Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Ba, 2024, 02:37:44 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: 100 Câu hỏi đáp về Chiến dịch Hồ Chí Minh  (Đọc 64846 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
phuong
Thành viên
*
Bài viết: 166


« vào lúc: 22 Tháng Mười, 2008, 11:14:17 am »

               
                100 Câu hỏi đáp về Chiến dịch Hồ Chí Minh

    Tác giả: Hồ Sơn Đài, Trần Nam Tiến.
    Nhà xuất bản: Văn Hoá Sài Gòn , Văn Hoá Tổng Hợp - 2007
    Số hoá: Phuong

                  Lời  Nhà xuất bản ( trích)

  ...Quyển sách này cố gắng trình bày về Chiến dịch Hồ Chí Minh, chiến dịch kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm 1945- 1975 ở Việt Nam, đưa lịch sử Việt Nam bước vào một giai đoạn độc lập và thống nhất mới. Ngoài việc hệ thống hoá các hoạt động quân sự của Quân đội cách mạng sau cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa xuân 1975, quyển sách còn nêu lên tương quan thế và lực giữa đôi bên, ý đồ chiến lược và nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh, chỉ huy chiến dịch...của bên chiến thắng, từ đó cung cấp thêm tư liệu cho người đọc muốn tìm hiểu về lịch sử chiến tranh cũng như lịch sử quân sự Việt Nam.
   Do thời gian gấp rút, cách thức biên soạn tương đối mới mẻ, phạm vi đề cập lại quá rộng lớn nên quyển sách chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ chí Minh, Nhà xuất bản Văn hoá Sài Gòn và các tác giả hy vọng được người đọc góp ý để sau này nếu có điều kiện tái bản,quyển sách sẽ đạt được chất lượng cao hơn.

                                                       Tháng 5 năm 2006
« Sửa lần cuối: 25 Tháng Mười, 2008, 12:13:56 pm gửi bởi dongadoan » Logged
phuong
Thành viên
*
Bài viết: 166


« Trả lời #1 vào lúc: 22 Tháng Mười, 2008, 01:24:13 pm »

   
      Câu hỏi 001: Xin cho biết thời cơ dẫn đến cuộc tổng tiến công chiến lược mùa xuân 1975]
   Sau khi Hiệp định Paris vầ chấm dứt chiến tranh Việt Nam được ký kết ( 27.1.1973), những toán lính Mỹ cuối cùnh rút khỏi miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế, Hiệp định Paris không có hiệu lực hoàn toàn do Mỹ và chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đã có âm mưu phá hoại từ trước.
   Tuy phải rút khỏi Việt Nam, nhưng Mỹ vẫn không từ bỏ chính sách cơ bản của chúng ở Việt Nam là thực hiện " Học thuyết Nixon", âm mưu chia cắt lâu dài nước ta.Mỹ đã giữ lại hơn hai vạn cố vấn quân sự, tiếp tục viện trợ quân sự và kinh tế cho nguỵ quyền miền Nam. Trước khi rút quân, Mỹ đã đưa vào miền Nam 700 máy bay, 500 khẩu pháo, 400 xe thiết giáp và nhiều tàu chiến...
   Được cố vấn Mỹ chỉ huy và nhận viện trợ của Mỹ, chính quyền Sài Gòn ngang nhiên phá hoại Hiệp định Paris. Chúng huy động gần như toàn bộ lực lượng tiến hành chiến dịch " tràn ngập lãnh thổ", liên tiếp mở các cuộc hành quân " bình định, lấn chiếm" vùng giải phóng, qua đó nhằm tiêu diệt lực lượng vũ trang và cách mạng miền Nam. Thực chất đó là hành động tiếp tục chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh chống lại nhân dân ta ở miền Nam.
   Trước tình hình nghiêm trọng do quân địch gây ra, Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Đảng họp tháng 10.1973,đề ra phương hướng kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự, binh vận với ngoại giao. Và chỉ rõ "Con đường cách mạng của miền Nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình hình nào, ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam tiến lên...".
   Thực hiện Nghị quyết 21 của Đảng và Nghị quyết của Quân uỷ Trung ương, quân dân ta ở miền Nam từ cuối năm 1973 kiên quyết đánh trả những cuộc " hành quân, lấn chiếm" của địch, bảo vệ vùng giải phóng bị địch xâm phạm,và ở nhiều nơi còn chủ động mở những cuộc tiến công vào căn cứ xuất phát các cuộc hành quân của chúng, mở rộng vùng giải phóng. Bên cạnh đó, ta cũng xúc tiến thành lập các binh đoàn trực thuộc Bộ Tổng tư lệnh, biên chế , thay đổi trang bị cho quân đội hiện đại hơn, khẩn trương mở đường đông Trường Sơn và thiết lập 5000 km đường ống dẫn dầu, kéo dài từ Quảng Trị qua Tây Nguyên tới Lộc Ninh, đủ sức tiếp dầu cho hàng chục ngàn xe tăng và xe cơ giới các loại.
   Trong lúc đó trên chiến trường miền Nam, quân ta đã đánh bại một bước quan trọng trong kế hoạch bình định lấn chiếm của địch, nhất là vùng đồng bằng sông Cửu Long. Từ Trị Thiên, Tây Nguyên đến miền Đông Nam Bộ, vùng ven Sài Gòn cũng đã phản công giành được nhiều thắng lợi trong đánh địch lấn chiến, khôi phục vùng giải phóng. Cục diện chiến trường đang chuyển biến có lợi cho ta. Tháng 10.1974 , Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương họp  nghe Bộ Tổng tham mưu trình bày kế hoạch tác chiến chiến lược và đánh giá tình hình miền Nam. Qua phân tích tình hình và tương quan lực lượng giữa ta và địch, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn kết luận một nhận định quan trọng thành nghị quyết " Mỹ đã rút khỏi miền Nam thì khó có khả năng nhảy vào lại miền Nam và dù chúng can thiệp đến thế nào đi nữa thì cũng không cứu vãn được nguy cơ sụp đổ của chính quyền Sài Gòn".
  Giữa lúc đó, một tin vui mới đến từ miền Nam: ngày 6.1.1975, quân dân ta đã giải phóng tỉnh Phước Long. Chiến thắng Phước Long có ý nghĩa hết sức quan trọng, vì đây là tỉnh đầu tiên ở miền Nam được hoàn toàn giải phóng. Hội nghị Bộ Chính trị phân tích sự suy yếu của địch báo hiệu một thời cơ mới đang đến.
  Đồng chí Lê Duẩn kết luận " Ta phải giáng một đòn chiến lược trong năm 1975...Chưa bao giờ ta có điều kiện và thời cơ chiến lược to lớn thuận lợi như hiện nay để hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ miền Nam, tiến tới hoàn thành thống nhất Tổ quốc...".  Bộ Chính trị nêu quyết tâm " Động viên nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền trong thời gian 1975- 1976... tạo điều  kiện chín muồi tiến hành tổng công kích- tổng khởi nghĩa, tiêu diệt và làm tan rã nguỵ quân, đánh đổ nguỵ quyền , giành chính quyền về tay nhân dân, giải phóng miền Nam..."Ngoài kế hoạch chiến lược căn bản, Bộ Chính trị còn dự kiến một phương án khác là nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975, thì giải phóng miền Nam trong năm 1975.
« Sửa lần cuối: 25 Tháng Mười, 2008, 12:14:23 pm gửi bởi dongadoan » Logged
phuong
Thành viên
*
Bài viết: 166


« Trả lời #2 vào lúc: 23 Tháng Mười, 2008, 01:08:29 pm »

    Câu hỏi 002: Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 21 vạch ra đường lối hoàn thành sự nghiệp giả phóng miền Nam. Xin cho biết nội dung hội nghị.

   Từ 19.6. đến tháng 7.1973, Ban chấp hành Trung ương Đảng ta đã họp Hội nghị lần thứ 21 ( đợt 1), từ 1.10  đến 4.10.1973 ( họp đợt 2), ra Nghị quyết về " thắng lợi vĩ đại cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và nhiệm vụ của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới". Trung ương Đảng nhất trí với nhận định của Nghị quyết Quân uỷ tháng 6.1973 đã được Bộ Chính trị thông qua, về 2 khải năng. Hoặc do đấu tranh tích cực của ta trên 3 mặt trận chính trị, quân sự, ngoại giao mà ta có thể từng bước buộc địch phải thi hành Hiệp định Paris về Việt Nam, hoà bình được lập lại, hoặc ta phải tiến hành chiến tranh cách mạng gay go, quyết liệt để đánh bại địch, giành thắng lợi hoàn toàn. Trung ương khẳng định " Con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình hình nào ta cũng phải nắm vững thời cơ , giữ vững đường lối chiến lược tiến công".

   Trung ương đề ra nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới là " Tiếp tục thực hiện chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đoàn kết toàn dân, đấu tranh chống đế quốc Mỹ và tập đoàn thống trị tư sản mại bản, quan liêu, quân phiệt, phát xít, tay sai đắc lực của đế quốc Mỹ  đang thống trị trong vùng địch kiểm soát, đẩy lùi và đánh thắng địch từng bước, đi đến xoá bỏ chính quyền tay sai của Mỹ, xoá bỏ chế độ thực dân mới, thiết lập chính quyền dân tộc, thoát ly hẳn sự lệ thuộc vào Mỹ, thực hiện một Miền Nam Việt Nam hoà bình, độc lập, dân chủ , trung lập, phồn vinh tiến tới hoà bình thống nhất đất nước".

    Phương châm và phương thức hoạt động của cách mạng miền Nam phải là nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công, nhưng phải căn cứ vào từng thời kỳ, vào hoàn cảnh cụ thể từng vùng, thậm chí từng cuộc đấu tranh mà vận dụng hình thức đấu tranh và chiến thuật đấu tranh hoặc phòng ngự một cách linh hoạt, sắc bén đồng thời giữ vững và phát triển lực lượng ta về mọi mặt, làm tan rã và suy yếu lực lượng địch , làm cho so sánh lực lượng giữa ta và địch ngày càng thay đổi có lợi cho ta, nhất định ta phải mạnh cả về chính trị và quân sự, trên cả ba vùng chiến lược.

   Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 21  được Bộ Chính trị chuẩn bị chu đáo, họp rất kịp thời chỉ sau khi Hiệp định Paris được ký kết, là một trong những hội nghị có ý nghĩa lịch sử quan trọng của Đảng ta. Trên cơ sở tổng kết và rút ra những quy luật chủ yếu để giành thắng lợi trong 18 năm kháng chiến chống Mỹ, Trung ương Đảng đã đề ra quyết tâm lớn hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Nghị quyết 21 đã làm chuyển biến tình hình, từ những thắng lợi cuối năm 1973 và năm 1974, đến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, hoàn thành thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
« Sửa lần cuối: 25 Tháng Mười, 2008, 12:14:40 pm gửi bởi dongadoan » Logged
phuong
Thành viên
*
Bài viết: 166


« Trả lời #3 vào lúc: 23 Tháng Mười, 2008, 01:38:53 pm »

   Câu hỏi 003: Từ ngày 18.12.1974 đến 8.1.1975, Bộ Chính trị đã họp Hội nghị mở rộng để xác định và bổ sung hoàn chỉnh quyết tâm cuối cùng, theo sự phát triển mới của tình hình cách mạng Việt Nam. Xin cho biết nội dung của cuộc họp này.

   Bộ Chính trị đã họp Hội nghị mở rộng để xác định và bổ sung hoàn chỉnh quyết tâm cuối cùng, theo sự phát triển mới của tình hình. Bộ Chính trị đã phân tích và nhận thấy rằng, diễn biến cơ bản của tình hình trong gần 2 năm qua rõ ràng là ta đang ở thế thắng, thế đi lên, thế chủ động và thuận lợi, địch đang ở thế thua, thế đi xuống, thế bị động và khó khăn, chiều hướng này không thể đảo ngược lại được. Từ đó, Bộ Chính trị kết luận: " Chúng ta đang đứng trước thời cơ chiến lược lớn, chưa bao giờ ta có đầy đủ điều kiện về quân sự và chính trị như hiện nay, có thời cơ chiến lược to lớn như hiện nay để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới hoà bình , thống nhất Tổ quốc". Bộ Chính trị hạ quyết tâm " Động viên nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng , toàn dân, toàn quân ở cả hai miền, trong thời gian 1975-1976, đẩy mạnh đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị kết hợp đấu tranh ngoại giao, làm thay đổi nhanh chóng và toàn diện so sánh lực lượng trên chiến trường miền Nam theo hướng có lợi cho ta, tiến hành khẩn trương và hoàn thành công tác chuẩn bị mọi mặt, tạo điều kiện chín muồi, tiến hành tổng công kích- tổng khởi nghĩa, tiêu diệt và làm tan giã nguỵ quân, đánh đổ nguỵ quyền từ trung ương đến địa phương, giành chính quyền về tay nhân dân, giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà".

   Bộ Chính trị quan tâm rất nhiều đến vấn đề thời cơ trong 2 năm 1975- 1976, cần phải có kế hoạch lợi dụng thời cơ, nên đã chuẩn bị một phương án khác và một phương hướng hành động cực kỳ quan trọng là: nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975.

   Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10.1974 và tháng 1.1975 có ý nghĩa lịch sử trọng đại. Bộ Chính trị đã phân tích chính xác sự phát triển của tình hình, hạ quyết tâm và đề ra phương hướng hành động vô cùng đúng đắn cho quân và dân cả nước trước thời cơ lớn. Đó chính là ngọn đuốc soi đường dẫn đến cuộc đại thắng mùa xuân năm 1975.
« Sửa lần cuối: 25 Tháng Mười, 2008, 12:14:55 pm gửi bởi dongadoan » Logged
phuong
Thành viên
*
Bài viết: 166


« Trả lời #4 vào lúc: 24 Tháng Mười, 2008, 09:05:38 pm »

 Câu 004: Xin cho biết vài nét về chiến thắng Phước Long.

   Cuối năm 1974,tình hình so sánh lực lượng ở miền Nam thay đổi nhanh chóng có lợi cho cách mạng Việt Nam. Từ ngày 30.9.1974 đến 8.10.1974, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp để nhận định, đánh giá tình hình và đề ra nhiệm vụ mới.  Bộ Chính trị nhận định " Chúng ta đã thúc đẩy thời cơ chín muồi, đã tạo được những yếu tố chiến lược quan trọng để tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn". Và Hội nghị nhất trí thông qua phương án giải phóng miền Nam trong hai năm 1975- 1976. Từ nội dung cơ bản của Nghị quyết Bộ Chính trị, cuối tháng 11.1974  Trung ương Cục họp và ra Nghị quyết 15 quyết định mở đợt hoạt động mùa khô 1974- 1975. Nội dung chính của kế hoạch mùa khô 1974- 1975 ở miền Đông Nam bộ là " Hoàn chỉnh khu giải phóng cách mạng, nối liền hành lang chiến lược từ biên gới xuống bờ biển phía đông xây dựng thành căn cứ địa vững chắc, liên hoàn, tạo thế bao vây Sài Gòn, giải phóng đường 14( dự kiến sẽ giải phóng Phước Long khi có điều kiện)".

   Sau một thời gian điều nghiên và chuẩn bị chiến trường, Trung ương Cục và Quân uỷ miền Nam quyết định mở chiến dịch mùa khô 1974- 1975 .  Chiến dịch được chia thành hai đợt:  đợt 1 từ tháng 12.1974 đến tháng 2.1975, đợt 2 từ tháng 3.1975 đến tháng 5.1975. Trong đợt 1 của chiến dịch, hướng chủ yếu được xác định là đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam Bộ. Mục tiêu chủ yếu ở chiến trường miền Đông Nam Bộ là đường 14 - Phước Long.

   Trong chiến dịch mùa khô 1974- 1975 từ tháng 12.1974 đến tháng 4.1975, lực lượng của Miền và Quân khu đã tiến công mạnh mẽ địch trên đường 14- Phước Long, giải phóng Bù Đăng, Bù Na, đánh chiếm chi khu Bù Đốp, tấn công địch ở Châu Thành, phía nam Chiến khu Đ, khu Đồng Xoài, diệt đồn bốt trên tỉnh lộ 1A, giải phóng đoạn từ Phước Vĩnh lên Đồng Xoài. Mất toàn bộ đường 14 và Đồng Xoài, tàn quân địch dồn hết về tiểu khu quân sự thị xã Phước Long, tổ chức phòng thủ để giữ vững vị trí quan trọng nằm sâu nhất trong vùng giải phóng của ta.

   Trong lúc địch hoang mang lúng túng , Bộ Tư lệnh Miền và Quân đoàn 4 hạ quyết tâm giải phóng Phước Long. Kế hoạch giải phóng Phước Long được Bộ Chính trị chấp thuận. Bởi hệ quả của nó có thể dẫn tới những tình huống phức tạp, cần được cân nhắc và quyết định sáng suốt.

   Thị xã Phước Long cách Sài Gòn 120 km vè phía đông bắc, nằm sâu trong vùng căn cứ Chiến khu Đ, có 50.000 dân. Địa hình Phước Long bao trùm rừng núi, có nhiều cao điểm. Đặc biệt phía nam thị xã và đông nam chi khu Phước Bình có núi Bà Rá cao 736m, địch dùng để khống chế toàn bộ thị xã, chi khu và sân bay Phước Bình.

   Tham gia chiến dịch Phước Long là lực lượng chủ yếu của Quân đoàn 4 phối hợp với các lực lượng vũ trang địa phương ( có cả hoả lực pháo binh, cao xạ, xe tăng, công binh)). Trận đánh vào Phước Long bắt đầu từ 5 giờ 30 phút ngày 31.12.1974. Ngày 1.5.1975, quân ta chiếm cao điểm Bà Rá, truy quét và buộc địch rút cụm quân dịch ở thác Mơ, Hiếu Phong, Long Điền. Từ ngày 2.1 , tuyến phía nam Phước Long bị phá vỡ, quân ta đột phá vào trung tâm thị xã...trước nguy cơ mất Phước Long, Nguyễn Văn Thiệu triển khai kế hoạch đổ quân tiếp ứng, từ ngoài đánh vào... nhưng không thực hiện được, Chiều 6.1, Sư đoàn 9 đã chiếm được dinh Tỉnh trưởng. Thị xã Phước Long được giải phóng hoàn toàn. Quân ta giành thắng lợi vang dội trong chiến dịch Phước Long - đường 14. Trong chiến dịch này, quân và dân Bình Phước đã loại ra khỏi vòng chiến đâu hơn 3.000 tên địch, giải phong đường 14, thị xã và toàn tỉnh Phước Long với 50.000 dân.

   Phước Long thất thủ khiến Mỹ nguỵ bàng hoàng. Địch tập trung lực lượng tái chiếm, nhưng mọi toan tính của chúng đều bị thất bại. Kissinger, cố vấn Tổng thống Mỹ phải tuyên bố " Bỏ qua sự kiện Phước Long, đây chưa phải là một cuộc tiến công ồ ạt của Bắc Việt Nam". Phớt lờ lời kêu cứu của Thiệu, ngày 22.1 Tổng thống Mỹ lúc bấy giờ là G.Ford tuyên bố " Không có hành động khác nào ngoài việc bổ sung viện trợ cho Sài Gòn, sẽ không can thiệp vào Việt Nam nếu xét không phù hợp với hiến pháp và pháp luật".

   Chiến thắng Phước Long vào đầu năm 1975 là chiến thắng đầu tiên trong lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở miền Nam Việt Nam, mà nhân dân ta giành được quyền làm chủ trong phạm vi một tỉnh. Chiến thắng Phước Long đã góp phần cho Trung ương Đảng đánh giá đúng tình hình khả năng của Mỹ nguỵ, đề ra chủ trương chiên lược, quyết tâm giành thắng lợi hoàn toàn cuộc kháng chiến chống Mỹ. Nó mở đầu cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt và với quy mô rộng lớn nhất từ xưa đến nay trong mùa xuân 1975, góp phần kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
« Sửa lần cuối: 25 Tháng Mười, 2008, 12:15:12 pm gửi bởi dongadoan » Logged
phuong
Thành viên
*
Bài viết: 166


« Trả lời #5 vào lúc: 25 Tháng Mười, 2008, 08:49:59 am »

   Câu 005: Có phải thắng lợi ở chiến dịch Tây Nguyên đã dẫn đến sự sụp đổ dây chuyền của Mỹ nguỵ ?


   Trước những chuyển biến có lợi cho ta trên toàn chiến trường miền Nam. vào tháng 1.1974, Bộ Chính trị đã họp và thông qua phương án của Bộ Tổng Tham mưu chọ  chiến trường Tây nguyên làm hướng chiến trương chủ yếu trong cuộc tiến công mùa xuân 1975. Trong đó, thường trực Quân uỷ Trung ương đã có ý định chọn Buôn Ma Thuột làm điểm mở  màn cho chiến dịch Tây Nguyên.

   Tây Nguyên lúc này bao gồm 5 tỉnh ( theo địa lý quân sự địch) Kontum, Gia Lai, Phú Bổn, Đắc Lắc và Quảng Đức, là chiến trường rừng núi hiểm trở nối liền với vùng ven biển. Trên cơ sở vị trí địa lý hiểm trở của vung Tây Nguyên, Đại tường Võ Nguyên Giáp, Bí thư Quân uỷ Trung ương, kết luận xác định khu vực mục tiêu tiến công, nhiệm vụ của chiến dịch, hướng phát triển, sử dụng lực lượng...phải nghi binh rất nhiều làm cho địch tập trung vào việc bảo vệ phía bắc Tây Nguyên.

   Bộ Chính trị đã thống nhất cử Đại tướng Văn Tiến Dũng, Tổng tham mưu trưởng , thay mặt Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tham mưu vào chỉ huy mặt trận Tây Nguyên. Trong Bộ tư lệnh Mặt trận còn có các đồng chí Đinh Đức Thiện (Chủ nhiệm hậu cần) , Lê Ngọc Hiền (Phó Tổng tham mưu trưởng). Chiến dịch Tây Nguyên được mang mật danh" Chiến dịch 275".

   Về phía địch, tại đây có 1 sư đoàn chủ lực, 7 liên đoàn biệt động quân ( tương đương 10 trung đoàn) và 4 thiết đoàn xe tăng- thiết giáp. Trên đại thể, chúng bố trí thế phòng thủ hoàn chỉnh, nhưng do phán đoán sai ý định của ta nên chủ yếu tập trung quân lên phía bắc giữ Pleiku, Kontum, lực lượng ở Đắc Lắc ít hơn. Địch còn đánh giá sai lầm về ta: trong năm 1975 cộng sản chưa đủ sức mạnh đánh thị xã lớn, thành phố, mà dù có đánh cũng không giữ được khi bị phản kích.Vì vậy , tuy Buôn Ma Thuột là vị trí xung yếu nhưng địch bố trí không mạnh lắm, có nhiều sơ hở, càng vào bên trong lực lượng càng mỏng.

   Lực lượng ta tham gia chiến dịch Tây Nguyên gồm quân chủ lực của Tây Nguyên , của Bộ Tổng Tư lệnh và của Quân khu 5, được chuẩn bị tương đối tốt, nhiều đơn vị có kinh nghiệm chiến đấu trên địa hình rừng núi. So với địch, ta chiếm ưu thế về binh lực và hoả lực. Trận then chốt mở màn chiến dịch Tây Nguyên được xác định là thị xã Buôn Ma thuột, phải đột phá dũng mãnh, nhanh chóng tiêu diệt địch, đánh chiếm mục tiêu, đồng thời phải bẻ gãy cánh quân phản kích nhằm chiếm lại thị xã, nhất là phải giữ được yếu tố bí mật, bất ngờ. Đây  là kết quả của quá trình điều nghiên kỹ lưỡng, xem xét mọi vấn đề một cách khoa học, để đi đến quyết tâm chính xác và thể hiện nghệ thuật chiến dịch ở mức độ cao.

   Trước khi nổ súng đanh Buôn Ma Thuột, ta đã đưa quân lên phía bắc( vùng ngã ba biên giới) nghi binh thu hút sự tập trung của địch, khiến chúng vẫn bỏ lỏng Đắc Lắc, đồng thời đánh chiếm quận lỵ Thuần Mẫn ( đường 14), Thanh An ( đường 19), cắt đứt địch ở phía nam và phía bắc, đánh chiếm Đức Lập , Đắc Soong, Núi Lửa, mở thông hoàn toàn hành lang Đông Trường Sơn.

   Như vậy đến ngày 9.3.1975 , ta đã triển khai xong lực lượng cài thế chiến lược và chiến dịch, chia cắt Tây Nguyên với vùng đồng bằng, chia cắt phía nam với phía bắc Tây Nguyên, bao vây và cô lập thị xã Buôn Ma Thuột. Cuộc đấu trí giữa ta và địch kết thúc một bước, phần thắng đã nghiêng về ta. Đến lúc này, dù địch có biết chắc ta đánh Buôn Ma Thuột thì cũng đã quá muộn.

   Đúng 2 giờ sáng ngày 10.3.1975, bộ đội đặc công ém sẵn cho nổ một số vị trí quan trọng. Tiếp theo là những trận bão lửa của pháo binh ta dội xuống. Đồng thời xe tăng, xe thiếp giáp và xe ô tô chở bộ binh của ta từ các hướng ào ạt tiến vào thị xã. Đcịh hoàn toàn bất ngờ, bị động. Đến 17 giờ 30 phút , ta đã chiếm được sở chỉ huy tiểu khu Đắc Lắc và phần lớn thị xã. Địch bị tiêu diệt quá nửa. Đến lúc này, chóp bu địch ở Sài Gòn mới tá hoả là ta đánh Buôn Ma Thuột, nên rất lúng túng tìm cách ứng cứu, vì ta pháo kích mạnh vào các sân bay và cho quân phục sẵn ở các vị trí địch dự định đổ quân.

   Sang ngày 11.3, ta tấn công vào vị trí quan trọng cuối cùng của địch là sư đoàn bộ binh 23. Địch nguy khốn kêu cứu khi xe tăng và bộ binh ta tràn ngập từ bốn phía. Chúng kéo cờ trắng ở nhiều nơi. Đại tá Tỉnh trưởng  Nguyễn Trọng Luật kiêm Tiểu khu trưởng Đắc Lắc và sư đoàn phó sư đoàn 23 bị bắt. Đến 19 giờ 20 phút, ta đã cơ bản làm chủ Buôn Ma Thuột.

   Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương dự kiến địch bị tiêu diệt lớn và mất một số vị trí quan trọng nữa, nên có thể số còn lại sẽ co cụm ở Pleiku, cũng có thể chúng phải rút lui chiến lược, bỏ Tây Nguyên.  Đúng như dự kiến của ta, khi máy bay trực thăng đổ quân xuống vùng Phước An và phía tây sân bay Hoà Bình thì quân nguỵ đã chạy tán loạn dưới đạn pháo và đạn bắn thẳng của quân ta. Các đơn vị đổ bộ đường không của địch lần lượt bị tiêu diệt, số còn lại rút chạy , bỏ ngổn ngang xe, pháo, súng đạn...

   Có thể nói trận đánh Buôn Ma Thuột khởi đầu cho chiến dịch giải phóng Tây Nguyên là đòn " điểm huyệt" ác liệt đối với địch, nó tác động dây chuyền  dẫn đến sự sụp đổ không cưỡng nổi trên một số vùng rộng lớn. Cuộc tiến công Buôn Ma Thuột cũng bất ngờ đối với Tổng lãnh sự Mỹ ở Nha Trang là Moucrieff Spear. Ngày 13.3, sau khi nghe Howard Archer, trùm CIA ở Quân khu 2 báo cáo Pleiku đã nhanh chóng biến thành một thị xã ma, Spear đã cho di tản ngay các nhân viên không cần thiết.
« Sửa lần cuối: 26 Tháng Mười, 2008, 08:38:48 am gửi bởi phuong » Logged
phuong
Thành viên
*
Bài viết: 166


« Trả lời #6 vào lúc: 26 Tháng Mười, 2008, 09:11:36 am »

   Câu 006: Có phải chiến dịch Tây Nguyên là một đòn đánh làm cho Mỹ nguỵ bất ngờ cả về chiến lược và chiến thuật?


   Trong Chiến dịch Tây Nguyên, đòn giáng Buôn Ma Thuột đã làm cho Mỹ nguỵ hết sức bàng hoàng dẫn đến thảm hoạ  mất đứt cả vùng chiến lược rộng lớn và vô cùng quan trọng đối với chúng. Địch cố bưng bít thông tin để khỏi làm dao động tinh thần quân nguỵ trên chiến trường. Nhưng sự thật vẫn phơi bày nhanh chóng.

    Vũ Thế Quang Đại tá Sư đoàn trưởng Sư đoàn 23 nguỵ làm nhiệm vụ bảo vệ Tây Nguyên, sở chỉ huy đóng tại Buôm Ma Thuột, sau khi bị các chiến sĩ Sư đoàn 316 của ta bắt đã sợ hãi nói:
   " Đã từ lâu, tình hình trong tỉnh rất yên tĩnh, một số cuộc đụng độ nhỏ diễn ra vừa không quan trọng vừa ở những nơi rất xa thị xã. Ngoài trận thọc sâu năm 1968 với lực lượng nhỏ trong khoảng thời gian ngắn, không có một dấu hiệu nào nói lên khả năng đánh lớn của cộng sản ở đây. Việc bố trí quân của Quân khu 2 cũng chứng minh đã coi nhẹ Buôn Ma Thuột. Ở Con Tum có từ 3 đến 5 đơn vị cấp trung đoàn, Pleiku có 4 trung đoàn của sư đoàn 23 và Lữ đoàn 23 thiết giáp. Quảng Đức cũng có ít nhất một trung đoàn. Nhưng ở Buôn Ma Thuột nhiều lúc chẳng có một lực lượng lớn nào. Nếu có thì thường là những đơn vị được điều về ngắn hạn đẻ nghỉ ngơi hoặc làm nơi dừng chân trước khi chuyển đi hoạt động trên hướng khác. Do tình hình nhiều năm ít có đánh lớn tại khu vực, việc bố trí như vậy có phần hợp lý, nhưng sai lầm chính ở đây là chỗ cứng nhắc, thiếu linh hoạt, không thấy được đối phương rất biến hoá, luôn thay đổi cách đánh...

   Trận đánh thị xã của quân đội cách mạng là một trận hiệp đồng binh chủng mẫu mực. Ngoài việc chúng tôi bị nghi binh, thiếu chuẩn bị đối phó, sự phối hợp ăn ý giữa các binh chủng xe tăng, pháo binh, bộ binh của quân giải phóng đã làm chúng tôi bị bất ngờ, không kịp trở tay, mặc dù chúng tôi còn vài chục xe thiết giáp, đạn chống tăng và các loại khác đủ dùng...Cách đánh mới này của quân giải phóng làm chúng tôi tan vỡ mau lẹ. Chúng tôi không có cách nào chống đỡ, cứu vãn nổi".

   Những dòng tự thuật của Frank Snepp, một nhân viên CIA cỡ bự, cho thấy cả Mỹ và nguỵ quyền Sài Gòn đều hoàn toàn bất nhờ về chiến lược và chiến thuật, rất mù tịt về thời điểm, lực lượng và mục tiêu tiến công của các sư đoàn chủ lực của ta ở Tây Nguyên.

   " Quân đội Bắc Việt Nam mở đầu cuộc tiến công Buôn Ma Thuột trên Tây Nguyên ngày 1.3, bằng việc đánh chiếm làng nhỏ Đức Lập, một đồn duy nhất của Nam Việt Nam ở xa, giữa biên giới Campuchia và thị xã. Nhiều quân đội Bắc Việt Nam đánh các vị trí tiền tiêu dọc đường 19 giữa Pleiku và bờ biển, cắt hẳn con đường này. Ngày 4.3,việc duy nhất còn lại để hoàn thành giai đoạn đầu cuộc tiến công của ông Văn Tiến Dũng, đó là việc đánh cắt đường 14 giữa Pleiku và Buôn Ma Thuột . Trong khi đó ở Sài Gòn , tôi làm xong một bản nhận định về chiến lược của quân đội Bắc Việt Nam. Tôi dự kiến ít nhất sẽ có 4 sư đoàn Bắc Việt Nam định cô lập Huế và Đà Nẵng trong những tuần tới, còn những đơn vị khác sẽ đánh lấn ở vùng bờ biển phía nam Quân khu 1. Có thể đồng thời họ sẽ tấn công Quân khu 3 vào hệ thống đường xá phía nam, phía đông các thị xã Pleiku, Kontum và chung quanh Buôn Ma Thuột. Và tôi đã hoàn toàn lầm lẫn. Tôi đã không dự kiến được cộng sản sẽ đánh vào nơi nào đầu tiên. Ở sứ quán Mỹ tại Sài Gòn , chúng tôi không hề biết tướng Văn Tiến Dũng ở miền Nam Việt Nam, lại càng không biết ông đặt sở chỉ huy phía tây nam Buôn Ma Thuột để chuẩn bị tiến công thị xã. Quân tiếp viện của cộng sản kéo vào vùng này cũng không hề có ai biết. Nếu đúng là cộng sản chuẩn bị  mở một chiến dịch mùa khô mới thì không một ai trong chúng tôi biết mục tiêu chính của họ.

   Trưa ngày 1.3, cộng sản tiến công thị xã từ phía bắc và phía tây..., trận đánh kết thúc sau 30 giờ chiến đấu mà chính phủ Sài Gòn vẫn chưa có một ý niệm rõ ràng về những sự kiện đang xảy ra. Mãi tới ngày 14.3, họ mới biết được tin thị xã Buôn Ma Thuột đã mất. Nguồn tin tức duy nhất cho họ biết là những bức ảnh do không quân Mỹ và do người Việt Nam chụp. Những bức ảnh ấy hầu như không nói với chúng tôi điều gì cả..., nhưng điều ngược lại mới là sự thực: thị xã đã nằm trong tay quân Bắc Việt.

   Cuộc tổng tiến công Buôn Ma Thuột cũng bất ngờ đối với Tổng lãnh sự quán Mỹ tại Nha Trang là Muocrieff Spear. Ngày 13.3, sau khi nghe Howard Archer, trùm CIA ở Quân khu 2 báo cáo Pleiku đã nhanh chóng biến thành một thị xã ma, Spear đã cho di tản ngay các nhân viên không cần thiết".
« Sửa lần cuối: 26 Tháng Mười, 2008, 06:25:00 pm gửi bởi phuong » Logged
phuong
Thành viên
*
Bài viết: 166


« Trả lời #7 vào lúc: 26 Tháng Mười, 2008, 06:28:45 pm »

    Câu 007:  Xin cho biết vài nét về đòn tiến công chiến lược Huế- Đà Nẵng


   Sau khi địch bị thất bại nặng ở Tây Nguyên, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương kịp thời chỉ đạo mặt trận Trị Thiên. Quân đoàn 2 nhận rõ thời cơ, nhanh chóng chuyển hướng tiến công.

   Ngày 18.3, phán đoán địch có thể rút bỏ Huế, đưa sư đoàn 1 bộ binh vào Đà Nẵng và tổ chức phòng thủ từ đèo Hải Vân trở vào nam, Bộ Tổng tư lệnh chỉ thị cho Quân khu Trị thiên phải táo bạo đưa lực lượng thọc qua tuyến phòng thủ bên ngoài, cắt đứt đường số 1 và áp sát Huế, nhằm tiêu diệt sư đoàn 1, không cho chúng rút về Đà Nẵng, giải phóng Huế và toàn bộ tỉnh Quảng Trị. Tuyến phòng thủ phía bắc của địch bị vỡ một mảng lớn, buộc địch phải co về phòng thủ tuyến nam sông Mỹ Chánh.

   Tình hình rất nguy nhập nhưng tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh quân khu 1 nguỵ vẫn huyênh hoang tuyên bố " Việt Cộng phải bước qua xác tôi mới vào được cố đô Huế". Còn Thiệu thì ba hoa trên đài Sài Gòn " Bỏ Kontum, Pleiku để bảo toàn lực lượng, còn Đà Nẵng , Huế quân khu 3 sẽ phải giữ đến cùng".

   Đúng lúc này khi mất Tây Nguyên, phần đất của địch chỉ còn chừng ấy. Nhưng rõ ràng là quân khí của địch rất bấp bênh trước sức tiến công mãnh liệt của quân ta.

   Chấp hành mệnh lệnh của Bộ Tổng tư lệnh, nhày 21.3, ba hướng bắc, tây , nam, các lực lượng quân khu Trị Thiên và Quân đoàn 2 đồng loạt tiến công, vượt qua các tuyến phòng thủ của địch, hình thành nhiều mũi bao vây thành phố Huế, đánh thiệt hại nặng sư đoàn 1 nguỵ và lữ đoàn 147 thuỷ quân lục chiến, cắt đứt Huế và Đà Nẵng trên đường số 1 đoạn Mũi Né- Bái Sơn. Hàng ngàn xe di tản từ Huế vào Đà Nẵng phải quay lại trong cảnh hỗn loạn. Pháo binh tầm xa của ta áp chế mạnh căn cứ Đống Đa, Mang Cá và bắn phá sân bay Phú Bài. Đường bộ bị cắt, đường sông và đường không bị triệt, địch chỉ còn thoát theo cửa biển Thuận An và Tư Hiền về Đà Nẵng.

   Nắm được ý đồ tẩu thoát của địch, pháo binh ta khống chế chặt hai cửa này, không cho tàu địch vào đón quân rút lui. Cảnh xe tăng, xe bọc thép, xe chở bộ binh địch khéo ra kín đường tranh nhau chạy , bắn nhau trên đường phố để lấy đường hết sức hỗn loạn, lại bị pháo ta bắn, càng thương vong nặng.

   Sức đề kháng của địch gần như không còn . Ngày 25.3, các cánh quân của ta tiêu diệt và làm tan rã địch ở cửa Thuận An và Tư Hiền , đồng thời từ nhiều hướng tiến vào giải phóng thành phố Huế. Lúc 10 giờ 30 phút , lá cờ cách mạng được kéo lên cột cờ trước Ngọ Môn. Quần chúng đã phối hợp với các cánh quân làm cho địch càng nhanh chóng tan rã.

   Tiêu diệt sư đoàn 1 thiện chiến của Nguỵ, giải phóng Huế và toàn bộ Trị Thiên, ta đã giáng một đòn vào âm mưu co cụm chiến lược của địch, làm suy yếu và uy hiếp trực tiếp Quân đoàn 1 của nguỵ ở phòng tuyến phía bắc.

   Như vậy, trong vòng 10 ngày ta đã giành thắng lợi hoàn toàn trên mặt trận Trị Thiên - Huế, đập tan phòng tuyến mạnh nhất ở phía bắc của địch.

   Trong khi diễn ra cuộc tổng tiến công vào Huế, các lực lượng vũ trang quân khu 5 dưới sự chỉ huy của thượng tướng Chu Huy Mân và đồng chí Võ Chí Công, đã hoạt động đều khắp, cắt đứt đường 19, giải phóng Tiên Phước, Phước Lâm, đánh chiếm Tuần Dưỡng , cắt đường bộ từ Tam Kỳ ra Đà Nẵng, giải phóng Quảng Ngãi. Như vậy Quảng Nam, Đà Nẵng nằm trong thế bị chia cắt, cô lập. Tình hình của địch rất nguy kịch.

   Ngày 22.3, Quân uỷ Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh nhận định " địch đang rút bỏ Huế và không loại trừ khả năng rút bỏ Đà Nẵng", chỉ đạo Quân khu 5 chuẩn bị đánh Đà Nẵng theo phương án dã dự kiến.

  Việc ta giải phóng Quảng Ngãi, Tam Kỳ, Tuần Dưỡng, đánh chiếm căn cứ Chu Lai... tiêu diệt nặng sinh lực địch ở đây làm cho thế phòng thủ Đà Nẵng của địch bị uy hiếp thêm về phía nam. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ở Sài Gòn kêu gọi " tử thủ Đà Nẵng", Mỹ nguỵ cũng có ý định nếu không giữ được Đà Nẵng thì cũng phải "trì hoãn" một hai tháng để tranh thủ thời gian , bố trí lại thế phòng ngự chiến lược, đồng thời di tản dân hòng gây tác động chính trị xấu cho ta, đẩy mạnh hoạt động ngoại giao nhằm gây sức ép  để ta ngừng tiến công. Tham mưu phó Bộ Tổng tham mưu nguỵ, thiếu tướng Nguyễn Xuân Trang được lệnh hoả tốc ra Đà Nẵng kiểm tra tình hình và chuyển từ tổng kho Long Bình ra 20.000 khẩu súng để bổ sung cho các đơn vị tử thủ ở Quảng Nam- Đà Nẵng.

   Nhận định sau khi mất Huế, Tam kỳ, Quảng Ngãi, Chu Lai, địch dù muốn giữ Đà Nẵng cũng không được, Bộ Tổng tư lệnh quyết định mở mặt trận tiến công Đà Nẵng.

   Từ ngày 25.3, các lực lượng ta tiến nhanh áp sát thành phố, buộc địch phải bỏ kế hoạch co cụm ở Đà Nẵng mà dùng máy bay di tản cố vấn Mỹ và một phần lực lượng nguỵ. Pháo lớn của ta bắt đầu bắn vào sân bay Đà Nẵng, căn cứ Hoà Khánh nơi Bộ tư lệnh Sư đoàn 3 nguỵ trú đóng. Ngày 29.3, bộ binh và xe tăng thuộc Quân đoàn 2 cùng lực lượng vũ trang quân khu 5 từ bốn hướng tiến vào thành phố, chiếm sân bay Đà Nẵng, sân bay Nước Mặn, nhiều căn cứ khác và bán đảo Sơn Trà. Một số cơ sở cách mạng và biệt động thành phố chiếm cầu Trịnh Minh Thế, cắm cờ trên toà thị chính, tự vệ và nhân dân cùng bộ đội truy quét tàn binh địch...

   Thế là trong vònh 32 giờ, ta đã tiêu diệt và làm tan rã hơn 100.000 tên địch ở Đà Nẵng. Với việc giải phóng Đà Nẵng, ta đã kết thúc quá trình tiêu diệt và làm tan rã hoàn toàn Quân đoàn 1 của nguỵ, xoá bỏ Quân khu 1, tạo điều kiện thúc đẩy nguỵ quân đi tới chỗ sụp đổ hoàn toàn.

   Đòn tiến công chiến lược Huế- Đà Nẵng diễn ra liên tục từ 18 đến 29 tháng 3 đã giành thắng lợi có ý nghĩa chiến lược hết sức quan trọng. Cùng với chiến thắng Tây Nguyên, chiến thắng Huế- Đà Nẵng đã làm thay đổi so sánh lực lượng về mặt chiến lược hoàn toàn có lợi cho ta, trực tiếp đánh bại âm mưu co cụm của địch, làm cho Sài Gòn suy yếu, tạo điều kiện cho ta tập trung điều kiện áp đảo địch tronh trận quyết chiến cuối cùng. Đây là một trong ba chiến dịch lớn chủ yếu trong mùa xuân 1975, đưa ta đến thắng lợi hoàn toàn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
« Sửa lần cuối: 27 Tháng Mười, 2008, 09:42:04 pm gửi bởi phuong » Logged
phuong
Thành viên
*
Bài viết: 166


« Trả lời #8 vào lúc: 27 Tháng Mười, 2008, 09:45:03 pm »

    Câu 008: Đây là căn cứ quân sự liên hợp lớn nhất của Mỹ nguỵ, là thành phố lớn thứ hai ở Miền Nam được giải phóng trong tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975.  Xin cho biết đó là thành phố nào.


   Đà Nẵng là căn cứ quân sự liên hợp lớn nhất của Mỹ nguỵ ở miền Trung, là thành phố lớn thứ 2 ở miền Nam được giải phóng trong Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975.

   Sau khi chiếm được Huế, Tam Kỳ, Quảng Ngãi, Chu Lai, ta nhận định địch dù muốn giữ Đà Nẵng cũng không được, Bộ Tổng tư lệnh quyết định mở mặt trận tiến công Đà Nẵng.

   Để chỉ huy trận đánh quan trọng này, ngày 25.3, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương quyết định lập mặt trận Quảng Đà do trung tướng Lê Trọng Tấn làm Tư lệnh và Thiếu tướng Chu Huy Man làm Chính uỷ. Đại tướng Văn Tiến Dũng lệnh cho mặt trận sử dụng pháo của Quân đoàn 2 khống chế sân bay và cảng Đà Nẵng, Quân đoàn nhanh chóng cùng lực lượng Quân khu 5 tiêu diệt tập đoàn địch co cụm ở Đà Nẵng. Làm như thế sẽ đỡ cho chiến trường Nam Bộ trong những ngày tới.

   Từ ngày  25.3, thành phố Đà Nẵng lớn nhất miền Trung trở nên vô cùng hỗn loạn. Các lực lượng ta tiến nhanh áp sát thành phố, buộc địch phải bỏ kế hoạch co cụm ở Đà Nẵng mà dùng máy bay lên thẳng và Boeing di tản số cố vấn Mỹ và 1 phần lực lượng nguỵ. Tình thế bi đát, quan lính tranh nhau lên máy bay thoát thân, gây ra cảnh ẩu đả hỗn loạn. Có tên bị máy bay cán nát trên đường băng. Binh sĩ, sĩ quan cùng gia đình chen nhau chạy. Máy bay quá tải do nhiều tên bám vào càng trực thăng.

   Trong khi đó , sĩ quan,gia đình và binh lính từ Tây Nguyên và Phú Bổn tháo chạy về chật thành phố, gây ra cảnh cướp bóc, bắn giết, hãm hiếp phụ nữ...địch hoàn toàn không kiểm soát được tình hình. Hàng vạn lính mắc kẹt tại Đà Nẵng tuôn ra bán đảo Sơn Trà hòng thoát về phía nam bằng đường biển, gây ra cảnh chên lấn giẫm đạp tranh nhau xuống tàu, bọn lính đạp cả sĩ quan xuống biển. Tàu thuỷ quá tải muốn chìm , nhưng quan lính vẫn lao ra.Pháo lớn của ta bắt đầu bắn vào sân bay Đà Nẵng, căn cứ Hoà Khánh nơi Bộ Tư lệnh Sư đoàn 3 nguỵ trú đóng.

   Ngày 29.3,bộ binh và xe tăng thuộc Quân đoàn 2 cùng lực lượng vũ trang Quân khu 5 từ bốn hướng tiến thẳng vào thành phố, chiếm sân bay Đà Nẵng, sân bay Nước Mặn, nhiều căn cứ khác và bán đảo Sơn Trà. Một số cơ sở cách mạng và biệt động thành phố chiếm cầu Trịnh Minh Thế, cắm cờ trên toà Thị chính, tự vệ và nhân dân cùng bộ đội truy quét tàn quân địch...

   Thế là trong vòng 32 giờ, ta đã tiêu diệt và làm tan rã hơn 100.000 quân địch ở Đà Nẵng. Với việc giải phóng Đà Nẵng, ta đã kết thúc quá trình tiêu diệt và làm tan rã  toàn bộ Quân đoàn 1 của nguỵ, xoá bỏ Quân khu 1, tạo điều kiện thúc đẩy  nguỵ quân nhanh chóng đi tới chỗ sụp đổ hoàn toàn. Tường Ngô Quang Trưởng đã không giữ lời hứa tử thủ Đà Nẵng, mà đào tẩu bằng máy bay lên thẳng ra tàu chiến  chạy một mạch về Sài Gòn và vào luôn quân y viện Cộng Hoà (nay là Quân y viện 175).


   
« Sửa lần cuối: 28 Tháng Mười, 2008, 07:38:25 pm gửi bởi phuong » Logged
phuong
Thành viên
*
Bài viết: 166


« Trả lời #9 vào lúc: 28 Tháng Mười, 2008, 07:42:27 pm »

    Câu 009: Chiến dịch giải phống thành phố   Sài Gòn- Gia Định mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh được quyết định vào thời điểm nào?

   Sau khi giải phóng Tây Nguyên và các tỉnh ở miền Trung , vào đầu tháng 4.1975, các cánh quân của ta đều hướng về phía nam chuẩn bị cho một cuộc hội quân lớn để giải phóng Sài Gòn. Trước tình thế ngày càng khẩn trương, các vị tướng lĩnh chỉ huy chiến dịch cũng chuyển vào Nam bộ và gặp nhau ở căn cứ của Miền ở khu vực Tà Thiết- Lộc Ninh.Tại đây đã có mặt các đồng chí trong Trung ương Cục và Bộ Tư lệnh Miền: Phạm Hùng , Nguyễn Văn Linh, Văn Tiến Dũng, Trần Nam Trung, Trần Văn Trà, Phan Văn Đáng, Võ Văn Kiệt, Nguyễn Văn Xô, Lê Đức Anh, Lê văn Tưởng , Đồng Văn Cống, Lê Ngọc Hiền, Đinh Đức Thiện, Lương Văn Nho. Chiều 7.4, đồng chí Lê Đức Thọ cũng đã vào tới Tà Thiết.

   Ngày 8.4, trong cuộc họp đông đủ của Trung ương Cục, Quân uỷ và Bộ chỉ huy Miền, có thêm cán bộ của Bộ Tổng Tư lệnh tham dự, đồng chí Lê Đức Thọ phổ biến nội dung nghị quyết của Bộ Chính trị họp ngày 25.3 tại Hà Nội. Cuối cuộc họp đồng chí phổ biến quyết định của Bộ Chính trị thành lập Bộ Tổng Tư lệnh chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định gồm các đồng chí: Văn Tiến Dũng- Tổng Tư lệnh, Phạm Hùng - Chính uỷ. Các phó tư lệnh: Trần Văn Trà, Lê Đức Anh, Đinh Đức Thiện, phó tư lệnh phụ trách hậu cần, Lên Ngọc Hiền, Tham mưu trưởng.

   Sang ngày 22.4.1975, bổ sung thêm Lê Trọng Tấn làm phó Tư lệnh, Lê Quang Hoà làm phó Chính uỷ.

   Bộ chỉ huy chiến dịch sử dụng các cơ quan tham mưu chính trị, hậu cần vốn có của Miền để làm việc, có tăng cường thêm một số cán bộ của đoàn A75 vừa ở Tây Nguyên tới và từ Bộ Tổng tham mưu phái vào.

   Thời gian hết sức khẩn trương, Bộ Chính trị chỉ thị cuộc tổng công kích vào Sài Gòn càng sớm càng tốt.

   Trong không khí náo nức của, sôi động chiến trường, lần lượt các Bộ Tư lệnh quân chủng, binh chủng, quân đoàn đến sở chỉ huy chiến dịch nhận nhiệm vụ. Riêng đối với Quân đoàn 4, Quân đoàn 2, Sư đoàn 3 của Quân khu 5 đang chiến đấu ở cánh đông, Bộ chỉ huy chiến dịch cử đại tá Lương Văn Nho (sau này là Phó Tư lệnh Quân khu 7) đi truyền đạt nhiệm vụ. Bản mệnh lệnh có chữ ký của đồng chí Phạm Hùng và Văn Tiến Dũng. Mệnh lệnh nêu rõ: Tất cả các binh đoàn thuộc cánh quân phía đông đều đặt dưới quyền chỉ huy của đồng chí Lê Trọng Tấn, tác chiến theo kế hoạch thống nhất của Bộ Chỉ huy chiến dịch.

   Sau khi thành lập Bộ Chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn và điểm các cánh quân trên các hướng, các đồng chí trong Bộ Chỉ huy thao thức , trăn trở nhớ đến Bác Hồ, Người đã suốt đời hi sinh tất cả cho sự nghiệp giải phòng dân tộc. Nhớ tên Bác đã được đặt cho thành phố Sài Gòn , Bộ Chỉ huy chiến dịch nhất định đặt tên chiến dịch tổng công kích và nổi dậy giải phóng Sài Gòn với ý nghĩa và quy mô lớn nhất trong cuộc chiến tranh giải phóng đất nước, là Chiến dịch Hồ Chí Minh. Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương thông qua quyết tâm và kế hoạch giải phóng Sài Gòn - Gia Định. Hồi 17 giờ 50 phút ngày 14.4.1975, bức điện số 37/TK của đồng chí Lê Duẩn- Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng gửi đến mặt trận Sài Gòn " Đồng ý chiến dịch Sài Gòn lấy tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh".

   Như vậy, 95 năm trước, Sài Gòn là nơi Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước. Sài Gòn và cả miền Nam đi trước về sau trong suốt 30 năm kháng chiến lâu dài. Giờ đây, tên Bác gắn với một sự kiện lịch sử trọng đại sắp diễn ra, cho thấy tầm vóc to lớn của chiến dịch, tính triệt để và tất thắng của nó, đánh vào Sài Gòn như thế nào cho nhanh, chắc thắng, làm sụp đổ cả chế độ phản động, đập tan cả hệ thống tổ chức nguỵ quân, nguỵ quyền từ trung ương đến tận cơ sở, phá tan bộ máy chiến tranh, với bản chất phản động hiếu chiến, ngoan cố của bè lũ tay sai, đè bẹp ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ.
« Sửa lần cuối: 29 Tháng Mười, 2008, 08:02:29 am gửi bởi phuong » Logged
Trang: 1 2 3 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM