Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 20 Tháng Tư, 2024, 05:53:27 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Chúng ta đã thua trận ở Việt Nam như thế nào  (Đọc 3594 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #30 vào lúc: 28 Tháng Hai, 2010, 10:34:51 am »

Hồi tháng 8-1967, một uỷ ban của chính phủ Hoa Kỳ đã tiết lộ là trong việc xuất khẩu mọi mặt hàng từ Hoa Kỳ, người nhập khẩu đều được hoàn lại một số tiền hoa hồng và có bằng chứng là nhiều vụ mua bán đã được thực hiện trong trường hợp của một công ty Hoa Kỳ đã ghi trong hoá đơn giá bán một món hàng là 10.000 đôla nhưng rồi đã gửi đi một món hàng chỉ có giá trị 700 đôla mà thôi.


Với tội ác và tham nhũng lan tràn như vậy thì không thể nào giữ quân đội cho trong sạch được. Tướng Nguyễn Văn Toàn, tư lệnh sư đoàn 2 Việt Nam lúc tôi đang là thủ tướng, để người ta gọi là “Quế tướng công”, vì ông ta đã tạo được một tài sản lớn, nhờ lấy cắp thứ cây gia vị rất quý giá này. Sư đoàn của tướng Toàn đóng trên miền núi phía Nam Đà Nẵng và nơi đây nổi tiếng là có nhiều cây quế và tôi đã sớm được nghe nói là Toàn đã mang quế đi bán chợ đen, số quế này là do tướng Toàn đã cho binh lính dùng những xe hành quân để đi lấy.


Việc mổ xẻ đả kích này bắt đầu hồi tháng 4 năm 1974, khi thượng viện của chúng tôi mở cuộc điều tra về những thủ đoạn làm tiền trong vấn đề mua bán phân bón nhập khẩu. Báo cáo của thượng viện vào cuối tháng 6 cho thấy là có trên 70 phần trăm số phân bón nhập khẩu do viện trợ Hoa Kỳ đài thọ, đã được tích trữ và sau đó đã được bán lại cho nông dân với giá ít nhất là gấp đôi giá chính thức. (bây giờ tôi hiểu tại sao đã không có một người nào đứng ra ủng hộ tôi trong cố gắng thiết lập một xí nghiệp sản xuất phân bón tại Việt Nam!). Người ta đã thu được những lợi nhuận to lớn. Báo cáo này đã nêu tên 60 thương gia có dính líu trong vụ bán chợ đen phân bón và có đưa ra lời khuyến cáo là nên cách chức Nguyễn Đức Cường, Bộ trưởng thương mại và công kỹ nghệ lúc bấy giờ, và tất cả các viên chức cao cấp tại bộ này và 10 vị tỉnh trưởng. (chú thích của người dịch: lúc bấy giờ bộ trưởng thương mại và công kỹ nghệ là Phạm Kinh Ngọc, còn Nguyễn Đức Cường là phụ tá thương mại).


Cuộc điều tra nói trên của thượng viện đã đưa đến một hậu quả lạ lùng là Thiệu đã cách chức Nguyễn Văn Ngân, một trong những phụ tá thân cận nhất của Thiệu và cũng là người tổ chức trong đảng dân chủ. Vụ cách chức này đã xảy ra ngay trước khi có báo cáo của thượng viện và mặc dù lý do không được nêu ra, người ta ai cũng biết là Ngân đã bị thanh trừng vì đã cổ vũ cuộc điều tra của thượng viện và vì có tin đồn là gia đình bà Thiệu cũng có dính líu đến vụ phân bón.


Ngay trong cơn đau khổ cuối cùng của cuộc chiến tranh hồi tháng 4-1975, người ta còn đưa ra những khẳng định mới về vấn đề tham nhũng. Tờ Washington Post đã cho rằng có khoảng 200 triệu đôla vật dụng thuộc viện quân sự đã bị thất thoát hoặc đã bị chính quyền Thiệu sử dụng một cách phung phí, trong số đó phần lớn đã bị giới chức của chính quyền Sài Gòn lấy cắp và bán lại cho địch.


Trong số các vật dụng bị thất thoát, thể theo các báo cáo mật của cơ quan tổng thanh toán của chính phủ Hoa Kỳ, cơ quan này chuyên lo theo dõi các nghiệp vụ thanh toán tài chính cho quốc hội-người ta có liệt kê 143 tàu thuỷ, gồm có tàu tuần phòng và tàu đổ bộ mà hải quân Việt Nam đã để cho biến mất. Theo những nguồn tin mà người ta trích dẫn từ toà đại sứ Hoa Kỳ thì tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, nguyên là tư lệnh các lực lượng Nam Việt Nam ở đồng bằng sông Cửu Long, đã lấy cắp 8.000 đài vô tuyến và 24.000 vũ khí cá nhân do Hoa Kỳ trang bị và đã bán phần lớn món này cho Việt cộng.


Tôi không thể nói cá nhân Thiệu đã phạm tội đến mức nào theo như lời tố cáo của linh mục Thanh nhưng tôi biết bà Thiệu đã chưng diện bằng kim cương mà ai cũng phải chú ý và tổng thống Thiệu đã xây cất một cơ đồ rất to lớn ở Pháp và Thuỵ Sĩ. Tôi có được nghe nói là Thiệu đã tìm cách thu xếp cho một máy bay chở hành khách cỡ lớn của Hoa Kỳ để mang ra khỏi Sài Gòn 17 tấn tài sản của Thiệu. Tôi không biết là Thiệu có thực hiện được ý định đó hay không, nhưng khi Thiệu rời Sài Gòn với tướng Khiêm ngày 26 tháng 4 để đi Đài Loan, nơi mà anh Thiệu đang làm đại sứ của Nam Việt Nam, thì người ta nói là Thiệu đã mang theo 5 vali chưa đầy đôla.


Có lẽ tất cả các tổng thống tại các nước không ổn định đã tìm cách làm ra tiền cho riêng họ đề phòng khi họ mất chức. Khi tôi đi dự hội nghị Manila với cấp lãnh đạo của chính phủ Hoa Kỳ, Úc, Tân Tây Lan, Thái Lan và Nam Triều Tiên hồi năm 1966, tổng thống Marcos của Philippin đã kéo tôi ra một bên và đã nói với tôi điều mà Marcos hẳn đã cảm nghĩ đó là một lời khuyên khôn ngoan đối với một người trẻ tuổi: “Anh nên lo cho tương lai anh, nghĩ đến nguy cơ của một cuộc đảo chính”, Marcos nói: “Giả dụ như có chuyện gì xảy ra, anh nên nghe theo tôi. Tôi luôn luôn có sẵn hai vali ở bên giường ngủ của tôi”.


Đến khi tôi nêu vấn đề viện trợ với tổng thống Nixcon thì Hoa Kỳ đã để tiền vào Việt Nam trong 20 năm rồi. Đầu tiên là viện trợ quân sự mà Hoa Kỳ đưa đến cho người Pháp đưa vào Đạo luật viện trợ phòng thủ chung năm 1949 (Mital defense assistance Act of 1949) và chiểu theo đó mà Hoa Kỳ đã giúp đỡ về mặt quân sự cho khối NATO vừa mới thành lập lúc bấy giờ, cho Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, Triều Tiên, Philippin và Trung Hoa quốc gia. Trong năm đầu Pháp đã nhận được khoảng 20 triệu đôla và mặc dù viện trợ này của Hoa Kỳ cho Pháp là để củng cố khối NATO, người Pháp vì muốn tái lập lại quyền thống trị thực dân của họ đã khéo léo đưa một số thiết bị sang Đông Dương.


Đến năm sau, bộ trưởng ngoại giao Dean Acheson tuyên bố là Hoa Kỳ sẽ viện trợ cho Pháp để sử dụng trực tiếp chống lại Việt Minh, và lô vũ khí đầu tiên đã được chở đến Sài Gòn bằng máy bay hồi tháng 7 năm 1950. Đến tháng 8 kế tiếp, nhóm cố vấn viện trợ quân sự (Military assistance advisory group) của tổng thống Truman cũng đến Sài Gòn để đảm trách việc giao cho người Pháp máy bay ném bom, xe tăng và đạn dược-tất cả các vũ khí đó đều được dùng để giết người Việt Nam.


Kể từ đó cho đến khi Pháp bại trận năm 1954, Hoa Kỳ đã gửi thiết bị quân sự trị giá 2,6 tỷ đôla và đã tài trợ khoảng 80 phần trăm phí tổn của cuộc chiến tranh vô hiệu của người Pháp nhằm duy trì quyền làm chủ của họ trên đất nước chúng tôi. Thật là mỉa mai xiết bao việc Hoa Kỳ đã ủng hộ một kẻ thua cuộc, ngay cả từ lúc bấy giờ.
Cũng trong khoảng thời gian đó, chính phủ Bảo Đại đã trực tiếp nhận được viện trợ quân sự, kinh tế và kỹ thuật trị giá hơn 100 triệu đôla.


Hoa Kỳ đã tin tưởng là người Pháp sẽ chiến thắng vào năm 1954. Trái lại, đã xảy ra trận Điện Biên Phủ và cuộc thảm bại của người Pháp, nhưng Hoa Kỳ vẫn tiếp tục viện trợ cho Việt Nam dưới cái ô của tổ chức hiệp ước Đông Nam châu Á (SEATO) và Hoa Kỳ mong muốn là tổ chức này sẽ che chở cho Hoa Kỳ khỏi bị lên án là đã can thiệp vào Việt Nam với ý đồ thực dân. Lúc đàu viện trợ Hoa Kỳ đã được sử dụng vào hai việc chính là đài thọ phí tổn của quân đội Việt Nam và việc định cư những người di cư từ miền Bắc.


Tổng thống Eisenhower đã gửi tướng J.Lawton Collins sang Việt Nam với tư cách là đặc phái viên của mình để giám sát việc tiến hành một chương trình huấn luyện quân sự, đồng thời trong lúc đó Hoa Kỳ cũng đã ứng tiền để thực hiện một chương trình cải cách ruộng đất.


Đến năm 1956, Hoa Kỳ đã viện trợ cho chế độ Diệm bình quân 270 triệu đôla mỗi năm, và đây là số tiền, tính theo đầu người, mà Hoa Kỳ đã viện trợ nhiều hơn hết so với bất cứ nước nào trên thế giới, chỉ trừ có Lào và Triều Tiên.


Trong 5 năm đầu của chế độ Diệm, Hoa Kỳ đã ứng ra một phần tư tỷ đôla để trang trải phí tổn của toàn bộ quân lực Nam Việt Nam, và 80 phần trăm các chi phí khác của chính phủ. Hoa Kỳ đã bù đắp vào chỗ thiếu hụt của các cán cân ngoại thương Việt Nam khoảng 178 triệu đôla mỗi năm, Hoa Kỳ đã cung cấp tất cả cho chế độ Diệm.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #31 vào lúc: 06 Tháng Ba, 2010, 04:44:34 pm »

Chương XIII
Chiến tranh hạn chế: Những sai lầm tai hại của Mỹ


Chiến tranh là một công việc khủng khiếp, rối rắm, và chỉ có hai cách để tiến hành: hoặc là mở một cuộc tấn công toàn lực đè bẹp kẻ thù như Hitler đã đè bẹp Pháp năm 1940 hoặc là tiến hành một trận chiến tranh hạn chế.


Trước hết, “lực lượng ồ ạt” đã được đưa đến Việt Nam như thế nào? Số quân nhỏ lúc ban đầu vào năm 1950 khi lực lượng Mỹ mới chỉ là cơ quan cố ván và viện trợ quân sự Hoa Kỳ (MAAG) đã tăng từ 327 lên 900 trong năm 1960; và năm 1961 nó lên tới 3.200 và vào năm 1962 khi mà cơ quan ấy được nâng lên thành bộ tư lệnh viện trợ quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (MACV) dưới quyền điều khiển của tướng Paul Harkins thì nó đạt đến con số 11.300.


Trong năm 1963, số quân Mỹ tổng cộng là 16.500 và vào năm 1964, dưới quyền chỉ huy của tướng Westmoreland, đã lên đến con số 23.000. Năm 1965, khi các lực lượng Mỹ đảm nhiệm đầy đủ vai trò chiến đấu, số quân của họ tăng tới 180.000; năm 1966 số quân này là 389.999; năm 1967, 463.000; năm 1968, 495.000 và vào năm 1969, nó đã lên tới tột đỉnh với con số 541.500 người.


Không kể lực lượng Nam Việt Nam và các lực lượng khác, một quân đội gồm nửa triệu người là một lực lượng hết sức to lớn và lực lượng Mỹ đã được trang bị những tàu sân bay, những máy bay ném bom phản lực và tất cả những vũ khí chiến tranh hiện đại nhất, tinh vi nhất và khủng khiếp nhất. Tuy vậy, họ đã không thắng nổi trận chiến tranh chỉ vì quân đội ấy không phải là một đội quân thích hợp với một trận chiến tranh hạn chế.


Người ta cứ nhắc đi nhắc lại từ “chiến tranh hạn chế”. Chiến dịch ném bom “Sấm rền” (Rolling Thunder) chống Bắc Việt Nam mà tổng thống Johnson ra lệnh tiến hành trong năm 1965 là một chiến dịch gồm “những trận tấn công hạn chế liên tục bằng không quân". Các mục tiêu đã luôn luôn bị giới hạn bởi những nhà chính trị ở cách xa hàng nghìn dặm.


Tướng Maxwell Taylor trong khi điều trần trước uỷ ban quan hệ đối ngoại thượng viện trong năm 1966 đã phát biểu rằng mục đích của Hoa Kỳ là “tiến hành một trận chiến tranh hạn chế” ở Việt Nam. Bộ truởng quốc phòng Robert Mc Namara, trong khi điều trần trước Tiểu ban phụ trách công tác chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu của thượng nghị viện Mỹ trong năm 1967 đã phát biểu rằng không có lý do gì để có thể tin rằng việc ném bom sẽ có thể đưa Bắc Việt Nam đến bàn hội nghị, và chống lại việc mở rộng chiến tranh không quân.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #32 vào lúc: 06 Tháng Ba, 2010, 04:46:07 pm »

Chương XI
Vụ Tết: Mỹ mất tinh thần


Vào năm 1967, khi nhiệm kỳ thủ tướng của tôi đang sắp kết thúc, tôi đã phải lấy một quyết định quan trọng. Hồi đầu năm đó, sau khi đi thăm quan Australia và New Zealand về, tôi đã được quân đội ngỏ ý là họ muốn tôi ra ứng cử tổng thống theo hiến pháp mới và tôi đã đồng ý làm theo ý muốn của họ. Ông Thiệu đã quân sự ra ứng tranh ghế tổng thống với tôi. Ông ta đã nộp đơn xin ứng cử ghi tên ông và ông Trịnh Quốc Khánh đứng cùng một liên danh tranh ghế tổng thống và phó tổng thống. Về phần tôi, tôi đã có ông Nguyễn Văn Mộc đứng cùng liên danh, tranh ghế phó tổng thống. Do việc này một vấn đề đã được đặt ra: ông Thiệu và tôi cả hai đều là quân nhân, và nếu chúng tôi cùng ganh đua để tranh ghế tổng thống thì điều này có thể sẽ được người ta coi như là một sự rạn nứt trong quân đội. Do đó, ông bộ trưởng quốc phòng, tướng Cao Văn Viên đã triệu tập một buổi họp với sự có mặt của bốn mươi tám tướng lĩnh thuộc thành phàn hội đồng quân lực. Sau một vài ngày bàn cãi các tướng lĩnh nghĩ rằng họ đã tìm ra được một lối thoát; họ sẽ yêu cầu ông Thiệu rút lui khỏi quân đội và như thế ông có thể ra tranh cử với tôi với tư cách là một thường dân.


Nhưng ông Thiệu lại là một nhà chiến thuật rất khôn khéo. Khi các tướng lĩnh đưa ra đề nghị trên, ông ta đã biết ngay là nếu ra ứng cử với tư cách là một thường dân thì ông ta sẽ thua, đo đó ông đã khước từ không chịu rút lui khỏi quân đội.


Sau vài ngày bàn cãi với một số bất đồng ý kiến rất sâu sắc, Hội đồng quân lực đã triệu tập một nghị cuối cùng ở cấp cao nhất để gây lại tinh đoàn kết giữa tất cả các hội viên. Có khoảng bốn mươi viên sĩ quan cấp cao đã ngồi ở tầng dưới để chờ đợi một quyết định dứt khoát sẽ được bảy hội viên cao nhất của uỷ ban lãnh đạo quốc gia biểu quyết tại một phòng ở tầng trên. Ông Thiệu và tôi, cả hai chúng tôi đều ngồi ở bên ngoài. Sau này tôi được biết là uỷ ban lãnh đạo quốc gia đã đưa ra nhiều đường lối để lựa chọn. Đường lối lựa chọn chủ yếu là cho ông Thiệu giải ngũ rồi sau đó ông có thể ra ứng cử tổng thống với tư cách là một thường dân.


Ông Thiệu đã nhận ra ngay rằng với tư cách là một thường dân ông ta sẽ không có hy vọng gì trúng cử cả và ông đã tuyên bố như sau: “Tôi vẫn đứng trong hàng ngũ quân đội và các quý vị không thể buộc tôi phải rút lui khỏi quân đội”.


Đột nhiên tôi đã cảm thấy một nỗi chua chát dâng lên-không phải là giận dữ mà đúng ra là một nỗi buồn chán trước những mánh khoé, thủ đoạn trong hoạt động chính trị. Thật là hèn hạ hết chỗ nói. Trước đây tôi đã thật sự không hề ưa thích hoạt động chính trị dù cho là tôi đã từng giữ chức thủ tướng. Nhưng tôi đã trải qua nhiều tháng với sự thách thức để giành lấy quyền hành tối cao, với những vụ tranh chấp về chức vụ và địa vị và bỗng nhiên tôi cảm thấy ghê tởm-ghê tởm và mệt mỏi. Trong giây phút tôi đã chợt nhận ra rằng, hiện ở nơi này, giữa những chiến hữu với nhau, chúng tôi đương xâu xé lấn nhau vì tranh chấp quyền hành. Đó phải chăng là một tấm gương được nêu lên cho những quân nhân Việt Nam! Tôi đã chán ngán về những vụ cãi vã liên tục giữa các sĩ quan cấp cao kể từ khi ông Diệm bị lật đổ. Thất vọng và chán ngấy, tôi đã tuyên bố, mà không hề báo trước cho mọi người hay, rằng họ nên dành sự ủng hộ cho ông Thiệu. Tôi đã phát biểu như sau: “Nếu ông Thiệu muốn là ứng cử viên của quân đội thì hãy để cho ông ta làm việc ấy. Tôi sẽ trở về với nhiệm vụ trước đây của tôi trong không quân".


Một bầu không khí yên lặng đầy kinh ngạc đã diễn ra trong chốc lát và cuối cùng đã được phá tan khi tướng Hoàng Xuân Lãm, tư lệnh vùng I chiến thuật đã la lớn lên: “Vì ông đã hy sinh để giúp củng cố tình đoàn kết trong quân đội, vậy thì tại sao ông không thể hiện sự hy sinh ấy tới cùng? Nếu ông Thiệu ra ứng cử một mình, ông ta có thể không thắng nổi tranh cử với những đối thủ dân sự. Nhưng nếu ông cùng ra ứng cử với ông Thiệu trên một liên danh để tranh ghế phó tổng thống thì uy tín của ông sẽ giúp cho người của chúng ta được trúng cử”.


Tôi đã trả lời rằng nếu điều trên đây là sự mong muốn của hội đồng, thì tôi sẽ phải chấp nhận ra ứng cử phó tổng thống đứng dưới ông Thiệu, nhưng tôi đã nói rõ cho hội đồng quân lực, và các thành viên đều đã đứng dậy hoan hô tôi, biết rằng mục đích của sự hy sinh của tôi là cốt ngăn ngừa không để cho những sự tranh giành diễn ra thêm nữa, vì việc này có thể làm cho tinh thần quân đội sụp đổ.


Cử chỉ của tôi khiến cho uỷ ban lãnh đạo quốc gia đã đưa ra một quyết định cơ bản, bảo đảm chắc chắn là nếu chúng tôi trúng cử thì ông Thiệu sẽ phải tuân theo ý kiến của quân đội và tôi sẽ được chia sẻ quyền hành, điều này bình thường mà nói đã không được hiến pháp cho phép. Các tướng lĩnh đã đi đến quyết định thành lập một tổ chức bí mật, ngoài những quy định của hiến pháp, và lấy tên là quân uỷ hội. Hội đồng này bao gồm tất cả các tướng lĩnh và các sĩ quan cấp cao kể luôn cả bộ trưởng quốc phòng, tổng thống, phó tổng thống.


Như cả thế giới đã biết, chúng tôi chỉ là trúng cử với 33 phần trăm số phiếu bầu mà thôi.

Ông Thiệu bằng các mánh khoé xảo quyệt đã giành lấy thêm nhiều quyền hành cho ông ta qua nhiều năm cầm quyền và đã tránh né quân uỷ hội. Nhiều người nghĩ rằng quyết định của tôi đã gây nên những hậu quả nghiêm trọng cho vận mệnh của Việt Nam và sau này nhiều người đã trách móc tôi vì càng ngày họ càng thấy thêm nhiều chứng cớ là sự tham nhũng rành rành của ông Thiệu cuối cùng đã đưa Việt Nam đến chỗ bị bại trận.


Việt Nam đã kiêu hãnh có một dinh tổng thống nguy nga nhất so với tất cả các nước ở châu Á, dinh này đã được xây lại trên vị trí cũ của dinh toàn quyền Pháp, toà nhà này đã bị phá huỷ khi ông Diệm bị lật đổ. Dinh tổng thống Việt Nam rộng lớn không kém gì Nhà Trắng ở Washington và đứng hiên ngang trên môt khu đất tuyệt đẹp. Bên trong có những nhà riêng dành cho gia đình chúng tôi. Tuy nhiên, tôi đã quyết định cần tiếp tục ở tại toà nhà cũ vừa là chỗ làm vừa là chỗ làm việc tại căn cứ không quân. Căn nhà này vốn là một bộ phận gắn bó với cuộc sống của hai chúng tôi kể từ khi chúng tôi cưới nhau và Mai đã nhất định không chịu rời đi chỗ khác. Tuy nhiên, tôi đã được dành cho một văn phòng làm việc rộng rãi ở gần văn phòng tổng thống và tôi đi làm và trở về căn cứ không quân hàng ngày bằng máy bay lên thẳng thuộc quyền sử dụng của tôi.


Lúc đầu tôi đáp xuống một bệ sân bay trực thăng được thiết lập trên mái nhà của dinh tổng thống, không hề hay biết là sân bay nằm ngay bên trên phòng ngủ của tổng thống Thiệu ở tầng thứ tư. Và ông Thiệu là người hay dậy muộn. Thiệu đã không hề nêu vấn đề nhưng cuối cùng bà vợ ông ta đã đưa việc này ra nói với tôi theo một kiểu nói quanh co, bà ta nói rằng bà ta đang thực hiện một vườn bông trên mái nhà để bà có thể lên hứng gió mát vào những đêm nóng nực. “nhưng, bà nói một cách buồn rầu, “tôi e sợ sẽ khó mà thực hiện được. Luồng gió cuồn cuộn hết sức mạnh mỗi khi chiếc trực thăng của ông đáp trên mái nhà đã làm cho các cây cỏ bị hư hết”.


Lẽ dĩ nhiên, sau việc trên máy bay trực thăng của tôi đã đáp xuống mảnh vườn trước dinh. Nhưng trên đây là trường hợp điển hình của Thiệu, dù cho tiếng ồn ào đã làm cho ông ấy thức giấc, ông đã không tự mình nêu lên vấn đề mà lại bảo vợ ông làm việc ấy.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #33 vào lúc: 06 Tháng Ba, 2010, 04:47:19 pm »

Vào cuối năm, khi đó Mỹ đang ném bom dữ dội miền Bắc, tuy thế trong thông điệp (thông điệp liên bang) gửi toàn thể quốc dân ngày 17 tháng một năm 1968, tổng thống Johnson đã hứa, như ông đã làm trước đây-là Mỹ sẽ ngừng hẳn ném bom nếu có thể dàn xếp để đi đến việc đàm phán ngay, với khả năng phải chăng, là cuộc đàm phán sẽ đem lại kết quả. Đáp lại, Việt cộng đã gia tăng hoạt động mạnh hơn. Họ đã mở một trận tấn công ồ ạt vào căn cứ lính thuỷ đánh bộ Mỹ ở Khe Sanh, các khu phi quân sự mười bốn dặm về phía nam. Sau đó đã xảy ra vụ tấn công Tết. Tết tức là năm mới của Việt Nam. Trận tấn công đã diễn ra thực dã man, được tiến hành rất tài tình, vì thế đã làm cho tất cả chúng tôi phải hết sức bối rối. Ngay trước khi biết được những gì xảy ra, chúng tôi đã phải chiến đấu cho mạng sống của chúng tôi trên các đường phố Sài Gòn, Huế và tại khoảng mười hai tỉnh khác.


Cuộc tấn công Tết đã đánh dấu một bước ngoặt của trận chiến tranh và cho thấy rõ chiều hướng thay đổi trong thái độ của Mỹ đối với trận chiến tranh. Trước Tết, trận chiến tranh đã có vẻ như đang lui dần vì chúng tôi đã đẩy lùi bộ đội cộng sản trở lại khu rừng ở phía bắc biên giới.


Mặc dầu vậy, khi bộ đội cộng sản mở cuộc tấn công vào sáng sớm ngày 31 tháng giêng, cũng vẫn có đã có gần tới nửa số quân nhân Việt Nam đi nghỉ phép không có mặt ở đơn vị. Và mặc dù tướng Frederic Weyand, tư lệnh lực lượng II dã chiến1 (Chú thích của người dịch: Có thể sách in nhầm “US II Field Forces” chứ không phải là “US Third Corps” Xin kiểm lại), đã đặt các binh sĩ của ông trong tình trạng báo động đêm hôm trước, cũng vẫn đã chỉ có một số ít quân Mỹ đóng trong các thành phố mà thôi. Và chính là tại những nơi đây, các trận tấn công đã diễn ra.


Một lực lượng phối hợp gồm có từ 50.000 đến 80.000 quân cộng sản mở một trận tấn công dữ dội cùng tiến hành đồng thời và có phối hợp vào hầu hết các thành phố và thị trấn quan trọng ở miền Nam. Họ đã đánh vào Sài Gòn, Huế và một trăm nơi khác vào lúc gần ba giờ sáng.


Tại Sài Gòn, một đội cảm tử gồm có mười chín lính đặc công thuộc mặt trận dân tộc giải phóng đã đánh tràn qua bức tường phía ngoài của toà đại sứ Mỹ và chạy xông tới các cửa. Những đội khác đã được giao nhiệm vụ tấn công phủ tổng thống, bộ tổng tham mưu, bộ tư lệnh hải quân Việt Nam, căn cứ không quân và đài phát thanh.


Khi đó ông Thiệu đã không có mặt ở Sài Gòn và với tư cách là phó tổng thống, tôi đã lĩnh trách nhiệm đối phó với cuộc tấn công. Vào 4 giờ sáng, chỉ huy trưởng căn cứ không quân đã báo cho tôi biết như sau: “Bộ đội cộng sản hiện đang có mặt ngay cả bên trong căn cứ. Tôi không nghĩ rằng tôi có thể ngăn chặn họ lâu hơn nữa; phó tổng thống và gia đình nên rời khỏi nơi đây”.


Chẳng bao lâu bộ đội cộng sản đã chiếm được đài phát thanh…

Vào 9 giờ sáng, lực lượng trực thăng vận của Mỹ đã quét sạch quân tấn công ra khỏi toà đại sứ của họ nhưng ở những nơi khác cuộc chiến vẫn tiếp tục diễn ra ác liệt. Đã từ lâu, Sài Gòn chưa hề chứng kiến một cảnh tượng nào giống như thế kể từ khi uỷ ban Nam bộ bị quân Anh, Pháp và Nhật tống ra khỏi nơi này vào năm 1945, lần này sự việc đã diễn ra trên một quy mô lớn hơn nhiều.


Quân Mỹ đã tiến hành việc bao vây thành phố, vừa ngăn chặn không cho địch quân thoát ra ngoài vừa không để cho những người cộng sản mang thêm quân tăng cường. Do đó bộ đội cộng sản đã nã pháo vào ngay Sài Gòn.


Sau năm hoặc sáu ngày tác chiến vẫn còn có khoảng 1.000 quân cộng sản chỉ huy trong thành phố, trong lúc đó tại huế mãi đến 10 tháng 3 mới có thể giải phóng hoàn toàn thành phố này. Số thương vong đã lên rất cao: khoảng 4.000 quân Mỹ đã bị giết cùng với 5.000 quân Nam Việt Nam.


Mặc dầu cho sự việc trên thê thảm như thế nào đi nữa, những tổn thất lớn lao nhất vẫn là niềm tự hào và uy tín của Mỹ. Đối với người Mỹ, vụ tấn công Tết đã gây nên tất cả những nỗi kinh hoàng của một vụ Trân Châu Cảng khác và lần đầu tiên nhiều người Mỹ đã nhận ra rằng họ sẽ không thể nào thắng nổi trận chiến tranh. Đã có một sự tan vỡ mất hết niềm tin. Người ta bắt đầu đưa ra những lời bào chữa. Tướng Westmoreland đã tuyên bố: “Dù cho là vào giữa tháng giêng chúng tôi biết được chắc chắn là một cuộc tấn công quan trọng đã được địch quân trù tính thực hiện vào dịp tết đi nữa, chúng tôi vẫn không phỏng đoán được bản chất thật sự hoặc quy mô của một trận tấn công trên toàn quốc… Chúng tôi đã không hề nghĩ rằng địch quân lại có thể dám tiến hành những trận tấn công có tính chất tự sát như vậy trước sức mạnh của chúng tôi”.


Điều đó hoàn toàn không đúng. Dĩ nhiên là tướng Westmoreland đã phải biết rất rõ về cường độ của trận tấn công sắp xảy ra. Tôi tin chắc là Nhà Trắng thì không được biết, nhưng lại là vì một lý do cũng rất co cơ sở. Rõ ràng là một số quan chức lãnh đạo của Hoa Kỳ ở Sài Gòn đã chủ tâm đưa ra một loạt báo cáo láo gửi về Nhà Trắng để cố gắng duy trì được cảm tưởng là quân Mỹ đang chiếm ưu thế so với Việt cộng.


Đã phải mất một vài năm mới khám phá ra được trò lừa dối bẩn thỉu này, trước khi nhà phân tích Samuol Adama, một chuyên viên của CIA chuyên nghiên cứu về số quân của Việt cộng tiết lộ1 (Trước một Uỷ ban điều tra của quốc hội vào tháng chín năm 1975) rằng người Mỹ đã có ý đưa ra những ước tính có tính cách lừa dối về các lực lượng cộng sản trước khi cuộc tấn công xảy ra. Ông đã phát biểu rằng mặc dù các bộ đội tình báo đã cho biết là phía cộng sản và lúc ấy có khoảng 600.000 quân nhưng bộ tư lệnh Hoa Kỳ ở Việt Nam và đại sứ Mỹ ở Sài Gòn đã cứ nhất định đòi cắt con số đó xuống còn một nửa để trình bày cho báo chí, quốc hội và Nhà Trắng biết, Adama đã đưa ra những bản điện tín của tướng Craigton Abrama, người đã thay thế tướng Westmoreland, và của đại sứ Ellworth Bunker để chứng minh lời nói của ông ta.


Vì thế khi cơ quan CIA tiên đoán cuộc tấn công Tết trước đó hai tháng, tổ chức này vẫn còn viện dẫn con số 300.000 quân cộng sản, con số này đã lỗi thời, và do đó họ cũng đã đưa ra ý kiến là trận tấn công sẽ không lớn lắm. “Mặc dù lúc ấy mục đích của chúng ta là lừa gạt báo chí công chúng và quốc hội Hoa Kỳ, nhưng chúng tôi ở trong ngành tình báo, chúng ta quả đã thành công trong việc tự lừa gạt chúng tôi”, ông Adama đã phải thừa nhận như vậy.


Lúc cuộc tấn công Tết vừa mới xảy ra, chúng tôi đã không tài nào tranh thủ được sự giúp đỡ ngay tức thì của phía Hoa Kỳ, trước kia, bất cứ lúc nào xảy ra một trận đánh, phía Hoa Kỳ đã phản ứng với tốc độ rất nhanh, nhưng trong vụ tết họ đã có một thái độ “chờ xem” thật là lạ lùng. Lúc ấy, chúng tôi đã bắt đầu tự hỏi không hiểu sự cam kết của họ sâu xa tới mức nào và không hiểu họ có thật sự kiên quyết muốn chiến thắng hay không?


Sau này các cấp chỉ huy quân sự và các nhà hoạt động chính trị Mỹ có xét lại quan điểm chính thức của họ về vụ tấn công Tết và đã cố gắng trình bày vụ này như là một chiến thắng. Tướng Westmoreland tuyên bố đó là một chiến thắng vì Việt cộng đã không hề chiếm được một thành phố nào ngoài trừ Huế, và họ đã bị thiệt hại rất nặng nề. Điều này đúng, nhưng quần chúng Mỹ đã không sao lấy lại được niềm tin đối với kết quả của trận chiến tranh. Đối với người Mỹ vụ Tết chỉ được xem là một chiến thắng theo chiều hướng vụ Dunkerque đã là một chiến thắng của người Anh trong trận chiến tranh thế giới thứ II.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #34 vào lúc: 06 Tháng Ba, 2010, 04:48:57 pm »

Chương XII
Một lý do vì sao Nixon đã thắng cử


Ngày 31 tháng 3, tổng thống Johnson đã ban hành lệnh ngừng những vụ ném bom và những cuộc tấn công của hải quân vào Bắc Việt Nam, ngoại trừ ở khu vực cách khu phi quân sự hai trăm dặm về phía bắc. Một lần nữa ông đã kêu gọi một cuộc dàn xếp hoà bình qua thương lượng. Sau đó ông đã cho nổ một trái bom làm xôn xao dư luận: tổng thống Johnson đã loan báo tin ông không ra tái ứng cử tổng thống vào tháng mười một nữa và như vậy ông có thể đứng trên mọi cuộc đấu tranh chính trị bí mật trong nội bộ và hưởng ứng bất cứ sáng kiến thăm dò nào nhằm tìm kiếm hoà bình.


Chắc chắn là chính ông đã hết sức đau khổ khi phải quyết định như trên. Tổng thống Johnson lại còn được các cố vấn của ông khuyến cáo rằng dù cho có gửi thêm 200.000 quân Mỹ sang Việt Nam theo lời yêu cầu của tướng Westmoreland đi nữa thì Hoa Kỳ cũng sẽ vẫn “không ở cái thế có thể đánh đuổi địch quân ra khỏi Nam Việt Nam hoặc tiêu diệt các lực lượng của họ được”.


Điều làm cho tổng thống Johnson không kém lo âu là sự thất vọng chán ngán vô phương cứu chữa trong dân chúng Mỹ, họ không tài nào hiểu nổi tại sao một quân đội của nước họ gồm nửa triệu người lại có thể bất lực trong cuộc chiến đấu chống quân Bắc Việt Nam đến như vậy. Những người chỉ trích đã hung hăng đả kích ầm ĩ và như một bản dự thảo bị vong lục của một nhóm do ông Clark N.Clifford, cố vấn thân cận của tổng thống đứng đầu soạn thảo đã nói về sự việc này: “Sẽ khó có thể thuyết phục được các người chỉ trích rằng chúng ta không phải chỉ đang tàn phá Nam Việt Nam để “cứu vãn nước này”… Bản báo cáo viết tiếp với mục đích cảnh giác tổng thống trước tình trạng không yên ổn trong dân chúng, nói rằng: “Sự bất mãn đang gia tăng này, tiếp theo sẽ xảy ra, là sự bất chấp nhiều hơn nữa đối với lệnh gọi động viên thi hành quân dịch và một tình trạng càng hoang mang thêm trong nhân dân các thành thị, vì thiên hạ cho rằng chúng ta đang thờ ơ trước những vấn đề trong nước, tất cả những sự kiện ấy sẽ đưa đến những nguy cơ to lớn có thể gây nên một cuộc khủng hoảng trong nước trên quy mô lớn chưa từng thấy từ trước đến nay”.


Định mệnh đã an bài. Bắc Việt Nam với một chiến lược được áp dụng từ nhiều năm nay đã quyết tâm muốn làm nhụt ý chí của Mỹ, phá hoại sự tín nhiệm của nước này đối với thế giới, đã hối thúc giành cho được thế lợi trên đất Mỹ. Ngay ngày hôm sau khi chính phủ Bắc Việt Nam đã công bố là họ sẵn sàng thảo luận với Hoa Kỳ về việc ngừng ném bom hoàn toàn ở Việt Nam, thế là cuộc đàm phán có ý nghĩa đã có thể tiến hành.


Chúng tôi đã phải đứng ngoài trong những bước đi giữa Mỹ và Bắc Việt Nam và dĩ nhiên là chúng tôi đã ngờ vực họ, dù cho việc thảo luận và đàm phán đã bị trì hoãn đi nữa vì có sự bất đồng ý kiến về địa điểm tổ chức cuộc thương lượng. Người Mỹ đã đề nghị Geneve, Djakarta, New Delhi, Rangoon và Vientiane và tất cả những nơi này đã bị Bắc Việt Nam bác bỏ. Bắc Việt Nam đã đưa ra đề nghị họp ở Phnom Pênh và Warawa và các địa điểm này đã không được người Mỹ chấp nhận. Cuối cùng, ngày 3 tháng 5, Hoa Kỳ đã chấp nhận đề nghị của Hà Nội chọn Pari làm nơi hội họp và đã cử ông Averell Harriman và Cyrus Vance làm đại diện trong cuộc đàm phán. Bắc Việt Nam đã chỉ định ông Xuân Thuỷ.


Những cuộc thảo luận về đàm phán đã bị trì trệ trong sáu tháng, phần lớn vì Hà Nội đã đòi hỏi ngừng hoàn toàn ném bom Bắc Việt Nam trước khi thảo luận một cuộc dàn xếp tối hậu. Nam Việt Nam đã không tham dự những thảo luận trên: điều rắc rối là các đề nghị lại rất là mơ hồ. Chúng tôi đã không hiểu nổi, phải chăng những cuộc đàm phán quan trọng đã dự định là sẽ diễn ra giữa Bắc và Nam Việt Nam hay là giữa Nam Việt Nam và mặt trận dân tộc giải phóng, hay là giữa Hoa Kỳ Bắc và Nam Việt Nam, hay là giữa cả bốn phe hoặc là còn có thêm phe nào nữa.


Chúng tôi đã chẳng hề muốn cùng ngồi vào bàn hội nghị với những người cộng sản, và chúng tôi lại càng không có ý định cùng ngồi với mặt trận dân tộc giải phóng vì làm như vậy chẳng khác gì là công nhận họ.


Tuy nhiên, tổng thống Johnson đã vội vã gây sức ép với chúng tôi để hành động theo. Ông và ứng cử viên đảng Dân chủ dự tranh ghế tổng thống, là ông Wubert Humphrey, mong muốn là cuộc đàm phán về hoà bình phải đạt kết quả vì các cử tri Mỹ đang tỏ ra càng ngày càng chán ngán trận chiến tranh đang tiếp diễn ở nơi xa xôi này, và một sự dàn xếp nhanh chóng có thể sẽ giải quyết cuộc bầu cử có lợi cho ứng cử viên dân chủng.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #35 vào lúc: 06 Tháng Ba, 2010, 04:50:25 pm »

Chương XIII
Việt Nam hoá tên gọi ấy ngụ ý gì


Chính sách trao trả vai trò chiến đấu lại cho người Việt Nam đã được tướng Westmoreland đề cập từ năm 1967 khi ông ta nói với dân chúng Mỹ trên đài truyền hình rằng Mỹ có thể bắt đầu rút một số binh sĩ vào năm 1969 nếu chương trình quân sự trên bộ và ném bom vẫn tiếp tục, nhưng điều này tuỳ thuộc vào khả năng của miền Nam có thể gánh vác được những trách nhiệm chiến đấu nặng nề hơn hay không.


Việt Nam hoá là nguyên tắc cơ bản trong chính sách của tổng thống Nixon ở Đông Dương. Trong cuộc vận động bầu cử năm 1968, Nixon đã hứa sẽ đem lính Mỹ về nước, nhưng ông ta tính toán rằng có thể duy trì một chế độ không cộng sản ở Sài Gòn bằng cách tăng cường lực lượng của miền Nam Việt Nam.


Nixon đã ghi vào ngân sách 10 tỷ đôla để thực hiện việc này. Và tướng Greighton Abrama, người thay tướng Westmoreland làm tư lệnh lực lượng Mỹ ở Việt Nam năm 1968, bắt đầu một chương trình cấp tốc nhằm đẩy mạnh viêc huấn luyện quân đội miền Nam Việt Nam. Năm ấy chúng tôi đã ban hành lệnh tổng động viên, buộc tất cả thanh niên từ 18 đến 38 tuổi đều phải đi quân dịch, còn những người 17 tuổi và từ 39 đến 43 tuổi có thể được gọi gia nhập các lực lượng bảo vệ xã ấp.


Cho đến cuối năm 1970, quân đội của chúng tôi tăng thêm 400.000 người, nâng tổng số lực lượng vũ trang lên tới 1.000.000 người.

Tướng Frederich Weyand, phụ tá của tướng Abrams, đưa 350 toán cố vấn Mỹ, mỗi toán gồm 5 người, đi huấn luyện các lực lượng địa phương quân và nghĩa quân mà người Mỹ gọi là các đơn vị “táp nham”. Mỗi tuần có 100 quân nhân Việt Nam đi máy bay sang Mỹ để theo học các khoá huấn luyện từ 6 đến 18 tháng. Hơn 12.000 sĩ quan Việt Nam đã dự những khoá học cao cấp tại trường chỉ huy và tham mưu ở Fort Leavonworth (thuộc tiểu bang Kansas) và ở các căn cứ khác.


Trong vòng 3 năm Hoa Kỳ đã chuyển giao cho chúng tôi gần 1.000.000 vũ khí nhẹ, 46.000 xe cộ và 1.100 máy bay kể cả máy bay lên thẳng.

Trong khi đó quân đội Mỹ bắt đầu rút. Tháng 6 năm 1969, Nixon loan báo là 25.000 trong tổng số 541.500 quân Mỹ sẽ rút khỏi Việt Nam trước cuối tháng 8 khi mà miền Nam Việt Nam đảm nhận trách nhiệm chiến đấu nhiều hơn.


Đợt rút quân thứ hai được công bố trong tháng 9 và đầu tháng 12 thì tổng số quân Mỹ giảm xuống còn 479 nghìn 500 người. Cũng tháng ấy, Mỹ loan báo đợt rút quân thứ ba. Năm 1970, số lính Mỹ ở Việt Nam còn 429.900 và đến năm 1972, khi mà vai trò chiến tranh của Mỹ chấm dứt, số ất tụt xuống chỉ còn 60.000: đó là con số thấp nhất kể từ giữa năm 1965.


Đem một quân đội lệ thuộc phần lớn vào quân đội bạn và chỉ huy, vũ khí và ngay cả về chiến lược, rèn đúc lại thành một quân đội mới, quả là một công việc buồn nản. Những việc xảy ra có dính líu đến tôi trải qua nhiều năm đã làm cho tôi hiểu bài học này một cách sâu sắc hơn là bất cứ bản luận thuyết nào.


Các bạn đồng minh Mỹ của chúng tôi không bao giờ có ý ép buộc các sĩ quan Việt Nam phải theo lối sống Mỹ, nhưng có một điều không thể tránh được là chúng tôi đã phải thích nghi với lối chiến đấu của người Mỹ. Từ khi làm tư lệnh không quân tôi mới thấy rõ những nguy cơ xuất phát từ những vấn đề ấy. Tôi luôn luôn nghĩ rằng nên sử dụng không quân một cách dè xẻn, chỉ khi nào cần thiết mới sử dụng một cách tràn ngập, áp đảo. Sở dĩ như vậy là vì Việt Nam là một nước nghèo. Chúng tôi đã được dạy dỗ phải tiết kiệm và hầu như hà tiện, trong việc tiêu thụ bom đạn. Còn không quân Mỹ có ngân sách rất lớn, nên họ chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện này.


Tôi nhớ có lần một lực lượng hỗn hợp Việt-Mỹ đang tiến quân thì bất ngờ gặp sự chống cự của địch. Phản ứng tức khắc của Mỹ là ngưng tiến quân và đòi hỏi phải gọi không quân đến dội bom lên đầu địch. Chúng tôi phải điều động những máy bay đã được chỉ định đánh phá nơi khác đến công vị trí này mà vê sau mới biết là chỉ có sáu bảy Việt cộng chống giữ. Ấy thế mà đã phải dùng tới hai chuyến bay “Con ma”. Mỗi chuyến mang 6 quả bom, và theo người ta nói với tôi thì mỗi quả giá 6.000 đôla. Kết quả cuộc tấn công ấy, có cả súng đại liên yểm trợ, là chẳng có bằng chứng nào cho thấy đã giết được lấy một Việt cộng.


Phung phí bom đạn đã là không tốt rồi, nhưng điều tệ hơn nữa là sự lệ thuộc vào phi pháo đã đưa các tướng lĩnh của chúng tôi đến những thói quen xấu. Xét cho cùng, trong một cuộc chiến tranh ở rừng rậm chống du kích, không quân chỉ có thể phụ giúp thôi. Nó đóng một vai trò yểm trợ. Thực ra, chính bộ binh, người chiến sĩ trong rừng rậm mới là người tiên chiếm đất đai. Nhưng có không quân thì mọi việc dễ dàng hơn, và nhiều khi chúng tôi báy tới 5.000 phi xuất mỗi ngày để yểm trợ cho bộ binh.


Tôi rất lo lắng rất nhiều về tinh thần binh sĩ khi quân Mỹ rút đến nỗi tôi đã cảnh cáo tổng thống Thiệu: “Xin đừng tưởng sau khi quân Mỹ rút chúng ta vẫn còn có hoả lực mạnh như trước”.


Về sau người Mỹ thường chỉ trích kịch liệt bộ binh Việt Nam không chịu tiến hành đánh nếu không có không quân yểm trợ. Nhưng họ có biết đâu rằng chính cách họ sử dụng lãng phí không quân đã dạy cho binh sĩ của chúng tôi ỷ lại vào sự yểm trợ của không quân.


Mặt khác, khi bắt đầu Việt Nam hoá, chúng tôi phải hướng dẫn lại cách suy nghĩ của những người đã từng chiến đấu sát cánh với những đồng minh có mức sống quá khác biệt. Sự khác biệt về mức sống đã tạo ra vô vàn vô số vấn đề mà giờ đây chúng tôi thừa hưởng như một gia tài. Không ai có thể trách người lính Mỹ ăn ngon, mua thả cửa hàng hoá miễn thuế ở cửa hàng dành cho quân nhân. Nhưng khi một đơn vị Việt Nam hành quân sát bên một đơn vị Mỹ thì điều chắc chắn xảy ra là người Mỹ, vốn là những người hào phóng nhất thế giới, đem phân phát kem và thuốc lá không giới hạn cho các bạn đồng minh. Kết quả là mỗi đơn vị Việt Nam đều tận lực hoạt động sát bên các đơn vị Mỹ, và khi các đơn vị Việt Nam đột nhiên phải hoạt động độc lập thì họ cảm thấy thiếu, nhớ những đồ xa xỉ của Mỹ.


Làm sao có thể khác được? Một lần tôi đã chứng kiến cảnh lính Mỹ tắm vòi nước hương sen trong vòng 20 dặm là ít nhất, nhưng với phương tiện của Mỹ thì chẳng có gì khó. Cả trăm người Mỹ cởi quần áo đứng quây thành một nhóm. Một chiếc máy bay lên thẳng lượn bên trên và phun nước xuống người họ. Kế đến một chiếc máy bay lên thẳng thứ hai bay tới phun xà phòng nước. Năm phút sau, khi họ đã kỳ cọ bằng xà phòng xong thì cái máy bay lên thẳng thứ nhất trở lại phun nước lần nữa cho sạch.


Một lần khác, vợ tôi và tôi thăm một tiền đồn Mỹ hẻo lánh gần biên giới Lào. Tít trên đỉnh núi có một căn cứ pháo binh Mỹ để yểm trợ binh sĩ đóng bên dưới. Tôi vừa nhảy ra khỏi máy bay lên thẳng để bắt tay viên sĩ quan chỉ huy thì đã ngửi thấy mùi xào nấu thơm phức. Ở bất cứ nơi nào, dù xa xôi hẻo lánh, cũng có một người đầu bếp Mỹ mặc tạp dề trắng, đội mũ trắng, nấu nướng những miếng thịt bò chất từng đống, thơm ngon và đều đặn cứ như bữa ăn của các nhà phú hộ.


Tất nhiên người Mỹ có quyền dùng máy bay lên thẳng tiếp tế thịt bò cho lính của họ, nhưng hai quân đội Việt và Mỹ ở sát bên nhau mà lại sống trong hai thế giới khác nhau, đó mới là điều đáng nói.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #36 vào lúc: 06 Tháng Ba, 2010, 04:51:41 pm »

Chương XIV
Paris khi cuộc chém giết phải chấm dứt


Trong gần một năm trời tôi kịch liệt phản đối việc tiến hành đàm phán ở Paris…
Nhưng mỗi tuần qua đi chúng tôi mới cảm thấy là không thể tiếp tục chiến đấu không hạn định. Ngoài những cảm giác mệt mỏi của chính tôi ra, càng ngày người Mỹ càng nói thẳng cho chúng tôi hiểu là họ quyết tâm chấm dứt cuộc chiến. Vì vậy cuối năm 1968 tôi đã đến Paris, cầm đầu phái đoàn miền Nam Việt Nam tham dự đàm phán hoà bình.


Nhưng trước khi bắt đầu đàm phán thực sự ở khách sạn Majostic, chúng tôi có một tháng hay hơn một tháng để thảo luận sơ bộ về hình thù cái bàn họp. Hình thù của nó phải làm sao để cho chúng tôi có thể thảo luận mà vẫn không không công nhận MTDTGP.


Ôi, cái bàn ấy: Đó là một cái bàn kỳ quái. Ít ra nó cũng kỳ quái đối với báo chí, nhưng đối với chúng tôi nó có một tầm quan trọng cơ bản. Vì thế chúng tôi khăng khăng đòi được thực hiện từng ly từng tý điều đã được thoả thuận là không phân biệt MTDTGP như là một phe riêng rẽ tại cuộc đàm phán, và điều này có nghĩa là không chính thức ngồi cùng bàn với họ.


Nhiều cái bàn có hình thù khác nhau đã được đề nghị nhưng đều bị gạt bỏ. Và tôi nghĩ là tôi đã giúp vào việc giải quyết vấn đề cái bàn khi Averell Harriman, cầm đầu phái đoàn Mỹ đến thăm tôi ở biệt thự của chúng tôi. Tôi thấy là người Mỹ đã bắt đầu bực mình về cái điều mà họ cho là một sự bướng bỉnh vặt vãnh của chúng tôi, nhưng tổng thống Thiệu đã chỉ thị rõ cho tôi là không được nhượng bộ vì bất cứ lý do gì.


Harriman là một gã bất trị và ông ta có một thói quen rất ư làm cho người đối thoai thoái chí. Ông ta lãng tai, phải đeo ống nghe và hễ khi nào cuộc thảo luận làm cho ông ta không quan tâm hay bực mình thì ông ta đưa tay tắt gỡ ống nghe một cách lộ liễu, cố ý cho người đối thoại thấy. Hôm ông ta đến tìm tôi với bản vẽ phác một cái bàn hình bầu dục và tôi bảo là chúng tôi không thể chấp nhận một cái bàn như vậy, thì tôi thấy tay ông ta đưa tay lên định gỡ cái ống nghe. Như một người làm trò ảo thuật, tôi tức khắc đưa ra bốn, năm bản vẽ phác kiểu bàn khác nhau cùng với sơ đồ xếp đặt chỗ ngồi.


Tôi nói: “Đừng đưa cho phía Bắc Việt Nam xem tất cả cùng một lúc. Hãy đưa cho họ xem mỗi lần một bản thôi. Và bản này-tôi đánh dấu X bằng bút chì-là bản duy nhất mà chúng tôi có thể chấp nhận. Nếu ông giữ nó lại đến cuối cùng và đưa nó ra như là ý kiến của chính ông, thì có thể là họ sẽ đồng ý”.


Mẹo ấy đã có tác dụng. Sau một tháng mặc cả hài hước-với lá bài chủ dấu kín-Harriman đề nghị một cái bàn hình tròn, rộng 26 “phút” không có biển tên, cờ hay dấu hiệu gì khác, dành cho các trưởng phái đoàn và hai cái bàn hình chữ nhật dành cho các thành viên khác, mỗi cái rộng 3 “phút”, dài 4-2/2-phút, đặt đối diện nhau cách cái bàn tròn 18 “insơ”.


Cho đến hôm nay tôi vẫn tin rằng nếu Harriman mới thoạt vào đã đưa ra đề nghị ấy thì không bao giờ Hà Nội chấp nhận.

Lúc đó là giữa tháng giêng năm 1969 và rốt cuộc đã có thể bắt đầu những cuộc đàm phán có thực chất. Với Nixon bây giờ ở Nhà Trắng, Harriman rút lui khỏi sân khấu, và một phái đoàn mới của Mỹ do Cabot Lodge cầm đầu đến thay.


Về phần Mỹ thì chiến tranh Việt Nam chấm dứt với lệnh ngưng bắn vào nửa đêm thứ bảy 27 tháng Giêng 1973. Bốn ngày trước đó, tổng thống Nixon xuất hiện trước máy truyền hình sau khi hiệp định được ký ở Paris và loan báo cho dân Mỹ biết là ông đã đạt được hoà bình trong danh dự. Ông nói rằng quân đội Mỹ sẽ rút hết trong vòng 60 ngày kể từ khi ngừng bắn và tất cả tù binh Mỹ sẽ được Hà Nội phóng thích. Ông tuyên bố rằng hoà bình sẽ hoàn thành những gì mà Mỹ đã chiến đấu để bảo vệ trong bao nhiêu năm tổn hao xương máu. “Miền nam Việt Nam đã giành được quyền tự quyết định tương lai của mình”.


Ông hứa với các nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam rằng Mỹ sẽ cố gắng giúp họ hàn gắn những vết thương chiến tranh.

Nhưng tiếp đến có một đoạn giả đạo đức mà tôi không thể nào chịu được bởi vì nó dối cả người lẫn dối mình đến độ làm cho người ta lộn mửa.

Nixon lớn tiếng: “Chúng ta hãy tự hào là Mỹ đã không chấp nhận một bầu hoà bình nó có thể phản bội đồng minh của chúng ta, bỏ rơi tù binh của chúng ta, chấm dứt chiến tranh cho riêng chúng ta nhưng vẫn để cho chiến tranh tiếp diễn đối với 50 triệu dân Đông Dương”.


Những lời tuyên bó đồng thời cũng được đưa ra ở Hà Nội và Sài Gòn. Tổng thống Thiệu đòi không quân Mỹ hoạt động mạnh mẽ trong những cuộc tấn công giờ chót để chiếm lại đất đại đã mất và ngăn chặn cộng sản xâm nhập vùng quốc gia. Kết quả là các máy bay phản lực của Mỹ đã thực hiện 374 phi vụ ném bom để yểm trợ bộ binh, và Hà Nội đã giận dữ phản đối: “Những kẻ cuồng chiến” ở miền Nam.


Nói về mặt chính thức, chiến tranh đã thực sự chấm dứt và người Mỹ rất phởn phơ.
Tôi hiểu nỗi vui mừng của người Mỹ khi họ rút được ra khỏi vòng chiến, nhất là khi người ta công bố những con số về tổn phí của Mỹ ở Việt Nam. Trong đó 2 triệu 3 lính Mỹ đã chiến đấu ở Việt Nam, có 56.000 người chết (nhưng nên nhớ rằng số binh sĩ miền Nam Việt Nam tử trận lên tới 165.000 người). Máy bay ném bom và chiến đấu của Mỹ đã thực hiện hơn 850.000 phi xuất tấn công và thả hơn sáu triệu tấn bom, trong khi các máy bay lên thẳng mỗi năm thực hiện trung bình hai triệu phi xuất tấn công. Mỹ đã tổn thất 3.695 máy bay và 4.783 máy bay lên thẳng. Tính thành tiền, phí tổn của cuộc chiến lên tới khoảng 130 tỷ đôla, chưa kể những số tiền trả dài hạn và có lãi để thanh toán các món nợ và cấp dưỡng chiến tranh.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #37 vào lúc: 06 Tháng Ba, 2010, 04:54:06 pm »

Chương XV
Cô độc lời cam kết mà Nixon đã không giữ được


Khi sắp bầu cử tổng thống và nhiệm kỳ bốn năm của tôi sắp hết, tôi quyết định là dù ông Thiệu có muốn tôi cũng không ứng cử phó tổng thống nữa. Nhưng ông Thiệu không muốn và đã chọn ông Hương. Ông Hương từng là thủ tướng đầu tiên của Thiệu, về sau làm tổng thư ký cho Thiệu ở dinh Độc Lập. Còn tôi, tôi quyết định ứng cử tổng thống.


Nhưng cuộc bầu cử đã bị gian lận, như tôi chờ đợi, Thiệu có hai đối thủ chính-ông Minh Lớn, từ ngoài chính quyền trở lại và tôi-nhưng trong bốn năm cầm quyền Thiệu đã củng cố địa vị của mình đến độ không còn có thể tổ chức một cuộc bầu cử thực sự tự do được nữa. Ông đã làm ra những đạo luật khiến cho người ta khó lòng có thể tranh cử, chứ đừng nói đến thắng cử. Hồ Chí Minh có lẽ cũng không làm hơn được.


Người muốn ứng cử phải đại diện cho một đảng lớn (tôi không phải là đảng viên của một đảng nào), hoặc phải được 40 nghị sĩ, dân biểu giới thiệu và bảo đảm. Nhưng Thiệu đã kiểm soát tất cả các dân biểu và nghị sĩ. Người ta đòi hỏi chữ ký giới thiệu và bảo đảm của 100 hội viên hội đồng tỉnh. Tôi biết là có đủ số hội viên muốn tôi ra ứng cử nhưng Thiệu lại đưa ra một đạo luật cho ông ta được quyền cách chức họ một cách độc đoán, vì thế đã đặt họ vào một địa vị khó xử.


Thiệu làm đủ điều để ngăn cản các đối thủ ra tranh cử. Nhiều nhân viên mật vụ của ông nói với tôi là có thể có đến 65 phần trăm quân đội bầu cho tôi hoặc cho ông Minh nếu có bầu cử trung thực, nhưng sau bốn năm cầm quyền Thiệu đã kiểm soát được công an, và qua công an, đã kiểm soát được nhân dân.


Trong một nước mà đảo chính đã trở thành cơm vữa, dĩ nhiên là chúng tôi có thảo luận về khả năng làm đảo chính để lật đổ Thiệu. Tôi biết rằng tôi có thể hoàn toàn tin tưởng ở không quân và đa số tướng lĩnh trong quân đội, nhưng không thể nào giữ được bí mật bởi vì những người Mỹ còn lại vẫn liên lạc chặt chẽ với các đơn vị Việt Nam. Chắc chắn họ sẽ mách Thiệu.


Nhiều tướng lĩnh khẳng định là chúng tôi không cần lính. “Chỉ cần làm sao cho các sĩ quan cao cấp nhất ký một tối hậu thư là Thiệu sẽ ra đi”, một người nói như thế.
Nhưng việc ấy không làm được. Các tướng lĩnh có thể ủng hộ một sự thay đổi chính phủ, nhưng những sĩ quan cao cấp nhất, những người làm việc cho bộ tổng tham mưu, đã được người Mỹ đến cảnh cáo là đừng cố can thiệp, đồng thời tìm cách mua chuộc một cách tế nhị. Tôi biết ít nhất co ba người ở bộ tổng tham mưu rất ghét Thiệu nhưng vào lúc mà họ biết rằng không có gì cứu nổi đất nước họ nữa, họ đã được người Mỹ tiếp xúc và hứa hẹn là nếu họ không can thiệp, thì sau này sang Mỹ họ sẽ được chu cấp cho đến mãn đời.


Bởi vì người Mỹ cần có một không khí chính trị an toàn để họ có thể rút quân về nước. Thực tế, đại tá Châu Văn Tiên, tỉnh trưởng Gia Định, gần Sài Gòn, đã đến thăm căn cứ không quân trong lúc tôi đi vắng và nói với binh sĩ: “Chúng tôi nghe đến tướng Kỳ có kế hoạch đảo chính. Nếu chuyện ấy xảy ra chúng tôi sẽ sẵn sàng đập tan. Chúng tôi có các đơn vị máy bay lên thẳng của Mỹ ủng hộ và đảo chính nhất định sẽ thất bại”.


Có điều lạ lùng là, mặc dù bộ ngoại giao Mỹ đã nói cho tôi hiểu rằng họ không chấp nhận một cuộc xung đột công khai giữa Thiệu và tôi (hay bất cứ việc gì có vẻ như một cuộc đảo chính) họ lại rất muốn tôi ra tranh cử để chống lại Thiệu. Họ nghĩ rằng việc ấy sẽ làm cho cuộc bầu cử có vẻ dân chủ hơn. Một buổi chiều, đại sứ Bunker đến nhà tôi trong căn cứ không quân và nói với tôi: “Bầu cử mà độc diễn thì không phải là tấm gương tốt cho thế giới”. Ông ta còn xung phong kiếm tiền cho tôi vận động bầu cử, chắc hẳn ông ta thừa biết tôi chẳng có hy vọng gì trúng cử, nhưng có lẽ người Mỹ nghĩ rằng nếu phải tổn phí mà tạo được một cái vỏ ngoài bầu cử tự do thì cũng đáng đồng tiền.


CIA cũng làm áp lực để tôi phải ra tranh cử, nhưng tôi trả lời họ như tôi đã trả lời đại sứ Bunker: “Không thể được. Thiệu nắm chắc quá, và nhất định sẽ không chịu để cho tôi trúng cử”. Rốt cuộc, cả Minh và tôi đều rút lui và cuộc bầu cử đã tiến hành với một tên duy nhất trên lá phiếu: tên của Thiệu.


Thế là, sau hai năm làm thủ tướng và bốn năm làm phó tổng thống, tôi “ngồi chơi xơi nước”. Tôi vẫn giữ quân hàm thiếu tướng không quân, vẫn ở căn nhà trong căn cứ không quân, và tôi thường tự mình lái máy bay riêng đi thăm binh sĩ khắp nơi trong nước để nâng cao tinh thần họ.


Quả nhiên là tôi chẳng có việc gì làm, và sau 1973 tôi hay đi đi về về đồn điền của tôi ở Khánh Dương, vì tôi có máy bay lên thẳng riêng. Ngay cả những lúc vắng mặt ở nhà trong căn cứ không quân tôi vẫn liên lạc thường xuyên với gia đình vì tôi có một đài radio dân sự truyền tin và nhận tin tốt nhất miền Nam. Khi tôi quyết định làm đồn điền, các bạn Mỹ của tôi đã ân cần nói với tôi rằng họ cảm phục quan niệm chính trị của tôi và rất buồn thấy tôi ra đi, cho nên họ ngỏ ý muốn dựng cho tôi một trung tâm truyền tin. Họ đã làm thật. Cách ly trong rừng rậm, đài của tôi mạnh đến nỗi không những tôi có thể nói chuyện với vợ con tôi ở Sài Gòn mà còn có thể nói chuyện với cả nước ngoài.


Người ta ước đoán lung tung khi biết chuyện Mỹ dựng đài cho tôi. Một anh bạn cũ đến gặp tôi trong căn cứ không quân, vào dịp tôi về Sài Gòn đã hỏi tôi: “Nhà Trắng nghĩ thế nào về tình trạng khó khăn của ta hiện nay?”.

Tôi ngạc nhiên nhìn anh ta và hỏi lại: “Làm sao tôi biết được?”.

Đến lượt anh ta ngạc nhiên trả lời: “Người ta bảo tôi là anh vẫn liên lạc thẳng với Nhà Trắng qua điện đài trong rừng của anh mà”.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #38 vào lúc: 06 Tháng Ba, 2010, 04:55:02 pm »

Khi cuộc tấn công mãnh liệt bắt đầu-và cho đến lúc bại trận-chúng tôi liên tiếp được đọc những bài phóng sự kể chuyện binh sĩ miền Nam hoang mang bỏ chạy trong kinh hoàng, bởi chung không còn quân đội Mỹ yểm trợ cho họ nữa. Đôi khi những bài phóng sự ấy đúng sự thực-cũng đúng sự thực như những chuyện xảy ra ở Pháp tháng 6 năm 1940-nhưng nó điều đáng tiếc là nếu như câu tục ngữ “không có tin tức gì là có tin vui” đúng, thì ta cũng có thể nói rằng có tin vui tức là không có tin gì.


Chỉ trích bộ binh của chúng tôi chưa đủ, người ta còn gay gắt chê bai không quân của chúng tôi là bất lực vì chưng Mỹ rút quân. Tác giả những lời chê bai này thường là những nhà báo không bao giờ chịu thực tâm tìm hiểu xem tại sao máy bay của chúng tôi lại thường nằm ở dưới đất hơn là bay lên trời. Tôi hoàn toàn bác bỏ những lời chỉ trích này mặc dù lúc đó tôi không còn là tư lệnh không quân nữa-vì thế tôi không tìm cách tự bào chữa. Chỉ trích như vậy chứng tỏ rằng người ta hoàn toàn không hiểu biết gì về tình trạng phức tạp gây ra ngay từ đầu bởi sự có mặt của quân đội Mỹ ở Việt Nam.


Những lời chỉ trích thường viết như sau: Mỹ đã để người và máy móc ở Việt Nam cho đến khi miền Nam trên thực tế trở thành một trong năm nước có không quân mạnh nhất thế giới (điều này đúng). Có thời miền Nam đã có tới trên một nghìn máy bay và năm, sáu trăm máy bay lên thẳng. Thế nhưng (các nhà phê bình bay vây) sự hiểu biết về kỹ thuật hiện đại của chúng tôi nghèo nàn đến độ chúng tôi không giữ nổi cho có một chục máy bay cùng một lúc. Người ta đã viết những câu chuyện khủng khiếp về những tiểu đoàn máy bay phải nằm trên bãi ở Sài Gòn không cất cánh được chỉ vì thiếu một cái buji hay một miếng đệm chất đông, chưa mở ra, trong những nhà kho đồ sộ ở Biên Hoà, nơi mà người Mỹ, trong một giai đoạn, đã chứa nhiều vật liệu của họ.


Lỗi lầm tai hại nhất của người Mỹ là cho rằng họ phải xây dựng không quân Việt Nam theo như hình ảnh của không quân Mỹ và có thể sử dụng không quân Việt Nam để đánh Bắc Việt cũng như đã sử dụng không quân Mỹ để đánh Đức ở Âu Châu. Đó là một triết lý mà người Mỹ không bao giờ có thể thành công ở Việt Nam mặc dù đôi khi chúng tôi đã bay tới một nghìn phi xuất mỗi ngày, thời tôi còn làm tư lệnh không quân.


Phải tìm trong lịch sử mới thấy cái lý do khiến cho quan niệm nói trên của Mỹ đưa đến thất bại không sao tránh được. Phải đi ngược tới thời kỳ Pháp rút quân và bắt đầu huấn luyện chúng tôi. Sau chiến tranh thế giới thứ hai Pháp là một nước nghèo nhưng lại luôn luôn tự hào về cái tài ứng biến của mình. Cho nên người Pháp đã bắt đầu xây dựng không quân của chúng tôi với rất ít lưng vốn. Chúng tôi đã được học tất cả những điều cần biết về vấn đề bay. Điểm quan trọng không kém là các thợ máy bảo quản cũng được học tất cả những điều cần biết về một cái máy bay. Thường thì chỉ có một thợ máy cho mỗi máy bay và anh này phải tinh tường mọi mặt, từ điều chỉnh hệ thống thuỷ động hay thay một ống dẫn dầu bị vỡ, đến tìm ra một chỗ nối điện bị hở. Và sau khi đã phân loại vấn đề thì mười lần hết chín, anh ta phải ứng biến tìm ra một giải pháp. Thời ấy chúng tôi chỉ có một ít máy bay nhưng những con người làm việc thâu đêm trong các nhà máy bay để cho những máy bay ấy có thể cất cánh được chính là những tinh hoa, rất giỏi về máy móc đáng tin cậy, cần cù và chăm chỉ.


Rồi những cố vấn Mỹ đầu tiên đến và bắt tay vào việc huấn luyện một thế hệ thợ máy mới, dựa trên những lý thuyết hoàn toàn trái ngược với lý thuyết của người Pháp dè sẻn. Chẳng bao lâu những đống đồ phụ tùng cao như núi đổ vào. Và chúng tôi tha hồ mà sử dụng.


Tôi còn nhớ mãi một anh trung sĩ chuyên viên người Mỹ, cố chấp nhưng tốt bụng, một hôm bước vào trong nhà để máy bay đã há hốc mồm khi thấy một thợ máy Việt Nam đang dùng dao díp cạo một cái buji cho sạch. Anh ta nói nửa đùa nửa thật: “Trời đất ơi! Nếu ai cũng làm như anh thì còn gì là nền kinh tế của nước Mỹ! Thôi quang nó đi, anh. Ngoài kia chúng tôi có cả triệu cái mới”.


Điều mỉa mai là lúc đó sự lãng phí ấy chắc chắn có hiệu lực hơn. Không ai có thể phủ nhận được rằng cách làm của Mỹ, nhờ có tiền bạc và những giây chuyền sản xuất, đã giữ cho máy bay luôn luôn ở trong tình trạng sẵn sàng cất cánh. Chiến tranh dù sao cũng là việc tốn tiền, nhưng thời giờ còn quý hơn tiền bạc. Trước kia, một người thợ máy do Pháp huấn luyện phải mất nhiều ngày mới tìm ra và sửa được một bộ phận hư hỏng. Một thợ máy do Mỹ huấn luyện có thể rút ngắn thời gian ấy xuống còn vài giờ bằng cách vứt bỏ luôn cả cái động cơ cũ đi và thay bằng một động cơ mới. Chỉ cần phải vặn một vài đinh ốc, kẹp một vài dây chính dẫn điện, thế là máy bay có thể lập tức cất cánh. Tuy nhiên cung cách ấy đã dựa trên sự có mặt của Mỹ lúc họ còn ở Việt Nam.


Nhưng tính ra đã 20 năm kể từ ngày những thợ máy đầu tiên do Pháp huấn luyện, chắp vá những máy bay DC3 đầu tiên của chúng tôi. Những người ấy nay đã quá già, quá cứng rắn, quá sẻn nhặt, không thích hợp với cái phương châm “nhiều là mạnh” của Mỹ. Họ cũng không được huấn luyện để sử dụng những máy bay phức tạp mà chúng tôi tiếp nhận trong giai đoạn cuối của cuộc chiến. Thay vào chỗ họ bây giờ là một loại nhân viên bảo quản mới do Mỹ huấn luyện. Những chuyên viên Việt Nam này coi khinh những người đàn ảnh tỉ mẩn của họ.


Giờ đây khi thất bại đã gần kề mới thấy rõ hậu quả. Dòng sông trước kia cuồn cuộn những đồ phụ tùng, nay không những chỉ chảy nhỏ giọt mà cuối cùng còn khô cạn trơ cả đáy. Khi quốc hội Mỹ biểu quyết “không viện trợ vũ khí nữa” thì những người bằng tài ứng biến có thể gìn giữ cho những máy bay cuối cùng của chúng tôi tiếp tục bay được đã bị lãng quên từ bao giờ. Những kẻ kế tục họ chưa từng được huấn luyện để đối phó với một tình huống như vậy. Thế hệ thợ máy có thể thay một động cơ bởi vì đó là việc làm mà người Mỹ đã dạy họ, và họ tin tưởng rằng chừng nào còn chiến tranh thì vẫn còn động cơ mới cho họ lắp vào máy bay. Nhưng bây giờ hết động cơ mới thay thế. Nếu yêu cầu họ mò mẫm những linh kiện trong một máy bay và đòi hỏi họ ứng biến, nhiều người trong số họ sẽ chẳng biết phải bắt đầu từ đâu.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #39 vào lúc: 06 Tháng Ba, 2010, 04:56:20 pm »

Chương XVI
Đại sứ Graham Martin: Mánh khoé chơi trò hai mang


Trở lại chính trường ngày 27-3-1985, tôi tung ra một tổ chức gọi là Uỷ ban cứu nguy dân tộc sau hơn 3 năm đứng ngoài chính quyền.

Tôi mở một cuộc họp báo tại câu lạc bộ sĩ quan trong căn cứ không quân, vì cảnh sát công an sẽ không dám vào đó ngăn chặn. Nhưng tình báo của Thiệu rất thính mũi đã đánh hơi thấy, và để vô hiệu hoá cuộc họp báo của tôi, hai ngày trước đó Thiệu hạ lệnh cho thủ tướng Khiêm thành lập một nội các chiến tranh, trong đó mọi người có quan điểm chống cộng đều có thể tham dự.


Cộng sản mở đầu trận tấn công ồ ạt của họ bằng một cuộc hành quân nhỏ nhưng rất có ý nghĩa, khi cho du kích đột kích một tiền đồn nhỏ trên quốc lộ 21 giữa Nha Trang và Ban Mê Thuột. Tiền đồn này là tiền đồn đầu tiên bị thất thủ, chỉ cách đồn điền của tôi ở Khánh Dương chưa đầy 40 dặm. Hôm đó tôi đang có mặt ở đồn điền, và khi được tin, tôi lập tức đi máy bay về Sài Gòn để báo cho các nhà lãnh đạo quân đội biết rằng cuộc hành quân nói trên báo trước một kế hoạch của cộng sản tấn công cao nguyên, và có thể là Ban Mê Thuột.


Lúc tướng Timmes của CIA đến gặp tôi, tôi hỏi ông ta liệu Mỹ và Thiệu có biết rằng Ban Mê Thuột đang bị đe doạ không? Cả Timmes và tướng Cao Văn Viên, tổng tham mưu trưởng, đều nói với tôi rằng họ có đầy đủ tin tức về kế hoạch đánh chiếm Ban Mê Thuột của cộng sản. Viên nói thêm là ông ta có tham dự một cuộc họp với Thiếu tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh quân đoàn II, và tướng Lê Trung Tường, tư lệnh sư đoàn 23, người bảo vệ Ban Mê Thuột, Thiệu cho Phú biết là sư đoàn 320 của cộng sản đang tiến về phía nam để tấn công Ban Mê Thuột. Phú đảm bảo với mọi người là ông ta nắm vững tình hình, còn Thiệu chỉ thị cho Phú và Tường phải tăng cường lực lượng bảo vệ Ban Mê Thuột.


Tôi thật lại những chi tiết này vì nó chứng tỏ rằng quân đội chúng tôi không hề bị bất ngờ ở Ban Mê Thuột. Người Mỹ và Thiệu đã biết được chiến lược của cộng sản cả tháng trước khi cộng sản chuyển quân. Thực ra Ban Mê Thuột thất thủ chỉ vì tướng Phú do dự. Mặc dù Thiệu ra lệnh đem thêm quân đến Ban Mê Thuột, Phú chờ một tuần sau mới thi hành. Sáu giờ trước khi cộng sản tấn công, Phú chỉ chở đến có 400 binh sĩ bằng máy bay. Nếu Phú chuẩn bị phòng thủ Ban Mê Thuột một cách nghiêm chỉnh hơn, tôi tin chắc cộng sản đã không thể chiếm được. Xét cho cùng lực lượng tấn công Ban Mê Thuột chỉ có một sư đoàn, và Ban Mê Thuột đã cầm cự nhiều ngày.


Sau khi Ban Mê Thuột thất thủ, tôi lại gặp tướng Viên một lần nữa, và đề nghị chọc thủng tuyến địch từ quốc lộ 21, gần đồn điền của tôi. Tôi tin chắc rằng nếu tập trung pháo binh và không quân, cùng với hai trung đoàn nhảy dù hay biệt động quân thiện chiến thì chỉ cần hai ngày là có thể chiếm lại Ban Mê Thuột. Tôi tình nguyện chỉ huy trận đánh này, và tướng Viên cũng đồng ý là kế hoạch của tôi có thể thực hiện được. Nhưng than ôi, nó lại bị tổng thống Thiệu bác bỏ.


Nguyên nhân chính đưa chúng tôi đến thất bại về quân sự là mối bất đồng giữa bộ tổng tham mưu và Thiệu, điều ấy không còn nghi ngờ gì nữa. Viên nói với tôi rằng ông ta rất khổ tâm vì cái lối Thiệu bác bỏ những lời khuyên và từ chối không hỏi ý kiến của bộ tổng tham mưu, rằng ông ta đã đệ đơn xin từ chức nhiều lần, nhất là sau khi Thiệu tự ý quyết định mọi việc thuyên chuyển và bổ nhiệm sĩ quan cấp tướng, Thiệu bác phắt đơn xin từ chức của Viên. Sau khi mất Ban Mê Thuột, Thiệu triệu tập một cuộc họp các tướng lĩnh ở Cam Ranh. Trong phiên họp ấy, Thiệu hạ lệnh cho tướng Phú rút khỏi Kon Tum và Pleiku, lui về phía Nam và củng cố một tuyến phòng thủ ở phía Nam Ban Mê Thuột với ý đồ chiếm lại thị trấn này. Đó là một sai lầm thê thảm. Nếu như chúng tôi đem biệt động quân cùng với xe tăng từ phía bắc Kon Tum và Pleiku xuống thì binh sĩ cộng sản chiếm đóng Ban Mê Thuột bị kẹp giữa gọng kìm rồi. Thay vào đó, lỗi lầm chiến lược của Thiệu đã biến một cuộc rút lui chiến thuật thành một cuộc tháo chạy tán loạn, và cuối cùng là sự tan rã của toàn bộ quân lực miền Nam.


Chẳng bao lâu toàn thể quân đoàn II rút khỏi cao nguyên cùng với hàng trăm ngàn người tị nạn, trong cảnh hoang mang và hỗn loạn. Cuộc bại trận cuối cùng của miền Nam Việt Nam bắt đầu.


Khi ấy tình trạng mất tin tưởng lan tràn trong quân đội chúng tôi và lây nhanh như bệnh dịch. (Việc Mỹ từ chối không viện trợ nữa làm cho nó tăng thêm). Mất cao nguyên, tướng Ngô Quang Trưởng rút lực lượng về phòng thủ Đà Nẵng. Trưởng dự định tập trung quân cố thủ một số địa điểm ở ven biển, nhưng binh sĩ không còn biết mình chiến đấu để làm gì, khi thấy các sĩ quan chỉ huy họ miệng thì kêu gọi ở lại tiếp tục chiến đấu nhưng lại chuẩn bị cho gia đình chạy trốn. Và họ cũng nhìn thấy hàng trăm nghìn thường dân bỏ chạy trong kinh hoàng. Rút cục, vùng I chiến thuật nơi có những chiến sĩ dũng cảm nhất, một sư đoàn lính thuỷ đánh bộ, một sư đoàn nhảy dù, sư đoàn I bộ binh với những lực lượng thiết giáp và không quân hùng hậu nhất của miền Nam Việt Nam đã bại trận một cách bi thảm hơn nữa. Các tướng lĩnh và sĩ quan chạy ra biển. Mặc dù Martin cố tình thao túng chặt chẽ toà đại sứ Mỹ các tin tức có đối chiếu của tôi trong những tuần cuối cùng quan trọng đến nỗi chẳng bao lâu một nhân viên của toà đại sứ đến thăm tôi đều đặn để lượm lặt tin tức. Người ấy chính là tướng Timmes của CIA. Ông ta muốn báo cáo lại với toà đại sứ những diễn biến tình hình mới nhất. Tôi vui lòng giúp đỡ ông ta. Sau một tuần đi lại vất vả vì đường đến nhà tôi luôn luôn bị các cuộc biểu tình làm tắc nghẽn, Timmes đã thu xếp bằng cách cho đặt một đường giây điện thoại riêng nối liền toà đại sứ với nhà tôi ở căn cứ không quân.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


Trang: « 1 2 3 4 5 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM