Welcome on board
Em cũng nghĩ ít khả năng B52 cố tình ném bom trực tiếp vào trung tâm thị xã, nhưng theo bác có trường hợp đạn lạc không? Nếu số lượng thường dân và thương binh kẹt tại thị xã quá lớn như vậy (nhiều ngàn người) thì bên VNCH có thương lượng với QGP để mở đường cho dân tản cư và chuyển thương binh đi không?
Bác có ý kiến gì về số lượng xe tăng QGP bị hạ trong trận này, cụ thể theo quan sát cá nhân của bác thì khoảng bao nhiêu chiếc bị hạ?
Vào khoảng cuối tháng 4/72 (không nhớ rõ ngày chính xác), thì T54 kéo vào từ hướng Lộc Ninh, đi ngang qua công viên (nếu không nhớ lầm là công viên Tao Phùng), và chạy dọc theo đường Trần hưng Đạo (đường Trần hưng Đạo chạy thẳng lên đồi Gió). Khoảng nửa đêm, tôi được người lính gác đánh thức dậy để báo cho biết là có T54 vào thành phố. Khi tôi chạy ra ban công (lúc đó tôi nằm trên tầng 3 của một toà nhà), thì thấy những chiếc xe T54 theo đội hình hàng dọc di chuyển vào thành phố. Súng đại bác trên những chiếc xe T54 này được chĩa thẳng 45 độ lên trời, không có một dấu hiệu gì gọi là đã đi lọt vào trong thành phố mà dọc theo bên đường toàn là lính "địch". Sau đó, những chiếc xe T54 này ngừng lại, và tôi có thể nhận thấy những người lính trong xe (lái xe và cả pháo thủ) leo lên ngồi trên mui xe khui đồ hộp ăn uống. Dĩ nhiên, với đội hình không sẵn sàng tác chiến như thế, những chiếc xe T54 này là mồi ngon cho M72 được bắn trực xạ từ bên hông, mà những người bắn lại có toàn thời gian ngồi ngắm. Theo tin tức của sáng ngày hôm sau, tất cả có 42 chiếc T54 bị bắn cháy. Con số 42 là nghe tin tức. Còn chính mắt tôi thấy, tại phòng tuyến của đơn vị tôi, dọc theo đường Trần Hưng Đạo, thì có 12 chiếc bị bắn cháy. Cũng theo lời khai của tù binh (khi xe cháy, nhảy ra bị bắt), thì toàn đơn vị thiết giáp đó không hề biết là đã đi lọt vào trong tuyến phòng thủ của quân đội miền Nam. Đây là những lời khai hoàn toàn có lý. Vì không có lý do nào đi vào tuyến "địch", mà súng đại bác trên xe lại giương thẳng 45 độ lên trời như vậy.
Chuyện đi “nhầm đường cũng hoàn toàn có lý. Vì thành phố có nhiều đường dọc ngang chi chít, nhưng hoàn toàn tối mịt mù, trên trời thì đặc mây mù nhân tạo (máy bay Mỹ thả một loại hơi hóa học phủ kín bầu trời như mây để C-130 có thể thả dù tiếp tế), và xe tăng thì lại được lệnh không mở đèn, chỉ cần đi chệch một con đường thôi, thì thay vì vào tuyến ta, lại đi qua tuyến địch là chuyện có thể xảy ra.
Ngoài ra, còn mắt thần C-130. Những đêm nằm ở An-Lộc, có những chuyến bay C-130 của Mỹ bay ù ù ở trên. Những chiếc C-130 đó đã được cải tiến: trên máy bay có 1 khẩu 105 ly không giật, với đầu đạn “thông minh” được điều khiển bằng tia laser. Tia laser được hổ trở bằng một thiết bị tìm xe tăng qua hơi nóng (bốc ra từ máy xe). Khi tìm thấy một xe tăng, thì tia laser được chiếu thẳng xuống xe (dĩ nhiên là mắt thường không thấy tia laser này), và xạ thủ trên C-130 chỉ chĩa nòng 105 ly không giật theo tia laser để bắn. Phải nói là trăm phát không trật một. Con số xe tăng bị bắn cháy bởi C-130 dĩ nhiên cũng không kiểm chứng được, vì bắn ngoài vòng đai phòng thủ khá xa.
Tuy nhiên, sau “kinh nghiệm” của đêm hôm đó, và chắc chắn rằng theo “kinh nghiệm” của những chiếc tăng bị bắn hạ bởi mắt thần C-130, thì những chiếc T54 đã tìm được phương án đối phó bằng cách húc sập tường sau của những căn nhà đúc 2,3 tầng ở phía bên đường đã chiếm được. Từ trong những căn nhà đúc đó, T54 không còn sợ mắt thần nữa. Súng đại bác được hạ nòng bắn trực xạ qua bên đây đường. Đêm 13 tháng 5, là đêm mà đơn vị tôi bị thiệt hại nặng nề nhất vì những họng súng trực xạ này. Tấn công qua thì không được, mà nằm một chỗ cũng không ổn.
Thú thật, với nhận xét của riêng tôi thôi, thì An lộc vào trong tháng 5, 6 (và có lẽ kể những tháng sau này), có thể dễ dàng bị quân đội miền Bắc chiếm bất cứ lúc nào nếu muốn. Nhưng không hiểu tại sao lại không đánh vào, mà chỉ bám sát và vờn ở mặt ngoài, sau đó, lại mở rộng vòng vây ra. Nếu nói là “công đồn đả viện” thì cũng không đúng. Vì sự thật, số quân tăng viện từ Lai Khê lên cũng không có bao nhiêu, mà lại bị cầm chân tại chỗ không xa Lai Khê mấy. Theo tôi, thì lý do này có thể giải thích như sau: Chiếm An Lộc không có lợi gì cả, mà bao vây mới là có lợi, đặc biệt là có lợi thế trên bàn hòa đàm Ba lê. Nếu chiếm mất An Lộc, cũng chỉ có thêm 2km2 tường đổ nát, mà lại làm mồi cho B52, và quân đội miền Nam lại không phải dồn quân về để cố gắng giải toả, cũng như không còn phải nhờ đến quân đội Mỹ cho những chuyến bay tiếp tế. Mà hễ còn phải nhờ đến thằng Mỹ, thì nó lại ép phải ký vào hiệp định Ba lê sớm sớm cho nó có lý do rút khỏi Việt Nam sớm hơn.
Thương binh thì chết hết thôi, vì không có thuốc men, cũng không có đủ bác sĩ/y tá để thay băng. Bị thương đùi cũng chết, mà lủng ruột cũng chết. Căn hầm nhà thương bốc mùi hôi thối. Có thương binh nằm trong hầm chết cả ngày sau mới phát hiện ra. Đại đội tôi, khi nhảy xuống An lộc, gồm có 242 người. Tháng 5/72, được bổ xung thêm 200 tân binh. Cuối tháng 6, khi được trực thăng bốc ra khỏi An Lộc, còn đúng 24 người. Tất cả số còn lại đều đã chết.
Cũng không có chuyện “bắt tay” để tải thương binh hoặc dân chúng. Dân ở An lộc, ngoại trừ một số rất ít không chịu di tản, đại đa số đều đã di tản theo 3 đợt như sau: 1) Đợt đầu tiên, khi vòng bao vây chưa bị thắt chặt, đa số những người có tiền (thương gia) và có thân nhân ở Sài gòn đều đưa gia đình đi hết. 2.) Đợt hai, khi một trung đoàn bộ binh mở đường từ Lai Khê vào gần đến An Lộc (có thể thấy mặt được, nhưng chưa bắt tay), thì có một số lớn thường dân liều chết chạy theo quốc lộ về hướng của trung đoàn bộ binh đó (không hiểu họ có về tới Lai Khê bình yên không). 3) Và đợt 3 nằm trong tháng sáu, sau khi quân đội miền Bắc tự động nới rộng vòng vây, thì trực thăng đã đáp xuống, bay luồn theo những cánh rừng cao su để chở họ di tản. Và mỗi chuyến trực thăng đáp xuống/bay lên, đều là những chuyến bay giỡn mặt với tử thần.