Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 04:58:48 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Ngọn lửa chiến tranh lạnh - Tập 3  (Đọc 73672 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #150 vào lúc: 01 Tháng Mười Một, 2008, 08:30:50 pm »


Khéo léo “giải quyết” vấn đề lãnh thổ

Khi một nhà báo đề xuất đến Triều Tiên và Việt Nam trung tâm của tình hình căng thẳng ở Châu Á, Đặng Tiểu Bình với cách nhìn rộng về đặc thù của nó, nói về việc các nước bị chia cắt làm đôi, sớm muộn sẽ được giải quyết. Mặc dù hiện nay Việt Nam đang phản đối chúng tôi. Nhưng, họ giải quyết thống nhất đất nước mình là chính nghĩa. Ngoài 2 nước Triều Tiên và Việt Nam ra, còn 2 nước Đức, 2 nước Trung Quốc. Những vấn đề này cần phải giải quyết 10 năm giải quyết không xong thì 100 năm sẽ giải quyết xong. Nguyện vọng này của các dân tộc và trào lưu này không thể có sức mạnh nào kháng cự nổi. Với câu nói ấy tờ “Bản tin buổi sớm” Nhật Bản bình luận nêu rõ Đặng Tiểu Bình có phong độ của một nhân vật vĩ đại.

Các nhà báo Nhật còn nêu lên vấn đề quy thuộc của “quần đảo Tiên Các”. Trung Quốc gọi “quần đảo Tiên Các” là “Điếu Ngư đảo” (Đảo Câu Cá) là đảo phụ thuộc của tỉnh Đài Loan, là lãnh thổ của Trung Quốc. Sau chiến tranh Giáp Ngọ bị cắt nhượng cho Nhật. Tháng 9 năm 1972, khi Thủ tướng Nhật sang thăm Trung Quốc đã yêu cầu Thủ tướng Chu Ân Lai xác nhận rõ quyền quy thuộc của đảo này.

Khi đó vì không để cho vấn đề khó giải quyết này trở thành vật trở ngại cho sự bình thường hoá mối bang giao Trung-Nhật, Chu Ân Lai nói: “Bây giờ chưa cần thảo luận. Trên bản đồ chưa đánh dấu, có dấu sẽ trở thành vấn đề”. Phía Nhật đã đồng ý về vấn đề đó. Ngày 10 tháng 8 năm 1978 Tanaca đã thảo luận với Đặng Tiểu Bình về vấn đề này. Lúc đó, đúng lúc sau khi hai bên tiến hành giao lưu về vấn đề đánh bắt cá trên mặt biển xung quanh đảo này của ngư dân Trung Quốc chưa được bao lâu, thì phía Anh muốn nhân dịp đưa Hiệp ước hoà bình hữu hảo, thừa thế yêu cầu Trung Quốc thừa nhận đảo này thuộc lãnh thổ Nhật.

Nét mặt Đặng Tiểu Bình rất bình tĩnh, ông nói; “Quần đảo Tiên Các” chúng tôi gọi là “đảo Câu Cá”. Cái tên ấy chúng tôi có hai cách gọi. Hai bên có cách nhìn không giống nhau. Khi đang thực hiện vấn đề bình thường hoá mối bang giao Trung - Nhật, hai bên chúng ta sẽ không đề cập đến vấn đề này. Có một số người muốn bới vấn đề này ra, làm cản trở việc phát triển mối quan hệ Trung - Nhật. Chúng tôi cho rằng Chính phủ hai nước tách vấn đề này ra là đúng với đạo lý nhìn xa thấy rộng. Để vấn đề này lại không vội gì, đợi 10 năm nữa cũng không sao. Đời sau chắc chắn thông minh hơn chúng ta, nhất định sẽ tìm được phương pháp hai bên đều có thể tiếp tục.

Khi một nhà báo nêu ra vấn đề khó khăn và tế nhị này, ngay lập tức cả hội trường căng thẳng, mọi người nín thở, chờ xem Đặng Tiểu Bình trả lời thế nào. Họ không thể nào nghĩ rằng Đặng Tiểu Bình lại dùng vấn đề quy thuộc lãnh thổ đã bị bao năm chiến tranh khói lửa của nhiều quốc gia để làm phương thức giải quyết vấn đề Trung Quốc dễ dàng và khéo léo như thế. Thế là, hội trường lại trở về không khí thoải mái.

Khi ông trả lời đến vấn đề có liên quan đến hiện đại hoá Trung Quốc, Đặng Tiểu Bình đã cho các nhà báo phương Tây thưởng thức phong cách đàng hoàng, chân thành thoải mái của ông. Ông nói: “Công cuộc hiện đại hoá thực hiện ở cuối thế kỷ này mà tôi vừa nói là chỉ trình độ tương đối tiếp cận với lúc đó. Thế giới đang tiến lên mạnh mẽ. Trình độ lúc đó của Nhật Bản khẳng định sẽ không như bây giờ. Chúng tôi phấn đấu để đạt trình độ bây giờ của Nhật, châu Âu và Mỹ thì không phải dễ dàng, cần phải đạt được trình độ của Mỹ sau 20 năm thì càng khó. Chúng tôi biết rất rõ những khó khăn này. Nhưng, chúng tôi vẫn xây dựng ý chí anh dũng tiến lên”. Để thực hiện “hiện đại hoá” phải có chính sách chính xác. Đó là chịu khó học tập, phải lấy kỹ thuật tiên tiến quốc tế hiện nay, phương pháp quản lý tiên tiến hiện nay làm khởi điểm cho sự phát triển của chúng ta. Trước hết phải thừa nhận sự lạc hậu của chúng ta, thừa nhận lạc hậu thì sẽ có hy vọng, chịu khó học tập hơn nữa. Đến thăm Nhật Bản lần này là muốn học tập Nhật Bản. Chúng tôi học tập tất cả các nước phát triển. Tin tưởng rằng với thái độ này chúng ta có nhiều hy vọng vào chính sách và phương châm của mình.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #151 vào lúc: 01 Tháng Mười Một, 2008, 08:31:25 pm »


Chính sách của Nhật đối với Trung Quốc trong sự biến hoá chung

Mấy năm trước, chính sách đối với Trung Quốc của Nhật đã có sự thay đổi rõ ràng. Sách trắng phòng vệ Nhật Bản năm 1996 nhấn mạnh cái gọi là “Sự đe doạ từ phía Trung Quốc” lần đầu nêu ra rằng: “Trung Quốc đẩy mạnh hiện đại hoá chiến tranh hạt nhân và lực lượng hải, không quân, mở rộng phạm vi trên biển, diễn tập quân sự xung quanh Đài Loan, từ đó dẫn đến sự căng thẳng trong vùng biển Đài Loan, cần phải hết sức chú ý đối với động hướng này”. Báo cáo nhận định về quan hệ quốc tế của Nhật viết: “Nhiều dấu hiệu chứng tỏ, Trung Quốc đang muốn trở thành một siêu cường và bá quyền. Đó là điều vô cùng nguy hiểm”.

Đối với thí nghiệm vũ khí hạt nhân hạn chế trước kia của Trung Quốc, cũng là vấn đề mà Nhật Bản kêu gào mạnh nhất.

Tạp chí “Sinh tồn” của Anh mùa hạ năm 1996 có bài viết:

Chính sách của Nhật Bản đối với Trung Quốc trong biên hoá chung: Từ chủ nghĩa. mậu dịch tự do đến chủ nghĩa hiện thực.

Hiện tại, các nhà quyết sách của Tôkyô đang đối mặt với một số áp lực mâu thuẫn lẫn nhau. Thông thường, các nhà lãnh đạo Nhật dựa vào sự hiểu biết chung của lợi ích quốc gia Nhật Bản. Hiện nay, nó đã được thay thế bằng nhiều lợi ích chung giống nhau, xem ra không có khả năng lớn để nhanh chóng xuất hiện phương châm, chính sách lớn được sự nhất trí hoàn toàn. Bởi vì những người coi Trung Quốc là cơ may kinh tế đều có lo lắng chung về sự “đe doạ từ phía Trung Quốc”.

Cùng với những điều đó, Tôkyô sẽ tìm tòi hàng loạt biện pháp khác. Trong đó có một số bổ sung chính sách nhất thể hoá hiện có. Ngoài ra, còn có một số cách làm sách lược ngăn chặn xuất hiện tình hình xấu nhất.

Nói theo nghĩa rộng, trước sau Nhật Bản sẽ chọn 4 cách làm để đối xử với Trung Quốc.

Cân bằng lực lượng, Nhật Bản yêu cầu Mỹ giữ vững thế lực quân sự tiền duyên để cùng với Trung Quốc cân bằng và ổn đinh khu vực châu Á Thái Bình Dương và tình hình chính trị của Nhật Bản. Tôkyô đã xác nhận rõ tác dụng của liên minh Nhật - Mỹ ở châu Á Thái Bình Dương. Một mặt tìm biện pháp tất yếu để giữ vững lời hứa xây dựng quốc phòng của Mỹ; Mặt khác lại không bắt Nhật Bản gánh vác nhiệm vụ chiến đấu mới để tăng cường đối kháng với Bắc Kinh. Vì vậy, trong thời kỳ giữa sự cân bằng lực lượng và chủ nghĩa mậu dịch tự do đối với Nhật không nhất định là chính sách loại trừ lẫn nhau. Nhưng, những hành động cân bằng kỳ diệu ấy rất dễ bị sự thay đổi mối quan hệ Trung - Mỹ làm đảo lộn.

Nhật Bản còn thưởng thức chính sách không chế Trung Quốc bằng “bàn tay nhung” để cân bằng sức mạnh với Trung Quốc không ngừng tăng cường ở khu vực châu Á Thái Bình Dương. Về phương diện Tôkyô tăng cường đối thoại an toàn với các nước đồng minh phương Đông và quyết định khôi phục viện trợ cho Mianma v.v... có thể thực hiện được một đợt.

Nói tóm lại, cuộc đấu tranh để cân bằng sức mạnh là vô cùng khó khăn đối với Nhật Bản. Bởi vì Nhật Bản đi khống chế Trung Quốc bằng sức mạnh không có trong tay và đơn phương độc mã, vì thế phải dựa vào sức mạnh của Mỹ. Nhưng Mỹ có thể không nhiệt tình. Như vậy đối kháng với Bắc Kinh có thể sẽ khiến cho Tôkyô quá sức không trụ nổi. Vì thế, Nhật Bản phải nhờ cậy vào sách lược khác để bổ sung cân bằng sức mạnh, đề xuất phương pháp tăng cường lực lượng quốc phòng, để đối phó với mậu dịch tự do có thể bị thất bại.

Chủ nghĩa đa biên, Nhật Bản đã thể hiện rõ, họ thích lợi dụng cơ cấu đa biên ở Đông Nam Á để gián tiếp ảnh hưởng đếnTrung Quốc. Như một quan chức Bộ Ngoại giao nói “Nhật Bản muốn nói những điều tốt đẹp với Trung Quốc trong trường hợp song phương, nói những điều không hay trong trường hợp đa biên”. Ngoài ra, Tôkyô còn tiếp tục lợi dụng cơ cấu kinh tế đa biên, nhu tổ chức hợp tác kinh tế châu Á Thái Bình Dương để làm cho Trung Quốc gia nhập hệ thống kinh tế khu vục. Đồng thời họ xúc tiến nhanh hơn Oasinhtơn, kết nạp Trung Quốc vào Tổ chức mậu dịch thế giới. Tuy cánh hữu và cánh tả Nhật Bản đều hoan nghênh cách làm đa biên này, nhưng Tôkyô ngày càng nhận ra rằng về răn đe và cân bằng lực lượng, những lợi ích mà chủ nghĩa đa nguyên đem lại rất hạn chế.

Biện pháp tăng cường trách nhiệm. Trong khi hai nước Trung - Nhật đang mưu tìm một chính sách an toàn khu vực mới sau chiến tranh lạnh thì Chính phủ Nhật Bản lợi dụng biện pháp tăng cường niềm tin chung để làm hoà dịu tình hình căng thẳng. Tôkyô đang yêu cầu tiến hành bàn bạc kỹ lưỡng để có khả năng thực hiện hơn Bắc Kinh, mở đầu của nó là bản kiến nghị năm 1993, tức là hàng năm đều tổ chức hội nghị thảo luận vấn đề an toàn của hai nước.

Nhật Bản ngày càng có nhiều những người lãnh đạo chính giới ý thức được rằng giải quyết vấn đề lịch sử là tiến thêm một bước quan trọng của sự tín nhiệm.

Biện pháp kinh tế, Nhật Bản sẽ sử dụng biện pháp kinh tế hiện có giá trị tượng trưng. Các chuyên gia về vấn đề Trung Quốc hy vọng năm 1995 sẽ cắt khoản viện trợ, chỉ là một sự phản ánh tạm thời đối với việc thử vũ khí hạt nhân của Trung Quốc. Nhưng, thủ đoạn này rất có thể là cái gậy lớn dùng để trừng phạt Trung Quốc một lần nữa.

Từ những năm 40 trở lại, chính sách đối với Trung Quốc của Nhật luôn luôn dựa vào 4 trụ cột. Đó là, an toàn, chính trị, lịch sử và kinh tế. Họ nắm một phương pháp có tính hoà giải, nhún nhường. Những cột trụ ấy hiện nay đều đã thay đổi. Nhật Bản đang thăm dò tìm đối sách mới đối phó với Trung Quốc - một nước có khả năng trở thành siêu cường trong khu vực.

Do đó, một khi quan hệ Trung - Nhật xấu đi trở thành thù địch đối kháng thì cả khu vực Đông Nam Á Thái Bình Dương sẽ bị thiệt hại. Cho nên ủng hộ Nhật Bản kéo dài chính sách đối với Trung Quốc vẫn là một việc làm thoả đáng. Đồng thời, Mỹ, Trung Quốc, các đồng minh phương Đông và các mặt hữu quan khác cần phải nhận thức được rằng cách làm của Nhật Bản đối với Trung Quốc không thể cử khư khư giữ mãi khuôn phép đã lỗi thời.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #152 vào lúc: 02 Tháng Mười Một, 2008, 02:33:38 pm »


Chương 22
QUAN HỆ TRUNG - MỸ NGÀY CÀNG GAY GẮT.
HAI BÊN NGA - MỸ KHÔNG NHÂN NHƯỢNG.
CHIẾN TRANH LẠNH ĐÃ CHẤM DỨT HAY CHƯA?
THỜI BÁO NEWOÓC - NHỮNG CHẤT VẤN VÀ NGHI NGỜ.



PHẦN 1
CUỘC CHIẾN THƯƠNG MAI TRUNG - MỸ


5 năm trắc trở

Từ năm 1991 đến nay, do có sự lục đục chính trị trong nội các Mỹ, quan hệ kinh tế hai nước Trung - Mỹ luôn rạn nứt và có những mâu thuẫn xảy ra. Nguyên nhân chính của sự bất đồng tập trung chủ yếu vào hai vấn đề là bảo vệ bản quyền trí tuệ và Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới. Do vậy đã vài lần Mỹ tung đòn trả đũa tuy nhiên vẫn chưa đủ mạnh nhưng cũng làm cho quan hệ hai nước ngày càng sa sút.

Ngày 26 tháng 4 năm 1991 Chính phủ Mỹ đã dựa vào điều 301 trong “Luật Thương mại năm 1974” đã tuyên bố. Trung Quốc là “Nước được hưởng ưu đãi nhất”. Trong điều này hàm ý chủ yếu là bảo vệ quyền lợi của mình trên thương trường quốc tế. Còn với những điều khác thì Mỹ trả đũa và cho là những nước làm ăn “không hợp lý”, “không chính đáng”. Căn cứ vào điều này Mỹ có thể tiến hành điều tra đối với những nước mà Mỹ cho là làm ăn “không chính đáng”, hơn nữa còn phải có sự thương lượng với các nước có liên quan và cuối cùng sẽ do Tổng thống quyết định thực thi nâng cao mức thuế, hạn chế nhập khẩu và chấm dứt những thoả hiệp có liên quan.

Vào ngày 27 tháng 5 Mỹ bắt đầu tiến hành điều tra vấn đề bản quyền trí tuệ đối với Trung Quốc. Về sau, hai bên đàm phán và chưa đi đến một thoả thuận nào, Mỹ tuyên bố trả đũa bằng việc thực hiện thuế quan đối với một số mặt hàng của Trung Quốc. Đêm ngày 17 tháng 1 năm 1992, trải qua 6 vòng đàm phán gay gắt, cuối cùng hai bên đã nhất trí về vấn đề bảo vệ bản quyền trí tuệ, đồng thời cũng vào đêm 17 tại Oasinhtơn đã diễn ra lễ ký bản ghi nhớ thông cảm lẫn nhau, cuối cùng Mỹ điều tra Trung Quốc theo “khoản 301 đặc biệt” và không còn xếp Trung Quốc là “Quốc gia trọng điểm” nữa. Từ đó để tránh một cuộc chiến trả đũa thương mại.

Bảo vệ bản quyền trí tuệ phù hợp với quốc sách phát triển cơ bản của Trung Quốc, là lợi ích của sự tiến bộ khoa học kỹ thuật và phát triển ngày nay, cũng là nhu cầu cấp bách của Trung Quốc trong việc phát triển hợp tác kinh tế kỹ thuật quốc tế. Kể từ tháng 7 năm 1993 trải qua 9 vòng bàn bạc kỹ lưỡng trong suốt 20 tháng. Đêm ngày 26 tháng 2 năm 1995 hai bên Trung - Mỹ đã đi đến thoả thuận về vấn đề bảo vệ bản quyền trí tuệ, nhằm tránh một cuộc chiến thương mại khốc liệt ngay trước mắt. Sau đó, Chính phủ Trung Quốc đã đề ra, chấp hành đầy đủ “Kế hoạch hành động bảo vệ và thực thi bản quyền trí tuệ”, hệ thống luật bản quyền trí tuệ của Trung Quốc đã được thế giới công nhận.

Mấy năm trở lại đây, Trung Quốc còn thành lập ban chấp pháp về bản quyền trí tuệ, đã thiết lập nên toà án xét xử và bảo vệ bản quyền. Căn cứ vào luật pháp đã xét xử một loạt vụ án, đã đóng cửa một số cơ sở sản xuất lậu và đã thiêu huỷ hàng triệu băng đĩa lậu. Tất cả những điều này thì ai ai cũng biết.

Tuy nhiên, đầu năm 1996, Thượng nghị viện Mỹ đã chỉ trích, hàng năm Trung Quốc đã đưa băng đĩa lậu trị giá 8 tỷ USD qua Ma Cao và qua các cửa khẩu sang Mỹ, làm tổn hại đến lợi ích của ngành thương mại Mỹ. Ngày 30/4 Chính phủ Mỹ lại vô cớ trách móc Trung Quốc không nghiêm chỉnh thực hiện những thoả thuận đã ký kết về vấn đề bản quyền năm 1995, coi Trung Quốc là một trong 35 quốc gia được hưởng “điều khoản 301 đặc biệt”. Ngày 13 và 14 tháng 5, đàm phán về luật bản quyền giữa 2 bên Trung - Mỹ một lần nữa tan vỡ. Ngày 15, Văn phòng đại diện thương mại Mỹ đã đơn phương tuyên bố. Kể từ ngày 17/6 các mặt hàng điện tử và dệt may của Trung Quốc xuất khẩu sang Mỹ phải chịu mức thuế nhập khẩu 100%. Cùng lúc đó Chính phủ Trung Quốc cũng gay gắt tuyên bố nhằm trả thù Mỹ, đối với các sản phẩm nông nghiệp, thức ăn gia súc, ôtô, và các linh kiện điện tử của Mỹ phải đánh thuế đặc biệt 100%. Vả lại, Mỹ đã trả đũa lại ngay bằng những đơn hàng kế tiếp. Cuộc chiến thương mại Trung - Mỹ lại sắp được châm ngòi.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #153 vào lúc: 02 Tháng Mười Một, 2008, 02:34:29 pm »


Chính sách: cây gậy và củ cà rốt

Một nhà báo nổi tiếng Mỹ nói: “Nước Mỹ cần phải áp dụng cách làm của Níchxơn đối với Trung Quốc, tăng cường đi lại, tiếp xúc và áp dụng những thủ đoạn kích động và đe doạ bằng vũ lực. Cách làm đó đã được Mỹ thực hiện suốt trong 20 năm, đến nay vẫn phát huy được tác dụng”. Thế là đãi ngộ tối huệ quốc trở thành củ cà rốt mê hoặc con người. Hạm đội 7 và “điều khoản 301 đặc biệt” đã trở thành cái gậy trong tay Mỹ hua lên.

Theo các chuyên gia phân tích, trong vấn đề bảo vệ bản quyền trí tuệ, Chính phủ Mỹ vẫn rơi vào lập trường mâu thuẫn đã công khai thừa nhận lập pháp bản quyền trí tuệ của Trung Quốc là hay nhất châu Á, nhưng lại không có đủ những bằng chứng thuyết phục.

Ngày 15 tháng 6 sau khi Mỹ khăng khăng đòi công bố xử lý Trung Quốc đối với đơn hàng trị giá 3 tỷ đô la, chẳng những gặp phải sự phản đối gay gắt từ phía Trung Quốc, mà còn dẫn đến việc các quan chức trong giới thương mại Mỹ trên toàn thế giới phải quan tâm, lo lắng.

Dư luận hầu như nhất trí rằng, nếu 2 bên Trung - Mỹ để xảy ra cuộc chiến thương mại thì người tiêu dùng của cả 2 nước sẽ gánh chịu sự thiệt thòi. Mức buôn bán 2 chiều sẽ giảm mạnh, nền kinh tế 2 nước sẽ chịu nhiều ảnh hưởng ở những mức độ khác nhau. Một vài nhân sĩ Mỹ cho rằng, cuộc chiến thương mại này sẽ không làm cho bên nào giành được phần thắng nhưng “Mỹ sẽ mất đi mấy chục ngàn cơ hội việc làm”.

Có dư luận đưa ra, nếu Mỹ vẫn kiên quyết trừng phạt Trung Quốc, thì nhìn về lâu dài, Mỹ sẽ để tuột mất thị trường Trung Quốc lớn nhất.

Thực tế đã chứng minh, nền kinh tế Trung Quốc vẫn duy trì, tăng trưởng, phát triển lành mạnh, hơn nữa, thị trường ngày càng được mở rộng. Đến năm 2000 tổng trị giá kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc sẽ đạt và vượt với mức 4 tỷ đô la. Giới kinh tế Thương mại Mỹ sẽ đứng trước một cơ hội hợp tác và phát triển thương mại mang tính lịch sử tại Trung Quốc. Một vài chính trị gia và dư luận châu Á phê phán Mỹ trong việc tiến hành trừng phạt thương mại đối với Trung Quốc. Chính là nhằm vào khu vực này “làm 1 nền chính trị cường quyền”, và đối với khu vực này tạo thành hậu quả không lường”, đồng thời “tổn hại đến nền kinh tế thế giới”. Họ đều nhất trí kêu gọi 2 bên Trung - Mỹ nên thông qua đàm phán để giải quyết vấn đề tranh chấp này.

Kể từ ngày 13 tháng 6 năm 1996 hai bên Trong - Mỹ đã bắt đầu chính thức đi vào bàn đàm phán trong vòng 5 ngày, nét chủ yếu của vòng đàm phán này là ép buộc Trung Quốc đóng cửa tất cả các xưởng sản xuất băng đĩa lậu và mở cửa thị trường ngành băng hình. Hai cái gọi là “đóng cửa” và “mở cửa” này của Mỹ rõ ràng là cái gậy treo củ cà rốt.

Cũng như thế, trên phương diện ủng hộ Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới, Mỹ cũng thể hiện là không muốn quan tâm, nhưng lại lo lắng Trung Quốc sẽ rút khỏi vòng đàm phán mà mất đi thị trường Trung Quốc. Cho nên, Mỹ buộc Trung Quốc phải giải quyết các tranh luận trong quan hệ kinh tế, thương mại với Mỹ, để cho Mỹ củng cố thêm quyền chính trị và lợi ích kinh tế. Mặc dù, Chính phủ Mỹ có thiện ý, và đối thoại mang tính xây dựng, Mỹ không muốn “đi lên bằng con đường cũ” và “trở lại thời kỳ chỉ trích và cô lập lẫn nhau”, nhưng đa số các chuyên gia về vấn đề quốc tế cho rằng cái cốt lõi của nó vẫn là vì “thúc đẩy lợi ích của Mỹ”.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #154 vào lúc: 02 Tháng Mười Một, 2008, 02:35:05 pm »


Hòa hoãn hai bên đều có lợi, đối đầu hai bên đều thiệt hại

Trong sự phát triển quan hệ kinh tế thương mại Trung - Mỹ đang ở giữa ngã ba đường, các chuyên gia và các ngành có liên quan đã chỉ rõ, 2 bên Trung - Mỹ “hòa hoãn thì 2 bên đều có lợi, đối đầu thì cả hai đều thiệt hại”. Nếu Trung - Mỹ tiến hành trả đũa lẫn nhau, thì Trung Quốc sẽ phải chịu sự tổn thất nhất định, mà Mỹ cũng phải gánh chịu sự thiệt hại, mà tổn thất 2 bên thì cũng không bên nào hơn bên nào.

Chính phủ 2 nước Trung-Mỹ đã ký Hiệp định thương mại vào ngày 7 tháng 7 năm 1979 hai nước đã được ưu đãi, tối huệ quốc. Từ đấy, con đường thương mại 2 nước đi trên một bước phát triển mới. Vào những năm 90, quan hệ kinh tế 2 nước Trung - Mỹ đã xuất hiện những mặt tích cực và cải thiện. Nhất là, khi Tổng thống Bin Clintơn tuyên bố vô điều kiện kéo dài việc cho Trung Quốc tối huệ quốc vào năm 1994, 1995 và thoát khỏi cái móc nhân quyền, quan hệ kinh tế thương mại.

Đương nhiên, trên con đường phát triển quan hệ kinh tế thương mại Trung - Mỹ không phải lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió, trong thời gian đó cũng gặp phải không ít khó khăn. Nhưng trong mọi cố gắng của cả hai bên, thì sự hợp tác thương mại kinh tế của hai nước Trung - Mỹ đã giành được những thành tích đáng kể. Theo thống kê của phía Trung Quốc, kim ngạch thương mại 2 bên đã tăng từ 2 tỷ rưỡi đô la năm 1979 lên 40,8 tỷ đô la năm 1995, tốc độ tăng trưởng bình quân năm là 20% cho đến cuối năm 1996. Mỹ đã đầu tư hơn 20.000 hạng mục tại Trung Quốc, trên thực tế đã vượt mức 10 tỷ đô la, Mỹ trở thành bạn hàng lớn thứ ba của Trung Quốc, Trung Quốc là bạn hàng lớn thứ sáu của Mỹ, mà từ tình hình xuất khẩu hàng hóa phân tích, thương mại 2 bên có tính tương hỗ rất mạnh. Trong lĩnh vực đầu tư, đầu tư cho nhau không những đã tạo rất nhiều cơ hội việc làm cho các nước mà còn thúc đẩy giao lưu về văn hóa, kỹ thuật giữa hai bên. Công bằng mà nói, sự lâu bền của hai bạn hàng kinh tế mậu dịch Trung - Mỹ ngày càng lớn.



Trung Quốc không muốn châm ngòi chiến tranh - không sợ đòn trừng phạt

Là một quốc gia có chủ quyền; lập trường của Trung Quốc rất rõ ràng đúng đắn. Vụ trưởng Vụ tư pháp Bộ Thương mại với nước ngoài Trương Nguyệt Giao đã nhiều lần cho biết: Trung Quốc bảo vệ thành quả bản quyền trí tuệ Mỹ không dễ dàng phủ nhận, nên tách riêng hiện tượng xâm phạm bản quyền với hành động của Chính phủ, rất nhiều nước đang dốc sức chống lại tệ nạn buôn lậu ma túy nhưng cũng không hoàn toàn diệt được tận gốc như các loại tội phạm. Đồng thời, cũng phải thừa nhận rằng, Trung Quốc là một quốc gia lớn với 1,2 tỷ dân, nếu muốn cho mỗi người dân hiểu được và chấp hành pháp luật thì cần phải có một thời gian. Hiện nay, Trung Quốc đang chống lại việc ăn cắp bản quyền, và sức ép bên ngoài càng lớn. Như vậy là không công bằng.

Đối với những nét chính trong đàm phán là mở rộng thị trường băng đĩa, Trương Nguyệt Giao cho biết: Còn lại 22 doanh nghiệp sản xuất đĩa CD thì chỉ có 4 doanh nghiệp là của Trung Quốc tự đầu tư sản xuất, tất cả các doanh nghiệp khác đều là xí nghiệp liên doanh. Ngay cả “thời báo Niuoóc” cũng đưa ra kết luận sau khi Chính phủ Bin Clintơn tiến hành điều tra các nhà máy của Trung Quốc: Các nhà máy của Trung Quốc ăn cắp bản quyền bắt nguồn từ nước ngoài: Theo báo cáo điều tra, hầu như tất cả các doanh nghiệp đều có một bộ phận kinh doanh ở nước ngoài. Trong đó có một vài công ty là bạn hàng và các nước đồng minh thân cận với Mỹ tiến hành hoạt động. Vì vậy, tờ báo này đưa ra chất vấn: Trung Quốc phải chăng phịu trách nhiệm trong việc ăn cắp bản quyền sản phẩm Mỹ?

Trước vòng đàm phán 5 ngày vào ngày 13 tháng 6 Chính phủ Trung Quốc một lần nữa nhấn mạnh, Trung Quốc không muốn nổ ra cuộc chiến thương mại, nhưng Trung Quốc cũng không sợ đòn trừng phạt, đồng thời Trung Quốc cũng không sợ áp lực và sức mạnh quyền lực. Để mà uy hiếp và trừng phạt lẫn nhau đối với việc giải quyết những tranh chấp thì không mang lại lợi ích gì, ngược lại sẽ làm cho sự chia rẽ càng thêm phức tạp, giảiquyết sự chia rẽ giữa các quốc gia thì chỉ có một con đường duy nhất là bình đẳng thỏa hiệp.

Quyết tâm bảo vệ bản quyền trí tuệ của Trung Quốc là rất cương quyết, hành động thiết thực, đây là nhu cầu thiết yếu của chính mình, và không có sự cưỡng ép.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #155 vào lúc: 02 Tháng Mười Một, 2008, 02:37:42 pm »


PHẦN 2
QUAN HỆ TRUNG - NGA KIỂU MỚI


Quan hệ Trung-Nga phát triển vững chắc

Trung Quốc và Nga là hai nước láng giềng, có chung 4.000 km biên giới. Nhân dân hai nước đã có truyền thống hữu nghị. Sau khi Nga độc lập, qua sự cố gắng chung của hai bên, quan hệ hai nước Trung - Nga phát triển ổn định, tràn đầy sức sống. Trong các lĩnh vực chính trị, thương mại, khoa học, văn hóa và quân sự v.v... đều thiết lập sự hợp tác có hiệu quả chưa từng có, đặc biệt là chuyến viếng thăm Trung Quốc của Tổng thống Ensin tháng 12 năm, 1992 và trong thời gian thăm Nga tháng 9 năm 1994 của Chủ tịch Giang Trạch Dân. Hai bên đã ký “Tuyên bố chung Trung-Nga” và một loạt văn kiện quan trọng khác, nhắc lại Trung-Nga không sử dụng vũ khí hạt nhân đầu tiên, tuyên bố hai bên không dùng tên lửa chiến lược đế nhằm vào đối phương, đặt nền móng vững chắc cho xây dựng tình hữu nghị lâu dài hướng tới thế kỷ 21.

Tháng 5 năm 1995 Chủ tịch Giang Trạch Dân lại đến Mátxcơva dự lễ kỷ niệm 50 năm thắng lợi của cuộc chiến tranh chống phát xít, đã gặp Tổng thống Ensin, hai bên nhất trí tiếp tục nỗ lực chung để xây dựng quan hệ hợp tác hữu hảo lâu dài và ổn định. Tiếp đó, Thủ tướng Lý Bằng đã chính thức thăm Nga vào tháng 6. Sự thường xuyên tiếp xúc và gặp gỡ của những người lãnh đạo hai nước Trung-Nga đã thúc đẩy hai nước phát triển “quan hệ bạn bè có tính xây dựng” hướng tới thế kỷ 21



Bô rít Ensin thăm Trung Quốc

2 giờ 40 phút chiều ngày 24 tháng 4 năm 1996, chiếc chuyên cơ màu bạc từ từ đáp xuống sân bay Nam Ninh. Tổng thống Borit Ensin và phu nhân Lana bước xuống cầu thang máy bay, bước lên tấm thảm đỏ. Ra đón đoàn có bộ trưởng Bộ Lao động Lý Bá Dũng, Thứ trưởng Bộ ngoại giao Trương Đức Quảng, Đại sứ quán Trung Quốc tại Nga Lý Phong Lâm.

Hai thiếu nữ Trung Quốc và hai thiếu nữ Nga chạy lên tặng hoa cho Tổng thống Ensin và phu nhân.

Sau đó Tổng thống Ensin cùng đoàn đi đến phía đội danh dự đã chờ sẵn từ trước.

Đoàn mô tô hộ tống đưa đoàn đi về phía thành phố.

Đây là lần thứ hai Ensin đến thăm Trung Quốc trong vòng hơn 3 năm lại đây. Trong thời gian ở thăm, Chủ tịch Giang Trạch Dân đã tiến hành hội đàm với ông. Thủ tướng Quốc vụ viện Lý Bằng và Uỷ viên trưởng Uỷ ban Thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc Kiều Thạch đã lần lượt hội kiến với ông.

Chuyến thăm Trung Quốc lần này của Ensin, ngoài việc cùng với Chủ tịch Giang Trạch Dân ký “Tuyên bố chung Trung-Nga ở Bắc Kinh ra, hai nước Trung-Nga còn ký mười mấy văn kiện khác. Ở Thượng Hải, Chủ tịch Giang Trạch Dân và Tổng thống Ensin cùng với Tổng thống của các nước Cadăcxtan, Tátgikixtan và Kirgidixtanđã cùng nhau ký kết Hiệp định tín nhiệm tăng cường lĩnh vực quân sự ở biên giới.

Sáng ngày 27 tháng 7 Borit Ensin đã kết thúc tốt đẹp chuyến thăm Trung Quốc 3 ngày, đáp chuyên cơ rời Thượng Hải bay về hướng thủ đô Cadăcxtan.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #156 vào lúc: 02 Tháng Mười Một, 2008, 02:38:48 pm »


Lợi ích của quan hệ Trung-Nga

Ngày 25 tháng 4 năm 1996 hai nước Trung-Nga công bố Tuyên bố chung. Tân Hoa xã có bài bình luận “Lợi ích của quan hệ Trung-Nga”.

Bài bình luận đã chỉ rõ:

Có thể tin tưởng, mối quan hệ Trung - Nga kiểu mới sẽ mang lại điều tốt đẹp cho nhân dân hai nước, mang lại hòa bình và sự phát triển cho cả loài người.

Cuộc đến thăm tiếp sau của Tổng thống Nga Borit Ensin cùng cuộc gặp gỡ chính thức lần thứ 3 giữa các nhà lãnh đạo tối cao của 2 nước và những lời phát biểu chung của hai nước Trung - Nga không chỉ đánh dấu mối quan hệ láng giềng hữu hảo Trung - Nga trước thềm thế kỷ 21 đã bước sang giai đoạn mới, mà còn xây dựng được mối quan hệ đúng đắn, lành mạnh, gợi mở hướng có lợi giữa các nước mạnh hiện nay trên thế giới. Trung-Nga với tư cách là quốc gia mạnh đã quyết tâm mở rộng mối quan hệ hợp tác bạn bè chiến lược trước thềm thế kỷ 21. Mối quan hệ quốc gia kiểu mới không liên kết - không đồi kháng - không chỉ trích đối với nước thứ 3 này đã phù hợp với lợi ích cơ bản của nhân dân 2 nước và cùng có lợi đồi với sự phát triển hòa bình, ổn định cộng đồng ở khu vực Âu, Á và toàn thế giới.

Trong cuộc hội đàm, Tổng thống Bôrít Ensin và Chủ tịch Giang Trạch I)ân cùng nhấn mạnh cần phải từ chiến lược toàn cục và tầm nhìn vươn tới của thế kỷ 21 để xây dựng và phát triển mối quan hệ Trung - Nga trước mắt và tương lai.

Thông cáo chung Nga - Trung được công bố ngày 25 tháng 4 là tuyên bố chung lần thứ 3, tiếp theo tuyên bố chung trên cơ sở quan hệ hai nước khi tổng thống Ensin thăm Trung Quốc tháng 12 năm 1992 đã ký với các nhà lãnh đạo Trung Quốc và tuyên bố chung của các nhà lãnh đạo hai nước đã ký kết khi Chủ tịch Giang Trạch Dân thăm Nga. Tuyên bố này rất phong phú và mở rộng. Hai nước đã xây dựng các nguyên tắc của quan hệ hữu bảo, tín nhiệm có tính chất lâu dài, ổn định và xây dựng. Chứng tỏ hai nước quyết tâm phát triển quan hệ bạn bè hợp tác chiến lược tín nhiệm bình đẳng hướng tới thế kỷ 21.

Trên thực tế, hai nước Trung - Nga đã xây dựng quan hệ trên mô hình mới, xây đắp nên một nền tảng chính trị tốt đẹp.

Trong nhiều lần tuyên bố chung, hai bên đều nhấn mạnh cùng nhau tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm phạm và can thiệp vào nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, cùng nhau tôn trọng sự lựa chọn con đường phát triển của mỗi nước. Sự khác biệt về chế độ xã hội và ý thức hình thái, không ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của quan hệ hai nước. Không mưu cầu bá quyền khu vực và phản đối chủ nghĩa bá quyền, chính trị cường quyền với bất kỳ hình thức nào. Những nguyên tắc đã được xác lập này là sự bảo đảm có hiệu quả cho sự củng cố và phát triển quan hệ hai bên.

Những hiểu biết chung trong rất nhiều vấn đề quốc tế cùng với hiệp thương hợp tác trong giải quyết công việc ở Liên Hợp Quốc của hai nước Trung-Nga rất có lợi cho sự phát triển hòa bình thế giới.

Về mặt quân sự, hai nước Trung-Nga cam kết không sử dụng vũ lực. Nghĩa vụ đặc biệt hai bên là không sử dụng vũ khí hạt nhân trước tiên. Hai bên đều không được sử dụng vũ khí hạt nhân chiến lược nhằm vào đối phương. Tuyệt đại bộ phận tuyến biên giới Trung-Nga dài 4.300 km đã được cố định bằng luật pháp để tạo điều kiện xây dựng tình “láng giềng hữu hảo, hòa bình, an ninh” cho khu vực biên giới.

Về phát triển quan hệ hai bên, trong việc phát triển quan hệ song phương hai nước Trung-Nga tăng cường buôn bán, hợp tác kinh tế khoa học kỹ thuật được đặt vào vị trí hết sức quan trọng. Trung-Nga đã ký kết hàng loạt các hiệp nghị hợp tác, giúp cho sự bổ sung ưu thế của hai nước Trung-Nga biến thành hiện thực.

Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới ngày càng có khuynh hướng quốc tế hóa tập đoàn hóa, sự hợp tác kinh tế bình đẳng cùng có lợi của hai nước lớn Trung-Nga giúp sức xây dựng trật tự mới nền kinh tế thế giới và sự phát triển chung của các nước trên thế giới
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #157 vào lúc: 02 Tháng Mười Một, 2008, 02:39:32 pm »


Nga tiến xuống phía nam.

Trước khi Ensin thăm Trung Quốc, Tổng thống Mỹ Bin Clintơn đã sang thăm Nhật Bản và Hàn Quốc để tăng cường “hệ thống an ninh Nhật - Mỹ”. Xưa kia hai nước bá chủ thế giới vung roi tiến vế phía Đông. Sự thật làm cho người ta có cảm giác rằng thế giới nay đang ở trong trạng thái “Hòa bình lạnh”.

Tổng thống Nga Ensin mang theo chính sách phương Đông của ông đến Trung Quốc. Một quan chức trong Bộ Ngoại giao Nga giải thích chính sách này là “Phương hướng Trung Quốc” của nền ngoại giao Nga. Đó là một cách giải thích mới. Như vậy đối với Đông Á nó có hàm ý gì?

Chính sách phương Đông của Nga có thể khái quát bằng hai mặt: Một là ổn định Trung Á; Hai là phát triển phát triển về phía Nam. Chính sách này mang nội dung truyền thống chính sách phương Đông của dân tộc Nga, bây giờ nó được nhắc lại, không có gì mới. Có ý mới là bối cảnh hiện thực của nó.

Trong mấy năm trước khi bầu cử Nghị viện năm 1995, Nga luôn theo đuổi chính sách hợp tác với phương Tây. Nhưng chính sách này hiện nay đã vấp phải những lời kêu ca của nhiều cử tri.

Do sức ép của hiện thực này, buộc nước Nga phải phát triển về phía Đông.

Sau khi Liên Xô giải thể, các nước Trung Á trở thành một quốc gia độc lập có chủ quyền. Khu vực Trung Á cùng các nước Ixlam ở miền Nam đều có chung hình thái văn hóa và ý thức. Những quốc gia này tồn tại và chuyển mình về phía Nam, sẽ hình thành một vành đai nhạy cảm cực mạnh. Hình thế này, tất nhiên làm cho vành đai này càng thêm tan rã. Bởi vậy sự ổn định của Đông Á đã trở thành đề tài chiến lược to lớn của nước Nga. Trong tình thế này nước Nga không thể né tránh việc hợp tác với Trung Quốc. Do hai nước lớn bắt tay nhau, cân bằng lực lượng ở khu vực này, tổ chức lại vành đai biên giới. Khi Bôrít Ensin thăm Trung Quốc đã ký 5 hiệp ước với Trung Quốc và 3 nước Trung Á. Đây có thể xem như nước Nga mong muốn có một kết quả cụ thể của sự ổn định miền Trung Á.

Trong tình thế NATO mở rộng về phía đông, thế quân bình ở Đông Á có thay đổi, Nga có cảm giác bị thất bại và căng thẳng. Tuy Đông Á không phải là con đường chủ yếu để Nga tiến xuống phía Nam. Trên ý nghĩa truyền thống nhưng tình thế hiện nay đã thay đổi. Nền kinh tế của các quốc gia Đông Á đã tăng trưởng ổn định. Trước mắt là thị trường sôi động nhất của toàn cầu. Đồng thời ưu thế đất đai của Đông Á không ngừng phát triển. Nếu nói thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ của Thái Bình Dương, như vậy, Đông Á sẽ là mảnh đất chiến lược, nhạy cảm nhất của khu vực Thái Bình Dương.

Sau đại chiến thế giới 2, Mỹ giữ vai trò chủ đạo ở khu vực này. Những năm 60, sau khi Trung-Xô chia tay, nước Nga hầu như bị ra khỏi Đông Á; Sau chiến tranh lạnh lại bị trục xuất ra khỏi Đông Á, trong bối cảnh này, tiến vào Đông Á là một bộ phận hợp thành quan trọng trong chiến lược toàn cầu của Nga.

Vì thế, Nga coi việc phát triển quan hệ với Trung Quốc làm “bốt gác đầu cầu” để tiến vào Đông Á, cũng có thể nói là chơi con bài “Trung Quốc”. Trong tình hình Mỹ tăng cường tồn tại với các nước Đông Nam Á và tăng cường quan hệ với Nhật Bản, Nga thực thi chính sách tiến xuống phía Nam, có thể nói là không có lựa chọn nào khác.

Đương nhiên, Trung Quốc không nên đánh giá quá cao chính sách phương Đông của Nga, mà cần phải nhìn thấy, nước Nga thực hiện chính sách phương Đông là đã để mắt đến một hành động có tính chiến lược của thế kỷ 21. Trung Quốc cần phay nghiên cứu kỹ đối với sự tồn tại và ảnh hưởng, trong khu vực này của Nga. Trước hết phải xem xét đến ảnh hưởng to lớn của Nga đối với Đông Á.

Nếu quá tin tưởng vào dư luận chung nói rằng Nga chỉ là động cơ của chủ nghĩa cơ hội thì sẽ dẫn đến sai lầm trong việc đánh giá tình hình.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #158 vào lúc: 02 Tháng Mười Một, 2008, 02:43:46 pm »


PHẦN 3
SỰ BẤT ĐỒNG GIỮA NGA VÀ MỸ VỀ VẤN ĐỀ BOSNIA


Tình hình trước đây và hiện nay của vấn đề Bosnia

Nước Cộng hoà Bosnia và Hécscôvina (gọi tắt là Cộng hoà Bosnia) nằm ở phía tây bán đảo Ban căng, vốn là 1 trong 6 nước cộng hoà của Nam Tư cũ. Diện tích 51.129 km2 với dân số hơn 4 triệu người, do 3 dân tộc Ixlam, Xécbia và Croatia hợp thành.

Năm đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Nam Tư và Nguyên soái Titô, 4 năm đổ máu chống phát xít đã đánh đổi 170 vạn sinh mạng lấy nước Cộng hòa liên bang Nam Tư, một trận khá quyết liệt, chấn động toàn thế giới.

Nhưng sau này, do tác động của một số nhân tố trong và ngoài nước, chủ nghĩa dân tộc và tôn giáo mâu thuẫn, dẫn đến mất cân đối. Tháng 4 năm 1992, 3 dân tộc của Bosnia đã xảy ra tranh chấp, tranh cãi về vấn đề: Liệu có tách khỏi Nam Tư cũ hay không, đồng thời tạo thành cuộc nội chiến lớn nhất châu Âu kể từ sau chiến tranh thế giới thứ 2.

Trong thời gian nội chiến, Slovakia, Croatia và Bosnia, các nước phương Tây được thừa nhận độc lập một cách vội vàng đã đưa ra người hòa giải, phương án hoà bình mà họ đưa ra đều không được chấp nhận bởi các bên đều kiên định lập trường của mình.

Tháng 11 năm 1995, dưới áp lực của Mỹ, Tổng thống của 3 nước Cộng hoà Bosnia, nam liên minh Xecbia và Croatia đã đạt được hiệp nghị hòa bình.

Ngày 14 tháng 12 năm đó, hiệp nghị này được chính thức ký kết tại cung điện phủ Tổng thống Pháp. Đến đây tuyên bố kế thúc 3 năm 8 tháng nội chiến Bosnia.



Chiến tranh Bosnia, vì sao khó kết thúc

“Báo Hồng Tinh” của Nga khi nói về cuộc chiến tranh đau thương đã khiến 250 nghìn người chết và 2 triệu người trở thành vô gia cư này đã viết: “Bi kịch của NamTư, sở dĩ kéo dài như vậy là do các nước lớn khi hòa giải đều muốn xác lập địa vị của mình trong mối tương quan lực lượng của thế giới mới và châu Âu”

3 dân tộc chính của Bosnia là Ixlam, Xécbia, và Croatia lần lượt theo đạo Ixlam, và đạo Thiên Chúa giáo Truyền thống văn hóa và phong tục tập quán của họ không giống nhau, trong lịch sử có một số ân oán không rõ ràng. Đặc biệt là trong đại chiến lần 2, Bosnia đã từng xảy ra bi kịch 3 dân tộc tàn sát lẫn nhau, khi Nam Tư cũ bắt đầu giải thể, giữa các nhà lãnh đạo của 3 dân tộc Bosnia bắt đầu nảy sinh sự bất đồng. Hai dân tộc Ixlam và Croatia chủ trương Bosnia độc lập, nhưng dân tộc Xécbia kiên quyết phản đối, vì vậy thời kỳ đầu của nội chiến xuất hiện cục diện 2 dân tộc Ixlam và Croatia liên kết phản đối dân tộc Xécbia. Nhưng về vấn đề thể chế nhà nước, Ixlam chủ trương Bosnia duy trì thống nhất để có tác dụng chi phối Bosnia, nhưng 2 dân tộc Xécbia và Croatia không đồng ý liệt vào các dân tộc thiểu số. Vì vậy yêu cầu chia Bosnia làm 3 sau đó hợp thành liên bang. Sự chia. rẽ này lại dẫn đến 2 dân tộc Ixlam và Croatia sau này trở mặt thành thù, quyết sống mái với nhau.

Ý đồ của các nước phương Tây là lợi dụng cuộc nội chiến ở Bosnia để làm suy yếu Xécbia do người của Đảng Cộng sản cũ nắm quyền. Vì vậy cố gắng thi hành phương châm chiến lược lấy 2 dân tộc Ixlam và dân tộc Croatia đánh dân tộc Xéc.

Nga cố gắng ủng hộ nước đồng minh truyền thống của mình là Xécbia để tăng cường địa vị của các nước lớn và tranh giành ảnh hưởng trên bán đảo Ban căng. Mỹ xuất phát từ lợi ích của chiến lược Trung Đông, luôn đồng tình với nước Ixlam ủng hộ yêu cầu của Ixlam. Đồng thời, Mỹ còn lợi dụng nội chiến có Bosnia để kiềm chế các nước đồng minh Tây Âu nhằm duy trì ảnh hưởng của mình ở châu Âu vì vậy mà không thể giải quyết hòa bình trong xung đột Bosnia, chính là do cuộc tranh giành cấu xé lẫn nhau ở Bosnia của các nước lớn cộng đồng quốc tế vẫn chưa áp lộng hành động thiết thực có hiệu quả nào để kết thúc nguy cơ Bosnia.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #159 vào lúc: 02 Tháng Mười Một, 2008, 02:44:14 pm »


Đối đầu và đối thoại giữa Nga và Mỹ

Đầu tháng 9 năm 1995, NATO tiến hành oanh tạc liên tiếp trận địa Xéc trong vòng 2 tuần. Nga đã đưa ra tuyên bố về vấn đề này, nghiêm khắc lên án NATO “mưu đồ biến Bosnia thành chiến trường thử nghiệm để chứng minh “tác dụng mới” của mình trong công việc của châu Âu và Quốc tế, thi hành chính sách hủy diệt sắc tộc đối với dân tộc Xéc, đe doạ sự an toàn của Nga và châu Âu, đồng thời đưa ra lời cảnh báo, nếu tình hình tiếp tục diễn biến, Nga sẽ thi hành biện pháp tương ứng, tăng cường viện trợ cho dân tộc Xéc, xem xét lại “quan hệ bạn hàng hữu nghị với khối NATO” và Điều ước quân sự Quốc tế. Đồng thời Nga cũng vẫn tiến hành những nỗ lực ngoại giao yêu cầu NATO ngừng ném bom oanh tạc dân tộc Xéc, kêu gọi các bên xung đột ngừng chiến, kiến nghị lập tức triệu tập Hội nghị quốc tế và Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc, tìm biện pháp giải quyết về mặt chính trị.

Nhưng Mỹ không những không quan tâm tới lập trường của Nga mà còn dùng máy bay tuần tra, oanh tạc trận địa Xéc, đồng thời phao tin rằng trước khi dân tộc Xéc chưa chấp nhận hoàn toàn điều kiện của các nước phương Tây thì NATO quyết không thay đổi lập trường của mình, đó là dùng vũ lực đối phó với dân tộc Xéc. Quan hệ giữa Nga, Mỹ và khối NATO cũng vì thế mà ngày càng căng thẳng.

Oasinhtơn một mặt áp dụng chính sách lạm dụng vũ lực tăng cường tấn công và ném bom oanh tạc. Mưu đồ dùng biện pháp phá huỷ lực lượng quân sự để bắt buộc dân tộc Xéc phải chấp nhận phương án mới của Mỹ. Mặt khác lại cử trợ lý Quốc vụ khanh Hoorbok tích cực ngoại giao hoà giải ở khu vực Nam Tư cũ, thúc đẩy các bên xung đột ngồi vào bàn đàm phán. Thế là, Mỹ đã tấn công dân tộc Xéc, lại tăng cường ảnh hưởng và địa vị cửa mình ở bán đảo Ban căng, còn ngăn chặn ảnh hưởng của Nga.

Điều khiến Nga tức giận là NATO khi quyết định ném bom oanh tạc dân tộc Xéc, ký “những ghi nhớ và thông cảm lẫn nhau” với Liên Hợp Quốc đều không bàn bạc với Nga.

Ngoài ra, Nga và dân tộc Xéc vốn có quan hệ truyền thống trong lịch sử, các nước phương Tây dùng vũ lực tấn công dân tộc Xéc khiến cộng đồng Nga hoàn toàn không đồng ý. Các lực lượng xã hội tăng thêm áp lực đối với nhà lãnh đạo Mátxcơva yêu cầu áp dụng biện pháp cứng rắn đối với các nước phương Tây. Trước khi nghị viện Nga tiến hành tổng tuyển cử, các nhà lãnh đạo không thể không nghĩ tới tình hình, xã hội.

Ngày 14 tháng 9 năng 1995, phó Quốc vụ khanh Mỹ nhận lệnh của Tổng thống Clintơn đi thăm Mátxcơva “định giải quyết những bất đồng sâu sắc về vấn đề Bosnia giữa Nga và Mỹ”.

Hai bên đã bàn bạc, cùng nhau tìm ra một phương án giải quyết chính trị tình hình Nam Tư cũ. Sau khi phó Quốc vụ khanh Mỹ và Ngoại trưởng Nga tiến hành hội đàm “thẳng thắn và mang tính xây dựng”, Nga vẫn kiên trì yêu cầu NATO ngừng không kích, thực hiện ngừng chiến ở Bosnia, Mỹ đồng ý thay đổi tình hình hiện tại “từ chiến tranh hướng tới hoà bình”. Hai bên còn đồng ý lợi dụng ảnh hưởng của các bên xung đột ở Bosnia để đẩy mạnh việc giải quyết về mặt chính trị.

Thực ra trước khi phó Quốc vụ khanh Mỹ đến thăm Nga, Tổng thống 2 nước đã trao đổi thư từ, tỏ ý nỗ lực để lập trường của 2 bên tiến gần nhau hơn. Ngày 14, Tổng thống Enxin còn phủ quyết 2 quyết định của Đuma quốc gia Nga về việc xóa bỏ chế tài quốc tế đối với Nam Tư. Do xung đột Bosnia mà quan hệ Nga và Mỹ vốn căng thẳng nay xuất hiện dấu hiệu dịu lại.

Có dư luận phân tích rằng, Nga và Mỹ đều có lợi ở Ban căng và châu Âu, khó có thể giải quyết được bất đồng nghiêm trọng giữa 2 bên, nhưng trong tình thế hiện nay, Nga và Mỹ đều có những nhân tố chính trị, quân sự, để chế ước đối phương, hai bên đều không muốn tiếp tục đối kháng. Vì vậy 2 nước sẽ cùng mưu cầu hợp tác. Mục đích của ông chính là “phải ngăn chặn 2 nước xảy ra xung đột chiến lược”.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM