em nói thật là đôi khi em rất bực mình vì lối viết sách của 1 số người, VD như người là tác giả cuốn sách anh viết:
6. VẤN ĐỀ XÂY DỰNG VÀ SỬ DỤNG LỰC LƯỢNG
Xây dựng lực lượng là một vấn đề rất cơ bản trong chiến tranh. Có lực lượng quân sự mới có thể tiến hành chiến tranh được. Cái cơ sở, cái nguồn của lực lượng quân sự là ở nhân dân. Chiến tranh giải phóng, chiến tranh chống xâm lược là dựa vào sức mạnh của nhân dân. Các cuộc chiến tranh giải phóng và chống xâm lược của dân tộc ta ở những thế kỷ trước tuy do giai cấp phong kiến lãnh đạo nhưng cũng được nhân dân ủng hộ và tham gia, vì họ nêu được ngọn cờ độc lập dân tộc. Một cuộc chiến tranh giải phóng, chống xâm lược của một nước nhỏ chống lại một nước lớn thì điều kiện nhân dân tham gia là vô cùng quan trọng, là quyết định. Việc tổ chức và xây dựng lực lượng trong một cuộc chiến tranh như thế thường là chia ra mấy thứ quân, thường là có ba thứ quân cơ bản:
- Quân chủ lực (quân trung ương, hay quân triều đình).
- Quân địa phương (quân các lộ hay quân các vương hầu).
- Dân binh (nghĩa dũng quân hay hương binh).
Việc tổ chức các thứ quân như trên thể hiện được quy luật của việc tổ chức lực lượng vũ trang trong một cuộc chiến tranh chống xâm lược, thể hiện được bản chất của một cuộc chiến tranh có tính chất nhân dân. Đội quân tập trung đặt dưới sự chỉ huy của cơ quan chỉ huy tối cao, cơ động tác chiến trên phạm vi cả nước là đội quân chủ lực. Ở từng khu vực, có lực lượng vũ trang của các lãnh tụ địa phương. Ở từng thôn, xã thì nhân dân đứng dậy đánh địch. Đó là lực lượng vũ trang rộng rãi trong nhân dân.
Trong cuộc chiến tranh đời nhà Trần, khi quân triều đình rút lui, xoay chuyển thế trận, thì quân các lộ và hương binh đánh địch ở các nơi, cả miền núi và miền xuôi cùng nhân dân làm nhà không vườn trống. Do đó đã làm cho địch bị tiêu hao, mệt mỏi, không vơ vét được lương thực, của cải làm cho quân lính địch tinh thần chán nản. Tình hình này tạo điều kiện thuận lợi cho quân chủ lực và tất cả các lực lượng vũ trang tiêu diệt địch.
Trong cuộc chiến tranh của nghĩa quân Lam Sơn, nhân dân nhiều nơi đã hưởng ứng với nghĩa quân nổi dậy đánh địch bằng cách này cách khác. Khi quân chủ lực của nghĩa quân đến đánh địch ở đâu thì quân các lộ và nghĩa dũng quân đều có phối hợp, hiệp đồng tác chiến. Số lượng quân chủ lực của nghĩa quân không nhiều. Các đạo quân chủ lực đi tác chiến ở các hướng so với địch thì rất ít. Nhưng do cơ sự phối hợp, hiệp đồng của quân địa phương và dân binh nên nghĩa quân vẫn có đủ sức mạnh để đánh địch, giành được thắng lợi rực rỡ.
Nguyễn Trãi đã nói đại ý là nghĩa quân Lam Sơn có quân tinh nhuệ, quân các lộ và quân nghĩa dũng. Thời cổ cũng đã có câu: "Ngụ binh ư nông" và câu: "Vừa cày ruộng, vừa đánh giặc". Do tổ chức được các thứ quân như thế, tổ chức được lực lượng vũ trang rộng rãi như thế, nên sức mạnh của chiến tranh được nhân lên gấp bội, đánh địch được khắp mọi nơi, dàn được thế trận trong cả nước, đưa địch vào một vòng vây trùng điệp. Tổ chức được các lực lượng quân sự, các thứ quân như trên thì có một sức mạnh rất lớn, có một nguồn vô tận.
Cuộc chiến tranh nghệ thuật của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong thời đại Hồ Chí Minh, đã thể hiện được cao nhất, toàn diện nhất về ý nghĩa và tính chất này.
đây là 1 tác phẩm nghiên cứu chiến tranh, ko phải là 1 bài diễn văn tuyên truyền về liên minh công nông binh. Đọc vào đoạn trích này, mô tả bản chất, cách thực hiện "ngụ binh ư nông" thì ít, mà ca ngợi chiến tranh nhân dân thì nhiều, đọc xong vẫn ko hiểu được cái cần hiểu về ngụ binh ư nông.
Quân lính, bất kể là cấm vệ, quân địa phương hay dân binh đều là từ dân mà ra, cái đó là đương nhiên rồi, ko lẽ có lính nào từ trên trời rơi xuống? Quân Vương Hầu bản chất cũng là nô lệ, nhân dân bị bán làm nô lệ đấy thôi. Nhưng tuy cùng là nhân dân mà ra, mức độ vũ trang, luyện tập của từng loại quân thế nào, cái quan trọng đó thì ko nói tới, viết dài dòng cả tràng giang đại hải mà ko đề cập đến chỗ đó thì có ích gì?
Quay lại cơ chế quân đội thời Lý - Trần, ông cha ta có 3 loại:
- quân cấm vệ
- quân địa phương
- dân binh
trong đó cấm vệ là lính tuyển ( từ dân, 1 số là con em quan lại, quý tộc) và thường trực bảo vệ kinh đô cùng 1 số vị trí hành chính quan trọng trên cả nước. Lương và trang bị của họ đều do nhà nước cung cấp, được huấn luyện thường xuyên, cái này không phải bàn nhiều. Tóm gọn, Cấm vệ quân là quân chuyên nghiệp.
Thứ 2, dân binh. Dân binh ko được nhà nước trả lương, trang bị hay luyện tập, họ phải tự lo tất cả. Đại để giặc đến làng ai người đó vác cuốc ra chiến đấu. Đây là lực lượng trang bị, huấn luyện nghèo nàn nhất và có phần hơi độc lập so với 2 loại quân kia chịu sự điều động của nhà nước. So sánh thì đại để gọi họ là dân bị bắt đi lính bên châu Âu vậy ( tuy cách nói này ko đúng lắm, nhưng về bản chất trình độ, trang bị thì đúng là 2 lực lượng này ngang nhau)
Thứ 3, quân địa phương. Quân địa phương cũng là thành phần chịu sự điều động của triều đình, và đây cũng là lực lượng bị miêu tả lùng bùng nhất, đôi khi em có cảm giác những người viết hay đánh đồng họ vào dân binh, có lúc lại tách ra, đọc 1 hồi rối mù chẳng còn hiểu mình đang đọc về quân địa phương hay dân quân nữa. Tóm gọn là quân địa phương cũng là những người chịu chính sách "ngụ binh ư nông", toàn bộ lực lượng họ chia ra nhiều phiên, hết phiên về cày ruộng, đến phiên lại lên canh gác, tuần tiễu. Trong thời gian trực phiên canh thì họ được trang bị vật dụng rồi trả lương bù cho thu nhập ở nhà của họ trong thời gian đó. Khi có chiến tranh, nhà nước có thể mau chóng tổng động viên tất cả họ vào quân đội. Vây rốt cuộc họ là dân đinh bị bắt đi canh gác, hay là lính tuyển mộ chia phiên nhau đi canh gác, tuần tiễu theo chính sách "ngụ binh ư nông"? Quân địa phương và dân binh là 1 nhưng được triều đình sử dụng theo 2 cách khác nhau, hay họ là 2 thành phần được huấn luyện, trang bị với mức độ khác nhau ( quân địa phương là quân, dân binh là dân)?
Phan Huy CHú: " đại để, người trúng tuyển thì sung vào quân ngũ, người hạng kém thì biên vào sổ, có việc mới gọi ra, niên hạn lâu mau có lẽ ko nhất định.". Rõ ràng theo ông, quân và dân tách biệt rõ ràng, ko hề nhập 1. Và quân là
tuyển chứ ko phải cứ đến kỳ bắt dân đi, chỉ đến khi quân ko đáp ứng đủ nhu cầu nữa thì mới chiếu sổ gọi thêm dân đinh đi, "niên hạn lâu mau có lẽ ko nhất định." bởi vì ông đang đề cập trường hợp " có việc" là chiến tranh, chứ ko phải là " đến phiên canh".
Thế nên em từ đầu mới hỏi rốt cuộc chính sách ngụ binh ư nông được áp dụng cho ai?
1. Dân đinh cả nước, mỗi năm nhà nước trưng thu lấy 1 số lượng dân đinh nhất định đi canh gác, tuần tiễu và trong phiên canh ấy sẽ trả lương cho số dân này để bù khoảng thu nhập của họ trong thời gian đó. Nếu nghĩ thế này thì ngụ binh ư nông như 1 hình thức đi phu hơn ( thế sao ko gọi là đi phu lính mà lai gọi là ngụ binh ư nông, rồi chia phiên,....)
2. Đây là những binh lính được tuyển mộ trong các kỳ thi, nhưng thay vì giữ tất cả họ trong quân ngũ thì người ta lại chia họ ra thành nhiều phiên khác nhau, ai tới phiên thì đi nhận vật dụng để bắt đầu canh gác, tuần tiễu, ai chưa tới phiên thì ở nhà cày ruộng, đến phiên mình thì đi, cứ thế mà thay nhau. Thời bình làm thế này, nhà nước chỉ phải trả lương cho 1 phần mấy số quân thực sự, còn trong thời chiến thì có thể tập trung 1 lượng quân lớn được ngay.
Rốt cuộc ngụ binh ư nông được áp dụng cho loại nào trong 2 loại trên.
Cứ suốt ngày chiến tranh nhân dân, toàn dân toàn dân rồi 1 hồi nhập 2 - 3 loại quân vào 1 thì chết cha. Có quân nào ko tuyển hay bắt từ dân mà ra? Diễn giải 1 hồi người đọc cứ đinh ninh cha ông ta xưa nay toàn 1 lũ dân binh bị bắt lính hay tự vũ trang, ko hề có luyện tập, tóm lại là ô hợp. Trên cái wiki về chống Mông Nguyên, tên viết bình rằng " Trần Hưng Đạo lãnh đạo đội quân trang bị nghèo nàn" kia kìa.