Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 06:30:00 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Sự tham gia của bộ đội tên lửa Liên Xô trong Chiến tranh chống Mỹ  (Đọc 108591 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #50 vào lúc: 01 Tháng Sáu, 2014, 11:38:32 pm »

Trích "Việt Nam không thể nào quên"


Đại tá Vodorez Leonid Fedorovich

Sinh ngày 14 tháng 11 năm 1931 tại thành phố Izium tỉnh Kharkov. Năm 1949 tốt nghiệp Câu lạc bộ Hàng không Kharkov khóa phi công và nhập học trường hàng không quân sự của các phi công tiêm kích Borisgleb mang tên V.P.Chkalov, tốt nghiệp năm 1952.

Phục vụ quân đội tại quân khu Ural với tư cách phi công, phi công chính, sĩ quan tùy tùng phi đội, phó tham mưu trưởng trung đoàn, trợ lý chính chủ nhiệm hướng lực lượng phi công tiêm kích - hoa tiêu chính Sở chỉ huy quân đoàn và binh đoàn.  

Từ 1977 đến 1984 - phó tham mưu trưởng về chỉ huy tác chiến - chủ nhiệm sở chỉ huy binh đoàn PK quốc gia.
Năm 1977 là học viên Học viện Chỉ huy quân sự bộ đội PK mang tên G.K.Zhukov.

Từ tháng 4 đến tháng 9 năm 1965 được cử đi công tác Việt Nam với cương vị chuyên gia chỉ huy tác chiến bộ đội PK và KQ, tham gia vào các hoạt động chiến đấu. Do hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ của chính phủ Liên Xô tại VNDCCH ông được tặng thưởng đồng hồ vàng của Nguyên soái Liên Xô Malinovsky và được nhắc tên cám ơn trong nhật lệnh.

Được tặng thưởng huân chương "Vinh dự" và mười hai huy chương, trong đó có huy chương Hữu Nghị và huy hiệu "Chiến sĩ Quốc tế". CCB bộ đội PK Liên Xô. Từ 1980 đến 1983 tham gia thực hiện nhiệm vụ của chính phủ tại nước CH Nhân dân Arab Libi XHCN Giamihyria (Libia).

Năm 1984 ra khỏi hàng ngũ quân thường trực bộ đội PK Liên Xô và chuyển sang ngạch dự bị.



CHUYẾN CÔNG TÁC BẮT ĐẦU NHƯ THẾ ĐẤY

Vào tháng 3 năm 1965 tôi đang phục vụ tại quân đoàn PK Cheliabinsk với cương vị hoa tiêu SCH - trợ lý chủ nhiệm hướng LLKQ tiêm kích.

Có một nhiệm vụ đặt ra cho kíp trực là dẫn đường cho một số lượng lớn các máy bay vận tải quân sự bay từ Tây sang Đông. Mà các máy bay được đánh dấu đặc biệt quan trọng. Tại SCH quân đoàn để lãnh đạo có mặt kíp trực tăng cường do trung tướng Savinov Fedor Ivanovich dẫn đầu.

Chuyến bay diễn ra trong chế độ im lặng vô tuyến hoàn toàn. Lập tức chúng tôi đoán ra hạm đội hàng không này di chuyển về đâu. Qua vài ngày tới chủ nhật có lệnh gọi tôi lên ban tham mưu quân đoàn gặp tướng Savinov. Ông tướng giao nhiệm vụ khẩn trương chụp ảnh trong quần áo dân sự và sáng sau phải có mặt ở bộ tham mưu tập đoàn quân tại thành phố Sverdlovsk. Không mang theo đồ đạc, quần áo là loại quân phục thường ngày. Buổi tối tôi đáp tàu Chelyabinsk-Sverdlovsk. Trên tàu tôi gặp hoa tiêu trưởng trung đoàn KQTK trung tá Bandurkin Vladimir Fedorovich cũng đi tới Sverdlovsk với cùng nhiệm vụ như vậy.  

Buổi sáng tại phòng khách tư lệnh binh đoàn tôi gặp một số sĩ quan các binh chủng khác nhau (tên lửa PK, radar, TTLL). Sĩ quan tùy tùng theo họ gọi từng người một vào phòng. Trong phòng chỉ có một mình trung tướng Grishkov. Ông mời ngồi bên cạnh và nói chuyện nhẹ nhàng cởi mở. "Thiếu tá Vodorez, - tư lệnh nói, - bản thân cậu chắc cũng hiểu chỉ có người xứng đáng với niềm tin tuyệt đối mới có thể đến đất nước đó. Tôi không muốn nói chuyện không hay, nhưng tiếc rằng trong chúng ta có những kẻ hèn nhát. Khi phục vụ thì nói những lời to tát về lòng yêu nước, tinh thần quốc tế mà thực tế chỉ là cây củi mục. Đấy, có một trung đoàn trưởng TLPK thuộc tập đoàn quân chúng ta, anh chàng kiên quyết từ chối chuyến công tác của chính phủ đến VNDCCH mà chẳng đưa ra được lý do nào. Tôi không muốn dọa cậu, nhưng chúng tôi phải đặt vấn đề loại cậu ta ra khỏi LLVT Soviet". Và ông hỏi gia đình tôi thế nào. Tôi đáp: "Vợ và hai con gái tôi, một cháu 8 tuổi một cháu 10 tuổi". Ông tướng nói nếu có bất cứ khó khăn gì hãy bảo vợ cậu gọi điện cho tôi, rồi ông cho số điện thoại. "Cậu hãy nói với vợ là đi thao trường huấn luyện 6 tháng". Nói đến đó rồi chúng tôi chia tay....

Chiều tối, 10 người chúng tôi bay đi Moskva. Tại sân bay Domodievo một trung tá quân y đón chúng tôi, một chiếc xe buýt đưa chúng tôi đến BTTM LLPKQG, đến thẳng phòng khách của TTMT Bộ đội PK, thượng tướng Tsyganov. Người ta giới thiệu cho chúng tôi Trưởng đoàn Chuyên gia Quân sự Soviet tại VNDCCH đại tá Dzyza Aleksandr Matveevitch - Phó tư lệnh quân đoàn PK Rostov và tuyên bố tất cả chúng tôi là trưởng các nhóm chuyên gia quân sự Soviet tại VNDCCH theo các chuyên ngành như sau:
- trung tá Levitsky G.A. - chuyên gia tham mưu tác chiến, tham mưu trưởng Đoàn chuyên gia;
- thiếu tá Kushnar L.F. - chuyên gia sử dụng khí tài tác chiến, kỹ sư trưởng;
- thiếu tá Vodorez L.F. - chuyên gia chỉ huy tác chiến bộ đội PK và KQ QDNDVN;
- trung tá Vasin P.I. - chuyên gia binh chủng radar;
- trung tá Uzlenkov A.I. - chuyên gia hậu cần;
- trung tá Bandurkin V.F. - chuyên gia huấn luyện hoa tiêu dẫn đường KQTK;
- đại úy Fokeev L. - chuyên gia-kỹ sư TLPK;
- đại úy Kostriko V.M. - chuyên gia-kĩ sư binh chủng kỹ thuật vô tuyến điện (bộ đội radar);
- Grammov A.I. - chuyên gia TTLL.

Tại BTTM bộ đội PKQG phụ trách công tác chuẩn bị cho các chuyên gia và kỹ thuật viên là:
- thượng tướng Tsyganov;
- trung tướng Konstantinov;
- trung tướng Godun;
- trung tướng Uvarov, tư lệnh bộ đội TLPK;
- trung tướng Beregovoy. chủ nhiệm radar bộ đội PKQG;
- thiếu tướng Bashilov - hoa tiêu trưởng và một số tướng lĩnh, sĩ quan khác, các chủ nhiệm ban ngành LLPK Quốc gia.

Người ta chuẩn bị cho tất cả rất tỉ mỉ và kỹ lưỡng. Các tin tức sau được thu thập: các thông tin mới nhất của TASS, tình hình tại VNDCCH, các thông tin tình báo về các chuyến bay của máy bay Mỹ trên lãnh thổ VNDCCH, vị trí của các TSB trong vịnh Bắc Bộ, tính năng kỹ chiến thuật của các máy bay tiêm kích KQ Mỹ.

Mỗi người chúng tôi theo chuyên ngành làm quen với danh sách các sĩ quan Việt Nam đã học tập tại các cơ sở đào tạo và học viện quân sự của LLVT Liên Xô: ai đã kết thúc học tập và ai đã được gọi về VNDCCH vì tình hình chiến sự tại Việt Nam. Học viện Chỉ huy Quân sự tại VNDCCH đã bị giải tán. Đội ngũ sĩ quan đã được cử ra mặt trận. Các giáo viên Soviet cùng gia đình đã được gửi về Tổ quốc tại Liên bang. Còn lại chỉ một giảng viên PPK là đại tá Semenov. Chiếm ưu thế trong đất nước là một nhóm lớn thân Trung quốc, được sử dụng trong QDNDVN.

Trong quân đội thiếu điều lệnh, nguyên tắc một chỉ huy bị vi phạm. Tất cả mệnh lệnh chỉ có thể ban ra sau khi có thỏa thuận với các chính ủy. Chính ủy ở khắp nơi - từ cấp phân đội nhỏ đến cấp cao trong quân đội. Việc học chính trị diễn ra hàng tháng. Về cơ bản nó là việc học tập các trước tác của Mao Trạch Đông. Các chuyên gia từ CHND Trung Hoa - chủ yếu là các chính trị viên. Đội ngũ sĩ quan đã qua đào tạo tại Liên Xô không có tiếng nói trong phục vụ cũng như trong cấp bậc quân sự.

Người ta bố trí chúng tôi trong nhà khách thuộc khu vực SCHTT bộ đội PKQG, Hàng ngày chúng tôi đều gặp gỡ bộ chỉ huy, sau bảy ngày chúng tôi đã sẵn sàng bay đi. Tuy nhiên chuyến bay bị trì hoãn. Sau đó chúng tôi mới biết máy bay vận tải quân sự chở khí tài và hàng hóa của chúng tôi không được phép bay qua không phận CHND Trung Hoa.

Sang ngày thứ 8 đại tá Dzyza từ Việt Nam bay về, Người ta lập tức đưa chúng tôi tới kho hậu cần tại Moskva của Bộ Quốc phòng. Tại đây chúng tôi thay sang đồ dân sự hợp mốt. Chúng tôi chọn quần áo cho mình theo ý thích: áo khoác ngoài, âu phục nguyên bộ, áo sơ-mi trắng, giày hợp mốt, mũ và cà-vạt, tất cả là đồ CHDC Đức. Quần áo làm việc người ta không đưa. Quân phục thay ra sau này chúng tôi đưa về nhà. Ông tướng quân nhu đích thân kiểm tra từng người và cho lệnh "chấp thuận".

Ngày hôm sau người ta đưa chúng tôi đến UBTU DCSLX, tại đây mỗi người chúng tôi được đưa vào một căn phòng tối có chiếc đèn bàn chiếu sáng, trao lại thẻ đảng, ký tên, đứng dậy lặng lẽ đi ra không hỏi han trò chuyện. Sau đó người ta cho tất cả về nhà như trước mỗi lần có nhiệm vụ đặc biệt. Việc thăm viếng vì công việc được giải quyết nhưng người ta chẳng nói với ai về chuyến công tác sắp tới. Ba ngày sau điện báo gọi chúng tôi về lại Moskva. Sau khi xác định tình hình, người mới cả chục người chúng tôi đến Hội đồng Quân sự Bộ đội Phòng không Quốc gia. Khai mạc Hội đồng Quân sự là Nguyên soái trưởng KQ Sudets. Gian phòng lớn đầy các sĩ quan tướng lĩnh, những người chịu trách nhiệm đối với mỗi người trong chúng tôi. Chúng tôi lần lượt báo cáo sự sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ của Đảng và Chính phủ. Hội đồng Quân sự phê chuẩn tất cả chúng tôi đi công tác biệt phái tại VNDCCH. Ngày hôm sau đến lượt Hội đồng Quân sự Tổng cục 10 Bộ TTM Các LLVT Liên Xô. Quá trình buổi họp diễn ra tương tự. Trong gian lớn chỉ có một loại tướng - các ủy viên HDQS. Dẫn dắt phiên họp là Chủ nhiệm Tổng cục 10 thượng tướng Digaev. Họ nhất trí chuẩn y tất cả chúng tôi. Tại phòng tài chính họ trao công tác phí cho chúng tôi là 75 nhân dân tệ.

Ngày 8 tháng 4 sau khi nhận hộ chiếu ngoại giao, chúng tôi có mặt tại sân bay Shemeretievo, đăng ký chuyến bay Tu-104 Moskva - Bắc Kinh. Tại hiệu ăn mọi người tiêu nốt những đồng rúp Soviet cuôi cùng, rồi tất cả lên máy bay. Tôi vẫn còn 21 rúp, số tiền đó sẽ có ích cho tôi khi công tác trở về. Ngoài chúng tôi ra, bay cùng còn có một nhóm các nhà khai thác mỏ, các nhà địa chất, các sĩ quan gìn giữ hòa bình ở vĩ tuyến 17 người Ba Lan, các công dân Trung quốc. Lần hạ cánh đầu tiên là ở Novosibirsk, sau đến Irkutsk, tại đó có kiểm tra hải quan, tiếp theo chúng tôi qua Baikal, CHND Mông Cổ, cuối cùng chúng tôi tiếp đất ở sân bay khu vực Bắc Kinh.

Khi nhớ lại những năm đó thì tất cả các chuyên gia quân sự chúng tôi đều còn trẻ, các nữ chiêu đãi viên ngắm một số người và hỏi: các bạn đi đâu, làm gì? Chúng tôi trả lời: chúng tôi là các nhà khai mỏ, nhà địa chất, chúng tôi đi làm, Họ cười: "Thợ mỏ thường không cắt đầu "bốc" như thế này đâu!"

Tại Bắc Kinh chúng tôi "hạ thổ", chẳng có ai. Một chiếc xe buýt lại gần, bốc các hành khách Trung quốc. Sau đó một chiếc "Pobeda" đen tiến đến gần, một người bước từ trong xe ra đi khập khiễng anh ta là phiên dịch của tùy viên quân sự tại CHND Trung Hoa, anh chào và dẫn chúng tôi vào gian lớn nhà ga hàng không, ở đây trống không vắng người. Chúng tôingồi xuống sau bàn chờ đợi mà chẳng biết chờ gì. Bàn chất đầy sách báo chính trị Trung quốc và Albania bằng tiếng Nga. Chúng tôi chỉ liếc xéo mà không cầm lên tay theo đúng lời dặn của lãnh đạo. Một cô gái Trung quốc hiện ra, bưng khay chứa những tách trà xanh, mời thuốc. Trà thì chúng tôi uông còn thuốc thì không đụng đến. Xe buýt của sứ quán đã đến, chúng tôi cùng các kỹ sư mỏ, các nhà địa chất lên xe và được chở về Bắc Kinh, họ bố trí cho chúng tôi ở khách sạn "San-Chiao". Đồ đạc để lại sân bay. Vào thành phố còn 60km nữa. Suốt dọc đường vào thủ đô chúng tôi không thấy bóng dân cư. Những ngôi nhà 4 tầng màu xám kiểu nhà "Khrusev" của chúng ta. Cảnh vật mờ mịt và ảm đạm. Người ta chở chúng tôi về khách sạn, bố trí ở hai phòng có bồn tắm và điện thoại, sau một lúc họ mời tất cả chúng tôi xuống ăn tối tại hiệu ăn. Trong gian phòng lớn của hiệu ăn không thấy có khách. Hai bàn được các chiêu đãi viên nam phục vụ. Đồ ăn Trung quốc nổi tiếng là cần rất nhiều đĩa. Bánh mì không có, thịt, cơm, một số đồ ăn lỏng dạng đặc biệt, những tô lớn bốc khói thơm. Hai chiêu đãi viên nam liên tục rót bia và nước dứa ép vào ly. Bữa ăn kéo dài đã một giờ mà vẫn chưa thấy hết đồ ăn. Chúng tôi xin trưởng đoàn cho phép mua một chai cô-nhắc Tàu ở trên bàn. Được "đồng ý", chúng tôi ăn tối vui vẻ hẳn lên. Bữa tối kéo dài thêm một giờ nữa. Tất cả đã được hãng "Aeroflot" trả tiền.  

Sáng hôm sau ăn sáng xong chúng tôi nhẹ nhõm ra sân bay. Một chiếc Il-14 chờ sẵn, chỉ có nhóm của chúng tôi bay. Đồ đạc người ta đã bốc lên. Kíp bay đã có mặt, nữ chiêu đãi viên mang theo bình trà đựng nước. Tiện nghi trên máy báy Trung quốc thiếu thốn, kẹo caramen cũng không, chỉ có kẹo cao su. Chặng hạ cánh đầu tiên là ở sân bay Vũ Hán (Wuhan; Ухань). Chúng tôi lại ăn nhiều đĩa chứa đồ ăn Trung quốc. Rồi chúng tôi bước ra sân thượng hút thuốc. Không thấy bóng ai cả, chỉ vài người Trung quốc nhìn qua hàng rào thép, trỏ ngón tay về phía chúng tôi. Chặng dừng thứ hai ở sân bay Nam Ninh. Lại món ăn Trung quốc. Chúng tôi đề nghị cho ăn món Âu, họ nấu cho chúng tôi súp bắp cải, khoai tây chiên và trà. Chúng tôi bay đến Hà Nội, chặng bay này thời tiết cực xấu. Chuyến bay diễn ra trong mây, thỉnh thoảng lại rơi xuống "ổ gà" không khí loãng, trên đầu các cánh rừng rậm nhiệt đới và mặt nước của thung lũng Hà Nội. Máy bay hạ cánh tại sân bay dã chiến khu vực Hà Nội, rồi lập tức lăn ngay vào hầm chứa có ngụy trang. Đón chúng tôi là đoàn bộ chỉ huy Việt Nam dẫn đầu là đại tá phó tư lệnh PKKQ Đỗ Đức Kiên và các phiên dịch Ngoan và Diệu. Tất cả mặc quân phục không quân hàm và đội mũ sắt.  Xe buýt chở chúng tôi về địa điểm ngoại vi Hà Nội - làng Kim Liên, vào khách sạn nơi chúng tôi bắt đầu cuộc sống mới.  

Khách sạn là tòa nhà lớn 3 tầng, tầng 1 và 3 đầy chật các chuyên gia chính trị viên Trung quốc. Chúng tôi ngụ tại tầng 2 trong 6 phòng đôi. Tôi ở cùng trung tá Levitsky Gleb Aeksandrovich. Giường ngủ có màn chống muỗi, có một chiếc bàn nhỏ, hai tủ đựng đồ. Ngoài hành lang có tủ lạnh chứa nước lạnh đã đun sôi. Cả hai chúng tôi đều xác định là "tham mưu".

Vào lúc 5 giờ sáng chúng tôi nghe tiếng Quốc tế ca, hòa nhịp với bài thể dục của các chuyên gia Trung quốc. Bỗng từ đâu sau rặng cây xuất hiện 2 chiếc cường kích Mỹ bay tốc độ cao ập đến. Còi báo động rú lên, chúng tôi nghe tiếng kẻng báo động gõ vào thanh ray. Sau đó là một cuộc xạ kích loạn xạ bằng tất cả các loại súng bộ binh. Tất cả các "đồng chí" Trung quốc nhanh chóng chạy vào hầm trú ẩn cố định ở trong sân trước của khách sạn. Từ ban-công chúng tôi thấy họ nhìn từ đó ra, Người Trung quốc trong đó nhiều đến nỗi cho đến tận cuối đợt công tác của mình chúng tôi chẳng có dịp nào sử dụng được hầm trú ẩn ấy.

Một trường hợp tương tự khác xảy ra với tôi sau đó vài ngày. Tôi ra tiệm hớt tóc gần khách sạn, trong khi chờ đến lượt mình tôi thấy ở tiệm còn có 2 chuyên gia Trung quốc. Bỗng còi báo động vang lên, một cặp cường kích xuất hiện, tiếp theo là tiếng bom nổ, tiếng súng bắn. Hai người khách này chạy biến đi nhanh như gió thổi. Còn lại anh thợ cắt tóc và tôi. Anh nói với tôi: "Đồm trí, chạy đi!" Tôi đáp: "Chạy đi đâu,  máy bay nó đã bay đi đằng nào rồi còn đâu?" Thông báo về các cuộc tấn công của máy bay Không lực Mỹ và các cuộc ném bom đến trễ 5 phút. Và chẳng lần nào tôi kịp chạy khi có các cuộc ném bom và bắn phá. Lập tức tôi hoặc thả người hoặc nhảy xuống một hố cá nhân chuyên dụng nếu nó còn trống. Nó được trang bị khắp nước Việt Nam. Ban đầu nó có vẻ không thuận tiện cho chúng tôi: hẹp và nhỏ, nhưng ưu thế của nó nằm ở chỗ khi có vụ nổ mạnh nó không sụp đổ và có xác suất bị đánh trúng thấp. Để đào công sự, giao thông hào, lô-cốt, ụ súng cần có diện tích lớn và phải được ngụy trang kỹ lưỡng. Còn tại Việt Nam mọi thứ đều đắt đỏ và phải tiết kiệm, người ta thận trọng với mọi thứ nhất là đất đai. Người Việt Nam thường nói với tôi tấc đất tấc vàng và câu đó lặp đi lặp lại ở bất kỳ hoàn cảnh nào.
.....
« Sửa lần cuối: 03 Tháng Sáu, 2014, 11:25:37 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #51 vào lúc: 03 Tháng Sáu, 2014, 07:52:45 pm »

Hàng ngày trừ thứ hai các đại diện bộ chỉ huy PKKQ QDND Việt Nam đến thăm chúng tôi, trong khu vực SCHTT, tại nơi này người ta phân cho chúng tôi một khu căn cứ riêng có các phòng học-riêng biệt. Thường xuyên phục vụ chúng tôi là 2 đến 3 phiên dịch Ngoan lớn, Diệu, Ngoan nhỏ. Các đại diện bộ chỉ huy PKKQ QDNDVN liên hệ với chúng tôi để xin các lời tham vấn cần thiết. Lời tham vấn cần phải thận trọng, có cơ sở, có thể một số không có ngay mà cần trao đổi đánh giá trong nhóm đã. Có vẻ những lời tham vấn của chúng tôi đã được mang đi kiểm tra cùng với "đồng chí anh lớn". Có sự hoài nghi, cần phải nhắc lại vài lần, nối lại các cuộc gặp gỡ. Tất cả những đề nghị của chúng tôi, chúng tôi đều ghi lại trong những cuốn sổ mật, đặt trong các cặp chuyên dụng, đóng dấu niêm phong của người phiên dịch, chỉ sau đó mới mang chúng đến bộ phận cơ yếu của SCHTT. Các thủ trưởng và phiên dịch Việt Nam cũng ghi chép như vậy.

Thường xuyên có mặt trong phòng với chúng tôi là phó tư lệnh PKKQ đại tá Đỗ Đức Kiên. Ông ấy học ở Liên Xô và biết tiếng Nga tốt, có tri thức rộng về mặt quân sự, là người có tư tưởng thân Nga. Ban đầu bị thất sủng, sau đó ông coi sóc việc xây dựng binh chủng TLPK thuộc QC PKKQ. Nhiều trưởng đơn vị và chủ nhiệm ngành biết tiếng Nga tốt nhưng không bao giờ nói chuyện trực tiếp mà chỉ qua phiên dịch. Đã có trường hợp khi không có phiên dịch thì có nghĩa sẽ không ai nói chuyện. Nói gì cũng phải rất thận trọng và suy nghĩ kỹ.

Thứ hai hàng tuần đoàn chuyên gia quân sự chúng tôi tập trung toàn thể ở Đại sứ quán Liên Xô tại VNDCCH. Chúng tôi đánh giá tất cả những lời tham vấn đưa ra với trưởng đoàn đại tá Dzyza A.M.. sau đó ông chuyển chúng cho tùy viên quân sự tướng Ivanov. còn những vấn đề quan trọng hơn thì ông báo cáo đại sứ của chúng ta tại Việt Nam ông Ilya Sergheevitch Serbakov. Tất cả những khuyến nghị được bộ chỉ huy Việt Nam tiếp nhận, cũng được đưa vào sổ nhật ký đặc biệt tại Đại sứ quấn Liên Xô tại VNDCCH.  

Trong giai đoạn đầu chúng tôi ở đây, phía Việt Nam không quan tâm chuyện tham vấn ý kiến với nhóm chúng tôi, tất cả sáng kiến đều xuất phát từ chúng tôi. Phía Trung quốc muốn phá hoại tình hữu nghị của chúng ta với phía Việt Nam. Người Trung quốc nói với phía Việt Nam: "Chúng tôi đây - mới là anh em chân chính của các bạn, chúng tôi giúp đỡ các bạn về mọi mặt - tư tưởng cũng như vũ khí. Chúng tôi ngủ trên chiếu cói rải trên nền nhà, ăn cùng các bạn cùng một loại đồ ăn. Người Nga cho các bạn các trang bị kỹ thuật cũ kỹ, không có khả năng chiến đấu với máy bay Mỹ, họ ngủ trên giường, ăn loại thức ăn khác, lại còn theo đức tin khác nữa".


Chủ nhiệm trung tâm huấn luyện số 2 đại tá Nikolai Vasilevich Bazhenov (trái) và trưởng đoàn chuyên gia quân sự TLPK đại tá Aleksandr Matvervich Dzyza. Hà Nội năm 1965.

Đại tá Dzyza báo cáo đại sứ về thái độ tiêu cực đối với đoàn chuyên gia chúng tôi và đề nghị bộ chỉ huy Việt Nam các cuộc gặp gỡ làm việc chung. Nhưng chúng tôi chỉ có thể gặp các nhân vật cấp hai hoặc các phiên dịch viên, những người luôn trả lời rằng bộ chỉ huy bận và không thể đến gặp. Chúng tôi đề nghị Đỗ Đức Kiên tổ chức các cuộc họp như thế, và ngày hôm sau ông ấy có mặt ở chỗ chúng tôi cùng một nhóm sĩ quan đeo quân hầm quân hiệu chỉnh tề trên quân phục.

Moskva yêu cầu phải nhanh chóng xây dựng các binh chủng KQ và PK tại VNDCCH. Đầu tiên chúng tôi đề nghị - hãy xây dựng khung lữ đoàn và trung đoàn cho các đơn vị TLPK. Người Việt Nam đề nghị chờ trả lời. Hai ngày sau thì có câu trả lời tiêu cực liên quan đến việc đất nước vừa cải cách ruộng đất, cán bộ cần phải lấy từ dân cày nghĩa là từ nông dân. Khi đó chúng tôi đề nghị xây dựng những tiểu đoàn TLPK độc lập, điểu hành trực tiếp từ SCHTT, cấu trúc này đã được phê chuẩn.

Sau vài cuộc họp và chuyển giao các khuyến nghị, người ta đã quyết định thành lập 2 trung tâm huấn luyện bộ đội TLPK. Một trung tâm tại Hà Nội và một tại Hải Phòng, cũng như một trung tấm huấn luyện bộ đội radar, trong đó có nhóm hoa tiêu - các sĩ quan dẫn đường phi công tiêm kích. Và khi các đoàn tàu đường sắt tới nơi cùng các khí tài của tổ hợp TLPK, các xe máy kỹ thuật, các quả đạn tên lửa, các tài sản trang bị, các chuyên gia, thái độ đối với chúng tôi đã thay đổi theo chiều hướng tốt lên. Cán bộ chiên sĩ QDNDVN, toàn bộ đoàn chuyên gia quân sự, nhóm chúng tôi, hằng đêm đều đi bốc dỡ khí tài. Quá trình bốc xếp diễn ra thế nào tôi sẽ không kể chi tiết, tôi chỉ nói rằng, đó là quá trình rất nặng nề, chiến sĩ Việt Nam rất đuối sức, họ ăn uống kém (ăn cơm và uống trà), bánh mì thì không có. Đoàn chuyên gia quân sự của chúng tôi bốc dỡ tức thì, chủ yếu là tổ hợp S-75 và đạn tên lửa, trong cái nóng nực có độ ẩm cao, làm ví dụ cho các quân nhân Việt Nam, chúng tôi làm việc không hề kêu ca, vừa làm vừa cười đùa, như chỉ có người Nga mới làm được như vậy.....Chuyên gia dạy thực hành, một người Ukraine nói rằng, tại buổi hướng dẫn ở Tổng cục 10 BTTM CLLVTLX, tướng Sidorov nói với những người lính: "Các anh sẽ được chăm sóc tốt tại VNDCCH, 2 ngàn calori, giá 3 đồng Việt nam". Người lính hỏi lại: "Đồng chí tướng quân, thế thì tốt quá, ca-lo có rất nhiều, nhưng nếu quy ra cháo đặc thì sẽ là bao nhiêu ạ?" Tất nhiên đấy là một chuyện đùa.

Tổ hợp và các xe khí tài nguồn được đưa thẳng vào rừng rậm, tới các trung tâm huấn luyện. trung tâm huấn luyện TLPK thứ nhất do đại tá Tsygankov Mikhain Nikolaevich chỉ huy. Phó chính trị là trung tá Barsuchenko Mikhain Fedorovich, tham mưu trưởng là thiếu tá Egorov. Kỹ sư trưởng là thiếu tá N.A.Meshkov.

Cuối tháng 4 năm 1965 đoàn chuyên gia quân sự bắt tay vào các giờ học huấn luyện chuẩn bị cho tổ hợp TLPK đi vào tác chiến. Đã thành lập hai tiểu đoàn TLPK sẽ là hạt nhân của trung đoàn TLPK sau này. Ban đầu các chuyên gia Việt Nam học trên các tổ hợp huấn luyện của trung tâm. Nhiệm vụ đưa chúng sang SSCD là rất phức tạp. Để chuẩn bị khí tài, nhóm chúng tôi đã cắt cử về trung tâm: kỹ sư trưởng thiếu tá Kushnar Leonid Fedorovich, kỹ sư đại úy L.V.Fokeev. Sau 2 tuần tổ hợp đã sẵn sàng chiến đấu. Chuẩn bị đạn tên lửa là nhóm dưới sự dẫn dắt của thiếu tá Bogdan. Chỉ huy tiểu đoàn đầu tiên là trung tá B.X.Mozhaev, chỉ huy tiểu đoàn thứ hai - trung tá F.P..Ilinykh.

Sau khi thăm mộ số đơn vị PPK và radar thuộc quân chủng PKKQ, chúng tôi được biết chắc chắn không có các SCH thường trực. Có những tấm bảng đen vẽ bằng phấn mô tả mạng lưới phòng không cũ. chúng tôi xem xét SCHTT QC PKKQ, ở đây trang bị tốt hơn một chút. Có bàn dẫn đường KQTK, phủ phim mỏng trong suốt (mica), ngoài ra chẳng có gì hơn. Lập tức chúng tôi khuyến nghị trang bị đầy đủ đồng bộ cho Sở chỉ huy Trung tâm QC Phòng không và Không quân. Và để tập trung hóa chỉ huy các tiểu đoàn TLPK sắp tới cần xây dựng và trang bị một SCH trung đoàn TLPK. Những lời cố vấn này đã được tiếp nhận tức thì không tranh cãi.

Toàn bộ trách nhiệm trang bị các SCH đồng chí trưởng đoàn chuyên gia đặt lên vai tôi. Tại Kim Liên tôi có riêng một phòng sử dụng (trong đó có toàn bộ tài sản của tôi), dưới quyền còn 2 sĩ quan Việt nam, một thượng úy một thiếu úy, một chục người lính và phiên dịch viên tên Diệu. Để làm bảng tiêu đồ cần có gỗ cứng và bền chắc, lập tức người ta cử anh thiếu úy và nhóm lính vào vĩ tuyến 17 lấy gỗ hồng sắc. Sau vài tuần bảng đã sẵn sàng lên khung. Xưởng trưởng xưởng sửa chữa tiểu đoàn TLPK đại úy Tiurin chế tạo các đai ốc và vít để cố định thủy tinh hữu cơ lên khung. Cắt thủy tinh hữu cư bằng dao cắt kính thông thường (thủy tinh hữu cơ dày 3, 5, 10mm). Đích thân tôi chỉ dẫn cắt như thế nào. giữ mũi dao ra sao, góc đặt bao nhiêu. Không có kinh nghiệm "đồm trí" làm vỡ thủy tinh hữu cơ nhưng sau đó đã làm chủ được chuyên môn cắt kính. Đặc biệt khó khăn vì không có phiên dịch, nhưng trong khi làm việc chúng tôi đã hiểu nhau. Lập tức chúng tôi vạch lên các tiêu đồ các mạng lưới, các góc phương vị, các hình vẽ, các đường chu vi, các bản đồ, các tuyến, các vùng diệt mục tiêu v.v.  

Để khen ngợi cũng cần phải nói rằng các chiến sĩ Việt Nam rất cố gắng, họ viết và vẽ rất cản thận và rất đẹp trên thủy tinh hữu cơ. Sau một tuần lễ, SCHTT đã được trang thiết bị hoàn toàn đầy đủ đúng quy mô.  

Giai đoạn thứ hai cần khẩn trương xây dựng SCH trung đoàn tên lửa. Chúng tôi chọn một điểm cao khô ráo gần Hà Nội. Bây giờ thì bộ chỉ huy PKKQ không phải nài nỉ gì lắm nữa và họ đáp ứng các khuyến nghị của chúng tôi một cách tích cực không hề nghi ngờ hay có băn khoăn gì về chúng tôi vì họ đã thấy "đồng chí anh" là thế nào và ai mới là "anh em chân chính". Và tôi cùng đại tá Dzyza, đại tá Đỗ Đức Kiên, phiên dịch Diệu theo con đê cũ đi qua thung lũng Hà Nội, tới nơi sẽ là SCH tương lai của trung đoàn TLPK. Dù đến đâu thì khắp nơi chúng tôi cũng thấy toàn phụ nữ, đội những chiếc mũ rom hìn nón cụt, đứng gần như ngập nước đến thắt lưng dưới ánh mặt trời thiêu đốt trên những cánh đồng, trồng lúa thẳng hàng. Chẳng hề nhìn thấy đàn ông. Sau này khi tôi hỏi nhiều lần lúc gặp họ rằng đàn ông đi đâu, chỉ có một câu trả lời: "Ra trận". Tất nhiên chúng tôi hiểu rằng VNDCCH đang hỗ trợ bằng tất cả sức lực và của cải cho MTDTGPMNVN và từ chối nhu cầu về tất cả cho bản thân. Người già và trẻ em ở VNDCCH rất nhiều, Tất cả đều làm việc, giúp đỡ cha mẹ, giúp đỡ quốc gia, học tập. Khi chúng tôi đi trên những con đường Việt Nam, trẻ em luôn luôn chạy theo chúng tôi và hét vang: "Liên Xô!", nghĩa là người Soviet.

Cuối cùng thì chúng tôi cũng đến nơi, địa điểm chọn tốt, khô ráo. Chẳng ai tưởng tượng ra được. Cách không xa có một xí nghiệp gạch nhỏ, nơi có hàng chồng gạch xếp kiêu. Cách một cây số rưỡi - một ngôi chùa lớn. Đại tá Đỗ Đức Kiên không quên tôi đã hỏi về chuyện SCH dự bị. Chúng tôi đến gần đó. "Đây giới thiệu với anh SCH dự bị. Chỉ có điều anh đừng ngạc nhiên là các chuyên gia Trung quốc đang làm việc tại đây". Chúng tôi được phép vào chùa. Trong gian rất ít cán bộ, chỉ thấy các bảng tiêu đồ trang bị sơ sài giống như tại SCHTT. Sau các bức tượng là các hiệu thính viên ngồi cùng chiếc máy VTD, không đeo quân hàm quân hiệu, không biết là người Trung quốc hay người Việt Nam. Sau đó khi đã lên ô tô trên đường về Hà Nội, đại tá Đỗ Đức Kiên nói rằng cơ sở ấy sẽ không được trang bị, đó không phải là thẩm quyền của chúng tôi. Chúng tôi không khi nào còn đến đấy nữa cho đến hết cả chuyến công tác biệt phái này. Tại đó sáng kiến của chúng tôi người ta không cần.

Và đây, 5 giờ sáng một chiếc ô tô con cùng đồng chí thượng úy và phiên dịch viên Diệu đến khách sạn đón tôi.Tôi chạy vội xuống nhà ăn lấy chiếc bánh mì xăng-uých - một chiếc bánh mì trắng nhỏ giá 5 xu kẹp pate gan lợn (đồ ăn chúng tôi được phục vụ theo yêu cầu nhưng vẫn đích thân trả tiền) Chúng tôi chất lên một két nước chanh thay cho nước uống thường (vì nóng quá!). Sau đó bác tài cắm cái ống tre vào mồm, rít hai-ba lần, chiếc điếu cày kêu sòng sọc, rồi chúng tôi theo con đê cũ đi đến nơi đang xây dựng.

Chưa tới công trình chúng tôi đã nhìn thấy trên một quả đồi lá cờ đỏ và tiếng hát đồng ca giàu nhịp điệu. Điều làm tôi ngạc nhiên là một nửa hố móng lớn đã làm xong mà chẳng có phương tiện kỹ thuật gì cả, còn phía dưới rảo bước theo nhau gánh những sọt đất - toàn là các cụ già và thiếu niên. Chúng tôi cùng viên thượng úy và phiên dịch viên Diệu đứng dưới gốc đa trò chuyện hút thuốc. Một người nông dân vai khoác chiếc cày gỗ, mặc áo màu nâu sồng ướt đẫm mồ hôi, quần xắn cao, chân trần, có lẽ vừa trèo lên từ cánh đồng lúa đầy nước. Đến sát tôi, ông ta đưa tay véo các bắp thịt trên tay chân và ngực tôi. Tôi nói với ông ấy: "Tiao, đồm trí" (Chào, đồng chí) và chìa cho ông hộp thuốc lá. Ông vui mừng vì "Liên Xô" bắt tay ông và mỉm cười. Sau khi nhón một điếu thuốc, ông gài nó vào sau vành tai rồi đáp "Tiao". Buổi tối khi chúng tôi về đến Kim Liên, người phiên dịch nói với tôi: "Đồng chí Vodorez, bác nông dân mà anh gọi là đồng chí ấy. đối với chúng tôi không phải là đồng chí. Với chúng tôi - đồng chí là các đảng viên. công nhân, quân nhân và cán bộ nhà nước". Tôi trả lời cậu ta rằng đối với chúng tôi toàn thể nhân dân lao động, toàn thể giai cấp vô sản thế giới đều là đồng chí. Và đương nhiên tôi hiểu ảnh hưởng này từ đâu tỏa ra và sự rèn giũa hệ tư tưởng từ "người anh lớn" là cực kỳ mạnh. Chúng tôi thấy những sĩ quan học tập ở Liên Xô về, trung thành với chúng tôi, bị thất sủng ra sao. Từ khi có mặt đoàn cố vấn và chuyên gia quân sự tại VNDCCH tình hình của họ mới được cải thiện bước đầu. Nhiều người trong số họ được đưa trở lại hàng ngũ QDNDVN, được khôi phục cấp hàm và chức vụ.  

Khi bắt đầu sự hợp tác hiệu quả về xây dựng QC PKKQ, đại tá Đỗ Đức Kiên đến ở hẳn tại Kim Liên. Sáng sáng ông dậy rất sớm, tập thể dục trong tiếng nhạc "Chiều Moskva", sau đó nếu rảnh ông tới chỗ chúng tôi và chúng tôi cùng nhau thảo luận những vấn đề chúng tôi quan tâm.

Trong các phát biểu của mình tôi không nói rằng KQ Mỹ ngày càng tăng cường và thường xuyên đánh phá các trung tâm chính trị-công nghiệp của Hà Nội, Hải Phòng và một loạt thành phố và cơ sở khác. Đủ loại cỡ pháo PK đánh trả các cuộc không kích của KQ Mỹ. Mỗi buổi sáng số máy bay Mỹ bị tiêu diệt được đánh dấu công khai trên tấm bảng ở Kim Liên. Các mảnh xác máy bay bị bắn rơi được trưng bày giữa quảng trường trung tâm Hà Nội và các thành phố khác. Dân địa phương tích cực tham gia tìm kiếm và thu thập các mảnh xác máy bay bị bắn rơi.

Và khi đoàn tàu đường sắt chở hệ thống TLPK và các trạm radar của binh chủng kỹ thuật vô tuyến điện tử cùng đội ngũ quân nhân về đến nơi, người ta tổ chức thêm một trung tâm huấn luyện thứ hai của binh chủng TLPK tại Hải Phòng. Chủ nhiệm trung tâm này là đại tá N.V,Bazhenov, đại tá I.I.Smirnov được bổ nhiệm phó chủ nhiệm về chính trị. Để đào tạo các chuyên gia radar tại khu vực Hà Nội cũng tổ chức một trung tâm huấn luyện. Thiếu tá Popov được giao chủ nhiệm trung tâm. Sĩ quan phụ trách là trung tá Vasin Pavel Ivanovich, từ nhóm chúng tôi được biệt phái sang chịu trách nhiệm về công tác đào tạo các chuyên gia cho binh chủng radar của nước VNDCCH. Chịu trách nhiệm đào tạo kỹ thuật về các đài radar là đại úy V.M.Kostriko và đại úy Valentin Antipin, anh ấy đã nắm vững tiếng Việt một cách hoàn hảo và đã tiến hành các giờ giảng dạy trực tiếp không cần phiên dịch viên.

Nhóm hoa tiêu dẫn đường xây dựng rất phức tạp và khó khăn. Theo hiệp định Geneve 1954 thì tại VNDCCH không có KQ. Phía Việt nam thực hiện quyết định này một cách không chê vào đâu được, hậu quả là chẳng có đội ngũ khung cán bộ hàng không: các phi công cũ, các cựu hoa tiêu và các kỹ thuật viên hàng không khác bị thải hồi. Người ta tập hợp các ứng cử viên mới: các học viên có trình độ học vấn từ lớp 8 đến lớp 10. Nhiệm vụ huấn luyện hoa tiêu dẫn đường đặt lên vai các chuyên gia quân sự Soviet trong nhóm chúng tôi: hoa tiêu trưởng trung đoàn KQTK quân đoàn PK 19 Baldurkin Vladimir Fedorovich và các hoa tiêu dẫn đường đại úy Masiughin, thượng úy Vladimir Dumchenko, họ là các chuyên gia hạng nhất. Để giữ bí mật, hai chuyên gia này được đưa vào nhóm các chuyên gia bộ đội TLPK với tư cách các sĩ quan tiếp nhiên liệu cho đạn tên lửa.
.......
« Sửa lần cuối: 04 Tháng Sáu, 2014, 03:06:46 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #52 vào lúc: 04 Tháng Sáu, 2014, 09:05:46 pm »

Để viết trích yếu cần có sách. Tôi tìm được một cuốn sách loại không phải tài liệu mật "Tự lái máy bay một chỗ ngồi". Cuốn này tôi kiếm được ở hiệu "Sách Quân sự" tại Moskva trước khi bay đi. Toát yếu được ghi theo trí nhớ. Công tác dẫn đường thực tế được thực hành theo kiểu "sách vỡ lòng" (thiết bị tập luyện) với sự trợ giúp của các mô hình. Tiếp theo toàn bộ quá trình giảng dậy huấn luyện được tiến hành thực thụ trên IKO (VIKO) - các màn hiển thị nhìn vòng. Các chuyên gia Soviet về hoa tiêu dẫn đường đã xử lý tốt công việc, sau ba tháng nhóm được giải thể.

SCH trung đoàn TLPK được xây dựng nhanh chóng. Tại nhà máy luyện kim Việt-Xô ở khu vực Hà Nội, công nhân đã dùng thép chữ T chuẩn bị được một ngôi nhà khung lắp ghép. Người ta chở nó đến nơi, đặt lên nền móng, xây tường bao bằng gạch, lèn đất chặt. Xung quanh và phía trên người ta trồng các vật sống ngụy trang như cây chuối và cây sắn. 

Đã lắp đặt xong hoàn toàn trang thiết bị bên trong SCH, kéo rải dây hữu tuyến và liên lạc vô tuyến với các phân đội hỗ trợ và hai tiểu đoàn TLPK lâm thời. Aleksandr Ivanovich Grammov đã cố gắng hết sức trong công tác trang bị thông tin liên lạc cho SCH.

Bây giờ các tiết học đã được tiến hành tại tất cả các trung tâm huấn luyện. Còn tình hình thì ngày càng nóng bỏng, máy bay KQ Mỹ vẫn ngày càng càn rỡ. Các cuộc không kích ngày càng lớn hơn và dồn dập hơn được lặp đi lặp lại với Hà Nội, Hải Phòng và các tỉnh thành khác cả ngày cũng như đêm. Các giờ giảng chiến thuật của Đoàn chuyên gia quân sự được tiến hành trong chế độ tăng cường.

Không quân Mỹ tăng cường không kích nhằm trinh sát và tấn công các mục tiêu bằng các loại máy bay F-105, RF-4, F-4, A-6D và các loại máy bay khác, sử dụng các loại hỏa tiễn "Shrike", "Bulpup", ném các loại bom phá, bom từ trường, bom bi. Các chuyến bay thực hiện bằng phương pháp phóng bằng thoi phóng từ các TSB trong vịnh Bắc Bộ và căn cứ KQ "Utapao" tại Thái Lan.


Phân công buổi sáng tại trung tâm huấn luyện số 1 tháng 6 năm 1965. Chủ nhiệm trung tâm 1 M.N.Tsygankov trước hàng quân.

Khi đi tới Hội đồng quân sự từ Moskva, TTL bộ đội PKQG Nguyên soái KQ V.A.Sudets lưu ý rằng sẽ có một kíp rưỡi các chuyên gia quân sự Soviet đã qua xạ kích bắn đạn thật tại trường bắn quốc gia Kapustin Yar đang đi đến VNDCCH. Nếu hoàn cảnh đòi hỏi họ sẽ phải đích thân tiến hành các hoạt động chiến đấu. Vì vậy đã có yêu cầu ngăn chặn những chuyến bay không bị trừng phạt của kẻ xâm lược. Vấn đề được tháo luận với Đại sứ tại Việt Nam I.S.Scherbakov và giải pháp được chuyển lên chính phủ VNDCCH. Người ta khẩn trương thành lập từ Đoàn chuyên gia quân sự Soviet hai tiểu đoàn TLPK lâm thời cơ động để trực tiếp chiến đấu. Để bảo vệ hệ thống TLPK người ta điều động hai đại đội PPK. Các SCH thuộc tất cả các binh chủng về cơ bản đã trang bị xong, sẵn sàng chỉ huy tác chiến và hiệp đồng tác chiến. Bây giờ trực tiếp tham gia công tác chuẩn bị của các khẩu đội tác chiến và các chuyên gia các trung tâm huấn luyện là các chuyên gia quân sự Soviet thường trực, còn nhiệm vụ chiến đấu đánh trả kẻ thù trên không là của các tiểu đoàn TLPK lâm thời cơ động.   

Vậy là vào buổi trưa ngày 24 tháng 7 năm 1965, các máy bay của KQ Mỹ bị bắn rơi gồm có: 1 chiếc F-4C và 2 chiếc F-105. Một chiếc "Con Ma" bị bắn trúng và cố gắng bay về phía căn cứ Utapao Thái Lan, nhưng do bị thương nặng quá nên đã rơi xuống cánh rừng rậm bên kia sông Hồng.

"Trinh sát viên" thiếu tá Solomatin Nikolai Stepanovich lên đường bơi vượt sông tới chỗ máy bay rơi. Do cạn nhiên liệu máy bay không bị nổ mà vẫn nguyên vẹn, phi công chết gục trong buồng lái, đầu vỡ nát, Sau khi thu bảng kẹp bản đồ bay và các tài liệu, thiếu tá quay về với nhóm chúng tôi.

Hai kỹ thuật viên máy bay thuộc trung tâm huấn luyện 1, trước đây phục vụ trong KQ Soviet, đã tháo dỡ máy bay, đóng gói vào các hòm đạn tên lửa PK. Nông dân phát rừng mở đường và kéo các thùng hàng. Sau đó chúng được chở xuống cảng Hải Phòng, bốc xuống hầm tàu hàng, phủ gạo lên và chở về Liên bang. Hoạt động này diễn ra rất bí mật, tránh tai mắt của "người anh lớn".

Một lần tại SCH trung đoàn TLPK thứ nhất xảy ra một trường hợp thế này. Đang trong giờ ăn trưa, các tiêu đồ viên Việt Nam đi sang SCHTT dự bị. Bất ngờ chuông điện thoại réo. Trung đội trưởng thiếu úy Hùng sau khi chộp ống nói im lặng lắng nghe chăm chú, lúc này phiên dịch viên không có mặt. Cậu ta nói với tôi: "U-2!" và đánh dấu lên tiêu đồ.

Đúng lúc đó mấy chiếc xe ô tô đi vào trên một xe có đại tá Dzyza, đại tá Tsygankov, trung tá Barsuchenko còn trên chiếc xe kia là tư lệnh PKKQ Phùng Thế Tài cùng chính úy và người phiên dịch. Tôi báo cáo tư lệnh tình huống xuất hiện máy bay trinh sát chiến lược U-2 trên độ cao 19 000m, bay ở tốc độ 900 - 1000km/giờ.

Tư lệnh ngồi xuống bàn và trao đổi với chính ủy, làm gì bây giờ. Chính ủy im lặng. Đại tá Tsygankov báo cáo 2 tiểu đoàn triển khai trên cánh đồng lúa, liên lạc không ổn định. Đại tá Dzyza quay sang Phùng Thế Tài: "Đồng chí tư lệnh, ý kiến của đồng chí thế nào?"

Chúng tôi cần quyết định xuất phát từ ông ấy. Chính ủy cũng vẫn im lặng và rồi hỏi gì đó phó chính ủy. Mục tiêu vẫn đang bay, thay đổi hướng với nhiều góc khác nhau. Nghĩa là chiếc máy bay đó - máy bay trinh sát không người lái được điều khiển từ máy bay - mẹ và sắp sửa đi thoát không bị trừng phạt.

Lúc đó đại tá Dzyza bèn cho lệnh trực tiếp không mật ngữ tới các tiểu đoàn trưởng TLPK: "Mozhaev và Ilinykh, bắn!"... Tất cả chúng tôi những người đang ở SCH chết lặng, nhìn ra khung cửa đi mở toang và thấy hai quả đạn nối tiếp nhau phóng lên như thế nào. Quả đạn đầu tiên làm chiếc máy bay trinh sát lao chúi xuống, từ nó bung ra những mảnh cháy bốc khói. Quả đạn thứ hai nổ bùng dưới đám mảnh trắng. Tâm trạng trong lòng hai vị tư lệnh và chính ủy thế nào tôi không biết nhưng các quân nhân Việt Nam đang có mặt tại SCH vô cùng mừng rỡ trước những kết quả làm việc đầu tiên của tổ hợp TLPK. Từ SCHTT dự bị những người lính Việt Nam và Trung quốc chạy đến ôm chầm lấy chúng tôi, bắt tay và hô: "Liên Xô!".

Ngày hôm sau xem xét các mảnh xác thu thập được người ta phát hiện ra chiếc máy bay trinh sát đó không phải là U-2 mà là máy bay KNL BQM-34A. Phim máy ảnh của nó đã bị nóng chảy hết.

Một thời gian sau buổi trưa tôi và thiếu úy Hùng đi sang trung tâm huấn luyện binh chủng radar để lắp đặt bổ sung một số bàn tiêu đồ và bảng. Chúng tôi được bố trí ở trong dãy nhà 1 tầng và miệt mài làm việc. Gần đấy có một nhà máy thuốc súng. Còi "báo động phòng không" lại rú lên. Một tốp máy bay Mỹ xếp đội hình vòng tròn lần lượt ném bom nhà máy. Quân nhân Việt Nam ẩn nấp trong các giao thông hào và hầm. Tôi tiếp tục làm việc và nhìn xem máy bay cắt bom. Những người lính gọi tôi ra hầm trú ẩn. Tôi đáp: "Chiến tranh đang diễn ra. Cần phải làm việc, phải chiến đấu". Sau khi có còi báo yên, họ đến mời tôi ăn dứa. Rồi tới một giờ nghỉ trưa. Thiếu úy Hùng nói: "Cần phải nghỉ ngơi. Bác Hồ đã dạy như vậy, vì cuộc chiến đấu còn lâu dài, phải giữ gìn và tăng cường sức khỏe". Nhớ lại trường hợp trên, tôi thấy ghen tị với sự bình thản của họ.

Buổi tối tôi đi "hóng gió". Trên đường trở về tôi không bật được đèn bão và tôi đi qua cánh đồng dứa về ngôi nhà một tầng nơi một người lính đang tìm tôi. Nhìn thấy tôi cậu ta lo lắng bảo: "Ở đó rất nhiều rắn đi trên đó rất nguy hiểm". Sau đó để ghi nhớ chuyện này người ta tặng cho tôi một bộ da rắn nhồi đầy hạt thóc.

Khi về Kim Liên chúng tôi thường gặp và chào hỏi các chuyên gia Trung quốc trong nhà ăn. Sau những lần xạ kích thành công của các chuyên gia quân sự Soviet vào máy bay Mỹ, thái độ của họ với chúng tôi thay đổi hẳn. Tôi không nhớ ngày nào nhưng một lần đại tá Dzyza đến SCH mời tôi về Kim Liên: "Khẩn trương tắm rửa, thay quần áo, chúng ta sẽ tới đại sứ quán Trung quốc dự buổi tiếp tân mừng ngày thành lập Hồng quân Trung Hoa". Nhóm chúng tôi được tùy viên quân sự CHNDTH và nhóm các chuyên gia CHNDTH và VNDCCH đón tiếp. Sau đó người ta mời tham dự bữa tối trọng thể, trong đó chúng tôi được mời ngồi cùng bàn với các chuyên gia Liên Xô khác, các chuyên gia Trung quốc, Việt nam. Mọi người nâng cốc chúc tụng nhau: "Vì tình hữu nghị, vì sự hợp tác!" Buổi gặp gỡ diễn ra trong không khí hữu nghị và nồng nhiệt.

Tôi sẽ không miêu tả những chuyện nhỏ nhặt hàng ngày trong đời sống chiến đấu trên đất Việt nam, nhưng kể cả cái nóng oi nồng ngột ngạt vì độ ẩm cao, kể cả bệnh sốt nhiệt đới, bệnh lỵ amib, bệnh lên nhọt độc, viêm rễ thần kinh, nạn ruồi muối, chuyện nước lạnh phải đun sôi 2 lần, không gì có thể bẻ gẫy sức lực và ý chí của các chuyên gia quân sự Soviet.

Bệnh viêm rễ thàn kinh có tiền sử từ lâu bỗng bùng lên dữ dội với chủ nhiệm trung tâm huấn luyện số 1 Mikhain Nikolaevich Tsygankov, theo chuyến máy bay đầu tiên người ta đưa ông về Liên Xô vào viện quân y chữa trị, thay ông làm chủ nhiệm là trung tá Barsuchenko Mikhail Fedorovich. Phải cấp cứu khẩn cấp tại bệnh viện Việt-Xô ở Hà Nội do bệnh lỵ amib là trung tá Levisky Gleb Aleksandrovich. Do nóng và gió lùa mà nhiều chuyên gia quân sự Soviet bị cảm.
........
« Sửa lần cuối: 05 Tháng Sáu, 2014, 01:41:44 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #53 vào lúc: 05 Tháng Sáu, 2014, 06:56:00 pm »

Tháng 8 năm 1965 trôi qua. Các tiết dạy ở các trung tâm huấn luyện đã kết thúc. Tôi cùng nhóm chuyên gia quân sự Soviet ở trung tâm huấn luyện binh chủng radar đi nghỉ mát ở Tam Đảo, nơi đây là vùng núi có khí hậu ôn hòa nằm ở độ cao 1910 m, cạnh một thác nước lớn. Một ngày đêm trôi qua, sáng hôm sau một chiếc "Volga" đen đưa tôi và bí thư sứ quán về Hà Nội gặp tùy viên quân sự tướng Ivanov. Tôi cùng đại tá Yangalov sĩ quan Bộ Tổng tham mưu Bộ QP Liên Xô được lệnh đến nơi xảy ra trận đánh ngày 21 tháng 8 với máy bay Mỹ của 2 tiểu đoàn tên lửa Xô-Việt. Chúng tôi cần nghiên cứu mô tả lại diễn tiến trận đánh. Chúng tôi đi xe đến đó cùng phiên dịch viên Diệu. Cậu ta khuyên chúng tôi nên đi đêm cho an toàn nhưng chúng tôi không chịu.


Các chuyên gia trung tấm 1 và các phiên dịch viên Việt Nam, tháng 6 năm 1965.

Tại thực địa chúng tôi gặp viên đại đội trưởng đại đội PPK bảo vệ tên lửa. Anh chỉ cho chúng tôi thấy 2 tiểu đoàn tên lửa bố trí ở điểm nào gần chân núi Vinh, vùng bảo vệ của PPK triển khai thế nào, anh cũng kể lại trận đánh diễn tiến ra sao. Trận địa của phía Việt Nam chọn không tốt, quá gần núi chỉ cách núi 8 đến 12 km. Nửa sau của ngày hai cặp RF-101 và F-4 bay tới từ sau núi. Các tiểu đoàn TLPK ở trong chế độ im lặng cho các máy bay trinh sát bay qua trên trận địa. Một lúc sau từ độ cao trung bình ở tốc độ bay lớn 2 tốp F-4 và F-105 đông đảo xuất hiện, bay thành thê đội kế tiếp kề sát nhau. Như các chiến sĩ tên lửa nói lại, họ phóng đạn gần như "tức thì". Trận đánh rất ngắn ngủi. Đội hình chiến đấu của các máy bay bị phá vỡ. Trên không trung là cả một sự rối loạn kinh hoàng. Trong trận đánh này đã có 18 máy bay KQ Mỹ bị bắn rơi, tiêu thụ 22 đạn tên lửa. Sau trận đánh các tiểu đoàn TLPK lập tức chuyển vào rừng. Tại vị trí trận địa cũ người ta dựng các mô hình tên lửa bằng tre. Người ta để lại bảo vệ một đại đội PPK. Chiều tối một chiếc trinh sát bay qua trận địa trên độ cao lớn. Sáng 22 tháng 8 từ sau núi một tốp máy bay KQ Mỹ (tốp có khoảng 20-30 chiếc) bay thânh các thê đội ở độ cao nhỏ tốc độ lớn tấn công xuống các trận địa giả. Cuộc không kích chia làm hai giai đoạn. Tất cả sôi sục, gầm rú, cháy đỏ. Chúng quăng xuống trận địa vài trăm "Shrike", "Bullpup", bom phá, bom từ trường và bom bi. Mặt đất trở thành những hố sâu dày đặc. Bộ đội Việt Nam của đại đội PPK nấp trong công sự khi bị ném bom. Các trận địa giả bị hủy diệt hoàn toàn. Hai khẩu cao xạ 100 ly cũng bị trúng đạn hư hỏng không dùng được. Vài chiến sĩ Việt Nam bị thương nhẹ.

Sau khi thu thập một số chiến lợi phẩm (mảnh, bom bi chưa nổ, thuốc bom) và uống trà trong lán của đại đội trưởng PPK, chúng tôi lên đường về sứ quán ở Hà Nội. Đi trên đường mới được vài km chúng tôi thấy một chiếc F-105 bay sạt trên đầu theo chúng tôi. Rời xe, chúng tôi bổ vào sau một khóm cây lớn ẩn nấp mà không nhận thấy dưới khóm cây có một túp nhà. Sau khi phóng một loạt rốc-két xuống mặt đường, chiếc F-105 bay về phía đồng lúa. Trong nhà nghe tiếng báo động và tiếng nói chuyện lo sợ. Phiên dịch viên nói rằng những người nông dân vì chúng tôi mà lo lắng cho căn nhà của họ. Để không làm dân lành phải gặp nguy hiểm chúng tôi lập tức lên đường.

Ngày 1 tháng 9 chúng tôi được Thủ tướng VNDCCH mời dự lễ kỷ niệm ngày Quốc khánh. Người ta mời cả đoàn Trung quốc, CHDCND Triều tiên, CHND Mông Cổ. Tiệp Khắc và các quốc gia khác.

Đoàn chính phủ từ Liên bang Xô Viết không sang nên Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Liên Xô tại VNDCCH I.S.Scherbakov thành lập một đoàn đại biểu từ các cán bộ sứ quán và các đại diện thuộc nhóm chuyên gia quân sự Soviet chúng tôi và ông dẫn đầu đoàn.

Tất cả chúng tôi đang ở vị trí làm việc, vì thế đại tá Dzyza đã tập hợp chúng tôi rất nhanh theo kiểu quân sự. Về tới Kim Liên, chúng tôi thay quần áo rồi lên xe tới Nhà Quốc hội.

Phố xá chật cứng người không thể lách qua nổi, Công An mặc trang phục đại lễ dẹp đường cho chúng tôi đi đến Nhà Quốc hội. Người dân chào đón chúng tôi và hô lớn: "Liên Xô! Liên Xô!", họ vẫy tay, kéo tay, bắt tay chúng tôi.

Tại phiên họp trọng thể trong gian hội trường lớn người ta bố trí bên phải là đoàn đại biểu lớn của CHND Trung Hoa, ở giữa là đoàn đại biểu nhỏ của chúng tôi, bên trái là đoàn đại biểu đông đảo của Việt nam - các nhà hoạt động Nhà nước, các đảng viên, cán bộ tổ chức, quân nhân. Thủ tướng VNDCCH Phạm Văn Đồng đọc diễn văn.

Sau đó đến buổi trình diễn một vở opera bằng ba thứ tiếng: Trung, Việt, Nga. Sau khi nghỉ giải lao ngắn người ta mời các đoàn đại biểu vào các phòng khác nhau dự chiêu đãi trọng thể. Chúng tôi ăn tối theo kiểu tiệc đứng. Đoàn chúng tôi cùng chỗ với các chuyên gia CHDCND Triều Tiên.

Phạm Văn Đồng nâng cốc hướng về nhóm chúng tôi chúc mừng bằng tiếng Việt. Ông nói: "Chúc mừng các đồng chí nhân dịp 20 năm nhân dân Soviet chiến thắng quân xâm lược Nhật Bản. Tôi chúc các đồng chí sức khỏe và thành công trong công cuộc xây dựng xã hôi Cộng sản!" Phiên dịch viên chuyển ngữ "xã hội xã hội chủ nghĩa". Ông sửa lại bằng tiếng Nga: "xã hội Cộng sản chủ nghĩa".

Ngày 5 tháng 9 bộ chỉ huy PKKQ triệu tập tất cả các chuyên gia quân sự Soviet hết hạn công tác biệt phái. Trong khung cảnh trọng thể tát cả chúng tôi được trao huy chương Hữu Nghị.

Tư lệnh QC PKKQ Phùng Thế Tài trong bài phát biểu của mình nhấn mạnh: "Lịch sử sự hợp tác kỹ thuật quân sự Xô-Việt bắt đầu từ những năm 1950 sau khi thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai đất nước chúng ta. Chúng tôi cám ơn Liên bang Xô Viết và đồng chí Stalin Iosif Vissarionovich người khi ấy đã giúp đỡ chúng tôi và cho chúng tôi 100 cỗ pháo PK làm cơ sở xây dựng bộ đội PK Việt Nam".

Ngày 7 tháng 9 nhóm nhỏ chúng tôi đáp máy bay Il-18 trở về Tổ quốc.

Thành phố Ekaterinburg, tháng 4 năm 2008.
« Sửa lần cuối: 05 Tháng Sáu, 2014, 09:03:36 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #54 vào lúc: 05 Tháng Sáu, 2014, 10:29:40 pm »

Trích "Việt Nam không thể nào quên"


Đại tá Kushnar Leonid Fedorovitch

Sinh ngày 3 tháng 1 năm 1928 tại làng Staryi Saltov huyện Vonchansky tỉnh Kharkov.
1947-1950 - học viên trường pháo cao xạ Cờ Đỏ Zhitomir.
1950-1951 - bộ đội PKQG - trung đội trưởng PPK.
1951-1952 - trường kỹ thuật vô tuyến điện tử Gorky - trưởng phòng thí nghiệm.
1952-1958 - học viện VTDT PK mang tên Nguyên soái pháo binh Liên Xô L.A.Govorov (thành phố Kharkov) - học viên.
1958-1965 - bộ đội PKQG - đại đội trưởng đại đội KTVTDT thuộc tiểu đoàn TLPK, chỉ huy phó - kỹ sư trưởng trung đoàn TLPK, chỉ huy phó - kỹ sư trưởng lữ đoàn TLPK.
Tháng 4 năm 1965 - tháng 4 năm 1966 - tham gia vào các hoạt động chiến đấu tại VNDCCH trên cương vị chuyên gia quân sự bên cạnh kỹ sư trưởng binh chủng TLPK QC PKKQ QDNDVN với các cấp bậc thiếu tá - kỹ sư, trung tá - kỹ sư.
1966-1976 - bộ đội PKQG - kỹ sư trưởng quân đoàn PK.
1976-1978 - Cộng hòa Cuba - cố vấn kỹ sư trưởng quân đội nhân dân Cuba.
1978-1979 - bộ đội PKQG - phó chủ nhiệm bộ đội TLPK - trưởng ban tên lửa-pháo PK quân đoàn PK.
1979 - chuyển ngạch dự bị.
Từ trần ngày 17 tháng 2 năm 2008, chôn cất tại Kharkov.
Được tặng thưởng các huân chương Cờ Đỏ, Sao Đỏ và nhiều huy chương, trong đó có huy chương Hữu Nghị của Việt Nam.



HỒI ỨC VỀ CHIẾN TRANH TẠI VIỆT NAM

Chuyện đó bắt đầu như thế nào

Tháng 1 năm 1965 một nhóm sĩ quan lữ đoàn TLPK 37 dẫn đầu là lữ đoàn trưởng đại tá Zherdev Aleksei Ivanovich được gọi đến bộ tổng tham mưu lực lượng PKQG.

Tổng tư lệnh bộ đội PK nguyên soái không quân V.A,Sudets giao nhiệm vụ. Ông nói rằng ban lãnh đạo Bắc Việt Nam đề nghị ban lãnh đạo Liên bang Soviet giúp đỡ đánh trả sự xâm lược của Hoa Kỳ, và chính phủ chúng ta đã quyết định giúp đỡ. "Nhiệm vụ của chúng ta: thành lập một cụm phương tiện PK nhằm bảo vệ không phận Bắc Việt Nam. Nhiệm vụ này tôi giao cho các anh, để các anh cùng các sĩ quan bộ tham mưu soạn thảo kế hoạch lập một nhóm như vậy trên cơ sở lữ đoàn các anh và trong thời hạn sớm nhất phải có mặt tại nơi đóng quân. Phải chính xác, nhanh, chất lượng. Thời hạn - hai ngày. Sau thời gian đó các anh phải báo cáo kế hoạch của mình".

Nhiệm vụ rất rõ ràng và chúng tôi chỉ có việc bắt tay thực hiện. Trong nhóm của tôi có các chuyên gia tham mưu, hậu cần, các kĩ sư ban khí tài tên lửa đứng đầu là tôi, các kỹ thuật viên thông tin liên lạc, vận tải. Tổng tư lệnh cho chúng tôi quyền được yêu cầu bất cứ phòng ban nào trong bộ tham mưu giúp đỡ. vì chúng tôi là các đại diện của binh chủng TLPK nên chúng tôi tất nhiên tìm sự giúp đỡ ở tư lệnh binh chủng TLPK. Tư lệnh kết nối chúng tôi với cấp phó của ông trung tướng S.F.Vikhor, người ngoài bản thân còn cho cả các sĩ quan của mình giúp đỡ chúng tôi. Chúng tôi cần sự giúp đỡ trước hết từ các chuyên gia vận tải đường sắt và nói chung là về vấn đề di chuyển nơi đóng quân của khí tài xe máy quân sự.

Công việc sôi sùng sục. Trong những ngày ấy chúng tôi cố gắng giải quyết các vấn đề sau:
1. Thành phần cụm bộ đội PK.
2. Đường vận chuyển và việc chuyển quân (khí tài xe máy tổ hợp TLPK, đạn, máy bay, cán bộ chiến sĩ).
3. Đặc điểm di chuyển trên đất Trung quốc, và đặc biệt trên lãnh thổ Việt Nam, vì ở đó chiều rộng trục bánh xe khác và tại biên giới Việt Nam cần tổ chức bốc trung chuyển hàng, điểm bốc trung chuyển.
4. Trinh sát thực địa trên lãnh thổ Việt Nam.

Tất cả những vấn đề trên cần phải đưa ra dưới dạng sơ đồ, bản đồ, các bản miêu tả và sau hai ngày chúng tôi đã báo cáo chúng trước bộ tư lệnh bộ đội PKQG.

Sau khi tiếp thu các nhận xét và có bổ sung chỉnh sửa nhất định, đề xuất của chúng tôi đã được phê duyệt, chúng tôi bắt đầu thi hành kế hoạch.

Đương nhiên một trong những vấn đề cơ bản là thành phần cụm PK. Tóm lại đã quyết định thành lập cụm bộ đội với thành phần như sau:
- lữ đoàn với 12 tiểu đoàn TLPK và 3 tiểu đoàn kỹ thuật đảm bảo;
- bổ sung cho lữ đoàn 1 tiểu đoàn radar;
- hai trung đoàn không quân tiêm kích phối thuộc lữ đoàn.

Các khí tài của bộ đội TLPK và bộ đội radar đóng quân trên lãnh thổ Việt Nam, còn các trung đoàn KQTK theo thỏa thuận với CHND Trung Hoa sẽ bố trí trên lãnh thổ của họ, gần với biên giới Việt Nam hơn.

Chương trình nghị sự trong ngày còn nổi lên vấn đề trinh sát thực địa. Đã quyết định lấy 10 người nhóm chúng tôi đầu tháng 2 bay tới Việt nam để tại thực địa chọn trận địa cho bộ đội radar, các tiểu đoàn tên lửa và các trung đoàn KQ. Chuyến bay ấn định vào khoảng từ ngày 1-2 thâng 2 năm 1965. Chúng tôi thay sang quần áo dân sự, chuẩn bị đồ đạc đi đường, hôm trước khi bay chỉ huy cho chúng tôi về nhà đến 18:00, sáng hôm sau 6:00 chúng tôi bay.

Tôi trả phép tầm khoảng 17:00, đi vào phòng nơi chúng tôi ở cùng chỉ huy và thấy ông đang sải bước trong phòng với vẻ tức giận. Ông buông ra từng tràng chửi bới, chửi trời, chửi đất và đủ mọi hướng. Tôi sửng sốt và hướng về ông gọi theo tên họ (chúng tôi vẫn thường giao tiếp với nhau như vậy sau giờ làm):

- Aleksei Ivanovich, có chuyện gì vậy?

Còn ông đáp rằng tất cả hỏng bét, người Trung quốc (những người nào thì tôi sẽ không nêu chính xác) từ chối phương án của chúng tôi. Họ không muốn cho bộ đội của chúng ta, và đặc biệt người của chúng ta (anh hãy nhớ điều đó) đi qua đất họ vào Việt Nam. Họ đề nghị như sau: các anh hãy chuyển khí tài cho chúng tôi, chúng tôi sẽ gửi chúng cho người Việt Nam, và tại đó chính chúng tôi sẽ dạy họ sử dụng. Đương nhiên chính phủ chúng ta không đồng ý với phương án này.

Sự việc nằm ở chỗ đây là giai đoạn đối đầu của chúng ta với Trung quốc  Quan hệ rất phức tạp và chúng tôi những công dân bình thường không thể lường được. Tình hình đó được phản ảnh ngay tại Việt Nam: chiến tranh kéo dài nhiều năm, số nạn nhân ở cả hai phía đều rất lớn, kinh tế bị tàn phá và nhân dân Việt Nam bị bần cùng hóa.

Ngày hôm sau, sau chuyến bay bất thành, tại bộ tham mưu người ta thông cảm với chúng tôi, đặt vé máy bay cho chúng tôi về thành phố Cheliabinsk quê hương và chúng tôi mặc đồ dân sự trang trọng về nhà. Giai đoạn đầu của công cuộc giúp đỡ những người anh em Việt Nam của tôi đã kết thúc như vậy đấy.

Chuyến bay tới thành phố Rồng Bay (Thăng Long)

Giữa tháng 4 năm 1965 một nhóm 9 sĩ quan được gọi tới BTTM Bộ đội PKQG. Đó là những người sau: Kushnar Leonid Fedorovich, Vasin Pavel Ivanovich, Baldurkin Vladimir Fedorovich, Kostriko Vladislav Mikhailovich, Uzlenkov Aleksandr Yakovlevich, Gromov Aleksandr Ivanovich, Fokin Lev Mikhailovich, Levitsky Gleb Aleksandrovich, Vodorez Leonid Fedorovich.

Nhiệm vụ đặt ra cho chúng tôi: chuẩn bị đề xuất về việc điều chuyển hai hệ thống tên lửa PK và toàn bộ khí tài vật chất còn lại đến Việt Nam để hình thành hoàn chỉnh hai trung tâm huấn luyện.

Để phục vụ đào tạo huấn luyện chúng tôi cần tinh giản tối đa quân số đoàn chuyên gia của mình sao cho đáp ứng các tiết giảng dạy đội ngũ quân nhân Việt Nam.

Vậy là bằng con đường thương lượng lâu dài, phía Việt Nam đã đàm phán thành công với phía Trung quốc để họ đồng ý với phương án sau: chúng ta (Liên bang Soviet) sẽ cung cấp khí tài và một số lượng xác định các giảng viên đào tạo đội ngũ quân nhân Việt Nam, và không trực tiếp tham gia chiến đấu.

Trên cơ sở quyết định của Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô tại Việt nam đã thành lập Đoàn chuyên gia quân sự Soviet, đoàn này sẽ bắt tay thành lập các trung tâm huấn luyện, chuẩn bị khí tài và đội ngũ quân nhân của chúng ta. Ban đầu chuyên gia về binh chủng TLPK của chúng ta đại tá Dzyza Aleksandr Matveevich đến Việt Nam. Ông từng lãnh đạo trung tâm đào tạo tại thành phố Kubinka, tại đó người ta dạy chuyển loại các chuyên gia-chiến sĩ tên lửa của chúng ta từ hệ thống S-25 sang hệ thống S-75. Sẵn có kinh nghiệm, ông lãnh đạo việc thành lập các trung tâm huấn luyện tại Việt nam Dân chủ Cộng hòa.

Nhóm chúng tôi sau khi chuẩn bị các hoạt động trên (đã có kinh nghiệm từ hồi tháng 1), cần phải bay đến VNDCCH vào quãng các ngày 20 tháng 4. Tôi được cử làm trưởng nhóm. Chúng tôi bay kịp thời, sau hai ngày đêm đã tới Bắc Kinh, tại đó trợ lý tùy viên quân sự tại CHNDTH ra đón. Người ta bố trí chúng tôi ở khách sạn "Pioneer" giữa trung tâm Bắc Kinh. Quan hệ tốt nhưng thận trọng và cảnh giác. Chúng tôi nán lại Bắc Kinh gần một tuần, trong thời gian đó diễn ra việc xác định thanh khoản của chúng tôi. Người ta đưa cho chúng tôi 75 tệ để chi tiêu hàng ngày, nhưng tiền khách sạn rồi tiền ăn chẳng ai lấy, dù trợ lý đại sứ đã nói cứ để chúng tôi trả tiền. Tóm lại người Trung quốc từ chối lấy tiền. Trong thời kỳ ấy, người Trung quốc vẫn tỏ thiện cảm với chúng tôi, nhưng liên tục rủa xả ban lãnh đạo chính trị của chúng ta, gọi họ là những kẻ tư bản chủ nghĩa, phản bội lại tư tưởng của chủ nghĩa Marx. Họ ném vào chúng tôi tất cả các loại truyền đơn có thể ném, trong đó mạt sát ban lãnh đạo của chúng ta.

Chúng tôi đi dạo trên quảng trường chính ở Bắc Kinh, ghé vào Bách hóa Tổng hợp mua kính râm, diêm, bút máy và những đồ vặt vãnh khác. Chúng tôi thấy người dân Bắc Kinh ăn mặc đồng nhất, đon điệu và nghèo nàn: áo vét và quần dài đều màu xanh lam. Ấn tượng chung là không vui vẻ. Cuối cùng thì cuối tuần người ta cũng bố trí được cho chúng tôi đi Hà Nội.
........
« Sửa lần cuối: 07 Tháng Sáu, 2014, 12:09:42 am gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #55 vào lúc: 07 Tháng Sáu, 2014, 12:10:18 am »

Chúng tôi bay tới phi trường Gia Lâm Hà Nội vào giữa trưa ngày 30 tháng 4. Trời nắng nóng. Đón chúng tôi là cả một đoàn đông đủ, trong đó có đại tá Dzyza, phó tùy viên quân sự tại VNDCCH, phía Việt Nam có phó tư lệnh PKKQ đại tá Đỗ Đức Kiên và nhiều đồng chí khác. Cuộc đón tiếp rất hữu nghị. Sau đó chúng tôi đi về Kim Liên cửa ô Hà Nội, tại đó có một khách sạn, họ bố trí cho chúng tôi ở theo các phòng. Tôi nhận được một phòng riêng, lập tức vào tắm rồi đi nằm nghỉ.   

Buổi tối đại tá Dzyza họp chúng tôi tại khách sạn, làm quen kỹ hơn với chúng tôi, khái quát đặc điểm tình hình, kể vắn tắt về các sự kiện gần nhất, cho biết ngày mai sẽ có cuộc gặp tư lệnh PKKQ QDNDVN.

Cuộc gặp với tư lệnh PKKQ Phùng Thế Tài và đoàn tùy tùng của ông diễn ra trong một căn phòng bộ tham mưu, ở đây họ cũng bố trí cho chúng tôi vài phòng làm việc không xa khách sạn. Cuộc gặp gỡ diễn ra đầm ấm nhưng vẻ ngoài của họ khiến chúng tôi ngạc nhiên. Nếu như tại sân bay Gia Lâm Đỗ Đức Kiên vận âu phục lịch sự ra đón chúng tôi, hơn nữa ông còn nói tiếng Nga rất tốt (ông từng tốt nghiệp Học viện Bộ Tổng Tham mưu của chúng ta), thì tư lệnh và nhóm vây quanh ông lại ăn mặc khá bản địa (quần rách vá, áo sơ mi không là). Sau cuộc gặp chúng tôi hỏi các đồng chí đến trước rồi hỏi cậu phiên dịch rằng sự hóa trang đó có ý nghĩa gì. Họ trả lời chúng tôi đó là những người ủng hộ cho vẻ bề ngoài thể hiện được xuất thân giai cấp vô sản của mình, họ là những người thân Trung quốc cuồng nhiệt. Tiếc thay "những người vô sản" ấy trong tương lai sẽ làm chúng tôi mất khá nhiều xương máu.

Sau cuộc gặp chúng tôi làm quen với những người được chúng tôi bảo trợ, những người mà chúng tôi sắp phải làm việc cùng họ. Người đồng chí của tôi, người mà tôi cần phải huấn luyện cách làm việc với khí tài mới và làm quen với tài liệu mới, là kĩ sư trưởng binh chủng TLPK, thiếu tá Dục. Cử đến phụ việc cho chúng tôi là một phiên dịch viên xuất sắc, đồng chí Hùng. Đó thực sự là một con người bằng vàng. Anh ta nắm vững tiếng Nga một cách hoàn hảo và là một đồng chí rất tốt.

Khi đến VNDCCH tôi đã báo cáo đại tá Dzyza về thành phần của nhóm, tôi nói rằng tại BTTM LLPKQG người ta cử tôi làm nhóm trưởng và bây giờ tôi xin giả lại sứ mệnh ấy bởi vì phần lớn các đồng chí trong nhóm phải làm việc trên các hướng riêng. Đáp lại Dzyza cười phá lên, ông nói rằng "vậy thì công việc sẽ không chạy, cậu cứ tiếp tục làm trưởng nhóm, vì tôi, ngoài cậu ra, còn khối việc". Ông nói thêm rằng "chỉ có hai người trong nhóm không làm các công việc kỹ thuật, những cậu còn lại đều là đội ngũ kỹ thuật của cậu, vậy cậu hãy lãnh đaoh họ đi. Nếu có việc gì cần tôi giải quyết - cậu cứ báo cáo tôi chúng ta sẽ cùng giải". Vậy là cho đến cuối phiên công tác đặc biệt tôi vẫn là trưởng nhóm này.

Công việc của tôi với kĩ sư trưởng bắt đầu bằng việc làm quen với những gì mà lúc đó họ đang có. Tiếc rằng chẳng có gì. Thiêu tá Dục có một người cấp phó (ông gọi anh ta như vậy) là đại úy Nguyện. Những người khác khi ấy chúng tôi đang chọn, nhưng dẫu sao trong 2-3 tháng đầu chẳng nên mong đợi gì ở họ vì họ còn phải trải qua đào tạo tại trung tấm huấn luyện. Đại úy Nguyện đã tốt nghiệp trường quân sự Minsk của chúng ta, anh nắm vững ngôn ngữ của chúng ta, vì vậy anh đang ở đúng chỗ. Những người còn lại vẫn đang còn trong dự thảo kế hoạch.

Đại tá Dzyza cho chúng tôi vài ngày làm quen với tình hình. với các đồng chí sẽ cùng công tác nhưng đồng thời cũng đạt nhiệm vụ tìm hiểu và nghiên cứu địa điểm bốc dỡ hàng hóa khí tài, Cùng với Dục và các kĩ sư của mình chúng tôi đi ra ga đường sắt để xác đinh vị trí tiếp nhận đoàn xe lửa, nơi dỡ hàng, hệ thống chiếu sáng sân dỡ hàng, chiếu sáng các đoàn tàu. Thực tế là toàn bộ công việc diễn ra về đêm vì thế cần tính đến mọi phương án. Sau đó cần xác định địa điểm trung gian nơi đặt khí tài trước khi đưa nó đến điểm triển khai cuối cùng.

Trong giai đoạn đó xảy ra một trường hợp khá kỳ quặc. Một lần một đồng chí của Dục ghé vào bộ tham mưu, ông giới thiệu đó là kĩ sư trưởng lực lượng PPK. Nhân thể phải nói rằng thời đó QDNDVN được trang bị các phương tiện PK khá tốt kiểu ZPU, IZP 37mm, 57mm, 100mm. Chúng đã chiến đấu với máy bay Mỹ nhưng kết quả còn khiêm tốn. Từ những cuộc không kích đầu tiên năm 1964 cho đến lúc này PPK đã bắn rơi được hơn 380 máy bay. Chiếc máy bay đầu tiên của Mỹ bị PPK bắn rơi vào ngày 5 tháng 8 năm 1964. Sau khi làm quen kĩ sư trưởng tò mò muốn hỏi tôi có biết nhiều về PPK hay không. Vì đây là cuộc nói chuyện thông thường nên tôi trả lời tôi đã tốt nghiệp trường PPK, đã phục vụ trong nhiều đơn vị PPK, tất cả các hệ thống họ hiện đang có tôi đều biết. Và thế là tôi rơi vào tròng. Liếc mắt trao đổi với Dục xong, người kĩ sư trưởng PPK nói rằng họ có những vấn đề nghiêm trọng với khí tài của các khẩu đội PPK 100mm và họ không thể tự mình giải quyết được. Đại loại tất cả đều làm việc tốt nhưng đài dẫn bắn SON hướng về một phía còn pháo thì lại hướng về phía kia, vì vậy không thể bắn có ngắm máy và họ buộc phải cho nhiều khẩu đội bắn theo kiểu dựng lưới lửa cản. Liệu tôi có thể xuống chỗ đại đội pháo và xem giúp vấn đề nằm ở đâu hay không. Dục cũng xin tôi đi xem. Tôi nói với các đồng chí của mình rằng tôi sẽ đi xuống chỗ đại đội PPK và thế là chúng tôi lên xe đi. 

Đại đội pháo nằm ở ngoại thành Hà Nội, chúng tôi xuống đến nơi rất nhanh, nối nguồn, bật máy, vận hành và tôi thật sự thấy mọi chuyện không ổn, không có sự đồng bộ. Chúng tôi bắt đầu kiểm tra, mặc dù theo kinh nghiệm sử dụng PPK tôi đã phần nào đoán được bệnh. Tôi hỏi mượn dụng cụ đo-kiểm, bắt đầu tiến hành đồng bộ hóa và phát hiện ra dụng cụ kiểm tra có sai số lớn đến 50%. Tất nhiên với những dụng cụ như thế mà không có kinh nghiệm nhất định thì khó mà làm việc được. Dẫu sao tôi cũng đã chỉnh được khí tài và nói với viên kĩ sư trưởng rằng cần khẩn trương kiểm tra lại thiết bị đo-kiểm (KIA). Nhân thể tôi hỏi đại đội trưởng lần cuối cùng anh ta kiểm tra dụng cụ là khi nào. Anh ta đáp đó là khi còn Liên-Xô (các chuyên gia Soviet) ở đây, và họ cho rằng dụng cụ đo vẫn đúng vì kim trên các đồng hồ đo vẫn chuyển động và chỉ vào một cái gì đó.

Chúng tôi trở về bộ tham mưu, nhưng chuyện này làm tôi nghĩ đến việc có những thiếu sót trong công tác đào tạo của chúng ta - đây là một trường hợp. Thứ hai là cần khẩn trương trang bị một phòng thí nghiệm để kiểm định thiết bị đo kiểm. Tôi hỏi Dục xem họ có các phòng thí nghiệm như vậy không. Ông trả lời là không, chỉ trước kia khi có chuyên gia của chúng ta ở đây. Dĩ nhiên Dục biết rõ mọi chuyện vì bản thân ông từng phục vụ trong lực lượng PPK. Lúc đó tôi trực tiếp yêu cầu ông ngày hôm sau khẩn trương tìm phòng triển khai phòng thí nghiệm trước khi khí tài về đến nơi. Buổi tôi đại tá Dzyza ghé vào chỗ tôi và hỏi tại sao tôi lại đi xuống chỗ đại đội PPK. Tôi kể cho ông nghe mọi chuyện và nói rằng kĩ sư trưởng PPK đề nghị tôi đi giúp ông ta. Thay vì khen ngợi, Dzyza mắng tôi như cha mắng con và nói: "Ai bắt cậu thò lưỡi ra, sao lại nói cậu biết PPK? Cậu đến đây để làm việc với khí tài của binh chủng TLPK, vậy thì làm việc đó đi, đừng có phá hợp đồng đã ký chứ". Rốt cuộc ông vẫn là một con người tốt bụng và trung thực, ông nói "nếu cậu có thể làm một việc tốt thì hãy làm đến cùng. Ngày mai hãy trao đổi với Dục và có thể với cả kĩ sư trưởng PPK, hãy khuyên ông ta qua bộ chỉ huy của mình đề nghị chúng ta cho gọi lại từ Liên bang các chuyên gia PPK, còn bản thâu cậu hãy nói vì bận việc nên không thể quan tâm đến những vấn đề ấy nữa, vì khi khí tài sắp về phải suy nghĩ và xác định xem triển khai nó ở đâu và như thế nào". Ngoài ra ông còn nói rằng phải có ai đó trong số các chuyên gia của chúng tôi phụ trách việc lập kế hoạch di chuyển của các đoàn tàu, cử đến biên giới với Trung quốc để tiếp nhận khí tài của chúng ta, giúp đỡ độ ngũ quân nhân chúng ta trong việc tổ chức và tiến hành dỡ tải sang các đoàn tàu Việt Nam. Tôi nói rằng lo các vấn đề ấy có tôi, Vasin, Gromov, Fokeev và Vodorez và đề xuất mình, nhưng đại tá Dzyza nói rằng tôi "có rất nhiều việc phải làm ở đây khi bốc hàng". Ông quyết định phái L.M.Fokeev và L.F.Vodorez đi lo việc trung chuyển hàng ở biên giới.     
..........
« Sửa lần cuối: 08 Tháng Sáu, 2014, 04:43:44 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #56 vào lúc: 08 Tháng Sáu, 2014, 09:00:42 pm »

Ngày hôm sau tôi cử các đồng chí có tên lên biên giới sau khi thông báo sơ bộ nhiệm vụ của họ rồi bản thân mình thì vào bộ tham mưu. Tại đây Dục và kĩ sư trưởng PPK đang chờ tôi, tôi yêu cầu kĩ sư trưởng làm đơn xin các chuyên gia PPK thông qua BCH của mình, về phần chúng tôi sẽ giúp gửi đơn sao cho nhanh chóng nhất. Về phần mình thì tôi buộc phải từ chối tham gia vì bận việc. Các đồng chí cùng chung vũ khí cám ơn tôi vì đã tư vấn, kĩ sư trưởng đi thảo đơn, còn tôi và Dục bắt tay vào việc bàn kế hoạch tìm nơi đặt phòng thí nghiệm KIA và kho chứa thiết bị đồng bộ, đạn tên lửa và các trang bị khác sắp về đến nơi rồi.

Việc tìm kiếm địa điểm cho phòng thí nghiệm và khí tài đồng bộ xem ra không đơn giản, vì điều kiện khí hậu tại Việt Nam, đặc biệt khi mùa mưa, không chỉ là tồi tệ mà còn là siêu tồi tệ, theo thời gian ngay cả các khí tài đang được bảo quản cũng không còn có thể chịu đựng được thời tiết. Chỉ có duy nhất một thứ vẫn ngoan cường đương đầu với khí hậu này - đó là những chuyên gia Soviet chúng ta. Đôi khi ngay cả những người Việt Nam cũng ngạc nhiên trước sức chịu đựng của những con người chúng ta. Đối với họ người Liên Xô là đối tượng để học tập. Và đã đến lúc chúng tôi phải chứng minh điều đó.

Để chọn phòng thí nghiệm tôi mang theo mình các dụng cụ mà quan trọng nhất là dụng cụ đo độ ẩm (psychrometre), bởi lẽ vấn đề cơ bản là độ ẩm ghê sợ. Ví dụ trong rừng rậm nhiệt đới nó có thể lên đến 99% đến mức khi chúng tôi về đến nhà thì cả người cho đến chiếc quần lót bên trong cũng ướt đẫm.

Sang ngày thứ ba nỗ lực của chúng tôi đã đạt kết quả: chúng tôi tìm ra địa điểm cho phòng thí nghiệm. Các địa điểm khác xác định nhanh hơn nhiều và bây giờ đến việc chở đồ từ phòng thí nghiệm đến. Đó là một ngôi nhà nhỏ dưới tán một cái cây lớn, nằm ở khoảng rừng thưa, xung quanh có một hàng rào nhỏ. Người ta cho chúng tôi đến đó, chúng tôi kiểm tra thấy rằng nhà có tường 2 lớp (để giảm độ ẩm), được chiếu sáng tốt, được cấp điện, độ ẩm thuộc loại cho phép. Nói chung là có tất cả những thứ ta cần. Đi cùng chúng tôi có trưởng phòng thí nghiệm tương lai thiếu tá Dục, A.I.Gromov và một số đồng chí khác. Tất cả đều hài lòng và khi có mặt ở đây chúng tôi lập tức xác định phải chở đến đây máy móc phòng thí nghiệm, trong khi đó vạch ra kế hoạch trang bị bổ sung để có thể làm việc. Cần có bàn vẽ, giá để tài liệu và các trang bị khác. Trưởng phòng thí nghiệm tương lai cần lo những việc này. Chúng tôi báo cáo BCH Việt Nam nhưng Đỗ Đức Kiên chỉ cau mày không nói gì. Suốt ngày hôm sau tôi và Dục nóng lòng chờ đợi kết quả mà không thấy. Chỉ đến tối Đỗ Đức Kiên ghé phòng chỗ chúng tôi và ông mỉm cười chúc mừng đề xuất của chúng tôi về tòa nhà đặt phòng thí nghiệm đã được giải quyết một cách tích cực. Sau đó vừa cười ông vừa hỏi chúng tôi có biết gì về ngôi nhà này không. Chúng tôi tất nhiên nói rằng mình không biết. Khi đó ông cười nói rằng đó là nhà nghỉ ngoài thành phố của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chủ tịch nói rằng nếu ngôi nhà ấy cần cho chiến thắng thì hãy lấy nó đi và hãy trang bị cho nó để đặt phòng thí nghiệm ở đây.

Vậy là chúng tôi đã hoàn thành một trong các nhiệm vụ đặt ra. Sau đó với sự giúp đỡ của chúng tôi các đồng chí Việt nam đã làm được một phòng thí nghiệm xuất sắc, trang bị các dụng cụ máy móc vừa mang từ Liên Xô tới, họ đào tạo được các chuyên gia tốt chọn ra từ các trung tâm huấn luyện và các tiểu đoàn. Về nguyên tắc vấn đề với KIA bây giờ không còn nữa. Thật ra thì trước tiên chúng tôi làm công tác kiểm tra KIA của PPK, vì các khí tài của chúng tôi trong giai đoạn đầu tiên còn chưa đến hạn đo kiểm. Khi các đại diện về tiêu chuẩn hóa PTN từ Moskva đến, kiểm tra KIPS họ nói rằng ngay cả ở Liên Xô cũng ít gặp các phòng thí nghiệm được trang bị tốt như vậy.

Cần phải nói rằng chúng tôi đã thực hiện được lời hứa về PPK. Sau môt tháng có 2 chuyên gia khí tài PPK đến với chúng tôi từ kho vũ khí Kiev. Họ đến theo lệnh từ sứ quán và nói rằng người ta phái họ đến chỗ tôi vì tôi là người đã có sáng kiến để họ có mặt tại đây; cũng vì tại LLPPK không có đại diện của họ nên họ được ghép vào với chúng tôi dưới quyền của tôi. Tôi bố trí họ ở Kim Liên, giới thiệu họ với kĩ sư trưởng PPK và họ bắt đầu làm việc. BCH PPK cám ơn chúng tôi vì đã cộng tác hỗ trợ.

Vậy là cuộc phiêu lưu đầu tiên của tôi như đại tá Dzyza bảo tôi đã kết thúc tốt đẹp. Công việc tiếp tục. Những ngày này chúng tôi đang thực hiện việc đào tạo cho nhóm cán bộ Cục kỹ thuật binh chủng TLPK, đến lúc đo chưa hình thành hoàn toàn, nhưng chúng tôi vẫn giới thiệu với họ cấu trúc ban kỹ thuật tên lửa của lữ đoàn, tập đoàn quân, dùng các sơ đồ chỉ ra cho họ tổ chức của bộ phận kỹ thuật tên lửa của các đơn vị, các tập đoàn quân. Về nguyên tắc tôi không đưa ra cho họ cấu trúc ban kỹ thuật tên lửa của các trung đoàn chúng ta bởi vì tôi cho rằng hệ thống kỹ thuật tên lửa cấp trung đoàn của chúng ta là chưa hoàn thành về mặt tổ chức, chỉ cấp lữ đoàn mới là cấp tiêu biểu của chúng ta theo quan điểm của tôi.

Khi tiến hành các giờ học với các sĩ quan, tôi chỉ ra trên các sơ đồ tôi vẽ tổ chức của ban kỹ thuật tên lửa. Cần phải trao cái cần trao để họ trong các trung đoàn tùy theo mức độ tổ chức đơn vị mà lấy làm cơ sở cấu trúc ban kỹ thuật tên lửa cấp lữ đoàn, xem xét vấn đề thành lập các xưởng kỹ thuật của trung đoàn, trang bị của nó. Tất nhiên ở đây chúng tôi đề xuất cấu trúc của mình, nhưng xét đến mong muốn của họ, chúng tôi đề xuất cả kinh nghiệm xưởng kỹ thuật PPK. Điều này sẽ làm phong phú công tác tiếp theo về mặt hoàn thiện tất cả các phân đội này. Cần nói rằng ở các đồng chí Dục và Nguyện tôi tìm thấy sự đồng điệu trong các vấn đề phương pháp làm việc sáng tạo. Họ luôn cố gắng ủng hộ những sáng kiến hợp lý trong việc giải quyết các vấn đề đã chín muồi. Tôi đã giải quyết và thực hiện thành công trong cuộc sống nhiều tư tưởng và ý định nảy sinh ở tôi trong quá trình tôi là chỉ huy đài điều khiển tên lửa, kỹ sư trưởng trung đoàn, lữ đoàn và những ý tưởng mà tôi không thể thực hiện kịp thời do những sự bảo thủ nhất định của chúng ta. Ở đây chúng tôi cùng nhau có thể làm tốt hơn ở chỗ chúng ta vì mọi thứ bắt đầu từ đầu. Trong thời gian này tôi đã sinh ra ý tưởng xây dựng căn cứ sửa chữa di động (PRB) ở quy mô binh chủng TLPK, ý tưởng được Dục và Nguyện ủng hộ nhưng khi ấy hãy còn là ý tưởng. Đi trước thời gian tôi phải nói rằng chúng tôi đã thực hiện được ý tưởng ấy. Đó là sau các trận đánh năm 1965, đầu năm 1966 tôi tập hợp được khá đủ tài liệu để dù còn bận rộn, tôi vẫn lập được cấu trúc PRB, trình bày với các đồng chí của mình và các đồng chí Việt Nam. Cùng với một chút chỉnh sửa theo góp ý, tôi gửi đề xuất về Moskva. Tất nhiên tôi không chờ đợi sẽ nhận được phê chuẩn về PRB trong thời gian tôi công tác ở Việt Nam. Nhưng thật vui mừng cho tôi, sau một năm rưỡi tôi gặp người thay thế tôi tại Việt Nam - kỹ sư trưởng TLPK (theo tôi nhớ là đại tá V.I.Sherstobitov). Ông kể rằng họ đã nhận được PRB này và đã tính toán thành phần của nó. Do tôi vẫn còn giữ được bản miêu tả về nó, hóa ra nó chính là đứa con tôi sinh ra với những thay đổi không đáng kể. Có thông tin rằng căn cứ tương tự như vậy cũng đã được sử dụng ở Ai Cập. 
.......
« Sửa lần cuối: 08 Tháng Sáu, 2014, 11:07:09 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #57 vào lúc: 09 Tháng Sáu, 2014, 07:40:36 am »

Trong những ngày 10 của tháng 5 khí tài bắt đầu về tới. Khối lượng chủ yếu đưa về đầu mối đường sắt Hà Nội, nơi mà đại tá Dzyza giao trách nhiệm chỉ huy bốc dỡ cho tôi. Số khí tài này được trang bị cho trung tâm huấn luyện 1. Dồn về đây là các đoàn tàu chở tổ hợp TLPK, đạn tên lửa, xe TZM, trang bị hậu cần và TTLL, trang bị cho PTN. Khí tài cho trung tâm huấn luyện số 2 về ga Trại Cau, trung tâm huấn luyện có kế hoạch triển khai cách đó 20 km. Hai chuyên gia từ nhóm chúng tôi cũng được phái lên đó để giúp đỡ.

Sự khó khăn của công tác bốc dỡ nằm ở chỗ phải bốc dỡ ban đêm để tránh máy bay đối phương tấn công. Người ta cử gần 100 chiến sĩ QDNDVN và phiên dịch viên giúp chúng tôi. Phương tiện vận tải được cho dỡ hàng vào khoảng 21 giờ đêm giờ Hà Nội. Công việc phải ngừng trước 5 giờ sáng, trước bình minh. Dọc theo 2 bên đoàn tàu người Việt nam xếp thành hàng, chuyển sang xe buýt các chiến sĩ của chúng ta đến cùng khí tài. Chiếu sáng được định hướng sao cho khó có thể nhìn thấy nó từ phía trên xuống. Nhưng dù sao cũng vẫn thấy vẻ căng thẳng trên mặt các chiên sĩ Việt Nam.

Để cắt nghĩa ta tạm dừng chốc lát trên một số đặc điểm của QDNDVN. Trong QDNDVN thời đó khái niệm thống nhất chỉ huy (một thủ trưởng) là không có.  Các chính ủy có quyền rất lớn và trong một số trường hợp có thể hủy lệnh của người chỉ huy. Cấp dưới có thể phán xét mệnh lệnh của người chỉ huy và không bắt tay thi hành mệnh lệnh đó. Và do thời kỳ này Việt Nam chịu ảnh hưởng rất mạnh của Trung quốc, nên theo lẽ thường người ta hay bổ nhiệm các chính ủy có khuynh hướng thân Trung quốc, họ tuyên truyền chống Liên Xô vô cùng mạnh mẽ, tiếp theo là chống chính chúng tôi, các quân nhân, họ khẳng định chúng tôi đã hồi sinh chủ nghĩa tư bản và những điều tương tự. Thêm vào đó dưới tác động của Trung quốc, Việt Nam đã triệu hồi từ Liên Xô về tất cả các công dân Việt Nam đang học tập và làm việc ở đây. Trên đất nước mình những người ủng hộ Liên Xô bị theo dõi, bị mất các cương vị phụ trách của họ. Ví dụ đại tá Đỗ Đức Kiên người tốt nghiệp Học viện Bộ Tổng tham mưu của chúng ta, một chuyên gia xuất sắc, bị cách bỏ chức vụ. Chỉ khi nổi lên vấn đề xây dựng binh chủng TLPK và cần một con người hiểu biết, một chuyên gia nắm vững tiếng Nga, người ta mới bổ nhiệm ông ta làm phó tư lệnh PKKQ và người giám hộ chúng tôi.  

Bắt đầu công tác dỡ hàng. Các chiến sĩ chúng ta nhanh chóng vào việc và qua phiên dịch yêu cầu người Việt Nam đến giúp. Tới lượt dỡ bệ phóng. Để làm việc này người ta điều thêm các cầu phụ trọng lượng 100kg. Người của chúng ta đề nghị người Việt Nam bôc nó lên khỏi sân ga. Hai người đi đến hai bên phải trái của cầu phụ theo khẩu lệnh "một, hai, ba" gắng nhấc chiếc cầu nhưng nó không hề nhúc nhích. Hai người nữa đến cùng làm nhưng chiếc cầu phụ vẫn nằm yên. Khi đó hai chiến sĩ bệ phóng của chúng ta đi đến, lễ phép nhờ người phiên dịch bảo họ đứng sang một bên. Hai chiến sĩ nhẹ nhàng nhấc nó lên mang qua sân ga tới vị trí. Tất cả các chiến sĩ Việt Nam trên sân ga sững sờ, sau đó như thể theo khẩu lệnh họ rào rào vỗ tay, hô: "Ura! Bravo!" (đương nhiên bằng tiếng của họ), họ vui vẻ trao đổi với nhau về sự việc.

Tôi cùng phiên dịch viên Hùng quan sát cảnh tượng trên và hỏi cậu ta họ nói cái gì thế? Hùng mỉm cười dịch cho tôi nghe như sau. Họ nói: "Đấy bọn tư bản Soviet là thế đấy! Chúng ta phải học tập họ làm việc, sao cho bắn rơi bọn Mỹ cũng nhanh như vậy!" Và chính Hùng cũng vỗ tay và hô tán thưởng cùng với họ. Tôi cảm động đến nỗi nước mắt chực trào ra mí mắt. Điều kỳ diệu đã xảy ra như thể có một tia lửa thần xuyên qua tất cả. Thái độ mọi người thay đổi, vẻ căng thẳng u ám biến mất. Người Việt Nam cảm thấy đến với họ không phải bọn tư bản nào đó mà là những chàng trai công-nông cũng như họ, không như nhiều chính ủy đã nhồi nhét đầu óc họ. Hàng ngũ của họ sống động hẳn lên, giờ thì họ không đợi lệnh của chúng tôi qua các phiên dịch viên nữa, họ chủ động đến giúp chúng tôi, cố gắng bằng sức lực nhỏ bé của mình góp phần bốc dỡ khí tài, đôi khi do không biết cách họ lại làm phiền chúng tôi. Nhưng điều đó chỉ làm tăng khí thế chung. Các cậu trai của chúng ta chỉ cười khi có ai đó trong số họ lầm lẫn, họ vui vẻ hô: "Không sao, không sao, đồm trí!" (chúng tôi đã học thuộc lòng từ tiếng Việt tốt đẹp này "đồm trí" - giống như từ "tovarits" của chúng ta).

Việc dỡ hàng tiếp tục. Tới trước 5 giờ khí tài đã kịp thời ra tới tuyến trú ẩn trung gian. Tôi muốn nhấn mạnh cảnh tượng này như một sự kiện không quan trọng (sự kiện thông thường) trong giai đoạn đầu sự cộng tác chung của chúng tôi - sự hỗ trợ nhau trong lúc bốc hàng qua cầu phụ - về tổng thể là hiện tượng làm nảy sinh tình hữu nghị giữa hai dân tộc và hai quân đội. Sự cộng tác tiếp theo của chúng tôi trong thời gian học tập tại các trung tâm huấn luyện, trong các điều kiện chiến tranh với kẻ xâm lược ngang ngược chỉ củng cố thêm tình hữu nghị ấy mặc dù có sự chống đối lâu dài của một số kẻ thân Trung quốc.
........
« Sửa lần cuối: 09 Tháng Sáu, 2014, 10:03:28 am gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #58 vào lúc: 09 Tháng Sáu, 2014, 07:50:54 pm »

Buổi ban đầu và quá trình đào tạo

Trung tâm huấn luyện thứ nhất được hình thành từ các sĩ quan chiến sĩ quân đoàn PK độc lập số 4 mà bộ tham mưu đóng tại Sverdlovsk. Cần xác định rằng trong một số nguồn vì những lý do không rõ ràng mà người ta ghi danh việc thành lập nó cho quân khu (PK) Moskva.

Được bổ nhiệm lãnh đạo trung tâm là đại tá Tsygankov Mikhail Nikolaevich, phó chỉ huy về chính trị - trung tá Barsuchenko Mikhail Fedorovich, kũ sư trưởng - thiếu tá Nikolai Meshkov. Tôi xin bổ sung rằng chính từ tập đoàn quân PK này người ta đã chọn ra một nhóm sĩ quan để chuẩn bị cho Cục kỹ thuật binh chủng TLPK QDNDVN.

Trung tâm thứ nhất bố trí cách 40km phía nam Hà Nội trên bờ một con sông nhỏ. Trận địa TLPK triển khai trong vòng rừng cây cà phê. Khi chuẩn bị địa điểm đặt khí tài đã phải chặt bớt cây, chúng tôi rất tiếc vì phải làm mất một cảnh đẹp như vậy. Tại nơi đặt nhà ở, lớp học người ta xây dựng những ngôi nhà nhỏ bằng tre, mái lợp lá cọ và trồng chuối. Trang bị đủ toa-let, phòng tắm, nhà ăn.


Sau lễ trao phần thưởng của chính phủ Soviet cho các chuyên gia quân sự tiểu đoàn 62 trung đoàn TLPK 236 QDNDVN. Ảnh của trung tá Chernetsov. Ảnh chụp ngày 18 tháng 1 năm 1966, thị xã Hà Đông, Việt Nam.
Hàng ngồi từ trái sang phải: 5- thiếu tướng G.A.Belov; 6- đại tướng BTQP Võ Nguyên Giáp; 7- đại sứ Liên Xô I.S.Scherbakov.


Trung tâm huấn luyện thứ hai hình thành từ các sĩ quan chiến sĩ quân khu PK Baku. Chủ nhiệm trung tâm là đại tá Nikolai Vasilevich Bazhenov, phó chính trị - đại tá Ivan Ivanovich Smirnov, kĩ sư trưởng - đại úy (sau là thiếu tá) Anatoly Borisovich Zaika. Trung tâm huấn luyện bố trí cách thị trấn Trại Cau 20km sâu trong rưng đại ngàn nhiệt đới. Lớp học và các công trình khác được trang bị giống như ở trung tâm số 1. Ưu điểm duy nhất chỉ là trận địa được che chở rất tốt bởi các cây cao, phủ kín các dây leo rậm rạp đến mức ánh nắng chỉ có thể xuyên qua tán lá một cách yếu ớt. Thời gian đầu các chuyên gia chúng ta rất khó quen với không khí của rừng nhiệt đới, vì không khí rất đậm đặc và phả ra đủ thứ mùi có thể và bốc hơi rất mạnh làm váng cả đầu. Sau khi trang bị xong các trung tâm, công tác đào tạo bắt đầu vì thời gian rất gấp.

Thời gian biểu một ngày như sau: dậy lúc 5:00, 5:30 - ăn sáng, 6:00 đến 12:00 - học, từ 12 đến 14 giờ, khi trời nóng nực - nghỉ ăn trưa và nghỉ trưa; từ 14:00 đến 17:30 - tiếp tục học, 18:00 - ăn tối, từ 20:00 đến 22:00 - tự học.  

BCH QDNDVN đã dồn nhiều công sức cho việc tổ chức các trung tâm. Các trung tâm vừa mới thành lập nằm dưới sự kiểm soát của tư lệnh PKKQ đại tá Phùng Thế Tài và chủ nhiệm TLPK Nguyễn Tuyên. Người giám hộ bộ đội TLPK là phó tư lệnh PKKQ đại tá Đỗ Đức Kiên, ông có quan hệ rất chân tình với các chuyên gia quân sự Soviet, luôn nghiên cứu kỹ đáp ứng các nhu cầu của chúng ta. Sau đó Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến thăm trận địa một tiểu đoàn TLPK, người rất quan tâm theo dõi sự hình thành một thành phần vũ trang mới của QDNDVN - binh chủng TLPK.

Những lực lượng ưu tú nhất của nhân dân Việt Nam đã được gọi vào thành phần các trung tâm huấn luyện. Về đây cơ bản có các chuyên gia như sau:
 - trước hết, các công dân biết tiếng Nga, đã học tại các cơ sở đào tạo của chúng ta;
- những người đã tốt nghiệp hoặc đang học tập tại các cơ sở đào tạo của Việt Nam về các chuyên ngành điện và vô tuyến điện tử;
- những người đã tốt nghiệp từ lớp 8 phổ thông trung học trở lên.

Như chúng ta thấy, thành phần nhân lực được lựa chọn rất nghiêm túc, đảm bảo khả năng trong thời hạn ngắn có thể tiến hành đào tạo một cách có chất lượng để họ trở thành các chuyên gia-chiến sĩ tên lửa. Mà thời hạn thì rất khắc nghiệt - 4 tháng, bạn phải trở thành một chuyên gia của binh chủng tên lửa. Mà xe máy khí tài của binh chủng tên lửa PK - đó không còn phải là chiếc xe ô tô đương đại nữa. Đương nhiên khi là các chàng trai mới rời khỏi luống cày, trong số các xe máy khí tài thì ngoài chiếc xe đạp máy cá nhân và xe trâu kéo, họ chưa từng nhìn thấy cái gì khác, nhưng khi có học vấn tương đối đủ thì điều chủ yếu là họ phải có khát vọng làm chủ khí tài phức tạp tinh vi này để giành chiến thắng, sẵn sàng làm tất cả để trở thành người lính thông minh và can đảm của binh chủng TLPK.

Mỗi chuyên gia của chúng tôi được kèm theo các phiên dịch viên, điều này có ý nghĩa lớn trong việc thiết lập sự thông hiểu lẫn nhau. Nhưng ban đầu các phiên dịch viên gặp rất nhiều khó khăn trong vấn đề dịch văn bản của chúng ta. Nhiều người trong số họ chưa quen với các thuật ngữ kỹ thuật, bởi vậy trước tiên phải dạy họ các thuật ngữ kỹ thuật để họ chuyển tải đến các học viên cho chính xác. Ngoài ra ở nước họ thời kỳ ấy đang là cao trào đấu tranh chống "chủ nghĩa thế giới" (cũng như ở nước ta đã từng có thời như vậy), đo đó họ đòi hỏi tất cả phải dịch sang ngôn ngữ nước họ, điều mà không phải lúc nào cũng thành công.

Tôi sẽ dẫn ra một ví dụ như vậy. Chúng ta có (sẽ phải nói cho trung thực) bộ thuật ngữ vô tuyến điện tử dựa trên Anh ngữ. Do đã quen với nó nên nhiều từ chúng ta sẽ không dịch nó sang tiếng Nga mà tiếp nhận từ như tiếp nhận một chi tiết hoặc sơ đồ nào đó. Ví như từ tiếng Anh "bộ đa dao động" được chúng ta lập tức hình dung như một sơ đồ VTD gồm có 2 đèn, 2 tụ bù và 4 điện trở, nghĩa là đối với chúng ta đó là từ nguyên tố, cứ như người ta nói với chúng ta cái rìu - nó đó và nó chính là cái rìu. Tóm lại chúng ta nhận được những nghịch lý từ các bản dịch như thế đấy. Tiếc thay nhiều giảng viên của chúng ta (thậm chí cả bây giờ) không phải lúc nào cũng biết chính xác việc dịch từ tiếng Anh sang tiếng Nga, hơn nữa các phiên dịch viên rất khó giải thích ý nghĩa của chúng. Chính vì thế phải viết những bản dịch lớn, đúng nghĩa là lắm lời chiếm mất một nửa hay cả một trang. Tôi viết chuyện này là để độc giả hiểu vấn đề khó khăn đó lớn đến thế nào trong giai đoạn đầu, khi mà chúng tôi chưa tìm ra cách giải quyết nó.  

Việc huấn luyện tiến hành theo các nhóm chuyên gia, trong mỗi nhóm có hai khẩu đội tác chiến. Giờ học lý thuyết thực hiện trong các lớp tranh tre, giờ thực hành - trên khí tài chiến đấu. Tải dồn xuống đối với cả giảng viên lẫn học viên, như chúng ta thấy là vô cùng nặng nề, đặc biệt khi tính đến khí hậu nơi chúng tôi đang sống. Nhưng có gì mà người lính Nga không chịu đựng được nếu như Tổ quốc cần điều đó. Như tôi đã nói thời hạn huấn luyện các khẩu đội dự kiến ban đầu là 4 tháng, nhưng thực tế cuộc sống và tình hình mặt trận trên không đòi hỏi phải rút ngắn thời hạn, tăng mạnh cường độ đào tạo. Người ta đã rút thời hạn xuống còn 2 tháng rưỡi. Máy bay Mỹ vẫn ngang nhiên hoành hành và chúng tôi phải đẩy nhanh quá trình đào tạo.
.........
« Sửa lần cuối: 09 Tháng Sáu, 2014, 11:34:18 pm gửi bởi qtdc » Logged
qtdc
Thượng tá
*
Bài viết: 3299


« Trả lời #59 vào lúc: 10 Tháng Sáu, 2014, 12:48:51 am »

Trận đánh tiêu diệt đầu tiên

Vào một trong những ngày tháng 6, tôi cùng nhóm của mình và các sĩ quan phòng kỹ thuật binh chủng TLPK dẫn đầu là đồng chí Dục đi xuống trung tâm huấn luyện thứ nhất để dạy học thực hành về công tác tiến hành bảo trì thường xuyên hàng tháng tổ hợp TLPK. Trong ngày đó tại trung tâm huấn luyện cũng có kế hoạch làm công tác này và tôi muốn để các sĩ quan phòng kỹ thuật BC TLPK xem và trực tiếp tham gia vào công tác đó.

Chủ nhiệm trung tâm huấn luyện đại tá M.N.Tsygankov được báo trước, chúng tôi đến ngay trước khi bắt đầu giờ học và bắt tay vào công việc. Dẫn giờ học là kĩ sư trưởng trung tâm thiếu tá N.Meshkov, chúng tôi cùng nhóm của mình ghép vào và làm việc rất hiệu quả cho đến giờ ăn trưa thì bỗng còi hú và tiềng báo động PK vang lên. Quân nhân chạy ra hầm trú ẩn, tôi với Dục chạy ra đám lau sậy rậm rạp. Cuộc không kích kéo dài 40 phút, sau đó tất cả tập trung tại vị trí làm việc nhưng giờ học phải ngừng, vì phải kiểm tra các nơi bị oanh tạc. Rất may cuộc không kích không hiệu quả lắm, do ngụy trang tốt mà các cú đánh chủ yếu trút xuống các lớp học, các phòng ở của chúng tôi, khí tài không hề hấn gì và một phần nhà ở và nhà ăn còn giữ được. Tổn thất về người trong đội ngũ quân nhân là không có. Nhưng nhịp điệu cuộc sống dĩ nhiên đã bị phá vỡ.

Ngay trước lúc đó chủ nhiệm BC TLPK thượng tá Nguyễn Tuyên cũng đã đến, chúng tôi tập trung trong phòng của đại tá Tsygankov: chủ nhiệm TLPK, kỹ sư trưởng PKT TLPK, tôi, Meshkov và bắt đầu đánh giá tình hình vừa xảy ra. Lúc đầu mọi người quyết định trung tâm huấn luyện phải chuyển đến nơi an toàn hơn. Các đồng chí Việt Nam nhất trí và hứa trong vài ngày tới sẽ giải quyết chuyện này. Sau đó đại tá Tsygankov tức giận chửi rủa người Mỹ và ông chia sẻ cho tôi ý tưởng khi nói rằng hay là ta nên chuyển hệ thống TLPK huấn luyện thành hệ thống chiến đấu để đánh trả bọn Mỹ. Tôi đáp rằng về nguyên tắc tôi không phản đối song điều đó phá vỡ tiến trình đào tạo, hơn nữa người của chúng ta rất ít. Và tôi nhắc Tsygankov nhớ rằng thật là uổng phí khi chính phủ chúng ta không đạt được phương án tháng 1. Nhưng ý tưởng về việc thành lập hệ thống chiến đấu cho TLPK thì vẫn còn lại. Tôi nói cần phải suy nghĩ vì chúng tôi có thể bổ sung một phần đội ngũ bằng các sĩ quan và chiến sĩ Việt Nam đang được đào tạo. Về tổng thể chúng tôi đã bàn bạc, song vì thực tế bản thân chẳng thể quyết định được gì nên tôi cùng các kĩ sư của mình đáp xe về Hà Nội mà lòng nặng trĩu.   

Khi chúng tôi trao đổi cùng Tsygankov, không ai để ý đến sự có mặt của các đồng chí Việt Nam: phiên dịch trong phòng lúc ấy không có mặt, tôi biết Dục không biết tiếng Nga, hơn nữa ông lúc đó đang trao đổi gì đó với chủ nhiệm BC TLPK. Bởi thế tôi cho rằng chẳng ai trong số họ để ý đến cuộc nói chuyện của tôi với Tsygankov. Nhưng té ra chủ nhiệm TLPK thượng tá Nguyễn Tuyên dù diễn giải bằng tiếng Nga kém nhưng hiểu cuộc nói chuyện ít nhất là trên ý nghía của nó. Khi về đến Hà Nội tôi báo cáo đại tá Dzyza về cuộc không kích xuống trung tâm số 1, tôi nói rằng cần khẩn trương giải quyết vấn đề chuyển chỗ cho nó, vấn đề này chúng tôi đã sơ bộ thảo luận với chủ nhiệm TLPK QDNDVN thượng tá Tuyên. Sau một ngày đại tá Dzyza gọi tôi đến và ông nói bốp vào mặt tôi: "Leonid Fedorovich, cậu lại xông vào một cuộc phiêu lưu đấy hả?" Ông, tất nhiên, nói về trường hợp xảy ra với PPK. 


Trong một lần trinh sát thực địa chọn trận địa chiến đấu, Bên phải là trung tá Leonid Fedorovich Kushnar. Năm 1966.

Nhân thể tôi xin nhắc lại hai chuyên gia của chúng tôi thời ấy đã hoạt động rất có kết quả và sửa được các cỗ pháo PK 100 ly, bây giờ chúng đã có thể xạ kích được qua máy ngắm.

Ban đầu tôi sửng sốt không hiểu đại tá Dzyza nói đến chuyện gì. Ông tiếp tục nói rằng tôi với Tsygankov nói chuyện thế nào về việc chuyển tổ hợp TLPK huấn luyện sang chiến đấu rồi cả những chuyện khác liên quan. Tôi hỏi ông từ đâu mà ông biết chuyện ấy. Còn ông nói rằng thượng tá chủ nhiệm bộ đội TLPK Nguyễn Tuyên đã báo cáo tất cả với tư lệnh PKKQ đại tá Phùng Thế Tài, ông này lại báo cáo BTQP đại tướng Võ Nguyên Giáp và cỗ máy đã khởi động. Họ hướng tới đại sứ của chúng ta tại Việt Nam I.S,Scherbakov với đề nghị xin được cung cấp các bộ khí tài TLPK mới.

Dĩ nhiên tôi buộc phải nói rằng cuộc trao đổi này là có, nhưng tôi nhắc đại tá Dzyza rằng hồi tháng 1 người ta đã từ chối chúng ta yêu cầu cung cấp các tổ hợp trên. Vì thế tôi nói cứ để họ thương lượng với người Trung quốc để người Trung quốc cho phép (Liên Xô) cung cấp các hệ thống TLPK cùng với đội ngũ quân nhân.

Vậy là các cuộc đối thoại quay như chong chóng, sau một ngày người ta gọi tôi và Tsygankov đến sứ quán, đại sứ lại nói chuyện với chung tôi, ông cho biết đã có thỏa thuận về việc cung cấp các hệ thống TLPK tới Việt Nam, nhưng với số lượng đội ngũ quân nhân tối thiểu. Vì vậy nhiệm vụ của chúng tôi trong vòng một ngày phải nghĩ ra số lượng tối thiểu quân nhân để phục vụ một tiểu đoàn và báo cáo lên. Dĩ nhiên chúng tôi mừng rỡ vì chuyện này và vừa ra khỏi sứ quán lập tức suy nghĩ đến các tính toán cần thiết. Chúng tôi xuống trung tâm 1, mời Meshkov và các sĩ quan khác rồi bắt đầu tính toán làm sao với số người ít nhất của mình có thể hoàn thành nhiệm vụ đó. Tính đi tính lại chúng tôi đang có một phần các học viên Việt Nam đang được đào tạo, để bổ sung họ vào các khẩu đội của chúng tôi, cuối cùng thì chúng tôi dừng lại ở con số 39 lính và sĩ quan Soviet, ít hơn thì chúng tôi không đồng ý. Số trên bằng khoảng một nửa biên chế thời bình của chúng tôi ở Liên bang - 75 người. Chúng tôi báo cáo Dzyza, ông - báo cáo đại sứ và tất cả quá trình này đã tiến triển dù người Trung quốc cắt giảm xuống còn 36 người cho một tiểu đoàn.

Trung tâm huấn luyện được khẩn trương chuyển về ngoại vi Hà Nội, thị xã Hà Đông, nơi đội ngũ quân nhân và trang bị khí tài được triển khai giữa các công trình xây dựng và cây xanh. Thời gian này người Mỹ chưa ném bom Hà Nội, bởi vậy chúng tôi cho rằng ở đây trung tâm sẽ làm việc bình yên hơn. Vấn đề khí tài với biên chế nhân lực rút ngắn đã được giải quyết, các tổ hợp TLPK bắt đầu được chuyển đến cho chúng tôi rất nhanh chóng.

Trong 10 ngày đầu tiên của tháng 6 năm 1965 đã giải quyết xong việc thành lập một trung đoàn mới, trung đoàn TLPK tác chiến của Việt Nam. Trung đoàn mang số hiệu 236, trung đoàn trưởng là chủ nhiệm trung tâm đại tá M.N.Tsygankov, kĩ sư trưởng - thiếu tá N.A.Meshkov. Họ bắt tay vào chuẩn bị cho hai tiểu đoàn hỏa lực (63 và 64) xuất kích ra các trận địa chiến đấu. 

Và đây, trong những ngày 20, cả hai tiểu đoàn đã sẵn sàng. Tiểu đoàn trưởng 63 là trung tá Mozhaev B.S., tiểu đoàn 64 - trung tá Ilinykh F.P. Bởi lẽ nhiệm vụ đặt ra là cực kỳ quan trọng, để giúp đỡ hai tiểu đoàn này trong công tác chuẩn bị đã huy động đội ngũ ban kỹ thuật tên lửa của trung đoàn đứng đầu là kĩ sư trưởng trung đoàn Meshkov và nhóm chuyên gia chúng ta bên cạnh kĩ sư trưởng Phòng kỹ thuật BC TLPK QDNDVN mà đứng đầu là tôi. Tôi chuẩn bị cho tiểu đoàn 63, Meshkov - tiểu đoàn 64.

Trong đêm 22 sang ngày 23 tháng 7 các đơn vị bắt đầu di chuyển ra trận địa và tới trước bình minh đã chiếm lĩnh xong vị trí. Trận địa của tiểu đoàn TLPK 64 cách chúng tôi 10 - 12 km. Các tiểu đoàn TLPK triển khai khí tài, kiểm tra thiết bị - thiết bị hoạt động ổn định. Khi phát sóng lên không trung đơn vị phát hiện được nhiều máy bay, nhưng chúng không đi vào vùng phóng của chúng tôi. Vài lần chúng tôi tắt thiết bị vì trong cabin rất nóng. Tôi ngồi trong cabin "U" cạnh tiểu đoàn trưởng TLPK Mozhaev, lúc thì nhìn lên màn VIKO, lúc nhìn sang màn hình của sĩ quan điều khiển. Căng thẳng không thể tưởng tượng, bỗng vài phút sau lần bật máy kế tiếp, sĩ quan điều khiển V.M.Konstantinov báo cáo tiểu đoàn trưởng có mục tiêu. Mục tiêu khá lớn, như sau này được biết đó là hai tốp bốn chiếc máy bay. Lúc 14:25 mục tiêu được chuyển vào chế độ bám sát tự động (AC), tiếp theo là khẩu lệnh của tiểu đoàn trưởng Mozhaev "Phóng!", các quả đạn với gián cách 15 giây nối nhau lao lên phía mục tiêu. Mục tiêu bị tiêu diệt, cả hai máy bay bị bắn rơi bằng hai quả đạn. Tôi ra khỏi cabin người đẫm mồ hôi, mặc dù trời vô cùng nóng nực song tôi có cảm giác như thể mình đang ở trên một con phố mát rượi. Tất cả mọi người có mặt trên trận địa nhảy lên reo hò, ôm chầm lấy nhau, chúc mừng chiến thắng lẫn nhau. Thật dễ chịu khi thấy được niềm vui ngay từ loạt đạn đầu thành công như thế.


Tiểu đoàn của thiếu tá Boris Stepanovich Mozhaev (tiểu đoàn 63 trung đoàn 236) trước khi hành quân đi thực hiện nhiệm vụ chiến đấu đầu tiên, 21.07.1965.
Ảnh của đại tá Vladislav Mikhailovich Konstantinov.


Tiểu đoàn 64 cũng bắn rơi tại chỗ một máy bay, chiếc trúng đạn thứ hai gượng bay được qua biên giới sang Lào, số phận của chiếc này không thấy ai viết đến ở đâu cả, và người Việt Nam không tính đến nó. Thực tế là khi thực hiện các lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh (4 lời giáo huấn của Người - Cần, Kiệm, Liêm, Chính) họ không bao giờ không xào nấu tô vẽ và chúng tôi cũng phải chịu tình trạng này ở một mức độ nào đó. Họ đếm các máy bay bị bắn rơi một cách rất thận trọng và nếu không tìm thấy trên mảnh xác số hiệu máy bay thì họ không coi là nó bị bắn rơi. Dẫu sao tôi vẫn tính điểm chiếc máy bay ấy và một thời gian sau qua các trinh sát viên của chúng ta có điều kiện tiếp cận các tài liệu thẩm vấn tù binh phi công Mỹ, tôi biết rằng chiếc máy bay đó cũng bị bắn rơi và phi công nhảy dù trên lãnh thổ Lào, được nhóm tìm kiếm-cứu hộ Mỹ cứu thoát. Bị thương nặng ở cột sống, anh ta được gửi sang Úc điều trị. 

Sau loạt phóng đạt kết quả tốt như vậy, chúng tôi chúc mừng trung đoàn trưởng đại tá Tsygankov, ông đã kịp có mặt tại tiểu đoàn, chúng tôi lên xe về Hà Nội. Ngày hôm đó - ngày 24 tháng 7 năm 1965 - đã đi vào lịch sử Việt Nam. Theo sắc lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày này hàng năm trở thành ngày truyền thống của Binh chủng Tên lửa Phòng không.

Ngày hôm sau tiểu đoàn lại gọi lên cho tôi thông báo rằng một bệ phóng bị hư hỏng và họ không thể nào sửa chữa được nó bằng lực lượng tại chỗ của mình. Và tôi chưa nói rằng do địa hình địa vật phức tạp của trận địa tiểu đoàn TLPK 63, chúng tôi chỉ triển khai tác chiến trong trận đánh đầu tiên được 3 trong số 6 bệ phóng. Tôi nhanh chóng sắp xếp, mang theo một kỹ thuật viên bệ phóng rồi phóng xe xuống tiểu đoàn. Thời gian khởi hành sớm nên 10 giờ chúng tôi đã có mặt tại thực địa, và ở đó lại có thêm niềm vui. Trong khi chúng tôi đang đi trên đường họ đã bắn rơi thêm một máy bay bằng một quả đạn. Máy bay bay trên độ cao 21 km, chấm mục tiêu rất nhỏ, nhưng nó vẫn cứ bị bắn rơi. Đó là một chiếc do thám KNL BQM-72A.
..........
« Sửa lần cuối: 10 Tháng Sáu, 2014, 04:42:10 pm gửi bởi qtdc » Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM