Trích
"Việt Nam - không thể nào quên"Đảm bảo đo lường và sửa chữa vũ khí - cơ sở của sự sẵn sàng chiến đấu và tính hiệu quả của tổ hợp tên lửa phòng không
Trung tá Bannikov Evgheny Kuzmitch
Sinh ngày 21 tháng 8 năm 1945 tại Belarus.
Năm 1963 tốt nghiệp trường phổ thông tại thành phố Pinsk và vào học Trường Cao đẳng Kỹ thuật VTDT Phòng không Minsk, tốt nghiệp 1968. Bắt đầu phục vụ tại Ural, là kỹ sư vũ khí tên lửa tại đơn vị quân đội 31768 tại thành phố Kystym. Sau đó ông phục vụ trên các cương vị khác nhau tại Phòng Thí nghiệm đo lường thiết bị kỹ thuật số 184 và đơn vị quân dội 03311 thuộc Tập đoàn quân PK Cờ Đỏ độc lập số 4 QCPK. Năm 1982 tốt nghiệp Học viện Kỹ thuật VTDT PK Quân sự Kharkov mang tên nguyên soái Liên Xô L.A.Govorov. Năm 1992 chuyển ngạch dự bị theo độ tuổi trên cương vị chỉ huy trưởng đơn vị quân đội 03311. Hiện nay làm việc trên cương vị Trưởng phòng Thiết kế TSKB "Transmash" tại thành phố Ekaterinburg. Đã biệt phái công tác tại Việt Nam từ tháng 12 năm 1973 đến tháng 5 năm 1974 và từ tháng 1 năm 1975 đến tháng 6 năm 1975.
Đã được tặng thưởng huy chương "Chiến công" và nhiều huy chương khác do quá trình phục vụ quân dội và huy chương Hữu Nghị của Việt Nam.Những ấn tượng đầu tiên về chiến tranh ở Việt Nam của tôi và những đau khổ của nhân dân Việt Nam hằn vào tâm trí tôi khi các học viên Việt Nam tại Trường Cao đẳng Kỹ thuật VTDT PK Minsk, nơi tôi học giai đoạn 1963-1968, chuẩn bị về Tổ quốc nghỉ phép. Hồi đó theo sáng kiến của tổ chức Đảng và Đoàn Komsomol trong nhà trường, đã tổ chức quyên góp tiền để mua quà tặng những đứa trẻ và các thành viên trong gia đình các bạn Việt Nam. Tôi bây giờ cũng không còn nhớ được chính xác đã mua những quà gì, nhưng trong đó có kẹo bánh cho trẻ con. Và khi người lãnh đạo nhóm học viên Việt Nam lên đáp từ run giọng mà nói rằng không phải tất cả những đứa trẻ của họ sẽ được biết vị ngọt của kẹo, thì trong gian hội trường lớn nơi diễn ra cuộc tiễn đưa trọng thể, không ai có thể hững hờ. Tất cả đều hiểu rằng các bạn học Việt Nam của chúng tôi, những người mà chúng tôi biết rất rõ, trở về nơi ấy, nơi đang diễn ra cuộc chiến tranh đẫm máu có sử dụng chính những tổ hợp TLPK S-75 mà chúng tôi được học.
Kinh nghiệm sử dụng Binh chủng TLPK thuộc QCPK Quốc gia tại Việt Nam được nghiên cứu và phân tích khá tỉ mỉ tại các cơ sở đào tạo cao đẳng đại học của QCPK, trong đó có Cao đẳng Kỹ thuật VTDT PK Minsk, với tư cách là một trong các trường đào tạo quân sự đầu đàn của Bộ đội Phòng không Quốc gia. Thông tin truyền qua các bản tin nội bộ và trở thành đề tài nghiên cứu được quan tâm của đội ngũ giảng viên tại Khoa Chiến thuật, sau đó là đề tài thảo luận tại các giờ seminar với các học viên. Chúng tôi chân thành vui mừng trước những thành công của các trận đánh PK đầu tiên, đau buồn chia sẻ với những tổn thất trong chiến đấu khi xuất hiện tên lửa chống radar Mỹ kiểu "Shrike". Các thủ đoạn chiến thuật của máy bay địch được nghiên cứu kỹ lưỡng, các biện pháp có thể đối phó với đạn chống radar, các đặc điểm tiến hành trận đánh PK trong điều kiện bị địch gây nhiễu tích cực quy mô lớn được mang ra thảo luận sôi nổi. Đặc biệt người ta quan tâm đến việc cải tiến các đặc tính kỹ thuật của tổ hợp S-75, nâng cao hiệu quả của nó. Mà hiệu quả xạ kích sau những thắng lợi vô diều kiện giai đoạn đầu đang sa sút. Không quân Mỹ ngừng bay theo đội hình chặt chẽ trên độ cao trung bình, chúng bắt đầu tích cực gây nhiễu, dùng các phương pháp khác nhau vượt qua hệ thống PK ở các độ cao thấp và chia thành các tốp chuyên nhiệm chế áp tổ hợp TLPK. Trên các máy bay của Hoa Kỳ đã lắp đặt các bộ chỉ thị phát ra thinh không lệnh vô tuyến (RPK) xác nhận cuộc phóng đạn tên lửa và bắt đầu chuyến bay có điều khiển của nó. Trong trường hợp này phi công của các máy bay KQ chiến thuật và KQHQ trên hạm được quy định thực hiện các thao tác cơ động tránh tên lửa mà thường dẫn đến việc phá vỡ sự kiểm soát đường bay của nó. Thực tế theo những người chứng kiến thì các phi công Mỹ khi nhận được tín hiệu như vậy thường bỏ qua chỉ dẫn mà chỉ làm mỗi động tác bung dù, sau khi nhìn thấy "điếu xì-gà" nặng 2 tấn của trái đạn TLPK đang vun vút lao tới họ. Còn trên mặt đất người ta đã nóng lòng chờ đợi họ từ lâu....
Khi tiến hành các hoạt động chiến đấu dường như không bao giờ thể hiện nguyên tắc "mỗi tác động đều sinh ra phản tác động". Chúng tôi được dạy trong trường rằng việc gây nhiễu hiệu quả trên kênh ngắm của tên lửa trong các điều kiện có liên lạc vô tuyến trực tiếp giữa đài điều khiển tên lửa (SNR) và đạn tên lửa là có xác suất tin cậy nhỏ. Nhưng cuộc sống có những điều chỉnh của nó. Kẻ thù đã xác định thành công dải tần số của máy hỏi-đáp vô tuyến của tên lửa và tại một trong các cuộc không kích vào Hà Nội, chúng đã gây nhiễu xung-hỏi đáp rất mạnh vào kênh điều khiển đó. Kết quả thật bi đát đối với tổ hợp TLPK. Trên thực tế hầu như tất cả các quả đạn với đầu chiến đấu cùng thùng nhiên liệu và chất ô-xy hóa nguyên vẹn đã mất điều khiển và lao xuống đất và gây sát thương đáng kể cho chính đối tượng được bảo vệ. Phia Việt Nam thậm chí đã nghi ngờ chất lượng các tên lửa do Liên Xô cung cấp. Điều đó cùng với các thất bại khác đã được mổ xẻ phân tích kỹ bởi các chuyên gia quân sự Xô Viết tại Việt Nam cũng như tại Liên Xô. Kết quả là đã thay đổi dải tần số và công suất của đèn magnetron khối FR-15 của đạn tên lửa và tiến hành một loạt biện pháp nâng cao khả năng kháng nhiễu của đài điều khiển.
Việc hạ thấp giới hạn dưới của vùng diệt mục tiêu của tổ hợp TLPK đã buộc máy bay địch phải chuyển sang các độ cao cực thấp nơi hệ thống PPK của bộ đội PK Việt Nam đang nóng lòng chờ đợi chúng. Các phương pháp đối phó với đạn chống radar cũng đã được phát triển, dẫn tới việc giảm mạnh mức độ tổn thất cho đội ngũ quân nhân bộ đội TLPK. Toàn bộ những biện pháp này và các biện pháp khác nữa đã giúp phục hồi tính hiệu quả của tổ hợp và tiếp tục cuộc chiến đấu của QDNDVN với máy bay của bọn xâm lược.
Tổn thất của Không lực Mỹ tại Việt Nam tăng lên và ngày càng trở thành lớn đến mức không chấp nhận nổi với Hoa Kỳ. Chiến thắng của bộ đội PK nước Việt Nam nhỏ bé trước sức mạnh quân sự của máy bay Hoa Kỳ, có sử dụng chính tổ hợp TLPK mà chúng tôi đã nghiên cứu kỹ lưỡng, gây cho chúng tôi, các học viên của một trường quân sự bộ đội PK, niềm tự hào chính đáng. Nhưng niềm sung sướng đặc biệt dấy lên trong chúng tôi là khi được tin tên lửa PK của chúng tôi đã bắn hạ chiếc máy bay ném bom chiến lược đầu tiên của Mỹ, chiếc "pháo đài bay" B-52 lừng danh và không thể với tới. Như sau này đã biết, đó chỉ là bước khởi đầu. Trong thời gian chỉ một chiến dịch không kích ồ ạt của máy bay Mỹ từ ngày 18 đến 30 tháng 12 năm 1972, trên bầu trời Hà Nội đã có 81 máy bay địch bị bắn rơi, trong đó có 34 chiếc máy bay ném bom chiến lược B-52, điều đó buộc ban lãnh đạo Mỹ từ chối tiếp tục chiến dịch.
Đối với chúng tôi, những sĩ quan binh chủng TLPK trong tương lai, điều đó thật thú vị nhưng vẫn còn ở xa. Liệu hồi đó tôi có biết được rằng với cuộc chiến tranh ấy, với đất nước ấy tôi sẽ còn phải làm quen gần gụi hơn nữa hay không ?
Thật bất ngờ tôi nhận được đề nghị "thật nhanh chóng, cỡ khoảng 6 tháng", đi công tác biệt phái đến đất nước có khí hậu nóng ẩm này vào năm 1973, khi tôi đang phục vụ trên cương vị trưởng ban sửa chữa và tiêu chuẩn hóa Trạm Kiểm tra- Thử nghiệm (KIPS) của Phòng Thí nghiệm đo lường thiết bị kỹ thuật 184 của TDQ PK số 4. Cần phải khôi phục lại trang bị kỹ thuật sau các trận đánh tháng 12 năm 1972 mà trong đó máy bay Mỹ phải chịu những tổn thất khủng khiếp và Hoa Kỳ buộc phải rút khỏi Việt Nam. Nhóm chuyên gia sửa chữa và tiêu chuẩn hóa của trạm KIPS và phương tiện đo lường được thành lập từ các cơ quan đo lường của các binh đoàn PK khác nhau. Trong thành phần của nó có các đại diện của Bộ Tham mưu Phòng không, Phòng Thí nghiệm trang thiết bị đo lường Liuberetskaia, các chuyên gia đo lường từ Bacu, Kiev, Minsk và Sverdlovsk. Lãnh đạo nhóm là sĩ quan Bộ Tham mưu Phòng không Trushkin Oleg Ivanovitch. Thủ tục chuẩn bị cho đội ngũ quân nhân của nhóm đi công tác biệt phái theo đúng tiêu chuẩn - tiêm chủng, hướng dẫn và trò chuyện ở các mức độ khác nhau, lên đến tận BCHTU Đảng CS Liên Xô. một bộ phận nhóm công tác sẽ đến Việt Nam bằng đường biển để hộ tống hàng hóa là các trang bị, công cụ đo lường, các dụng cụ đặc chủng và phụ tùng thay thế. Trong các hòm hàng đó, theo lời khuyên của các đồng chí có kinh nghiệm hơn, đã lèn vào các hộp cá trích, đường đen, xúc xích sấy khô và tất nhiên thuốc lá "Thủ đô". Hơn nữa, chúng tôi còn phải đón Năm Mới ở Việt Nam. Sau này mới rõ rằng tất cả những món tuyệt vời ấy đã đến rất kịp thời, dù việc giữ chậm nó đến 30 tháng 12 có làm tất cả chúng tôi hơi lo lắng.
Bản thân chuyến bay dài cũng rất mệt mỏi. Chiếc IL-18 cần cù bay suốt ngày đêm đưa chúng tôi từ Moskva đến Hà Nội. Các điểm đỗ tạm là Tashkent, Karachi, Calcutta, Rangoon, Vientiane. Ấn tượng tích lại theo mức độ xa Moskva. Ban đầu đối với một người Xô Viết rất kỳ lạ là đồ uống các loại ở "Duty shops" tại Karachi. Sau đó là mùi vị nóng bỏng, mùi cỏ cây nồng gắt lạ lùng miền nhiệt đới và rong biển trong không khí tời đêm Calcutta, đàn voi lấm đầy bụi dưới cánh bay đang hạ thấp khi chúng tôi bay đến gần Rangoon. Hơi thở của chiến tranh ta đã cảm thấy tại Viên-chăn, nơi trên đường băng cạnh cảng hàng không có những chiếc máy bay quân sự Mỹ đang cất cánh, hạ cánh. Và cuối cùng là Việt Nam. Sáng sớm, thảm xanh phía dưới phản chiếu ánh mặt trời đang lên. Như sau này được biết đó là những cánh đồng lúa đầy nước tỏa sáng. Máy bay hạ cánh tại sân bay Gia-Lâm, hơi mát buổi sớm mai và toàn bộ hương vị ẩm ướt kỳ lạ của có cây miền nhiệt đới.
Hà Nội đương nhiên làm sửng sốt con người Xô Viết chất phác. Đặc biệt là việc tổ chức di chuyển trên đường giao thông. Trong dòng chảy dày đặc của những chiếc xe đạp, liên tục nhấn còi, khéo léo không chạm vào mọi người, những chiếc ô tô vẫn di chuyển bình thường. Những chiếc mũ rơm hình nón cụt đặc trưng trên đầu những người phụ nữ, nhũng người đạp xích-lô, rất nhiều quân nhân quân phục màu xanh đội mũ cối - tất cả để lại ấn tượng không thể phai nhòa. Hậu quả đặc biệt của những trận ném bom xuống thành phố này chúng tôi không nhận ra ngay lập tức. Dẫu sao từ lúc có các cuộc ném bom ồ ạt đến nay đã nhiều thời gian qua đi và các đống đổ nát đã được dọn dẹp. Ngoài ra, như sau này được biết, hậu quả của các cuộc ném bom "rải thảm", do đặc điểm của khí hậu nhiệt đới, sẽ rất nhanh chóng, chỉ trong đúng có một vài ngày đã làm cỏ cây mọc lên như vũ bão. Hơn nữa khi quan sát chăm chú các bãi trống trong quang cảnh xây dựng thành phố, nhất là ở vùng phụ cận, có thể hiểu rằng cách đây không lâu thành phố đã phải chịu một cuộc chấn động lớn.
Trong khi chờ đợi hàng đường biển gồm có các thiết bị đo và máy móc phụ tùng các loại chúng tôi được bố trí ở KS Kim Liên, một tổ hợp khách sạn cho các chuyên gia nước ngoài tại Hà Nội. Có một cuộc số cuộc gặp chính thức với phía Việt nam bàn công tác tổ chức, hướng dẫn diễn ra tại sứ quán của chúng ta. Được biết chúng tôi sẽ làm việc tại cơ sở sửa chữa A-31 phía bắc Hà Nội, làm việc tại đó cũng sẽ có nhóm các nhà công nghiệp về công tác sửa chữa và hiện đại hóa tổ hợp TLPK. Một số ngày chờ đợi bắt buộc đó dường như không đủ để chung tôi kụp thích ứng khí hậu và làm quen với Hà nội. Điều kiện sinh hoạt thường nhật tại Kim Liên như sau này chúng tôi hiểu, thuộc loại khá tiện nghi theo quan niệm ở đây. Các căn hộ cho hai người có nền lát đá. Cửa sổ không có kính mà chỉ che phủ bằng những cánh chớp, trong điều kiện mùa đông khi nhiệt độ xuống +10 độ C thật ra không được tiện nghi lắm. Bởi vậy trong đêm đầu tiên tại Hà Nội chúng tôi hiểu rằng cần có trên giường những tấm chăn bông. Nhiệm vụ của những chiếc màn đã được sáng tổ ngay khi ta nhìn thấy khá nhiều loại sâu bọ bay và trườn bò khắp nơi. Còn tai thì cần phải nút kỹ nếu không muốn hằng đêm bạn tỉnh giấc toát mồ hôi lạnh vì tiếng ve sầu kêu nghe như tiếng cưa vòng.
Tại Kim Liên ngoài các chuyên gia Xô Viết còn có một số nhóm thuộc các nước trong phe XHCN. Tôi nói chuyện này vì có một tình huống khá tức cười rất hay xảy ra, đó là các đại diện các nước anh em, khi kỷ niệm một ngày lễ nào đó, thường vi phạm quy tắc sinh hoạt ban đêm mà hát vang bài Kachiusa bằng tiếng Nga. Sáng hôm sau, lời than phiền của bộ phận phục vụ lại đổ xuống đầu các chuyên gia Liên Xô, và trưởng nhóm chúng tôi lại phải đi dàn hòa.
.........