lôi của Cột Cờ Phu Văn Lâu và tôi sẽ mở hết khẩu độ của ống kính chiếu xuống thành phố Huế đúng vào lúc mà bởi một sự tình cờ nào đó rất kỳ diệu, một đàn chim bồ câu bỗng từ phía Gia Hội bay qua trên đỉnh Cột Cờ, nghiêng cánh trắng lượn vòng quanh lá cờ sao vừa được ba chiến sĩ quân Giải phóng kéo lên trên bầu trời thành phố. Những hình ảnh mà ống kính giả tưởng của tôi thu được trong phút ấy, đem chiếu lên tấm phông lịch sử của miền Nam những ngày tấn công và nổi dậy đầu xuân Mậu Thân, tôi hy vọng có thể diễn tả được trạng thái tâm hồn của Huế khi lần đầu tiên nhìn thấy lá cờ Mặt trận bay trên đỉnh Phu Văn Lâu. Trạng thái tâm hồn ấy, xin phép bạn đọc thân mến, tôi gọi tên nó là "Huế Phục Sinh".
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #45 vào lúc: 26 Tháng Mười Một, 2008, 10:41:22 am »

Những ngày đen tối nhất đã vội vã ập đến với Huế, ngay sau khi hòa bình lập lại. Vốn gờm mặt một nhân dân đã từng nổi dậy đạp đổ cả một ngai vàng, để củng cố triều đại mới của hắn, thằng Diệm đã ra sức xây dựng đất cố đô này lại thành một thứ ấp chiến lược kiểu mẫu của những thành phố miền Nam. Dưới nhãn hiệu "tố cộng", những chiến dịch giết người kéo dài từ năm này sang năm khác, thực hiện ý đồ thâm độc của Mỹ Diệm muốn tiêu diệt sạch những mầm mống cách mạng trên mảnh đất kiên cường này, dập tắt hẳn trong tâm hồn dân Huế ánh phản chiếu huy hoàng của Cách mạng tháng Tám. Huế những ngày ấy là vòng đai của những trại tập trung thít chặt lấy ngoại ô, ở đó bọn ác ôn phục thù bất cứ lúc nào cũng có thể cầm dùi cui đập vỡ óc một người nông dân để moi cho ra một chút "tư tưởng cộng sản" còn bám lại trong đó, giẫm gót giầy lên bụng một phụ nữ có thai để làm phọt ra ngoài một giọt máu cộng sản còn đọng lại trong đó... Những trang sử oán thù của Huế còn nối dài mãi lên bằng nỗi u uất chồng chất lâu đời của những ngôi chùa bị xiềng bằng dây thép gai của chính sách kỳ dị và đàn áp tôn giáo, bằng cơn ngột ngạt oi bức của những người tri thức mà tư tưởng bị truy bức từng ngày từng giờ bởi móng vuốt của một con thú phát xít mới mệnh danh là "Chủ nghĩa cần lao nhân vị", bằng nỗi đau đớn của từng lớp thanh niên ưu tú lớn lên đã bị tước đoạt mất quyền cống hiến cho đất nước và cuộc đời để khoác áo thập tự quân cầm súng cho bạo chúa. Mãi sau ngày bọn Ngô triều bị lật đổ, cái ấn tượng ghê tởm đối với chế độ nguy quyền do chúng nó xây dựng nên vẫn còn ăn sâu trong tâm hồn người Huế, không gì có thể bôi xóa đi được, giống như vết máu đọng lại chiếc chìa khóa mở cửa tòa lâu đài tội ác của con yêu Râu xanh trong truyện cổ tích.

Cuộc sống của Huế không dễ thở gì hơn sau ngày bọn bạo chúa họ Ngô bị giết chết. Có chăng, bom đạn Mỹ đổ lên bến Tòa Khâm ngày càng nhiều hơn, lính Mỹ ngày càng kéo vào phố đông hơn, với bộ dáng chủ nhân ông ra mặt. Có chăng, những cuộc đấu tranh của nhân dân Huế càng bị đàn áp một cách tàn bạo hơn, nạn bắt lính ngày càng dồn dập và trắng trợn, con trai trong nhà chưa kịp lớn đã bị lôi vào trại nhập ngũ, trong khi đó tiếng ca-nông, bom và B52 ngày càng nổ gần, làm rung cửa phòng ngủ của từng nhà. Thành phố cổ kính thơ mộng xưa ngày một bệ rạc, xơ xác vì chất Mỹ. Cuộc sống cứ từng ngày trôi qua trong mòn mỏi, vô vọng, và những mơ ước tươi đẹp về hạnh phúc, niềm hy vọng về con cái, niềm khao khát về hòa bình và cơm áo, về tự do và nhân phẩm cứ héo hắt mãi trong tâm hồn con người, như một đám lửa tàn lụi trong nắng hạn, không hy vọng gì còn làm ra được mùa màng. Mười lăm năm dồn lại cái đau của cuộc sống trong lòng người Huế vẫn còn mới rợi như ngày hôm qua...

Và bỗng nhiên, 8 giờ 15 ngày 31 tháng Giêng năm 1968, lần đầu tiên trong lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ngọn cờ Giải phóng được kéo lên trên đỉnh cột cờ Phu Văn Lâu.
Ngày tự do đầu tiên chợt đến, như bởi một phép lạ không ai ngờ.
Hàng vạn nhân dân Huế đã đổ xô ra, giành những chỗ đứng thuận lợi nhất để nhìn về Cột Cờ. Những gia đình xúm xít sau những ô cửa sổ trên lầu cao. Người dưới vạn đò kéo nhau lên đứng dàn hàng trên bờ sông. Những dãy phố đã biến thành những tầng người dưới thấp, trên cao, xếp thành những tầng dài lố nhố thẳng tắp như đêm nào dân Huế xếp hàng xem quân Giải phóng đánh vào khách sạn Hương Giang. Và trên mặt thành, trên lầu chuông những cửa ô, dân phố chen chúc nhau đứng nhìn về Cột Cờ đông đến nỗi để đề phòng pháo địch, các anh bộ đội Giải phóng phải chia họ ra từng nhóm nhỏ, luân phiên nhau nhìn cờ Mặt trận từ sáng cho đến mãi quá trưa.

Những nguyện vọng tha thiết về hòa bình, độc lập niềm mong mỏi được gặp lại những người thân yêu đã vắng từ lâu, tình cảm thiêng liêng hướng về Mặt trận dân tộc giải phóng, những kỷ niệm huy hoàng của ngày khởi nghĩa cướp chính quyền năm xưa. Tất cả những trình tự trăm nỗi vẫn xao xuyến trong lòng người dân Huế từ hàng chục năm trời nay, giữa buổi sáng đầu xuân này bỗng nhiên hiện thân một cách gần gũi vô cùng trên lá cờ Mặt trận phấp phới trên trời thành phố Huế như cô Tấm trong truyện đời xưa, sáng dậy bỗng thấy những ước mơ của mình trong giấc ngủ đêm qua hiện thành sự thực, khoác áo mới thênh thênh bước vào ngày hội lớn của cuộc đời.

*
*    *

Trong nỗi náo nức mới đang dậy lên trong từng căn nhà xóm Thượng Thành cửa Đông Ba, chị đứng dưới hàng thầu đâu (1) sau sân nhà, yên lặng ngắm lá cờ. Đằng xa tít, vượt lên trên những mái nhà và những vòm lá xanh, lá cờ chênh chếch theo hướng gió đông bắc, mặt lá cờ uốn cong lên rồi trải rộng ra từng đợt đều đặn như một mảng sóng rực rỡ lượn giữa nền trời quang đãng.

Chị nhớ lại lần đầu tiên chị nhìn thấy lá cờ Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam, vào một ngày đầu xuân như thế này, năm 1961. Đêm ấy hai chị em đóng chặt cửa buồng, đốt nến để nhìn cho kỹ lá cờ, như Vịnh thường đăm đăm nhìn thực lâu khuôn mặt của mẹ sau những năm đi xa về thăm nhà. Chị hỏi Vịnh về ý nghĩa của màu xanh da trời trên lá cờ. Vịnh nói : “Màu xanh là miền Nam, miền Nam đang đấu tranh và hy vọng”. Tai chị như nghe rõ tiếng chân bọn ác ôn đi lại rầm rập ngoài đường, mắt chị như nhìn thấy hình ảnh Ánh ngã gục trước họng súng của bọn đao phủ, và trong trí chị lại hiện ra hình ảnh làng Đông Bàn quê ngoại, vẫn đứng hiên ngang bên bờ sông Thu Bồn, dưới móng vuốt đẫm máu của bọn Mỹ, Diệm phục thù. Ánh bị bắt một tuần lễ trước ngày hẹn cưới chị, và mấy tháng sau Ánh bị bọn Mỹ, Diệm bắn chết trong trại giam. Mẹ đi mua đồ cưới cho con gái về, nghe tin ấy, mẹ ngồi khóc rấm rứt. Mẹ nói : “Bọn hắn hung ác như con thuồng luồng trên cạn”. Rồi từ đó, những lúc quét cái nhà, sẩy mớ gạo, mẹ cứ lụm cụm vừa hát về Thạch Sanh một mình : “Đờn kêu tích tịch tình tang. Ai đem công chúa lên hang mà về”'. Chị không biết mong ai, nhưng sao trong chị, nỗi mong đợi cứ dài ngun ngút theo tiếng hát của mẹ. Bây giờ thì bài vè của lịch sử đang kể đến chuyện chàng dũng sĩ hiện ra ở phương Nam, sau lưng chàng trùng trùng người đang cầm gươm ôm súng xông tới. “Miền Nam đang đấu tranh và hy vọng”. Tiếng nói của Vịnh lạ hẳn đi, như rất gần mà cũng lại rất xa, như thể là Vịnh đang cúi xuống nói vào lòng một cái giếng sâu thẳm nào đó trong tâm hồn chị, và chị nghe như chính lòng mình cất tiếng vang. Một năm sau, móng vuốt của con thú phát xít đã vồ đến người thân yêu thứ hai của đời chị. Vịnh đã quắc mắt nhìn cái bản án tử hình của thằng Diệm giống như cảnh Pa-ven Vlaxốp đã nhìn bọn quan tòa của Sa Hoàng. Không bao giờ chị quên được ánh sáng kỳ lạ tỏa ra từ đôi mắt đứa em trai yêu quý của chị khi Vịnh nhìn cái chết. Chị thấy nó giống như ánh mặt trời đúng ngọ phản chiếu trên hai mặt hồ trong suốt. Cái nhìn ấy khi quay về phía chị, nó dừng lại trên khuôn mặt chị, và trong khoảnh khắc vô cùng im lặng ấy, hình như nó truyền đến tai chị tiếng nói nghiêm nghị của Vịnh : “Chị đừng khóc, em không chết đâu”. Lòng chị tự nhiên ổn định hẳn lại. Chị thấy rõ ràng rằng bọn đao phủ không thể nào cướp mất hoàn toàn em trai chị. Có một phần nào đó thân thiết nhất trong sự sống của Vịnh không bao giờ bị tiêu diệt, nó mãi mãi thuộc về chị, sẽ luôn luôn có mặt với chị với mẹ và với đồng bào trong những cuộc đấu tranh. Mắt ráo hoảnh nhìn kẻ thù, chị bước vào giữa cơn bão căm hờn của nhân dân. Từ năm 1963 trở đi, năm nào gần đến ngày 20 tháng Chạp, chị lại thức đêm để may cờ, gói vào giấy báo trao vội vã cho những đứa em trai của chị vào những lúc chập choạng tối. Để rồi sáng hôm sau, đúng vào ngày kỷ niệm thành lập Mặt trận, bà con lại được nhìn thấy những lá cờ xanh đỏ bay phấp phới khắp thành phố. Cờ bay trên cửa Thượng Tứ, trên đỉnh cột cờ những trường học, trên ngọn cây ở ngã ba đường; cờ treo trên cột điện ở đầu cầu Kho Rèn, cầu ga, ngay trên đỉnh cột cờ đồn cảnh sát Phú Hội, và một lá cờ Mặt trận lớn phấp phới trên đỉnh núi Ngự Bình, đường bệ vẫy gọi... Những đứa em trai đi cắm cờ của chị lớn dần lên cùng với phong trào, mang cái dáng dấp ngang tàng của Vịnh ngày trước. Lư, Khoa, Hà... thoát ly, những Đồng, những Nguyệt vào lao Thừa Phủ, những Tần, Na, Tị, Truyền... đi đảo. Nhưng cờ Mặt trận mỗi năm lại xuất hiện nhiều hơn trong thành phố cắm ngay trên đỉnh trán kẻ thù.

Chị đứng dưới hàng thầu đâu sau sân nhà, yên lặng ngắm lá. Những cây thầu đâu này mẹ trồng từ hồi hòa bình mới lập lại, mẹ nói để hai năm nữa thống nhất, nó lên mát sân, mát nhà đón anh Sừ đi tập kết về.
Nghĩ đến mẹ, chị bỗng thấy thương mẹ vô cùng. Ba năm chị xa nhà, mẹ vô ra một mình một bóng trong căn nhà này. Những ngày mùa đông, mẹ trùm kín đầu bằng cái khăn nhung đen cũ đã rụng hết tuyết ấy ngồi lặng lẽ hàng giờ sau cái quán hàng xén nhỏ bày trước hiên nhà. Hẳn là ít người thân thích còn lui tới nhà mẹ, có chăng thỉnh thoảng một chú bé hàng xóm chạy tạt vào chìa ra một đồng mua vài cái bánh, hoặc một bác công nhân xích lô, vận tải ghé vào quán uống một ly rượu trắng, nói năm ba chuyện bâng quơ kín đáo an ủi mẹ một vài câu rồi đi. Những lúc ấy chị biết lòng mẹ trăm mối tơ vò. Mẹ thương cha bị Tây bắn chết trên đèo Hải Vân, thương thằng Vịnh bị đưa ra ngoài đảo không biết mất còn, thương thằng Ánh bị bắn chết trong tù, nhớ thằng Sừ ở ngoài Bắc, nhớ con Mai đi kháng chiến xa nhà, mẹ nhớ cả tiếng kêu xành xạch mệt nhọc của chiếc máy may già cũ trong những ngày chị còn ở nhà may áo thuê nuôi gia đình. Những ngày mùa đông dài dằng dặc ấy, hàng cây thầu đâu đã trụi hết lá chĩa những cành khô nhằng nhịt trên sân nhà. Bầy chim chuốc mào ăn trái thầu đâu chín suốt cả mùa hè, nhớ cây nên tạt ngang qua đó đậu nặng trĩu trên những ngọn mềm, ướt rũ và im lặng như những chùm trái khô. Có lần ở trên rừng chị nhận được thư mẹ, lời mẹ chị nhớ như in : "... Con Ty chị nay đã bận bịu tay bồng tay dắt, con Ty em thì ăn chưa no lo chưa tới. Cả nhà nay chỉ còn mình mi khôn lớn, bay nhảy được với chị, với em. Cực khổ mấy mạ chịu cũng được, miễn răng mi cố gắng theo cách mạng để trả thù cho cha mi, cho thằng Ánh, cho thằng Vịnh. Hết cơn bĩ cực tới tuần thái lai, hết giặc mạ con lại gặp nhau lo chi..."

------------------------------------------------------
(1) Cây xoan.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #46 vào lúc: 26 Tháng Mười Một, 2008, 10:44:52 am »

Sáng nay, như trong một giấc mơ, chị trở về gặp  lại mẹ đứng nhìn cờ lên dưới hàng cây này.
Ba năm qua chị xa nhà, hàng thầu đâu không cao thêm, nhưng đã trổ thêm nhiều cành mới, tỏa ra che kín cả mái nhà. Trên những thân cây to khỏe, vỏ cây nứt thành những đường sóng chi chít như cây kiền kiền trên rừng và từ những đường nứt ấy, nhựa mới trào ra từng dòng trắng nõn như bột lọc. Lá chưa rậm như mùa hè, chỉ mới xòe ra thành từng chòm lổ đổ trên cành. Nhưng cái màu lục của nó trông mới tinh khôi, tươi trẻ một cách kỳ lạ khiến chị nghĩ đến một sắc áo ngày Tết. Và dọc theo những cành cây màu nâu bóng lấm tấm những chấm vàng như da lươn, những chùm hoa thầu đâu trắng phơn phớt tím đã nở sum suê thơm ngát cả khu sân. Cái mùi hương kỳ dị của hoa thầu đâu, nó nồng nàn đến độ như thấm vào từng tế bào của trí nhớ, khiến cho những buổi hoàng hôn ngày xưa, nghe thấy nó là chị cứ nghĩ đến những người vắng mặt trong căn nhà này và bây giờ thì nó chợt đánh thức dậy tất cả những gì đang lắng xuống sâu nhất trong tâm hồn chị.

Trong bộ quần áo bà ba bằng lụa đen, lấm tấm những vết bùn trên đường hành quân, với chiếc băng đỏ vòng trên cánh tay và khẩu Walter trên thắt lưng, khuôn mặt chị bỗng hồng hào trở lại, có lẽ còn trẻ hơn ba năm trước đây khi chị bước khỏi căn nhà này. Cái dĩ vãng đầy những lo âu, nặng nhọc như mùa đông trên hàng thầu đâu này bỗng như tiêu tan hẳn trong căn nhà thân yêu của chị, và chị nghe thấy trong tâm hồn một cái gì đang rạo rực sống lại.

Căn nhà hiu quạnh bấy lâu bây giờ trở thành trung tâm của cả xóm, đầy tiếng nói cười. Cờ Mặt trận mọc lên san sát phấp phới đầy cả khu xóm Thượng Thành này, những cánh sao vàng chen chúc trước những hiên nhà, nở rộ như hoa mai. Đàng xa, lá cờ Mặt trận vẫn bay phơi phới trên bầu trời thành phố, hào sảng như một người tráng sĩ xưa giật cương cho vó ngựa chồm cao lên giữa trận địa. Từ đỉnh núi ấy chị như nghe lá cờ cất lên một tiếng gọi mãnh liệt đến nỗi chị thấy háo hức muốn băng qua mặt thành chạy thực nhanh để đến đứng dưới cái bóng hùng tráng của nó.

Bỗng nhiên, những mơ ước nuôi nấng suốt cả một tuổi trẻ đầy dông bão, những hy vọng về cuộc đời đã đâm chồi giữa những tháng năm dài làm ăn vất vả trong căn nhà này, những giấc mơ đêm xuân, những hứa hẹn thầm lặng của chị với những người đã chết, tất cả những thứ ấy vút lên, kết tinh vào giữa ngôi sao trên đỉnh Cột Cờ Phu Văn Lâu. Có cái gì đấy khẽ động vào trái tim chị như một tình yêu sống lại và hai giọt nước mắt trong veo không ngờ bỗng trào ra khóe mi, lăn tròn trên khuôn mặt đang phảng phất nét cười vui của chị.

Chị tên là Lê Thị Mai, người con gái Huế bị địch bắt đầy lên trại giam Ba Làng ba năm trước, đã vượt ngục trở về, hôm nay đang có mặt trong cuộc khởi nghĩa của nhân dân Huế.

Đơn vị đã bố trí xong trận địa chung quanh Cột Cờ. Khẩu đội phòng không của Việt đóng ngay dưới chân Cột Cờ. Khẩu đại liên giá trên mặt đất, sát ngay miệng một chiến hào đào hình chữ L, dùng làm chỗ đứng cho xạ thủ. Bầu trời vẫn bình yên, chưa thấy địch phản ứng gì. Việt ngồi bệt trên sân cỏ, day mặt nhìn ra ngoài sông. Mặt trời đã lên cao, sương mù tan hẳn. Sông Hương xanh biếc, êm đềm như một tấm lụa chảy lòn qua dưới sáu vài (1) cầu trắng, màu dụ bạc phản chiếu ánh nắng chấp chóa. Bên kia sông, những đám lá xanh đậm nhạt khác nhau, màu đỏ và trắng của những tường vôi, những đường gãy khúc rất sắc của những mái ngói đỉnh nhà thờ nhọn vút tất cả hiện ra thực rõ nét dưới ánh nắng trong ngần, Việt có cảm tưởng như thành phố vừa qua một cơn mưa. Trên những tòa nhà đồ sộ có lẽ là những cơ quan ngụy quyền, Việt nhìn thấy rõ những chấm sao vàng lay động trên những vệt đỏ của cờ Mặt trận và cờ Liên minh, thấy rõ cả những cái bóng ung dung của những toán bộ đội đi lại dưới những hàng cây xanh. Lẩn trong tiếng súng cối và súng con vang lại từ một vài khu vực nào đó trong thành phố, Việt còn nghe rõ cả tiếng còi xe "toe toe" âm vang trên mặt sông, tiếng trẻ em reo cười từ xóm Tỳ-Bà-Trang ở gần cột cờ hòa với tiếng thùng sắt tây, tiếng phèng la truyền từ xóm này qua xóm khác trong Thành-Nội.

Một lúc sau, nhân dân ở các xóm cửa Ngăn và Tỳ-Bà-Trang trên Thượng Thành đã kéo đến đứng lố nhố dưới chân Cột Cờ. Những người đàn ông khẽ cúi đầu chào bọn Việt bằng mấy tiếng “chào các ông” rồi yên lặng đứng ngắm lá cờ. Các mẹ mang theo những bình tích nước, những đĩa mứt gừng và hạt dưa đến mời từng người trong bọn Việt, hỏi han và hình như mẹ nào cũng tỏ vẻ ngạc nhiên về sức khỏe của các chiến sĩ quân Giải phóng bằng những câu tương tự : "Nhờ ơn trời phật, hồng hào mập mạnh cả, có đến nỗi chi". Một cháu bé bụ bẫm mặc áo hoa mang giày đỏ, đút ngón tay vào miệng, mở mắt thao láo đứng nhìn các chú bộ đội. Mẹ nó đứng cạnh, bảo :
- Con vòng tay thưa mấy chú đi con.

Đứa bé rụt rè ngoẹo đầu nhìn mẹ nó, nhưng khi Nhật vẫy tay gọi nó, nó nhoẻn miệng cười chạy đến sà vào lòng Nhật. Một bà mẹ mặc áo dài màu khói hương, đầu tóc hoa râm, đến ngồi bên cạnh Việt. Bằng cử chỉ thân thiết tự nhiên như đã quen thân từ lâu, mẹ sờ nắn trên vai, trên tay Việt, giọng mẹ run run :
- Trời ơi! Người ta ra ri mà bọn hắn cứ nói ở côi núi, ăn đá ăn lá, xanh xao vàng vọt.
Mẹ để yên bàn tay mẹ trên tay Việt, thỉnh thoảng mẹ nhìn thoáng khuôn mặt của Việt rồi ngó đi nơi khác. Khi Việt nhìn lại mẹ, Việt thấy mẹ không khóc thành tiếng, nhìn nước mắt mẹ ràn rụa. Việt bối rối mãi. Anh cười thực to để giấu sự xúc động của mình :
- Chúng con khỏe như trâu cả, mẹ ạ.
Mẹ gật đầu “ừ, ừ, bác mừng” rồi kéo vạt áo chùi nước mắt. Giữa lúc ấy, một cậu thanh niên mặc áo len xù nước da trắng, quần chật ống, mang giày không bít tất từ từ đi đến phía Việt. Cậu chỉ vào khẩu đại liên, hỏi Việt :
- Cái này để bắn tàu, hả anh?
Việt đáp :
- Bắn cả dưới sông lẫn trên bộ, nhưng chủ yếu là bắn trên này.
Việt vừa nói, vừa đưa tay chỉ lên bầu trời Cột Cờ. Cậu thanh niên "a" một tiếng ngạc nhiên. Rồi cậu quay lại vẫy mấy cậu bạn khác đang xúm xít chung quanh chỗ Ký và Hải đang lúi húi chữa lại hai khẩu ca-nông 20 ly vừa lấy được của địch :
- Ê súng phòng không tụi bây ơi!
Cả bốn, năm cậu chạy ùa đến. Cậu mặc áo len xù chỉ vào hai khẩu súng đồng đặt dưới chân Cột Cờ, liến thoắng :
- Mỗi buổi sáng, bọn lính ở đây đun ngòi vô đít cái ống đồng này, đổ vào đó một lon thuốc súng rồi nhét rơm vô, đóng chặt lại. Đúng 8 giờ chúng châm ngòi. Súng nổ cái ành, tàn rơm bay xấp xới trên không, thế là cờ ba sọc tà tà lên. Tụi cảnh sát dã chiến ở đây mỗi ngày chỉ làm có việc ấy, cuối tháng lãnh lương đều đều.

Bà mẹ mặc áo lam ngồi cạnh Việt tiếp lời :
- Bọn lính giữ Cột Cờ đông lắm. Ăn rồi đánh bạc chửi nhau rầm rầm suốt cả ngày. Có đêm tụi hắn còn chở mấy con đĩ dưới cửa Sập lên chơi bời với nhau dưới chân Cột Cờ này. Có thằng thượng sĩ Chính ác ôn hết chỗ nói. Mới thượng sĩ mà hắn đánh thằng trung sĩ Vui bể mặt. Thằng Minh, lính lôi hổ Chợ- Lớn, đánh bạc ăn hắn, hắn cũng rút dao đòi đâm..
Mẹ ngừng một lát, rồi tiếp :
- Hồi thằng Diệm bị đảo chánh, con Theo nhà tui không chịu treo cờ ba que trước nhà, thằng Chính đánh con Theo một bạt tai xững vững. Bà con trong xóm Cột Cờ đi biểu tình tranh đấu, hắn nói "ở dưới cờ quốc gia mà đi thờ ma cộng sản", ngăm nghe đòi bắt bỏ tù cả xóm.

Sực nhớ lại mấy thằng cảnh sát dã chiến bị bắt hồi sáng, Việt quay sang hỏi Vinh :
- Anh Vĩnh à, năm thằng bị bắt hồi sáng đó, có thằng vlào là thằng Chính không?
Bà mẹ ngắt lời :
- Không có mô. Hắn về nhà ăn Tết từ bữa hăm bảy, hăm tám tê lận. Nhà hắn ở bên Phủ Cam. Hắn chạy luộc chuyến ni, nghĩ thiệt uổng.
Một cô gái hiện ra trước miệng hầm cầu thang trên sân cỏ. Cô gái dáng nhỏ nhắn, nước da trắng hồng, mặc áo sơ-mi xanh da trời, ngoài choàng một chiếc áo len đen hơi rộng, tay xách một cái giỏ bằng nhựa. Cô dừng lại trước vòm cửa tò vò, khẽ hất đầu đưa mớ tóc ra sau vai, nhìn quanh rồi đi thẳng đến phía Việt. Cô gái đặt chiếc giỏ nhựa xuống, lấy một bình nước và mấy đĩa bánh tét đến đặt trước mặt bà mẹ, xong cô quay đi. Bà mẹ cất tiếng gọi :
- Theo à, Theo... Mời các anh ăn bánh uống nước, răng lại bỏ đi. Con cái lạ tề!

Cô gái quay lại, bưng đĩa bánh đến trước mặt Nhật và Việt, mắt vẫn cúi nhìn xuống, khe khẽ nói :
- Dạ, mời mấy anh thời bánh.
Việt cầm chiếc đũa xóc một lát bánh tết, bắt chước giọng Huế nói trọ trẹ :
- O Theo ở nhà mần chi, đi học à?
Cô gái thoáng mỉm cười, "dạ" một tiếng nho nhỏ rồi quay đi, mang mấy đĩa bánh sang chỗ Vĩnh và Hải. Mấy người đàn ông vây lại chung quanh Vĩnh và Hải, nói cười râm ran. Việt nghe hình như họ đang nói chuyện về thời tiết. Một ông cụ mặc áo dài đen, một tay cầm quạt che nắng, tay kia vuốt chòm râu bạc lưa thưa, phong thái ung dung. Giọng ông cụ dần dần nổi lên giữa câu chuyện :
- Chuyện này lạ lắm chớ phải chơi đâu. Tôi ở Huế bốn chục năm nay chưa hề thấy có cái mù lạ lùng như sáng ni. Đời thủa mô mới chiều bữa qua trời còn trong vắt qua một đêm trời đổ xuống sa mù, mù đặc ba bước không thấy mặt người, đến chín mười giờ mà chưa tan. Có vậy, thiên binh vạn mã người ta kéo vô thấu Huế mà bọn hắn có mắt như đui, Mặt trận người ta lấy cả cái đất kinh đô này như lật bàn tay. Tui đoán chắc là Mặt trận đã dùng cái kế Khổng Minh uống rượu chèo thuyền đi trong mù cướp không cả triệu mũi tên của Tào Tháo trên Xích-Bích đời xưa đó. Thiên văn địa lý tinh thông như vậy người ta mới ăn thằng Mỹ được chớ.
Ông cụ quay qua Vĩnh :
- Bà con ở đây đoán mò vậy đó, có trúng không anh?
Vĩnh cười :
- Dạ, cái đó chỉ có cấp trên biết. Chúng cháu chỉ được lệnh đánh là đánh thôi ạ, sương hay nắng gì cũng đánh.

-----------------------------------------------------
(1) Vài cầu : vì cầu, nhịp cầu
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #47 vào lúc: 26 Tháng Mười Một, 2008, 10:48:17 am »

Qua câu chuyện, Việt được biết bà con khu Thượng Thành này rất lo bão, tháng chín tháng mười thường mở đài nghe tin bão. Đài Sài-Gòn báo tin thời tiết trật lất, bữa cho học trò nghỉ thì chẳng thấy bão đâu; có bừa đang học thì bão đùng đùng ào tới, đám học trò ùa ra đường như chim vỡ tổ, qua cầu Trường- Tiền bị bão xô té sấp té ngửa. Bà con xoay qua theo dõi tin bão trên đài Hà-Nội. Ai nấy đều phục ngoài đó "coi thiên văn" giỏi lắm, gió mùa, biển động, bão đến, bão tan đều báo trước đúng răm rắp. Do đó mà nẩy ra lời bàn rằng Mặt trận đã biết trước cái ngày “sương giáng” này để kéo quân vào đánh úp Huế. Câu chuyện cứ xoay quanh mãi về ngày 31 tháng Giêng sương mù ở Huế như vậy. Việt ngồi im nghe bà con nói chuyện, lòng anh vui theo. Nhân dân mỗi người đều có một cách để giải thích sự thất bại của thằng địch, dựa theo kinh nghiệm riêng của họ. Nhưng tất cả những cách giải thích ấy đều biểu lộ lòng tin tưởng của họ ở sự lãnh đạo của Mặt trận. Mà niềm tin đó chính là chân lý, là nền móng vững chắc nhất để anh và đồng đội đứng chân trên trận địa giữa lòng thành phố này trong cuộc chiến đấu sắp đến.

Bà mẹ mặc áo lam cầm nón chạy đến ngồi chụm vào đám người đang chuyện vãn, nói to :
- Khi hôm nghe súng nổ, tui cứ tưởng là đảo chánh. Tui chạy qua hỏi dượng Trợ đây - mẹ chỉ vào ông cụ hồi nãy - coi phe mô hất cẳng phe mô. Nghe súng nổ nhiều, trong bụng tui đã hồ nghi. Đến khi súng nổ lên thấu Cột Cờ thì tui quyết là không phải tụi hắn. Mấy thằng tướng tá trong ni đá nhau lặp lặp như cơm bữa, nhưng không có thằng nào động đến Cột Cờ ni.
Ông cụ chỉ vào đống xác cờ ba que nằm ùn ở góc sân, nói thì thào nhưng ai nấy đều nghe :
- Các anh làm việc này, bà con chúng tôi thiệt hả dạ. Phải hạ cổ cái thằng trật búa đó xuống, đồng bào ở đây mới mong chấm dứt tình trạng sống dở chết dở này, ruột thịt mới mong nhìn thấy mặt nhau.

Nắng lên to dần. Một chiếc "bà già" chợt hiện ra bên kia sông, liệng vòng thực cao trên Khu tam giác. Từ trên chiếc bà già, giọng nói của thằng tâm lý chiến ọ ẹ vọng xuống :
- Tỉnh trưởng tỉnh Thừa-Thiên, thị trưởng thị xã Huế ra lệnh cho các công sở chưa lọt vào tay Việt cộng hãy treo quốc kỳ lên...
Nhóm bà con đang ngòi trên sân Cột Cờ cười ầm lên cùng một lúc. Một bà mẹ nói trỏ lên chiếc "bà già" thực to :
- Công sở nỏ còn mà thị trưởng cũng độn thổ mất rồi, lấy chi mà lệnh với lạc - bà mẹ ngoảnh lại hạ giọng - Thiệt là chết đến tận cổ rồi mà cái miệng còn nói trạng.

Việt yêu cầu bà con tản bớt khỏi sân Cột Cờ, đề phòng thằng địch làm càn bắn rốc-két. Bà con ra về cả mấy cậu thanh niên vẫn ngồi nán lại, mân mê mấy khẩu báng đỏ, hỏi tác dụng của cây súng, cách bắn... Cậu mặc áo len xù mượn khẩu báng xếp của Hải khoác vào vai, đứng dạng chân nhìn ra sông Hương. Chợt nghĩ ra điều gì, cậu vội lột chiếc mũ ni- lông tròn có chiếc vành nhỏ xíu trên đầu xuống vò nhỏ nhét vào túi quần, đến mượn chiếc mũ tai bèo của Việt đội lên đầu. Xong cậu quay lại chỗ cũ, giương súng lên ngắm chiếc tàu Mỹ đậu mãi tít cuối sông. Nhìn dáng điệu của cậu, Việt thấy muốn cười, nghĩ thầm "coi bộ anh chàng muốn làm Vi-xi theo kiểu xi-nê-ma đây".

Cậu tóc quăn gọi to :
- Ê coi bộ “chịu” quá, hả Bảo?
Cậu áo len xù vẫn ngắm nghía như lấy đường ngắm:
- Chịu quá mi ơi! Chuyến ni tao về xin ông rốp (1) đi theo quân Giải phóng gấp.
Cậu tóc quăn cười hì hì :
- Bộ mi sức mấy mà đòi vô quân Giải phóng. Mỹ hắn nện cho một loạt thì vất súng chạy về nhà mét (2) mạ.
Anh chàng áo len xù tên là Bảo, quay lại, đá nhẹ vào đít cậu tóc quăn một cái, mắt gườm gườm nhưng miệng lại cười cười :
- Thằng tóc quăn, muốn chơi anh em hả? Thằng này đã nhiều phen cho Mẽo Phú Bài ăn trầu lỗ mũi, đếch ngán thằng nào...
Anh chàng tóc quăn lại cười hề hề. Việt nói   :
- Đánh Mỹ dễ thôi. Miễn biết căm thù giặc thì ai cũng đánh nó được. Các anh thử đánh một trận thì biết nó ngay.
Khi ra về, anh chàng mặc áo len xù còn ngoái lại nói với Việt :
- Hẹn gặp lại anh dưới Cột Cờ này nghe.

*
*    *

Ngọn cờ Mặt trận bay trên đỉnh Cột Cờ Phu Văn Lâu đã làm chấn động dư luận nhân dân trong nước và thế giới. Nó là một cái đinh mà quân và dân Huế đã cắm đúng vào đỉnh đầu bọn trùm xâm lược ở tòa Nhà trắng... Vì thế, từ những ngày đầu tiên địch đã tung ra hàng loạt đợt phản kích dữ dội hòng chiếm lại Cột Cờ. Trưa ngày 31 tháng 1, bốn xe M41 địch vượt qua cầu Trường Tiền, định mò vào cửa Thượng- Tứ. Đội biệt động và tự vệ khu phố Trần Hưng Đạo đã chặn đánh chúng một trận ác liệt trước nhà hát lớn thành phố. Hai chiếc M41 bị cháy thiêu giữa vườn hoa Nguyễn Hoàng, hai chiếc kia tháo chạy về khách sạn Hương-Giang, một chiếc bị bắn đuổi bỏ xác lại ngay giữa cầu Trường-Tiền. Ở mặt trận phía Bắc, một tiểu đoàn dù ngụy mở cuộc phản kích vào cửa An-Hòa, hòng chiếm lại Cột Cờ. Nhưng chính ở đây các chiến sĩ quân Giải phóng Huế đã lập một chiến công đẹp tuyệt vời, ngay trận đầu đã đập nát các mũi tiến quân của địch, diệt gọn tiểu đoàn dù số 7 ngụy, bắt sống xe M113 và hơn 60 tên "thiên thần mũ đỏ".
Lính thủy đánh bộ Mỹ và lính Pắc Chung Hy từ cửa Thuận-An đi tàu lên, định chiếm lại khu phố Hai để tiến vào hợp điểm với cánh quân của chúng từ Mang-Cá tiến ra, ở cửa Đông-Ba. Nhưng cả hai cánh quân ấy của chúng đều đã húc đầu phải bức tường thép. Trong suốt 25 ngày chiến dịch, bọn lính thủy đánh bộ Mỹ đã không vượt nổi một tấc đất qua đường phố Trần Hưng Đạo, cửa Đông-Ba đã trở thành cửa thép, nơi đó vôi gạch đã bị bom đạn Mỹ cơ hồ biến thành bụi, nhưng con người vẫn đứng vững. Những tổ săn tàu được rải suốt dọc theo hai bờ sông, chặn đường tiếp tế của địch từ Thuận-An lên, đã đánh chìm hàng chục tàu hàng và tàu chiến xuống lòng sông. Chỉ một tiểu đội của chiến sĩ Chu Văn Đài, trên một khoảng sông ngắn ven hữu ngạn, đã nhấn chìm 13 tàu Mỹ. Và hẳn từ đây, khi nghe lại tiếng hát ảo não của Ma-ri-lin Mông-rô trong bài hát nổi tiếng ấy “có một dòng sông tên gọi là dòng sông không ngày về”, những tên lính thủy đánh bộ Mỹ còn sống sót sau mùa xuân Mậu Thân ở Huế sẽ kinh hoàng nhớ lại dòng sông Hương xanh đẹp vẫn trầm mặc chảy qua lòng thành phố này.

Bên chiến hào áp sát nửa sân bay Tây-Lộc còn lại, người lính trẻ mười chín tuổi tên là Chu Anh Hùng giơ tay thề trước đơn vị : “Còn sống là còn chiến đấu, bị thương nặng coi như nhẹ, nhẹ coi như không bị thương, thề chiến đấu đến cùng, giữ vừng ngọn cờ, giữ vững quyền làm chủ thành phố”. Đêm ấy, Chu Anh Hùng đã ôm chất nổ lao tới dưới cơn mưa đạn, vượt qua đường băng dập tắt ổ đại liên của địch mở đường cho đồng đội tiến lên đập nát sân bay Tân-Lộc, tự tay anh đã đốt cháy một loạt mười máy bay địch.

Hai mươi vạn nhân dân Huế đã nổi dậy cùng với bộ đội giữ chặt từng cửa thành, từng đầu cầu, từng khu phố, đập nát những ổ rắn độc từ bao lâu vẫn mai phục khắp cả hang cùng ngõ hẻm. Hai ngàn người bị xiềng xích đã nổi dậy phá lao Thừa-Phủ, trở thành 2000 người lính quyết tử giữ thành phố. Bà mẹ ở phố Lý Thường Kiệt đã dùng tay không bắt sống một tên đại tá Mỹ. Bà mẹ ở xóm Lịch-Đợi mang giấy hương đánh dấu nhà từng tên ác ôn. Mười một cô tự vệ thành phố cùng với một đơn vị bạn đã đánh tan một tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ, diệt 120 tên... Ngọn cờ Mặt trận như một vầng thái dương rạng rỡ, vừa mọc lên đã làm tan rã ngay cái đám âm hồn từ bao lâu vẫn mang ảo tưởng rằng dưới bóng 50 ngôi sao của lá cờ Mỹ, đêm tối sẽ còn kéo dài mãi để cho chúng nhảy múa, ăn hút. Ở khu phố Gia-Hội, hơn 1200 tên ngụy quân nguy quyền ra đầu thú nhân dân. Ở quận Thành-Nội, trong những ngày đầu tiên có đến 500 tên. Những ủy ban đăng ký bọn chúng sau đó đã biến thành những ủy ban chính quyền cách mạng khu phố. Chính trên sự tan rã của toàn bộ cơ cấu ngụy quyền địa phương, ủy ban nhân dân cách mạng Thừa-Thiên Huế đã thành lập.
Theo ngọn cờ vẫy gọi, người Huế đã đứng lên cầm súng, giành lấy chính quyền về tay mình.

-----------------------------------------------------
(1) Cha.
(2) Mách.


Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #48 vào lúc: 26 Tháng Mười Một, 2008, 10:52:12 am »

*
*    *

Khoảng 8 giờ sáng ngày sau đó, tổ tiền tiêu của ta phát hiện khoảng hơn một chục chiếc ca-nô địch nổ máy xình xịch từ phía cồn Hến chạy lên. Đại đội trưởng Chi ra lệnh sẵn sàng. Địch đến đổ ca-nô dưới mé sông, bọn lính cộng hòa dàn hàng ngang tiến lên, bóng chúng lố nhố dưới những gốc cây to của quảng trường Phu Văn Lâu. Đại đội trưởng Chi thả ống nhòm xuống, bàn với anh em :
- Chúng nó có khoảng một đại đội. Ta chiếm điểm cao, lại có hào sâu, tường kiên cố, dẫu chúng có một tiểu đoàn cũng chưa làm chi ta được. Lúc này tinh thần chúng hoang mang rệu rã lắm rồi, ta tích cực làm binh vận, kêu gọi chúng đầu hàng để tiết kiệm xương máu.

Anh em đồng ý cả. Anh Chi nhô ra khỏi công sự, bắt tay lên miệng làm loa, gọi to : “Hỡi anh em binh lính cộng hoà!”
Bọn lính ngụy đang dò dẫm tiến lên, dừng cả lại. Anh Chi gọi tiếp :
- Mấy ngày nay quân khởi nghĩa đã từng tiến công và đánh chiếm hầu hết các thành phố miền Nam. Nhân dân thành phố Huế đã nổi dậy tiếp tay quân cách mạng, giành quyền làm chủ hoàn toàn thành phố Huế. Bọn Thiệu-Kỳ gian ác vô cùng, đến giờ này còn cưỡng ép các bạn cầm súng chống lại cách mạng. Đó là việc bẻ nạng chống trời, chỉ mua lấy cái chết vô ích và nhục nhã. Các bạn hãy quay súng về với quân cách mạng cùng nhân dân chống Mỹ cứu nước, sẽ được hưởng chính sách khoan hồng của Mặt trận.
Những cái bóng trây-di xanh lá cây vẫn đứng im lặng bên kia đường. Chợt phía sau chúng có tiếng thét :
- Đi lên! Thằng nào đứng lại tao bắn chết bỏ mẹ.

Bọn lính cộng hòa lại rậm rịch đi tới, lôm côm tiến qua đường Thống-Nhất. Giữa lúc ấy, Việt thấy một bà mẹ từ xóm nhà dân tất tả chạy đến trận địa. Lúc mẹ đến gần, Việt nhận ra là mẹ Năm hôm trước. Lần này mẹ mặc áo cụt màu lam, tay mẹ cầm quạt. Mẹ chạy vội vã nên búi tóc xõa xuống lòng giòng sau lưng. Không hiểu bà mẹ có việc gì mà ra nơi trận địa lúc hai bên sắp nổ súng? Sợ nguy hiểm cho mẹ, từ trên cao Việt gọi xuống :
- Mẹ à! Mẹ!
Mẹ Năm hình như không nghe. Mẹ cứ mải miết chạy, mấy lần mẹ vấp chúi xuống đất suýt ngã, Việt thét to :
- Mẹ vào nhà đi! Súng nổ bây giờ, nguy hiểm!

Mẹ Năm giơ chiếc quạt khoát khoát lên không đáp lời Việt rồi mẹ đến đứng bên anh Chi. Người mẹ thấp nên cái bờ thành lên cao đến vai mẹ. Mẹ vẫn để mặc búi tóc lòa xòa sau lưng, xòe chiếc quạt giấy vẫy đám lính ngụy ở dưới đường :
- Ơi anh em quân đội cộng hòa!
Trong cái im lặng của trận địa, giọng mẹ vang lên lanh lảnh, vừa sắc, vừa dịu dàng. Có lẽ lần đầu nghe tiếng một bà mẹ gọi giữa trận địa, bọn lính cộng hòa đang tiến lom khom trên mặt đường lại đứng lại. Có nhiều thằng đứng thẳng dậy, ngẩng mặt lêu nhìn.
Mẹ tiếp :
- Quân cách mạng đã giải phóng Huế rồi, anh em không lo tìm đường sống còn kéo nhau đi mô đó?
Mẹ vừa dứt lời thì thằng chỉ huy cầm súng ngắn đi sau lưng đám lính nguy vụt giơ tay lên phía trước.

Anh Chi kéo mẹ ngồi thụp xuống. Một tiếng "đoàng" vang lên; một viên đạn rít qua mặt thành kêu véo.
Tiếp theo đó một tiếng nổ rất đanh từ trên mặt thành dội xuống, thằng chỉ huy bật ngửa người ra sau, khẩu súng ngắn trong tay hắn văng lên không. Vinh đã tức thì nổ súng diệt ngay tên chỉ huy ác ôn.
Mẹ Năm lại đứng dậy. Lần này, tiếng mẹ sang sảng như ra lệnh :
- Anh em quân nhân Phật tử đứng qua một bên. Để quân cách mạng trừng trị bọn ác ôn bợ đít Thiệu - Kỳ.
Có mấy tên lính cộng hòa vụt bỏ hàng ngũ chạy lui phía sau, nấp vào những gốc cây. Nhưng ngay khi ấy từ tấm bia lớn bên cạnh cái nhà ngói trước Phu Văn Lâu, đại liên địch nổ ào ạt lên mặt thành. Đám lính cộng hòa cũng vừa nổ súng vừa chạy tới trước. Các chiến sĩ ta kê tiểu liên lên bờ thành bắn từng loạt ngắn vào đám lính ngụy ở dưới. Chủng tản ra nấp sau những gốc phượng bắn trả lại. Việt quay đại liên về phía tấm bia, nổ một loạt giòn giã. Tấm bia vỡ tung ra, ổ đại liên cũng câm bặt. Địch từ bên kia sông Hương bắn ĐK và cối 81 qua chi viện cho bộ binh của chúng dưới Cột Cờ. Nhưng đạn pháo của chúng lại rơi tới tấp bên mé đường Thống-Nhất, nhè đấm ngay vào lưng bọn lính cộng hòa đang bị mưa đạn của các chiến sĩ giữ Cột Cờ tạt vào mặt. Bị kẹp giữa hai hàng rào lửa, bọn lính ngụy kêu la chửi thề inh ỏi, mạnh thằng nào thằng ấy chạy. Chúng ùa trở lại bờ sông rồi dựa theo mé sông chạy thục mạng về phía Thương-Bạc, bỏ lại hơn chục xác chết nằm sóng xoài trên mặt đường. Sau mấy loạt pháo hạm từ ngoài biển bắn tới tấp vào khu vực Cột Cờ, trận địa trở lại im lặng. Trận phản kích đầu tiên của địch để giành lại Cột Cờ đã diễn ra và kết thúc như vậy.

*
*    *

Chiều hôm ấy, mẹ Năm thết cơm khẩu đội Việt. Theo gánh đến dưới Cột Cờ một đôi quang, một đầu là thúng cơm trên đậy mấy tấm lá chuối, đầu kia là thức ăn và bát đĩa. Thức ăn chính hôm nay là món xà-lách trộn dấm và thịt gà rán, ngoài ra còn thêm mấy thứ mắm Huế bà con quanh xóm gửi đến cho, ăn thực lạ miệng. Còn món canh thịt bò thì bỏ ớt cay quá anh em bộ đội ăn không quen cứ xuýt xoa um lên, cô Theo quay mặt đi chỗ khác, che miệng cười. Anh em gọi đây là một bữa ăn "đặc táo" nấu theo lối Huế. Nhật hỏi Theo, bắt chước giọng Huế, vụng về :
- Mẹ cho ăn răng mà sang ri, o Theo?
- Dạ có chi mà sang, anh. Xà-lách ở nhà trồng. Có con gà trống mẹ em cứ để dành mấy bữa ni, nói để mừng mấy anh đánh thắng.

Ăn xong, Nhật đến ngồi dưới tăng-sê tháo súng ra lau. Hải, Sánh và mấy anh em khác kéo nhau xuống bãi cỏ trước Ngọ Môn để tập xe. Mấy hôm nay buổi chiều có mấy cậu thanh niên ở xóm Tỳ-Bà-Trang đem hông-đa lên tập cho anh em bộ đội, anh em rất ham tập.

Việt ngồi đưa người se sẽ trên chiếc võng ny-lông màu đỏ sặc sỡ, một đầu cột túm lại, buộc vào bờ thành, đầu kia mắc vào một chiếc cọc trồng trên sân cỏ. Cô Theo xếp dọn bát đĩa xong ngồi tựa mép thành, hai bàn tay gầy gầy thuôn thuôn đặt trong lòng chiếc nón để trên chân cô. Nhìn chiếc võng của Việt cô hỏi :
- Anh về Huế mà cũng đem võng theo à?
Việt chỉ vào đống vải vàng rách tả tơi nhem nhuốc trên mặt sân cỏ :
- Đâu có. Vải lấy ở cái cờ ba que kia đấy. Cái sọc đỏ của nó tốt thực, rộng vừa đủ khổ một chiếc võng đôi vừa bền vừa nhẹ. Bọn tôi đứa nào cũng lấy được một chiếc.
Cô Theo cười rung cả người :
- Ôi cha! Cờ "quốc gia" mà mấy anh đem làm võng ngồi à? Thiệu-Kỳ hắn biết chắc chuyến ni hắn đâm đầu xuống sông tự tử mất thôi.

Việt hỏi thăm qua việc học hành của Theo. Cô nói năm nay cô đã thôi học, ở nhà vừa giúp mẹ trồng rau vừa tiếp tục dọn thi bán phần. Trước đó, cô học đệ nhị Đồng Khánh. Ban giám đốc nhà trường theo lệnh của thằng tỉnh trưởng, thường bắt ép nữ sinh trường Đồng Khánh đi "ủy lạo" quân đội "đồng minh" dưới Phú-Bài ai không đi bị dê-rô kỷ luật. Bọn thủy quân lục chiến Mỹ dưới Phú-Bài tính rất láo xược, vẫn gọi các cô là "mai bô-by" (1). Lần nào cũng có cái mục choàng vòng hoa cho mấy thằng Mỹ vừa đi đánh phá ở đâu đó về, bắt con gái đứng chụp ảnh chung với chúng nó. Mấy thằng khác thì mặc quần gin, ở trần, người đỏ rực rực như con tôm luộc, các cô đi ngang, chúng kêu cô này "năm-bơ-oăn" (2) cô kia "năm-bơ- then" (3), chỉ trỏ cười hô hố với nhau. Theo kể tiếp, bạn bè cô có mấy đứa vì đi lên đi xuống Phú-Bài như vậy mà thành ra hư bỏng : Con Quỳnh cặp bồ với thằng trung úy Hoóc-tơn, thứ bảy nào thằng Mỹ cũng lái xe gíp lên chở đi "pạc-ty" (4) dưới Phú-Bài. Cuối cùng con Quỳnh đẻ ra một thằng bé mắt xanh lè, má đầy cả tàn nhang, hắn đem giao thằng bé cho "cô nhi viện đồng minh" nuôi, rồi bỏ nhà trốn vô Sài-Gòn biệt tích. Lễ Nô-en vừa rồi Theo lại bị nhà trường bắt xuống Phú-Bài để làm cái trò ủy lạo ấy nữa. Nhớ lại cảnh nhục nhã của những lần trước, Theo không đi, cô còn rủ thêm mấy cô bạn khác làm theo cô. Một mụ trong ban giám đốc nhà trường, thường ngày vẫn giao du thân mật với bọn Mỹ, xét lý lịch gia đình Theo, sau đấy quy cho cô cái tội "bài Mỹ", tuyên truyền bôi nhọ danh dự "quân đội đồng minh", đuổi Theo ra khỏi trường Đồng Khánh.

------------------------------------------------------
(1) Tiếng gọi lẳng lơ với phụ nữ.
(2) Số một, đẹp.
(3) Số mười, không ra gì.
(4) Nhảy đầm

Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #49 vào lúc: 26 Tháng Mười Một, 2008, 10:54:48 am »

Theo kể chuyện một thôi. Việt để ý thấy trong câu chuyện, Theo ít khi nhìn vào mặt người nói chuyện với mình, cứ mải miết xé hết mẩu lá tranh này đến mẩu lá tranh khác, bàn chân mang guốc cứ táy máy hất đi hất lại một viên sỏi trên mặt đất.
- Bọn Mỹ ngụy nó lộng lược đến như vậy sao các o không đứng lên đấu tranh?
Việt đứng lên, đến bên bờ thành, nhìn ra sông. Gió ngoài sông thổi vào, mái tóc Theo bay lòa xòa về phía trước. Đứng gần, Việt nghe mái tóc ấy là lạ, phảng phất như mùi gỗ trầm, như những lúc anh hành quân đi qua một khu rừng có nhiều cây gió. Theo vòng tay lên vai vuốt mái tóc lại đằng sau, đáp :
- Đấu tranh có ăn thua chi, anh. Dân Huế năm mô cũng đấu tranh rầm rầm, bọn em niên khóa nào cũng bỏ mất một vài tháng để xuống đường, bãi khóa. Nhưng bọn việt gian thì thằng ni trúc thằng khác lên, còn bọn Mỹ thì càng ngày càng làm tàng. (1)

Theo dừng lại một chút, nét mặt thoáng vẻ suy nghĩ. Cô nói tiếp, giọng nghe to hơn :
- Chỉ có mình về mới trị được bọn hắn.
Theo vừa nói vừa ngẩng lên nhìn ngọn cờ Mặt trận bay trên đỉnh cao. Trong đôi mắt to đen trong sáng mở ra trên khuôn mặt hồng hào khỏe mạnh của cô Việt thấy phản chiếu bóng ngọn cờ và một mảng trời xanh biếc vô ngần, nền cờ thành hai cái vết đỏ lay động phập phồng khiến cho Việt nghĩ đến một ngọn lửa đang cháy ở một nơi nào đó rất xa, phía sau đôi mắt ấy.
Cái tiếng "mình" Theo vừa nói, nó quá đỗi thân thiết, tự nhiên, khiến Việt mang máng thấy hình như bóng cờ ấy đã in sẵn trong đôi mắt Theo từ bao giờ rồi.

Việt đang nghĩ ngợi lan man thì nghe tiếng Theo nói nhỏ nhẹ :
- Anh Việt à! Có khi nào anh thấy sông Hồng chưa?
Việt quay lại, hơi ngạc nhiên về câu hỏi của Theo. Anh tiếp :
- Sông Hồng ấy à? Có. Nhưng o hỏi sông Hồng làm chi?
- Sông Hồng khác sông Hương răng anh?
Việt nheo mắt như để nhớ lại cái gì. Anh gật gật :
- Khác. Ờ khác nhiều chứ. Sông Hồng thì đỏ tươi, sông Hương thì xanh biếc. Nước sông Hồng chảy xiết quanh năm, luồng của nó khi nào cũng hăm hở như muốn đưa con người ra đến biển. Còn sông Hương thì êm đềm, trầm lặng.

Chợt Việt phá ra cười, chỉ tay về phía Cồn Hến :
- Nhưng đối với giặc Mỹ thì cả hai con sông ấy đều giống nhau, giống nhau như hai chị em. Bởi vì sông Hồng đã chôn vùi xác tàu bay Mỹ còn sông Hương thì bây giờ đang nhận chìm tàu chiến của chúng dưới bùn đen.
Cuối ngón tay Việt, bên kia cầu Trường-Tiền, khoảng giữa khu phố Gia-Hội và Cồn Hến, một chiếc tàu chiến Mỹ vừa bị các tổ săn tàu bắn hôm trước. Một nửa thân tàu chếch lên không, cái lườn xám của nó còn nghi ngút cháy, phả một làn khói xám đùng đục trên mặt sông. Chiếc cột cờ vẫn còn nhô một đoạn khá dài, chênh chếch trên không. Hình như nó không còn dính gì với cái thân tàu đang cháy và đầu nó vẫn còn mang một lá cờ Mỹ rách bươm với những sọc đỏ bay vật vờ trên mặt sóng ngũ sắc sặc sỡ vì pha lẫn với ét-xăng. Theo đăm đăm nhìn xác chiếc tàu Mỹ trên sông, đôi mày hơi xếch lên, đôi mắt to đen sáng trưng niềm tự hào :
- Những ngày trước em đi học qua đò Thừa-Phủ, cứ bị cái nạn ca-nô Mỹ ầm ầm chạy qua làm tung sóng lên ướt cả mặt, cả áo. Em tức lắm, nhưng cũng không bao giờ nghĩ rằng sẽ có ngày tàu chiến của bọn Mỹ sẽ bị nhấn chìm trên con sông này. Chừ thì cả thế giới đều nói đến sông Hương. Đúng là cách mạng đi tới đâu đất nước mình nổi tiếng tới đó.

Theo ngừng một lát, rồi nói tiếp ý nghĩ lúc nãy. Giọng Theo dịu dàng trở lại, Việt nghe như rất xa :
- Em chưa thấy Hà-Nội, nhưng nhiều khi em nhớ Hà-Nội da diết, anh Việt ơi. Em cứ nghĩ đất nước mình đẹp đẽ như vậy mà thiếu mất một nửa. Mỗi lần nghĩ như rứa là trong bụng em cứ tiếc quay. Tánh em nghèo mà ham, ngay cả những cái nho nhỏ hàng ngày cũng vậy cái chi mình đã yêu quý thì mình cứ muốn nó thật đầy đủ nguyên vẹn, đừng mất mát chút nào hết.
Việt cười :
- Đất nước mình nhất định rồi sẽ nguyên vẹn như ý muốn của em thôi, Theo ạ. Điều cần thiết là bây giờ chúng ta phải cầm thực chắc tay súng...

Theo về rồi, Việt một mình đứng nhìn ra sông. Sau một ngày chiến đấu ác liệt ở khắp các khu phố, Huế có cái không khí của Hà-Nội sau một trận đánh máy bay Mỹ, đẹp và yên tĩnh; trong cái mãnh liệt, hăm hở của cuộc sống vẫn hiện ra cái phong thái ung dung, tự chủ. Ánh mặt trời cuối cùng của một ngày quang đãng còn ném lại dưới chân những dãy đồi phía tây một vừng lửa màu da cam vàng rực, và từ trong vùng lửa ấy, dòng sông Hương trôi về, vẽ thành một nét màu xanh thẳm qua thành phố, rồi biến mất giữa mảng màu xanh lá mạ của những cánh đồng ngoại ô trải rộng đến tận biển. Phía trên cầu Bạch- Hổ, Trường-Sơn dựng thành những tầng tiếp nối nhau, những dãy đồi thấp màu đỏ trầm trầm, những lớp cao hơn màu lam già, và tận cùng, chất ngất chạm trời, vách núi ửng lên màu xanh thẳm của khói đá. Bóng núi đồ sộ rất gần, hình như cứ trầm lặng đổ xuống thành phố xinh đẹp này một sức mạnh chất chứa trong lòng những khối đất ấy đã hàng nghìn thế kỷ. Và giữa lòng thâm nghiêm của những dãy núi ấy sông Hương đã bắt đầu cuộc hành trình của nó để đi ra biển. Việt chợt thấy trước mắt anh, ngọn sông Hương cứ kéo dài mãi ra, xa thăm thẳm, đến tận chỗ mà nó còn mang tên là sông Ya-ling chảy mải miết giữa những rặng cây rì rì nở hoa hồng thắm như hoa đào; nơi sông Hương còn là sông A-mong tung bọt trắng xóa dưới chân những buôn rẫy bạt ngàn của dân tộc Cà-tu anh dũng, đến mãi nơi mà nó còn là một dòng nước nhỏ đen thẳm như mặt hồ lặng lẽ dưới chân những vách đá cao ngất và lạnh buốt. Việt bỗng thấy yêu sông Hương một cách kỳ lạ, pha lẫn với niềm tự hào của một người đã hiểu dòng sông từ nguồn của nó. Sông Hương như người đồng chí của anh, cả hai đã cùng khởi đi từ trên ngọn những dãy núi kia về đến thành phố, qua một cuộc hành trình gian khổ và hùng tráng. Việt nghĩ như thế. Nó đã biết nổi giận, cũng như sông Bạch-Đằng, sông Lô, sông Hồng hay sông Vàm-Cỏ... Như tất cả những dòng sông anh hùng ấy của Tổ quốc, nó tung lên những ngọn sóng thần bất ngờ cuốn xác bất cứ loài xâm lược nào dám in cái bóng của chúng lên mặt nước trong xanh, và sẽ chôn vùi xác tàu của chúng vào dưới đáy phù sa quên lãng của nó. Việt xúc động đứng thẳng lên im lặng, tay trái đặt lên nòng khẩu đại liên, mặt hướng theo nòng súng hơi ghếch lên cao, chiếc mũ tai bèo buông xuống sau gáy. Bóng người lính trẻ canh giữ bầu trời thành phố Huế, nổi lên nền trời ửng đỏ ráng chiều vững chãi thành một khối đen kiêu hãnh, trông giống như một pho tượng dũng sĩ được đắp lên cùng một lần với dãy thành có này không rõ từ niên kỷ nào, có lẽ còn lâu đời hơn cả lịch sử của nó.

*
*    *

Một buổi tối, đồng chí phụ trách tin kỹ thuật của đơn vị nghe tiếng địch gọi nhau trong máy. Thằng L.19 đang lượn quanh Cột Cờ, gọi về Phú-Bài :
- Đại bàng! Đại bàng đâu? Cho Cột Cờ ăn dưa đi. Trời tối con cái không có lợi.
Thằng bộ binh ở dưới thúc giục thằng L.19, giọng hốt hoảng :
- Nhà số 5 gọi chuồn chuồn đây. Xin đại bàng cho dưa đi! Con cái đi phép dài hạn và rách áo mất nhiều. Phải cho Cột Cờ dưa góp, con cái không lên được.
Thằng L.19 gọi lí nhí ở đâu một lúc, đáp lại :
- Đại bàng bị Vi-xi bắn dữ quá nó về rồi. Mặt trăng hứa sẽ cho thêm tăng-gô, con cái tùy đó mà xử trí lấy.
Giọng thằng bộ binh nổi cáu :
- Tăng-gô thì nước mẹ gì. Báo cáo lại Mặt trăng, không có đại bàng thì con cái không làm ăn được.
Ban chỉ huy đơn vị phán đoán rằng vì thiếu máy bay yểm trợ, ngày mai địch chưa có khả năng phản kích vào Cột Cờ, nhưng, lệnh cho anh em củng cố công sự vững chắc thêm để chống pháo và bom trong những ngày sắp tới.

Đúng như thế, mấy ngày sau trôi qua khá yên tĩnh. Thỉnh thoảng một chiếc "bà già" đến đảo quanh Cột Cờ lấc láo nhìn nghiêng nhìn ngửa xuống trận địa. Không phát hiện được gì, nó thụt vài quả rốc-két vu vơ xuống mặt thành rồi bay đi.

Đó là những ngày nhàn của đơn vị giữ Cột Cờ. Tổ phòng không của Việt bày một sòng bài ù trên công sự. Nhật, Sánh và mấy anh em, mang lá nguy trang trên mũ, vỗ những con bài bằng plát-tích kêu đen đét trên mặt cỏ. Mấy cậu bên bộ binh mỗi chiều đến lại đánh quần đùi ra tập hông-đa trên sân cỏ Ngọ-Môn. Tiếng cười nói, tiếng hông-đa nổ xành xạch lẫn với tiếng vỗ tay râm ran dội vào vòm cửa Ngọ-Môn, khiến Việt mang máng thấy thành phố như đang vào chiều chủ nhật và cái bãi cỏ dưới kia đang biến thành một cái sân đá bóng. Cái bãi tập xe dưới kia chỉ im lặng, phân tán đi một chốc, mỗi khi có một chiếc bà già vè vè mò đến, để rồi ít phút sau, đâu lại hoàn đấy, trận địa trở lại cái không khí sôi nổi, rộn rã yêu đời của một cái sân đá bóng chiều chủ nhật. Những ngày ấy, cô Theo trở thành em nuôi của đơn vị. Mỗi bữa cô mang cơm ra chiến hào, nói câu nào cũng bắt đầu bằng một tiếng "dạ" nhỏ nhẹ, trao bát cơm, đôi đũa cho các anh bộ đội bằng cả hai tay, và mỗi khi anh em khen "o Theo nấu ăn ngon quá" thì cô lại bối rối quay mặt đi nơi khác, kéo tóc lên che miệng.

Những hôm sau đó, pháo địch bắn khá dày vào Cột Cờ. Có lần cô mang cơm ra trận địa, một quả pháo nổ gần làm một đồng chí bị thương. Theo nằm xuống kịp, chỉ bị đất bắn vào người làm bẩn cả tóc, cả áo. Thấy nguy hiểm, anh em trong tổ phòng không đề nghị từ nay chỉ có anh nuôi Đào mang cơm ra trận địa, còn cô Theo ở nhà nấu nướng giúp là đủ rồi. Cô Theo phủi đất trên áo, giọng vẫn nhỏ nhẹ như bao giờ :
- Pháo hắn bắn kệ hắn chớ. Mấy anh ở giữa trận còn chưa sợ, em ở trong nhà lâu lâu mới ra đây, sợ chi.
Theo trả lời như vậy, và đến bữa sau cô lại mang cơm đến.

------------------------------------------------------
(1) Ngạo ngược, ngông nghênh.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM