Bên talawas họ mới đăng một bài của ông Nguyễn Kỳ Phong (quân sử gia VK thuộc loại làm việc có phương pháp đàng hoàng).
Nguồn: talawas
Nội dung chủ yếu thắc mắc về một số con số, dữ liệu,...không khớp nhau trong nhiều tài liệu chính thức của ta về đề tài Đường Trường Sơn.
Thỉnh thoảng có người phản biện thế này, cũng là một việc tôi thấy có ích.
Người viết chú trọng đến quyển Chiến tranh cách mạng Việt Nam vì quyển này được sự hiệu đính của Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh, và Ban Chỉ đạo này trực thuộc Bộ Chính trị Đảng CSVN. Bản liệt kê tên những tác giả đóng góp nhìn rất hùng hậu. Nhưng chỉ tiếc khi có một vài con số vô lý một cách hiển nhiên lại bị những người biên soạn không để ý đến. Nhìn vào con số 5.500.000 m3 dầu xăng đã chuyên chở trên tuyến là một thí dụ. Chúng ta thấy rõ ràng con số 5.500.000 m3 là vô lý; có thể đây là lỗi ấn công [17] . Nhưng từ đó, nhìn vào những con số tiếp tế nhiên liệu đến từ các sách, chúng ta thấy thống kê của các tác giả cũng không đồng nhất. Độc giả chắc chắn thấy con số 5.500.000 m3 dầu xăng là trật, vì ở trang 601 cùng sách, ban biên tập cho biết trong 20 năm, 1955-1975, tổng cộng số hàng viện trợ miền Bắc nhận từ Nga, Trung Cộng, và các quốc gia cộng sản Đông Âu chỉ có 2.362.682 tấn. Trong số đó, quân nhu dụng thuộc về hậu cần (lương thực, thực phẩm, quân trang, quân y, xăng dầu, mỡ, vật liệu xây dựng…) là 1.101.346 tấn. Như vậy, con số 5.500.000 m3 không có nghĩa — tìm đâu ra được năm triệu rưởi tấn trong 15 năm nếu cả 20 năm chỉ nhận được hơn hai triệu tấn? Nếu con số đó là 550.000 m3 thì cũng không có nghĩa vì sẽ tăng tổng số hàng chuyển trên tuyến đường Hồ Chí Minh lên gấp đôi. Và nếu là 55.000 m3 thì lại mâu thuẫn với những gì viết trong sách khác. Nguyễn Việt Phương trong bài viết “Lịch sử hình thành, phát triển vận tải quân sự chiến lược 559 – Đường Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống Mỹ cứu mước” (in chung trong tuyển tập, Đường về thành phố mang tên Bác), trang 532, viết: “Chỉ trong hai năm [1973-1974], tuyến ống [đường ống dẫn xăng, dầu] tăng gấp bốn lần những năm trước (1965-1972), nâng tổng số chiều dài lên 1.331 km. Đã tiếp xăng dầu cho chiến trường được 59.000 tấn (bằng 6,2 lần tổng số trong tám năm trước).” [18] Qua chi tiết đó, làm một bài toán, chúng ta biết cho đến thời gian trên, tổng cộng Cộng sản Bắc Vtệt đã cung cấp cho các chiến trường là 68.516 tấn, hay là hơn 68 triệu 500 ngàn lít dầu xăng. Ở trang 537 sau đó, tác giả viết tiếp: “Cuối tháng 12-1974 đã hoàn chỉnh hai tuyến xăng dầu (Đông Trường Sơn – Tây Trường Sơn) dài 1.400 km, có 113 trạm bơm, 46 kho trữ lượng 270.000 mét khối.” [19] Câu văn này không rõ ở một điểm: các bồn, kho chứa xăng dầu, có khả năng dự trữ 270 ngàn mét khối (bằng 270 ngàn tấn; bằng 270 triệu lít), nhưng họ đã dự trữ được bao nhiêu rồi? Ở trang 548 cùng sách, tác giả cho biết, để chuẩn bị cho chiến dịch sau cùng đánh chiếm miền Nam, bộ tư lệnh Trường Sơn có số nhiên liệu bảo đảm là 68.472 tấn. Người viết rất nghi ngờ những con số về nhiên liệu cung cấp từ những thư liệu đã trích trên. Ở trong hai tài liệu khác, chúng ta thấy có thể đại tá Nguyễn Việt Phương hay là ấn công đã viết lộn giữa hai số 27.000 và 270.000 (hai mươi bảy ngàn và hai trăm bảy mươi ngàn). Trong Trường Sơn: Đường Hồ Chí Minh huyền thoại, tập 2, trang 203-204, tác giả Nguyễn Việt Phương viết về các trung đoàn đường ống phụ trách công tác cung cấp xăng dầu cho tuyến: “Trung đoàn 671 có 10 kho trữ lượng 6.800m3, với 36 trạm bơm đẩy và cấp phát. … Trung đoàn 592 … có 13 kho trên đường, trữ lượng 6.900m3, với 28 trạm bơm cấp phát. … Trung đoàn 532 … có 12 kho trên đường, trữ lượng 7.600m3, với 26 trạm bơm và cấp phát. … Trung đoàn 537 … có 11 kho trên đường, trữ lượng 5.750m3, với 23 trạm bơm và cấp phát.” So sánh đoạn văn này và đoạn văn trên (nguyên văn ở phụ chú 16 của tác giả viết bài này), chúng ta thấy có một sự làm lẫn nào đó. Đoạn văn trong Trường Sơn: Đường Hồ Chí Minh huyền thoại, tập 2, khi cộng các con số lại, chúng ta thấy có 46 kho dự trữ và 113 trạm bơm xăng dầu, với khả năng chứa là 27.050 mét khối. Trong khi đó ở Trường Sơn: Đường Hồ Chí Minh huyền thoại, tập 1, tác giả lại viết tổng cộng xăng dầu dự trữ trên tuyến, trước giờ G chiến dịch Hồ Chí Minh, “… trữ lượng tổng cộng 23.522 m3 + 3.500 m3.” Có thể nào từ 27.050 m3, tác giả Nguyễn Việt Phương đã viết lầm là 270.000 m3? Để có một khái niệm về số lượng xăng dầu tiêu thụ hàng năm trên tuyến, theo những gì tác giả Nguyễn Việt Phương viết, chúng ta được biết năm 1969 nhu cầu xăng dầu cho toàn tuyến là 25 ngàn tấn và năm 1971 là khoảng 40 ngàn tấn [20] . Trong khi đó, năm 1988, nhà xuất bản Ngoai văn ở Hà Nội xuất bản một cuốn sách có tựa là The Ho Chi Minh Trail, trong đó cho biết tổng số nhiên liệu chở qua tuyến Đường Hồ Chí Minh là 56 triệu m3! Còn ban soạn thảo quyển Bách khoa Từ điển Quân sự Việt Nam (Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 1996, đề mục “Đường mòn Hồ Chí Minh”, trang 304) cũng không giúp ích được gì, khi họ cho biết hệ thống tiếp tế nhiên liệu trên Đường Hồ Chí Minh có “46 kho với sức chứa 17.050 t[ấn], 113 trạm bơm đẩy và cấp phát.” Nhưng những chi tiết từ đề mục “Đường Hồ Chí Minh” trong quyển từ điển bách khoa đó cho thấy ban chủ biên đã dựa theo số tư liệu đã trích dẫn trên. Các con số 270.000; 27.050; 7.050 tấn - hay 56 triệu m3 - một lần nữa cho thấy sự thiếu nhất quán của tất cả các tài liệu nói về chủ đề này [21] .