chiangshan
Thành viên
Bài viết: 3405
No sacrifice, no victory
|
|
« Trả lời #222 vào lúc: 02 Tháng Năm, 2010, 11:00:23 pm » |
|
Hôm nay em đã phải ra Bảo Tàng Quân Đội để sờ tận tay vào cái Trực Thăng CH-47 và thấy rằng nó không thể chở được 200 con người chứ đừng nói gì đến chuyện 200 Quân nhân lại còn cộng thêm vũ khí & trang bị khi tham gia chiến đấu thông thường như 7 ngày ăn, súng, đạn... vv Mời các Bác xem chi tiết tại đây: http://vitinfo.com.vn/MMuctin/Xahoi/CTXH/LA76176/default.htmlNói trộm vía thì CH-47 chắc chắn chở được 200... Lạc đề tí, link gốc (website ĐCS) thì viết đúng là Nguyễn Thành Trung lái F-5E ném bom dinh Độc Lập ngày 8/4/75, sang đến vitinfo lại thành A-37, thế là làm sao??? Chống lạc đề: Đại đội Tăng 6 (Tiểu đoàn Tăng 20) và Đại đội Cao xạ tự hành 52 được lệnh phối hợp với các đại đội, tiểu đoàn bộ binh thuộc Trung đoàn 2 (Sư đoàn 5) tiến công trên hướng chính vào An Lộc.
Ngày 13 tháng 4, Đại đội Tăng 6 chia thành hai mũi hiệp đồng với bộ binh đánh chiếm sân bay An Lộc và điểm cao 128 phía bắc thị xã, bám đuổi theo địch co cụm vào thị xã chiếm được khu trường học, khu dinh tỉnh trưởng.
Trong trận tiến công sân bay và diềm cao 128, Đại đội Tăng 6 và Đại đội Cao xạ 52 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, phát huy được sức đột phá nhanh, mạnh, hiệp đồng chặt chẽ với bộ binh diệt gần một tiểu đoàn địch. Thừa thắng Trung đoàn Bộ binh 2 quyết định đưa Đại đội Tăng 6 và bộ binh phát triển tiến công vào thị xã An Lộc bằng hai mũi với tốc độ cao. Tuy nhiên, do thông tin liên lạc từ Sư đoàn 5 đến Sở Chỉ huy Trung đoàn Bộ binh 2 không thông suốt, trận đánh phát triển ngoài dự kiến, tổ chức chỉ huy hiệp đồng thiếu chặt chẽ, cách đánh không phù hợp, nên khi thấy xe tăng ta dẫn dắt bộ binh đánh vào thị xã, địch không dám chống cự, lui vào các ngõ hẻm lẩn tránh và dùng không quân, pháo binh ngăn chặn quyết liệt làm cho bộ binh tách khỏi đội hình xe tăng. Khiến cho đội hình xe tăng Quân Giải phóng càng phát triển sâu vào trong thị xã càng đơn độc. Địch đã phát hiện và tận dụng sơ hở dó của ta để tổ chức phản kích. Đại đội Tăng 6 bị địch bắn cháy bảy trong tổng số tám xe trong thị xã An Lộc (trừ một xe của đại đội trưởng và hai xe bị sa lầy ở ngoài thị xã).
Qua trận này, cán bộ chỉ huy binh chủng hợp thành rút được kinh nghiệm: phải nắm chắc diễn biến tình hình phát triển chiến đấu của lực lượng tiến công để tổ chức, chỉ huy, xử lý kịp thời, tránh để lực lượng đi đầu chiến đấuđơn dốc. Hành động của các phân đội tăng và bộ binh ta rất dũng cảm, táo bạo nhưng lực lượng không đủ mạnh, nên không giành được thắng lợi.
Ngày 14 tháng 4, địch đổ bộ một tiểu đoàn dù xuống Núi Gió. Ngày 15 tháng 4, Đại đội Tăng 8 sử dụng chín xe T54 và hai xe cao xạ tự hành tiếp tục tiến công thị xã An Lộc lần thứ 2 từ hướng bắc, tuy cùng bộ binh chiếm được phần lớn khu dân sự, nhưng không đủ sức phát triển, ta tổn thất năm xe.
Từ ngày 16 đến 18 tháng 4, địch lại đổ thêm quân của lữ đoàn dù số 1 xuống khu vực Núi Gió. Tuy bị ta chặn đánh kịch liệt, địch vẫn tiến được vào thị xã và liên tục phản kích lại quân ta.
Ngày 18 tháng 4, Đại đội Tăng 6 sử dụng ba xe tăng lại cùng bộ binh đánh vào thị xã lần thứ 3, tiến gần đến sở chỉ huy sư đoàn 5 ngụy thì bị chặn lại. Trận đánh cũng không đạt kết quả, ta tổn thất hai xe.
Sau khi lữ dù ngụy đổ quân xuống khu vực Núi Gió, một bộ phận lớn quân địch tiến được vào thị xã An Lộc. Núi Gió chỉ còn lại một tiểu đoàn dù và sở chỉ huy nhẹ của lữ dù. Hàng ngày, pháo ta liên tục nã đạn vào đầu địch, dốt cháy một kho đạn và làm tê liệt sáu khẩu pháo địch. Lính địch bị thương, không chuyển đi được càng gây cho chúng không khí hoang mang, sợ hãi.
Khu vực Núi Gió là một dãy ba điểm cao liên tiếp: 150, 169 và một ngọn đồi không tên, nằm về phía đông nam thị xã An Lộc chừng ba ki-lô-mét cố nhiều đường nối liền với An Lộc.
Trung đoàn Bộ binh 1 (của Sư đoàn 5), được tăng cường Đại đội Tăng 10 (thiếu) và lực lượng một số đơn vị khác nhận nhiệm vụ tiến công quân địch ở Núi Gió. Quân ta tiến công trên 3 hướng. Đại đội Tăng 10 trực tiếp hiệp đồng với Tiểu đoàn Bộ binh 2, tiến công tiêu diệt địch trên điểm cao 150. Tiểu đoàn Bộ binh 1 từ hướng dông đánh vào trận địa pháo ở Yên Ngựa. Tiểu đoàn 3 làm lực lượng dự bị của trung đoàn.
Tham gia trận đánh Núi Gió có ba xe tăng của Đại đội Tăng 10. Mỗi xe tăng có một số bộ binh ngồi trên xe. Sau khi pháo ta bắn dồn dập vào Núi Gió, 4 giờ sáng ngày 20 tháng 4, xe tăng ta xuất kích. Do rừng le dày đặc nên xe tăng và bộ binh phải đì theo hàng dọc, tiến chậm và không quan sát được, đồng chí Huỳnh Cừu - trợ lý tác chiến Sở chỉ huy tiền phương cơ giới Miền phải xuống xe cầm đèn pin có một lỗ nhỏ chiếu sáng, chạy trước xe để dẫn đường cho xe tăng lên điểm cao không tên. Khi tiến đánh cao điểm 169, chiếc tăng đi đầu và chiếc tăng thứ ba bị đội bụng không tiến lên được, phải dừng lại và dùng hỏa lực chi viện cho xe thứ 2 vượt lên dẫn đầu và chi viện cho bộ binh xung phong đánh từng cụm quân địch, khiến chúng hoảng sợ, tháo chạy. Sau một giờ chiến đấu ta đã đánh chiếm toàn bộ khu vực Núi Gió. Bộ binh tiếp tục truy lùng tàn quân địch, bắt được 200 tên, thu bốn khẩu pháo.
Trận đánh thắng quân địch vừa đổ bộ xuống Núi Gió của Trung đoàn Bộ binh 1 có xe tăng phối hợp đã thực hiện được ý định chiến đấu của cấp trên và tiêu diệt một bộ phận sinh lực Lữ dù 1; chiếm lại Núi Gió, một vị trí quan trọng để tạo bàn đạp cho chủ lực tiến công thị xã An Lộc.
Ngày 11 tháng 5, hai tiểu đoàn Tăng 20 và 21 (lực lượng dự bị của trận đánh) gồm 25 xe tăng, thiết giáp, được phối thuộc cho Sư đoàn Bộ binh 9 và Trung đoàn 2 thuộc Sư đoàn Bộ binh 5 tiến công An Lộc lần thứ 4. Đây là đợt đột phá có số lượng xe tăng và bộ binh nhiều hơn ba lần trước, nhưng vẫn không dứt điểm được mục tiêu thị xã An Lộc, bởi lý do: địch đã được bổ sung quân số trang bị, vừa điều chỉnh biện pháp đối phó với ta, lại được không quân chi viện tối đa. Về ta, phần lớn cán bộ, chiến sĩ xe tăng vừa từ miền Bắc vào, chưa có kinh nghiệm chiến đấu trong lòng thị xã, cộng thêm thiếu sót trong công tác chuẩn bị chiến trường chưa kỹ; xe tăng và bộ binh chưa có điều kiện hợp luyện và chưa có kinh nghiệm chiến đấu hợp đồng binh chủng, nhất là chiến đấu trong thành phố thị xã. Mặt khác, tổn thất sau ba lần đột phá không thành công đã tác động lên tâm lý của cán bộ, chiến sĩ, kể cả xe tăng và bộ binh; yếu tố bí mật bất ngờ không còn và nghệ thuật sử dụng tăng - thiết giáp, cũng như cách đánh của bộ binh và xe tăng vào thị xã như ở An Lộc đều là bài học phải trả bằng máu xương cho người chỉ huy binh chủng hợp thành. Tuy nhiên, tiến công vào một vị trí như An Lộc, nếu không hiệp đồng một cách chặt chẽ thì không đảm bảo chắc thắng, vì đánh trong thị xã, việc cơ động của xe tăng khó khăn, nếu không có bộ binh bánh sát yểm hộ dẫn dắt thì dễ bị địch lén lút, ẩn nấp tiến công cả ở phía trước lăn phía sau.
Tuy chưa giải phóng được thị xã An Lộc, nhưng ta đã diệt được nhiều đơn vị quân tiếp viện ứng cứu của địch và diệt một số cứ điểm, mở rộng vùng giải phóng dọc theo quốc lộ 13. Riêng với lực lượng Tăng - Thiết giáp Quân Giải phóng, ở Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ, An Lộc luôn gợi nhớ đến sự hy sinh, tổn thất lớn của những ngày đầu xuất trận: qua bốn lần tiến công vào thị xã An Lộc, ta tổn thất 29 xe và trận tiến công thứ tư, tổn thất tới 15 xe. Đoạt được một xe tăng địch đã là khó, nay mất đi 29 xe quả là đau xót và khó chấp nhận. Đó là tâm trạng chung của cán bộ, chiến sĩ Tăng - Thiết giáp B2 sau trận An Lộc của mùa hè đỏ lửa 1972.
|