3/ ta định chiếm An lộc nhưng thời cơ đã mất, khi địch thiết lập hệ thống phòng thủ chặt chẽ. trong trận này lực lượng chủ yếucủa ta là tăng thì bị bắn cháy nhiều . dẫn đến trận đánh không thành.
Đây là hạn chế của các đơn vị khi tham gia vào trận đánh đô thị khi từng người lính chưa được rèn luyện đánh trong đô thị. điều này thực tế đã chứng minh ở ngày đầu toàn quốc kháng chiến 1946. tại thủ đô Hà nội , rõ ràng là trang bị hoả lực mạnh hơn rất nhiều, nhưng quân Pháp vẫn phải mất thời gian dài để đánh chiếm liên khu 1 của ta, ta chỉ có yếu tố tinh thần và thông thuộc địa hình, lợi dụng địa hình tốt. và liên hệ tới thời điểm đó, với trang bị của quân VNCH thì việc cố thủ An lộc, gây thiệt hại nặng cho quân ta là điều dễ hiểu.
nếu chỉ xét đến đây , ta rút thì địch phòng ngự thắng lợi. nhưng khi ta tổ chức thế trận đánh địch vòng ngoài , lực lượng là sư 7 , thì kết cục chung lại khác. địch cố gắng giải toả An lộc, đem lực lượng lên càng nhiều vào các trận đánh với sư 7 , thiệt hại nặng , nhưng vẫn cố đánh thì kết cục chung lại nghiêng về ta. với các trận đánh giải toả thất bại, bị thiệt hại nhiều. điều khó nhìn nhận là, việc tổ chức đánh địch vòng ngoài là diễn ra với một quy mô ngoài kế hoạch của ta. bởi khi đánh An lộc, lượng lượng chặn vịện là ít. nhưng khi đánh An lộc thiệt hại nhiều, ta tổ chức đánh địch vòng ngoài, hút được lực lượng địch vào vị trí và cách đánh sở trường của ta thì ta lại thắng. tôi không dám rút ra kết luận gì.. chỉ đưa ý kiến của mình ..mong bạn cho ý kiến
Để góp phần làm sáng rõ việc này, tôi xin trích dẫn một đoạn trong hồi ký của thiếu tướng Huỳnh Công Thân "Ở Chiến Trường Long An":
... Ở Bộ Tham Mưu miền, tôi được biết về kế hoạch tổng thể của cuộc tiến công chiến lược năm 1972. Trên phạm vi chiến trường Nam Bộ sẽ có hai khu vực chiến dịch quan trọng là Lộc Ninh - đường số 13 và Kiến Tường - Khu 8. Hai chiến dịch sẽ diễn ra kế tiếp nhau.
Tôi được phân công theo dõi và giúp đỡ sư đoàn 5 chiến đấu trên hướng Lộc Ninh - trong chiến dịch Nguyễn Huệ. Có lẽ các anh trên Miền muốn tạo điều kiện cho tôi tiếp xúc làm quen với chỉ huy bộ đội chủ lực và tác chiến chính quy. Đó cũng là điều tôi mong muốn.
Giai đoạn đầu của chiến dịch Nguyễn Huệ diễn ra rất sôi nổi và nhịp nhàng. Sư đoàn 5 vây lấn đánh thiệt hại nặng một chiến đoàn của sư đoàn 5 ngụy và chi khu Lộc Ninh trong một căn cứ lớn có sân bay dã chiến. Đến khi một trong đoàn của sư đoàn 9 tiêu diệt được trung đoàn 1 thiết giáp ngụy ở Lộc tấn thì bộ đội sư đoàn 5 có xe tăng dẫn đầu đánh chiếm chi khu và căn cứ chiến đoàn ở Lộc Ninh. Cùng thời gian, sư đoàn 7 ta bao vây bức rút một chiến đoàn khác của sư đoàn 5 ngụy ở căn cứ Đồng Tâm, nằm giữa Lộc Ninh và Bình Long. Lực lượng đặc công Miền cũng đánh chiếm và đang giữ sân bây Téc Ních nằm ngay sát phía đông thị xã An Lộc. An Lộc hoàn toàn bỏ ngỏ cả ba mặt, chỉ còn mặt phía nam dựa vào trục lộ 13 nối với Chơn Thành, Bến Cát, Sài Gòn.
Ngay sau khi sư đoàn 5 ta đánh chiếm Lộc Ninh, chúng tôi vội trở về Bộ chỉ huy Miền để kịp đi cánh khác, vì nghĩ rằng chiến dịch sẽ phát triển xuống hướng nam do thời cơ đang thuận lợi. Nhưng không hiểu sao ta chưa tiến công An Lộc ngay? Sau đó, địch lên phía bắc, phá cầu Cần Lê, đồng thời tăng viện nhanh cho An Lộc. Đế khi ta tiến công thị xã này thì địch đã có đủ quân để chống đỡ. Lúc đó trận địa chốt chặn của sư đoàn 7 ở cống Tàu Ô trên đường 13 (nam An Lộc) trở nên hết sức căng thẳng và ác liệt. Lực lượng địch tăng viện cho An Lộc ngày một tăng nên khả năng đánh An Lộc lần thứ hai của ta càng khó khăn hơn.
Trước tình hình đó, Bộ chỉ huy Miền điều trung đoàn 271 tiến công xuống hướng Long An để có thể kéo bớt lực lượng địch ở An Lộc - đường số 13 xuống đó. Tôi là dân Long An, thông thạo chiến trường này nên được điều đi với 271. Chúng tôi bắt đầu tiến công từ An Ninh, Lộc Giang xuống hướng Hòa KHánh. Nhưng sức chiến đấu của 271 còn hạn chế, nên chúng tôi không xuống sâu hơn được. Tác dụng của mũi tiến công này cũng không đủ sức kéo quân địch ra khỏi An Lộc - đường số 13. Trong khi trung đoàn 271 tiến công thì Long An thực hiện kế hoạch "chồm lên" và đưa hai tiểu đoàn tiến công xuống nam lộ số 4 nhưng hiệu quả không cao.
Quân ta tiến công An Lộc lần thứ hai không thành công. Lúc đó Nam bộ đã gần vào mùa mưa, chiến dịch tổng hợp ở Khu 8 không thể chậm hơn được nữa mà sư đoàn 5, lực lượng chính của chiến dịch vẫn còn ở mặt trận An Lộc.
Sau này khi có dịp trao đổi với nhau về chiến dịch Nguyễn Huệ, tôi và nhiều người cho rằng nếu sau khi đánh chiếm Lộc Ninh, ta tận dụng các lợi thế đã tạo ra mà tiến công An Lộc thật nhanh thì có thể đánh chiếm được thị xã này. Tất nhiên, trong tương quan chiến lược lúc đó ta có thể không giữ được lâu. Giả dịnh này hoàn toàn có cơ sở vì cự ly từ Lộc Ninh xuống An Lộc chỉ có 25km và một cây cầu địch chưa kịp phá. Đoạn đường số 13 này hoàn toàn bỏ trống vì địch ở Đồng Tâm đã bỏ chạy. Với cự ly ấy, ta hành quân bằng cơ giới thì chỉ cần một đêm là chiếm được cầu Cần Lê và tiếp cận được phía bắc An Lộc. Địa hình phía bắc An Lộc cao nên từ trên đánh xuống sẽ thuận lợi hơn nhiều so với hướng tây và đông vì hai hướng này ta đều phải từ dưới thấp đánh lên. Ở hướng đông có một con suối rất sâu, có thành dựng đứng, bộ binh vượt qua cũng khó khăn.
Tất nhiên, nếu ta chưa tiến công sẽ có thời gian để chuẩn bị thêm cho chu đáo. Nhưng trong cùng thời gian ấy, quân địch có lợi thế hơn về công tác chuẩn bị đối phó vì chúng có các phương tiện hiện đại, nên cuối cùng vì tương quan lực lượng lại nghiên về phía có lợi cho địch, kể cả về mặt tinh tần và tâm lý. Trong quân sự, thời cơ xuất hiện bất ngờ và qua đi rất nhanh. Muốn bắt kịp nó, ta phải chấp nhận một cái giá nào đó. Ví dụ, trận tập kích của đội 1 Long An diệt tiểu đoàn chủ lực đầu tiên của địch ở cầu Láng Ven năm 1964, chúng tôi phải chấp nhận cho bộ đội đánh trong tình trạng sức khỏe không thật tốt, công tác điều nghiên không thật kỹ. Nhưng nếu đòi hỏi hai vấn đề này hoàn chỉnh thì thời cơ lại qua mất.
Tôi cho rằng thời cơ đánh An Lộc chỉ xuất hiện trong vòng từ một đến hai ngày sau khi ta đánh chiếm Lộc Ninh, Téc Ních và Đồng Tâm. Cho đến khi địch phá cầu Cần Lê và lính dù chiếm núi Gió thì không còn thời cơ tốt để đánh nữa.
Qua chiến dịch Nguyễn Huệ tôi rút được một điều: dù nắm quân nhiều hay ít, dù chủ lực hay địa phương, vấn đề cơ động nhanh vẫn là quan trọng nhất trong việc giữ quyền chủ động chiến trường và nắm thời cơ diệt địch; không phải cứ có xe tăng, pháo lớn là muốn đánh lúc nào cũng được."