Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 03 Tháng Mười, 2023, 08:42:25 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Chiến thắng Tây Bắc 1952 - Tầm nhìn chiến lược của Đảng và bài học lịch s  (Đọc 362 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1704



« Trả lời #10 vào lúc: 28 Tháng Tám, 2023, 09:16:11 am »

TÂY BẮC QUA GÓC NHÌN ĐỊA - CHÍNH TRỊ, ĐỊA - QUÂN SỰ


PGS, TS PHẠM XANH
Khoa Lịch sử - Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân vân,
Đại học Quốc gia Hà Nội


Sau chiến thắng Biên Giới năm 1950, cánh cửa thông với thế giới bên ngoài được mở toang, đặc biệt sau những thắng lợi dồn dập của quân ta trong các chiến dịch Trần Hưng Đạo (12-1950), chiến dịch Hoàng Hoa Thám (3-1951) và chiến dịch Quang Trung (5-1951), sức ép theo hướng châu thổ sông Hồng và Hà Nội ngày càng tăng lên quân đội viễn chinh Pháp. Trong bối cảnh đó, tướng Pháp Đờ Lát vừa được điều sang chiến trường Đông Dương, đã có chuyến thăm Hoa Kỳ để xin thêm viện trợ. Trong buổi làm việc với Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ tại Lầu Năm Góc, Tướng Pháp đã cảnh báo chính quyền Oasinhtơn trong sự so sánh với cuộc chiến ở Triều Tiên: "Nếu các ngài mất Triều Tiên thì châu Á vẫn còn, nhưng nếu tôi mất Đông Dương thì châu Á sẽ mất. Bắc Bộ là chìa khóa dẫn tới Đông Nam Á. Nếu như Đông Nam Á mất thì Ấn Độ sẽ bị thiêu trụi và rồi không gì cản nổi chủ nghĩa cộng sản sẽ tiến tới trước Xuyê và châu Phi. Và nếu như thế giới Hồi giáo bị nhấn chìm, đạo Hồi ở Bắc Phi cũng ngã gục, thì châu Âu bị đánh vào sườn..."1 (Dẫn theo Ronald H. Spector, Advice and Support: The Early years of the United States Army in Vienam 1941-1960. Free Press Edition. NY. 1985. p.143). Trong con mắt của giới chóp bu Mỹ đã hiển hiện mồn một trò chơi đôminô với hiệu ứng khủng khiếp của nó. Vì thế, Hoa Kỳ đã lấy từ những khoản chi cho NATO để viện trợ khẩn cấp cho Pháp ở Đông Dương. Tính đến trước khi ta mở chiến dịch Tây Bắc, Pháp và chính quyền Bảo Đại đã tiếp nhận chuyến hàng thứ 150 và Mỹ đã gánh 40% chiến phí Đông Dương, tức 146 tỷ Phrăng, trong đó là 86 tỷ phương tiện chiến tranh2 (Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam. Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), tập 2. Nxb Quân đội nhân dân, H. 1994, tr. 185). Trong khi đó, Thu Đông năm 1952, ta chủ động mở chiến dịch Tây Bắc là "nơi địch yếu, sơ hở, nhưng lại là nơi hiểm yếu", không theo hướng như Pháp - Mỹ đã phán đoán qua lời của Lơ Tuốcnô ngày 27 tháng 9: "Thu Đông 1952, Việt Minh sẽ tiến công đồng bằng".


Tại sao? Chỉ có thể trả lời câu hỏi này từ góc nhìn địa - chính trị và địa - quân sự của chính vùng Tây Bắc Bắc Bộ nước ta.

Nhìn lên bản đồ Việt Nam, vùng Tây Bắc và vùng Đông Bắc được giới hạn bằng con sông Thao và khi chảy tới Việt Trì hợp lưu với các dòng sông khác như sông Lô, sông Đà để trở thành tên gọi sông Hồng nổi tiếng, về hành chính, vùng đất chiến lược đó, thời kháng chiến chống thực dân Pháp mà ta đang bàn thảo ở đây, bao gồm các tỉnh Lào Cai, Lai Châu, Sơn La, Yên Bái và Nghĩa Lộ. Trong Việt Nam - Lãnh thổ và các vùng địa lý, Lê Bá Thảo xác định rõ thêm: "Nếu như người ta có thể dễ chấp nhận Tây Bắc là một đơn vị miền núi thống nhất, thì vấn đề ranh giới phía đông đang còn bàn cãi một phần: về mặt địa lý tự nhiên, ranh giới này được vạch theo thung lũng sông Hồng, nhưng về mặt hành chính và kinh tế thì tỉnh Lào Cai có 4 huyện (Mường Khương, Bắc Hà, Bảo Thắng, Bảo Yên), tỉnh Yên Bái có hai huyện (Yên Bình và Lục Yên) nằm ở tả ngạn sông đó"1 (Lê Bá Thảo, Việt Nam - Lãnh thổ và các vùng địa lý. Nxb Thế giới, H. 2002 tr. 251).


Vùng Tây Bắc thời kháng chiến chống thực dân Pháp bao gồm 5 tỉnh như trên đã nói là một vùng rừng núi rộng lớn, hiểm trở, nằm ở phía Tây Bắc Bắc Bộ nước ta. Phía Tây là biên giới Việt - Lào, giáp hai tỉnh của nước Lào là Phong Xa Lỳ và Sầm Nưa. Phía Đông giáp với căn cứ địa Việt Bắc (vùng Đông Bắc, Bắc Bộ). Phía Bắc là biên giới Việt - Trung, đối diện với tỉnh Lào Cai là tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Phía Nam là tỉnh Hòa Bình, thông với các tỉnh thuộc Liên khu 3 và Liên khu 4. Nói như vậy là để xác định vùng Tây Bắc là một vùng chiến lược, ai làm chủ ở đây là làm chủ một vùng rộng lớn có địa hình rừng núi hiểm trở, nhất là dãy Hoàng Liên Sơn có đỉnh Phan Xi Păng cao trên 3.000m, có đèo Pha Đin dài 30 km. một địa giới tự nhiên ngăn cách hai tỉnh Sơn La và Lai Châu và đồng thời khống chế vùng Bắc Lào rộng lớn.


Ngoài yếu tố tự nhiên (vùng rừng núi hiểm trở, có những dãy núi cao chia cắt và có biên giới tiếp giáp với Lào và Trung Quốc), khi nói tới địa - chính trị của vùng này không thể không đề cập tới những cộng đồng tộc người đang quần tụ và sinh sống nơi đây.


Các cộng đồng tộc người như Mông, Dao, Kinh, Mường, Thái... trước sau đến định cư ở đây, nhưng đông nhất là cộng đồng người Thái. Họ thuộc những cộng đồng tộc người có lịch sử phát triển lâu đời, văn minh, có chữ viết và một nền văn hóa vật thể và phi vật thể đa dạng, phong phú. Người Thái ở vùng Tây Bắc nổi tiếng với những dòng họ như họ Đèo, họ Cầm, họ Hoàng... Và yếu tố tộc người trong địa - chính trị đã được người Pháp chú ý khai thác và sử dụng như một thứ vũ khí lợi hại trong suốt thời kỳ cai trị của chúng ở vùng đất này. Yếu tố đó trong những năm 1945-1954, được người Pháp nâng lên thành nghệ thuật. Nó được thể hiện rất rõ trong việc Pháp cho thành lập Xứ Thái tự trị, tức trao cho người Thái quyền lực cai quản vùng đất đầy biến động này. Nếu đặt chính sách dựa vào người Thái để cai quản vùng này trong chính sách vĩ mô của Pháp "dùng người Việt trị người Việt" trong cuộc chiến tranh 9 năm, ta thấy mức độ nham hiểm của người Pháp. Yếu tố này còn được thể hiện rất rõ trong việc thành lập những tiểu đoàn người Thái cùng những đại đội độc lập chốt chặn những ngả đường chủ yếu vào "vương quốc" của mình. Điều này sẽ được nói rõ ở phần sau trong yếu tố địa - quân sự.


Với vị trí chiến lược đó, vùng Tây Bắc xa xưa đã trở thành vùng đất quan trọng của các thế lực chống đối các vương triều phong kiến. Thời Lê sơ. Đèo Cát Hãn là một thế lực mạnh. Khi đang còn bao vây đánh thành Đông Quan (Hà Nội ngày nay), Lê Lợi đã phái Chủ thư thị sử Trần Hổ lên châu Minh Lễ chiêu dụ Đèo Cát Hãn. Viên thổ quan này quy thuận. Nhưng sau đó, Cát Hãn làm phản, đánh chiếm vùng đất Mường Muỗi, nay là Thuận Châu, Sơn La. Hiểu rõ tầm quan trọng của vùng đất này đối với lãnh thổ và sự an ngụy của đất nước nên "tháng 12 năm Tân Hợi (1431), vua bèn sai Tư đồ Lê Sát và Quốc vương Tư Tề dẫn quân đánh Mường Lễ. rồi vua lại thân chinh. Năm Nhâm Tý (1432), mùa Xuân tháng Giêng, quan quân đánh được Mường Lễ, Kha Lại bị giêt, Đẽo Cát Hãn chạy trốn, quan quân bắt hết dư đảng, bèn đổi Mường Lễ thành Phục Lễ. Ngày 3 tháng 3, vua kéo quân trở về... Tháng 11, Cát Hãn và con là Mạnh Vượng xin hàng, được nhà vua tha tội. Khi Cát Hãn tới kinh tạ tội, được phong chức Tư Mã"1 (Lê Quý Đôn, Đại Việt thông sử, Nxb..., tr 92-94).


Sau khi bình định xong, trên đường đại quân quay về Thăng Long, vua Lê Thái Tổ có làm hai bài thơ chữ Hán. Bài thơ thứ nhất có tên Thân chinh Phục Lễ châu Đèo Cát Hãn (tự mình đi đánh Đèo Cát Hãn ở châu Phục Lê) cho khắc trên vách núi Pú Huổi Chỏ (bên tả ngạn sông Đà, thuộc Mường Lễ, nay thuộc xã Lê Lợi, huyện Sình Hồ, tỉnh Lai Châu) và bài thơ thứ hai có tên Chinh Đèo Cát Hãn, quá Long Thủy đê (đi đánh Đèo Cát Hãn trở về, qua đường đê Long Thủy) cho khắc trên vách đá Hào Tráng (gần chợ Bờ, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình ngày nay). Hai bài thơ của vua Lê Thái Tổ khẳng định quyền thống lĩnh của vương triều nhà Lê trên vùng Tây Bắc.


Đến thời Lê - Trịnh, vùng đất này từng là căn cứ địa của thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa Hoàng Công Chất (1706- 1769). Ông quê ở Vũ Thư, Thái Bình. Ông dấy nghĩa ở vùng Sơn Nam, nhưng có ngụy cơ thất bại nên năm 1750, ông theo đường núi tiến lên vùng Hưng Hóa. Sau khi bị Lê Đình Châu đánh tan tác, ông rút quân lên động Mãnh Thiên, châu Ninh Biên, tức Mường Thanh, Điện Biên xây dựng căn cứ kháng cự lâu dài. Lúc đầu tạm dựa vào thành Tam Vạn do người Lự xây dựng từ trước, nhưng nhận thấy thành ở địa thế bất lợi nên ông cho xây thành Bản Phủ làm căn cứ. Với những chính sách có lợi cho dân nên Hoàng Công Chất được lòng dân bản địa. Ông đánh tan giặc cướp và phát triển lực lượng ra khắp vùng Tây Bắc. Ông được dân bản địa yêu mến và gọi ông là Vua Hoàng. Ông lâm bệnh nặng và qua đời khi chiến sự với quân Trịnh Sâm đang diễn ra ác liệt.


Hiện nay ở Điện Biên, trong di tích thành Bản Phủ còn có miếu thờ Hoàng Công Chất và 6 viên tướng nổi tiếng của ông là Bun Xao, Cầm Phẳn, anh em Ngãi, Khanh, cha con Cầm Ton, Cầm Phanh (di tích này đã đươc xếp hạng).


Thời chống Pháp cuối thế kỷ XIX, trong phong trào Cần Vương vùng Tây Bắc trở thành căn cứ chống Pháp của Nguyễn Quang Bích, Đốc Ngữ... trong nhiều năm.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1704



« Trả lời #11 vào lúc: 28 Tháng Tám, 2023, 09:17:10 am »

Ngay sau bình định xong vùng Tây Bắc, thực dân Pháp chưa phân chia vùng này về hành chính, mà thành lập các Đạo quan binh, chẳng hạn như Sơn La và Lai Châu năm 1891 thuộc Đạo quan binh số 4, chủ yếu sử dụng quân đội để cai trị nhằm ổn định vùng Tây Bắc rộng lớn và quan trọng về chiến lược này. Mãi đến năm 1904, người Pháp mới thành lập một đơn vị hành chính cấp tỉnh là Sơn La và năm 1909 thành lập tỉnh Lai Châu.


Cùng với sự hiện diện của lực lượng quân sự Pháp trên vùng đất này, để đảm bảo cho an ninh lâu dài trong vùng, thực dân Pháp bắt đầu quan tâm tới hệ thống đường sá, đầu tiên như một phương tiện quân sự hơn là kinh tế để nhanh chóng di chuyển quân đội đàn áp những cuộc nổi dậy của nhân dân ta. Người Pháp đã từng nhận xét: "Ở những nơi nào mà cùng với đường bộ còn có đường thủy thì đường bộ có giá trị thứ yếu: việc lưu thông trên đường bộ không được bảo đảm, nhất là khi người ta hình dung đến đường dài hoặc trung bình"1 (Jean-Pierre Aumiphin, Sự hiện diện tài chính và kinh tế của Pháp ở Đông Dương (1859-1939). Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam xuất bản. H. 1994, tr. 116-117). Vì thế, người Pháp đầu tiên sử dụng triệt để phương tiện vận tải thủy trên các dòng sông như sông Thao, sông Đà để vận chuyển những hàng hóa, thiết bị nặng và có khối lượng lớn. Khi xây dựng tuyến đường sắt Hải Phòng - Lào Cai - Côn Minh những thiết bị siêu trường, siêu trọng đều được vận chuyển theo đường thủy, đặc biệt là sông Hồng, sông Thao lên đến tận Lào Cai hoặc theo dòng sông Đà ngược lên tận Lai Châu. Với Nghị định ngày 18 tháng 6 năm 1918 do Toàn quyền Đông Dương Anbe Xarô ký, hệ thống đường bộ được sắp xếp thành hệ thống theo tầm quan trọng của nó, bắt đầu từ đường thuộc địa số 1, tức con đường chạy suốt Bắc Nam, theo chiều dài đất nước. Liên quan tới vùng chúng ta đang đề cập tới là con đường thuộc địa số 6, xuất phát từ Hà Nội, thủ phủ của Liên bang Đông Dương lên Hòa Bình, Sơn La, từ đây chia thành hai nhánh: một nhánh chạy sang Lào và một nhánh đi Thuận Châu vượt đèo Pha Đin sang Tuần Giáo, tại đây một ngả rẽ vào Điện Biên Phủ và một ngả đi Lai Châu. Từ Yên Bái theo đường số 13 đi vào Nghĩa Lộ2 (Vấn đê tên các con đường quốc lộ, tỉnh lộ, huyện lộ ở vùng này hết sức phức tạp do mỗi thời kỳ có những tên gọi khác nhau. Chẳng hạn như đường quốc lộ số 6 xuất phát từ Hà Nòi có tài liệu cho là chạy lên tới Lai Châu, nhưng cũng có tài liệu cho là chạy đến Hòa Bình, từ Hòa Bình đến Mộc Châu là đường só 41. Chúng tôi dựa theo tài liệu của người Pháp viết trước đây). Đến năm 1922, có thểm những đường đất đi sâu vào nội địa hòa vào một mạng lưới đường sá, từ quốc lộ, tỉnh lộ và huyện lộ cùng những đường mòn đi sâu vào các vùng thưa dân nhưng thường là rất phì nhiêu của vùng sâu, vùng xa.


Cùng với đường bộ và đường thủy, vùng đất chiến lược này có thểm một phương tiện giao thông hiện đại đường sắt. Đó chính là tuyến đường sắt Hài Phòng - Côn Minh (Vân Nam), được khởi công từ Hải Phòng cuối thế kỷ XIX qua Hà Nội, lên Việt Trì (1905), Yên Bái và đến Lào Cai (1906), từ đây tiếp tục chạy sang Côn Minh năm 1910. Năm 1912, tuyến đường sắt Hải Phòng - Lào Cai - Côn Minh đi vào khai thác trên toàn tuyến.


Dù vào vùng Tây Bắc với các loại hình giao thông nào đi nữa, nhưng, như Jean - Pierre Aumiphin trong công trình của mình, đã nhận định một cách xác thực: Liên bang Đông Dương chỉ có thể trở thành một thực thể kinh tế và chính trị hữu hiệu với sự phát triển của đường giao thông, và trước hết với các đường bộ"1 (Jean Pierre Aumiphin. Sdd, tr. 119).


Như trên đã nói, vùng đất chiến lược này, người Pháp, sau khi đã chinh phục được, đã áp dụng một chính sách cai trị hết sức thận trọng - từ Đạo quan binh, tức dùng lực lượng quân sự để cai trị sang đơn vị hành chính tỉnh. Đến cuộc đảo chính của phát xít Nhật ngày 9 tháng 3 năm 1945, quân Pháp ở vùng này dưới sự chỉ huy của Alếcxanđri đã chạy sang Trung Quốc. Cho đến khi nước Pháp quyết định tái chiếm Đông Dương, thì tàn quân này quay lại chiếm đóng vùng đất này, biến vùng đất này thành vùng tạm chiếm đầu tiên của Pháp. Trước khi chúng ta tiến quân vào Tây Bắc, trên tất cả những ngả đường vào Tây Bắc, đặc biệt ở những đầu mối giao thông, những giao điểm của các con đường liên tỉnh. Bộ chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương đều bố trí các đơn vị quân sự từ cấp đại đội đến tiểu đoàn. Nhìn lên Bản đồ quân sự của Pháp thời này, vùng Tây Bắc được phân chia thành các phân khu và tiểu phân khu, khu phòng thủ (Mộc Châu) và các cứ điểm như cứ điểm Nà Sản, tùy theo tầm quan trọng về quân sự của nó. Lực lượng quân Pháp được bố trí, chốt chặn trên 14 cứ điểm gồm có 8 tiểu đoàn và 43 đại đội với 11 khẩu pháo. Điều đặc biệt cần lưu ý là lực lượng quân địch ở đây phần lớn là ngụy quân: Tiểu đoàn Thái số 1 và 8 đại đội đóng ở Phân khu Nghĩa Lộ; Tiểu đoàn Thái số 2 và 7 đại đội đóng ở Phân khu Sông Đà; Tiểu đoàn Thái số 3 và 14 đại đội đóng ở Phân khu Sơn La; Tiểu đoàn GFOT và 14 đại đội đóng ở Phân khu Lai Châu; một tiểu đoàn ngụy đóng tại Tiểu khu Tuần Giáo. Ngoài lực lượng đó ra, tại đây quân Pháp có 3 tiểu đoàn Âu - Phi đóng chốt tại hai thị xã Sơn La và Lai Châu làm nhiệm vụ cơ động. Nếu vùng này bị uy hiếp về quân sự thì Bộ chỉ huy Pháp sẽ điều động các tiểu đoàn dù đóng ở Hà Nội và sử dụng đường hàng không cơ động đến ứng chiến1 (Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), tập 2. Sđd, tr. 205-206).


Vùng đất Tây Bắc, Bắc Bộ nước ta qua góc nhìn địa - chính trị, địa - quân sự nổi lên vị trí chiến lược cực kỳ quan trọng nên trong tiến trình lịch sử Việt Nam, nó được các loại chính quyền bằng mọi cách làm chủ và khai thác một cách triệt để nhằm bảo toàn lãnh thổ cương vực quốc gia và an ninh nội địa. Nhận thấy tầm quan trọng về vị trí chiến lược vùng Tây Bắc nên sau khi làm chủ vùng Đông Bắc, một phần vùng trung du Bắc Bộ, dưới sự chỉ đạo sáng suốt của Đảng, Chính phủ và Tổng Quân ủy, quân ta không mở chiến dịch theo hướng đồng bằng như Pháp - Mỹ đã từng phán đoán, mà huy động lực lượng tiến công lên Tây Bắc, làm chủ vùng chiến lược rộng lớn này.


Chiến dịch Tây Bắc được khai hỏa vào ngày 14 tháng 10 năm 1952 bằng việc tiến công tiêu diệt Phân khu Nghĩa Lộ, đập tan tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch. Trận đánh mở màn thắng lợi đó báo hiệu sự kết thúc chiến dịch đại thắng của quân ta. Mà thắng lợi quan trọng nhất là ta làm chủ vùng đất chiến lược ở phía Bắc từ Tây sang Đông và cả một vùng trung du rộng lớn, đẩy quân địch vào thế bị động và đối phó, để sau đó không lâu Tướng Giáp đã chủ động tạo ra những cú đấm mạnh, buộc Pháp phải điều động binh lực chạy như đèn cù trên toàn chiến trường Đông Dương và cuối cùng giáng đòn sấm sét ở chiến trường Điện Biên Phủ, buộc Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ, lập lại hòa bình và công nhận toàn vẹn lãnh thổ nước ta.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1704



« Trả lời #12 vào lúc: 18 Tháng Chín, 2023, 07:39:29 am »

SỰ CHỈ ĐẠO CHIẾN LƯỢC CỦA ĐẢNG
TRONG CHIẾN DỊCH TÂY BẮC 1952

PGS, TS NGUYỄN MẠNH HÀ
Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng,
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh


Thắng lợi của chiến dịch tiến công địch đánh ra Hòa Bình trong Đông - Xuân 1951-1952 tiếp tục củng cố và khẳng định quyền chủ động chiến lược của ta trên chiến trường chính Bắc Bộ. Chiến thắng đó cũng khẳng định khả năng và sở trường tác chiến trên địa bàn rừng núi của bộ đội ta. Hòa Bình và các vùng phụ cận được giải phóng đã mỏ toang cánh cửa tiến vào Tây Bắc từ phía Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tác chiến của ta trôn hướng chiến lược trọng yếu này.


Sau chiến dịch Hòa Bình, các đơn vị chủ lực lớn của ta được lệnh củng cố, tiến hành chính Đảng, chỉnh quân, chuẩn bị cho đợt chiến đấu mới. Trong khi đó, ở cấp chiến lược, Tổng Quân ủy và Bộ Tổng tư lệnh khẩn trương xây dựng và hoàn chỉnh kế hoạch tác chiến Thu Đông 1952. Trong kế hoạch dự kiến này, hướng tiến công chính được xác định là Tây Bắc Bắc Bộ; đồng bằng Bắc Bộ là hướng chiến lược quan trọng.


Theo đánh giá và nhận định của Trung ương Đảng, cụ thể là của Tổng Quân ủy và Bộ Tổng tư lệnh, thì Tây Bắc là một chiến trường rộng lớn, phía Tây là biên giới Việt - Lào, giáp hai tỉnh Phong Xa Lỳ và Sầm Nưa, phía Đông giáp với căn cứ địa Việt Bắc, phía Bắc là biên giới Việt - Trung, phía Nam là tỉnh Hòa Bình, nối liền với các tỉnh thuộc Liên khu 3, Liên khu 4. Địa hình Tây Bắc chủ yếu là rừng núi hiểm trở, đi lại khó khăn, dân cư ít, chủ yếu là đồng bào các dân tộc ít người sinh sống; kinh tế tự cấp, tự túc, phân tán, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn. Đây cũng là địa bàn chính quyền kháng chiến còn yếu, cơ sở Đảng, cơ sở chính trị của quần chúng chưa phát triển. Tuy nhiên, đây cũng là nơi có vị trí chiến lược hiểm yếu, nhưng lại là nơi lực lượng địch không đông, lại phải phân tán trên một địa bàn rộng, vì thế có nhiều sơ hở; khi bị quân ta tiến công, nhất định Bộ chỉ huy Pháp phải điều động lực lượng từ các nơi khác đến đối phó.


Nhân dân Tây Bắc có truyền thống yêu nước, cách mạng. Các đội vũ trang tuyên truyền, đội xung phong công tác, các đại đội độc lập hoạt động ở nhiều địa phương, đã phát động được phong trào chiến tranh du kích. Trong chiến dịch tiến công Biên Giới - Thu Đông 1950, quân và dân trên địa bàn đã phối hợp đánh địch, giành thắng lợi ở Đại Bục, Đại Phác, Phố Lu, Phố Ràng, Bản Lầu, Vạn Yên, Nghĩa Lộ, giải phóng một phần Lào Cai...


Lực lượng địch chiếm đóng Tây Bắc chủ yếu là thành phần thuộc "quân đội quốc gia" của Bảo Đại, người dân tộc Thái. Trong số này, Tiểu đoàn Thái số 1 và 8 đại đội đóng giữ Phân khu Nghĩa Lộ; Tiểu đoàn Thái số 2 và 7 đại đội đóng ở Phân khu Sông Đà; Tiểu đoàn Thái số 3 và 14 đại đội đóng ở Phân khu Sơn La; 1 tiểu đoàn ngụy (DAZANO) đóng ở Tiểu khu Tuần Giáo. Lực lượng Âu - Phi có 3 tiểu đoàn 5e, 7e Tabo và 2e RTA đóng tại Sơn La, Lai Châu làm nhiệm vụ cơ động. Bộ chỉ huy Pháp còn bố trí sẵn sàng một số tiểu đoàn dù cơ động ở đồng bằng Bắc Bộ để tăng viện cho Tây Bắc khi cần, nhằm bảo vệ các vị trí trọng yếu, các tuyến đường số 41 (Hòa Bình - Mộc Châu) và số 13 (Yên Bái - Nghĩa Lộ), uy hiếp căn cứ địa Việt Bắc và che chở cho Thượng Lào.


Từ tháng 4 năm 1952, nhằm phát huy thắng lợi to lớn đã giành được trong chiến dịch Hòa Bình, Bộ Chính trị Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị cho Tổng Quân ủy, Bộ Tổng tư lệnh xúc tiến công tác chuẩn bị mở chiến dịch với quyết tâm tiêu diệt quân địch tại đây, giải phóng phần lớn địa bàn Tây Bắc. Các đơn vị tình báo, trinh sát được lệnh bám nắm tình hình địch một cách cụ thể.


Trên cơ sở cân nhắc tình hình địch, khả năng của ta, đồng thời có tính đến những khó khăn cụ thể như: mở chiến dịch ở địa bàn hiểm trở, vận chuyển tiếp tế khó khăn, xa hậu phương đồng bằng hàng trăm kilômét, cơ sở kinh tế nghèo nàn, khả năng huy động nhân lực, vật lực tại chỗ hạn chế... Tháng 9 năm 1952, Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Tây Bắc. Đại tướng Võ Nguyên Giáp trực tiếp làm chỉ huy trưởng chiến dịch. Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái làm Tham mưu trưởng. Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Nguyễn Chí Thanh làm Chủ nhiệm chính trị. Chủ nhiệm cung cấp là đồng chí Nguyễn Thanh Bình.


Bộ Tổng tham mưu xây dựng kế hoạch tác chiến, dự kiến chia chiến dịch làm hai đợt hoạt động. Đợt 1 tập trung lực lượng tiêu diệt Phân khu Nghĩa Lộ, Tiểu khu Phù Yên, áp sát sông Đà, tạo điều kiện cho đợt tiến công thứ 2. Đợt 2, đưa lực lượng tiến sâu vào Tây Bắc, phối hợp các hướng, trong đánh ra, ngoài đánh vào, giải phóng toàn bộ tỉnh Sơn La. Hướng tiến công chủ yếu xác định là Nghĩa Lộ; hướng tiến công thứ yếu là Quỳnh Nhai, Tuần Giáo.


Lực lượng của ta tham gia chiến dịch có các đại đoàn 308, 312, 316 (thiếu 1 trung đoàn); Tiểu đoàn 910 thuộc Trung đoàn 148, 6 đại đội sơn pháo 75mm gồm 24 khẩu; 3 đại đội súng cối 120mm gồm 12 khẩu; 3 tiểu đoàn công binh thuộc Trung đoàn công binh 151; Đại đoàn công pháo 351 và 11 đại đội địa phương của các tỉnh Yên Bái, Lai Châu, Sơn La, Lào Cai. Số lượng vật chất đảm bảo cho chiến dịch dự kiến lên tới 9.000 tấn lương thực, thực phẩm; 120 tấn vũ khí, đạn dược, thuốc men. Số dân công huy động 35.000 người, làm nhiệm vụ tiếp tế, tải thương và sửa chữa đường sá, cầu cống, để đảm bảo cung cấp vật chất, giao thông, hệ thống kho tàng, bến bãi phục vụ chiến dịch một cách đầy đủ, hiệu quả nhất.


Bộ Chính trị Trung ương Đảng giao nhiệm vụ cho các tỉnh Yên Bái, Phú Thọ, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc trực tiếp phụ trách phục vụ hướng Nghĩa Lộ; các tỉnh Sơn La, Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Nam... trực tiếp phụ trách phục vụ hướng đường số 41 - Sơn La.


Tổng Quân ủy và Bộ Tổng tư lệnh chỉ đạo cơ quan hậu cần chiến dịch do đồng chí Trần Đăng Ninh, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp, trực tiếp phụ trách cung cấp tiền phương, chuẩn bị sẵn sàng vật chất, vũ khí, lương thực ở bên tả ngạn sông Hồng để giữ bí mật, bất ngờ, đến khi chiến dịch mở màn sẽ nhanh chóng đưa hàng vượt sóng, bám theo các đơn vị phục vụ tác chiến.


Ngày 6 tháng 9 năm 1952, Bộ Tổng tư lệnh mở hội nghị cán bộ phổ biến kế hoạch tác chiến chiến dịch Tây Bắc. Đồng chí Võ Nguyên Giáp, thay mặt Tổng Quân ủy và Bộ Tổng tư lệnh chủ trì, phổ biến kế hoạch, nêu lên 3 nhiệm vụ chủ yếu của chiến dịch là: tiêu diệt địch, giải phóng đất đai, tranh thủ nhân dân. Đây là những nhiệm vụ quan trọng và có quan hệ mật thiết với nhau, trong đó nhiệm vụ chủ yếu, quan trọng nhất là tiêu diệt sinh lực dịch. Đề cập, phân tích từng nhiệm vụ. Đại tướng Tổng tư lệnh nhấn mạnh: ở đồng bằng cũng như ở Tây Bắc, ta đều có điều kiện tiêu diệt dịch, nhưng trên địa bàn Tây Bắc ta có thuận lợi để đánh tập trung và tiêu diệt địch hơn. Ta cần xác định tiêu diệt cả quân cơ động và quân chiếm đóng vì hai lực lượng này đều rất quan trọng. Đối với nhiệm vụ tranh thủ nhân dân, ở đồng bằng và ở Tây Bắc ta đều phải làm nhiệm vụ trọng yếu này, song ở Tây Bắc, việc tranh thủ nhân dân có ý nghĩa đặc biệt hệ trọng, nhằm làm thất bại âm mưu phá khối đoàn kết, chia rẽ dân tộc của địch. Thực dân Pháp đã từng đề ra và thực hiện âm mưu lập các xứ Tày, Nùng, Mường, Thái tự trị ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Lào Cai, Hòa Bình... nhưng đã bị thất bại. Còn ở Tây Bắc, các lực lượng phản động, thù địch đang khống chế nhân dân các dân tộc còn mạnh, vì thế, chúng ta cần phải tranh thủ nhân dân Tây Bắc để đánh bại âm mưu chia rẽ, chia để trị, âm mưu dùng người Việt đánh người Việt của địch.


Về nhiệm vụ giải phóng đất đai, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho rằng đây là nhiệm vụ rất quan trọng nhằm thực hiện phương châm có ý nghĩa chiến lược mở rộng vùng giải phóng, bảo vệ và củng cố căn cứ địa Việt Bắc, giữ vững giao thông liên lạc quốc tế giữa Lào Cai với Vân Nam  (Trung Quốc) và tạo điều kiện giúp đỡ cách mạng Lào. Nếu giải phóng được đại bộ phận đất đai Tây Bắc, ta sẽ có điều kiện lấy Tây Bắc làm căn cứ đế tác chiến ở đồng bằng và cơ động lực lượng.


Việc đề ra 3 nhiệm vụ chủ yếu, phân tích, nhấn mạnh vị trí, vai trò của từng nhiệm vụ, thể hiện tầm nhìn chiến lược và sự chỉ đạo sắc sảo của Đảng khi quyết định mở chiến dịch Tây Bắc, coi đây là hướng hoạt động chính trong Thu Đông 1952. Việc xác định đồng bằng Bắc Bộ là hướng chiến lược quan trọng cũng cho thấy Đảng ta đã phân tích thấu đáo, đánh giá đúng so sánh lực lượng địch - ta, khả năng còn hạn chế của bộ đội khi tác chiến ở đồng bằng (qua 3 chiến dịch đánh vào trung du và đồng bằng Bắc Bộ đầu năm 1951). Đảng chủ trương sử dụng một bộ phận chủ lực phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương đẩy mạnh hoạt động nhằm kiềm chế, giam chân địch ở đồng bằng, tạo điều kiện cho các đơn vị tác chiến ở Tây Bắc.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1704



« Trả lời #13 vào lúc: 18 Tháng Chín, 2023, 07:40:36 am »

Ngày 9 tháng 9 năm 1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và nói chuyện với Hội nghị cán bộ phổ biến kế hoạch chiến dịch Tây Bắc. Người dặn dò: "Trung ương Đảng và Tổng Quân ủy đã cân nhắc kỹ chỗ dễ và chỗ khó của chiến trường sắp đến, và quyết tâm là chiến dịch này phải đánh cho thắng lợi. Quyết tâm của Trung ương chưa đủ, còn phải để các chú cân nhắc kỹ, thấy rõ cái dễ và cái khó để truyền cái quyết tâm đó cho các chú. Trung ương và các chú quyết tâm cũng chưa đủ, mà phải làm cho quyết tâm đó xuống mọi người chiến sĩ. Quyết tâm đó phải thành một khối thống nhất từ trên xuống dưới và từ dưới lên trên... Gặp thuận lợi thì phải quyết tâm phát triển, gặp khó khăn thì phải quyết tâm khắc phục... Phải quyết tâm chiến đấu, quyết tâm chịu khổ, chịu khó, quyết tâm khắc phục mọi khó khăn, quyết tâm chấp hành chính sách của Trung ương Đảng và Chính phủ. Nghĩa là trong thái độ, trong tư tưởng, trong hành động, trong chiến đấu, bất kỳ mọi việc lớn hay nhỏ đều phải có quyết tâm làm cho bằng được".


Người động viên bộ đội hậu cần: "Anh em bên cung cấp phải có quyết tâm để có lương thực, vũ khí cho bộ đội. Còn bên bộ đội thì phải có quyết tâm: lúc thiếu thốn cũng vui vẻ chịu đựng; lúc cần thì ra sức giúp đỡ anh em cung cấp; lương thực, vũ khí là mồ hôi, nước mắt của đồng bào, là xương máu của bộ đội. Vì vậy phải quý trọng nó, phải tiết kiệm, ngăn nắp, phải sử dụng hợp lý... Từ đại đoàn trưởng đến tiểu đội trưởng phải đồng cam cộng khổ với anh em chiến sĩ, chăm nom săn sóc giúp đỡ nhau, coi nhau như chân tay, ruột thịt...".


Những căn dặn cụ thể, thiết thực của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên thực tế đã truyền được quyết tâm chiến đấu và chiến thắng của Đảng cho mọi cán bộ, chiến sĩ, động viên khích lệ họ vượt mọi gian khổ, hiểm ngụy, quyết thực hiện nhiệm vụ chiến dịch đề ra.


Sau một thời gian khẩn trương chuẩn bị về lực lượng, kế hoạch tác chiến, cách đánh, chuẩn bị đảm bảo tiếp tế, làm đường, vượt sông, vận chuyển, lập kho trạm, bố trí các đơn vị bảo vệ hậu phương,... ngày 14 tháng 10 năm 1952, bộ đội ta nổ súng mở màn chiến dịch Tây Bắc.


Bộ chỉ huy chiến dịch phân tích: đối với toàn bộ chiến trường Tây Bắc thì Phân khu Nghĩa Lộ vừa là bình phong bảo vệ Tây Bắc của địch, nhưng cũng là bàn đạp của ta để tấn công Tây Bắc. Còn các phân khu Sơn La, Lai Châu bố trí các cứ điểm theo tuyến dài, dọc đường số 41, song song với sông Đà, lực lượng tương đối mỏng yếu. Vì thế, mở màn đợt 1, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định tập trung binh lực để tiêu diệt địch ở Phân khu Nghĩa Lộ, đồng thời tranh thủ tiêu diệt địch ở Tiểu khu Phù Yên, giải phóng hai nơi này, phát triển tiến công tới sát sông Đà, tạo điều kiện tiến đánh Sơn La.


Trước khi tiến công Phân khu - thị trấn Nghĩa Lộ, các đơn vị nổ súng đánh chiếm hai vị trí Ca Vịnh và Sài Lương; quân địch bị bất ngờ, rút bỏ cả Thượng Bằng La, Ba Khe vào hai đêm 15 và 16 tháng 10. Mặc dù Bộ chỉ huy Pháp điều các tiểu đoàn dù từ đồng bằng lên Nà Sản, Tú Lệ nhằm chặn đường tiến công của bộ đội ta, giữ Sơn La và bảo vệ Nghĩa Lộ, nhưng đêm 17 tháng 10 năm 1952, Đại đoàn 308 vẫn sử dụng hai trung đoàn tiến công cả Nghĩa Lộ phố và Nghĩa Lộ đồi (còn gọi là cứ điểm Pú Chạng) giành thắng lợi, phá vỡ một mảng quan trọng tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch. Lo ngại bị tiêu diệt, một loạt vị trí địch rút chạy về Nà Sản, một số đơn vị rút sang hữu ngạn sông Đà.


Sau 11 ngày đêm liên tục tiến công, đợt 1 chiến dịch đã kết thúc thắng lợi. Bộ chỉ huy Pháp đã phải bở khu vực tả ngạn sông Thao, lặp cầu hàng không Hà Nội - Nà Sản, tăng cường lực lượng lập tuyến phòng thủ sông Đà và tập đoàn cứ điểm Nà Sản. Quân số địch ở Tây Bắc tăng lên 16 tiểu đoàn, 32 đại đội, chia nhau đóng giữ trên hai mặt trận chính là Sơn La và Lai Châu, đồng thời Bộ chỉ huy Pháp mở cuộc hành quân Loren đánh lên Phú Thọ nhằm kéo giãn chủ lực của ta trên chiến trường Tây Bắc.


Trước những động thái khẩn trương của địch, Trung ương Đảng, Tổng Quân ủy và Bộ Tổng tư lệnh vẫn sáng suốt nhận định: các hành động của địch vừa qua về cơ bản vẫn là bị động đối phó, dù có tăng cường lực lượng cho Tây Bắc hay đánh lên Phú Thọ, cũng là nhằm đối phó với sự chủ động của ta. Những nhược điểm căn bản của địch, đặc biệt là sự bạc nhược về tinh thần, vẫn còn tồn tại, thậm chí nghiêm trọng hơn. Đây là nhận định rất quan trọng về tình thế chiến lược, khẳng định quyết tâm tiếp tục tiến công vào Tây Bắc và giúp Bộ chỉ huy chiến dịch đề ra phương án tác chiến trong đợt 2 một cách hiệu quả, đó là vượt sông Đà, đánh mạnh vào Tiểu khu Mộc Châu, buộc địch phải rút khỏi Phú Thọ. Tổng Quân ủy và Bộ Tổng tư lệnh chủ trương tận dụng việc địch phải tập trung đối phó ở Tây Bắc, đánh mạnh ở đồng bằng đang bị sơ hơ để phối hợp với chiến trường chính, và hướng chính nhằm thực hiện bằng được các mục tiêu, nhiệm vụ chiến dịch đã đề ra.


Bộ Tổng tư lệnh một mặt sử dụng lực lượng đối phó với cuộc hành binh Loren, mặt khác lệnh cho các đơn vị bí mật vượt sông Đà, tiến công Mộc Châu và các vị trí xung quanh, phối hợp với Mặt trận Y13 Lai Châu đã nổ súng đánh địch mở màn đợt 2 chiến dịch. Trước đó, tuyến phòng ngự của địch ở cao nguyên Mộc Châu bị lung lay dữ dội, một số cứ điểm rút chạy về Nà Sản. Thừa thắng, bộ đội ta tiến công Thuận Châu, khiến quân địch ở đây và cả ở thị xã Sơn La phải rút về Nà Sản. Như vậy, đến 30 tháng 11, bộ đội ta đã kết thúc đợt 2 chiến dịch, diệt, bắt hơn 3.000 địch giải phóng một vùng đất đai rộng lớn hơn 17.000km, tính Sơn La (trừ Nà Sản) và một phần tỉnh Lai Châu.


Lúc này, Nà Sản đã trở thành nơi tập kết lực lượng địch từ các nơi trên địa bàn Tây Bắc rút về, và là một trong hai nơi (cùng với Lai Châu) ở Tây Bắc còn cứ điểm địch. Tại Nà Sản, Bộ chỉ huy Pháp đã xây dựng một tập đoàn cứ điểm với 17 cứ điểm, tổng số binh lực lên tới 10.000, hình thành 2 vành đai phòng ngự, có sân hay, sở chỉ huy, trận địa pháo binh, hệ thống hầm ngắm, lô cốt được nối bởi hào giao thông, bao quanh là hàng rào thép gai.


Do không nắm đầy đủ tin tức, phân tích, đánh giá tình hình thiếu chính xác, bộ đội thương vong, mệt mỏi nhiều sau 2 đợt tác chiến căng thẳng, dài ngày, địch tổ chức phòng thủ quá mạnh và dày đặc, trong khi bộ đội chưa có kinh nghiệm đánh hình thức phòng ngự tập đoàn cứ điểm, nhưng Đảng ủy chiến dịch họp lại nhận định: địch bị động tập trung về Nà Sản, lâm vào tình thế tiến thoái lường nan, nếu rút thì thất bại rất lớn ở Tây Bắc, lại có thể bị ta tiêu diệt, nếu giữ thì ở trong tình thế cô lập và cũng có thể bị ta tiêu diệt. Từ nhận định đó, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định tập trung lực lượng mở đợt tiến công thứ 3 của chiến dịch nhằm tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Nà Sản, giành toàn thắng.


Bộ chỉ huy chiến dịch cho rằng trận Nà Sản không phải là cuộc chiến đấu đơn giản, mà là một đợt tác chiến quan trọng hơn những đợt trước.

Lực lượng tham gia đánh Nà Sản lên tới 12 tiểu đoàn của 3 đại đoàn chủ lực đã tổ chức liên tiếp các cuộc tiến công vào các vị trí như Pú Hồng, Bản Vây, Bản Hời, Nà Si... trong nhiều ngày nhưng không thành công, bị thương vong nặng. Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định kết thúc chiến dịch Tây Bắc ngày 10 tháng 12 năm 1952.


Trải qua gần 2 tháng với 3 đợt tác chiến dài ngày, ác liệt, trên một địa bàn rộng lớn, hiểm trở, quân và dân ta đã giành dược thắng lợi cơ bản, đã hoàn thành cả 3 nhiệm vụ đề ra là tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng đất đai và tranh thủ nhân dân. Chủ trương mở chiến dịch Tây Bắc của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chứng tỏ sự đúng đắn và sáng suốt bởi các nhiệm vụ đề ra đã được thực hiện, bởi sự chọn hướng hoạt động chủ yếu là chiến trường Tây Bắc là chính xác - Đó là nơi có vị trí chiến lược, hiểm yếu nhưng địch lại có những điểm yếu, sơ hở, trong khi đó sở trường tác chiến của bộ đội ta lại phát huy được. Với 8/10 diện tích Tây Bắc được giải phóng, cùng với khu căn cứ địa Trung ương Việt Bắc, gần như toàn bộ vùng rừng núi Bắc Bộ đã thuộc quyền kiểm soát của ta. Thế đứng chân của cuộc kháng chiến ngày càng được củng cố vững chắc. Thế chủ động tiến công chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ tiếp tục được giữ vững, đẩy quân địch ngày càng lún sâu vào thế phòng ngự bị động.


Tuy có sự hạn chế trong chỉ đạo tác chiến đợt 3, đánh vào tập đoàn cứ điểm Nà Sản không thành công, nhưng nhìn chung, sự chỉ đạo chiến lược của Đảng trong toàn bộ chiến dịch Tây Bắc đánh dấu sự trưởng thành, dày dạn, quyết đoán và nhạy bén trong khói lửa chiến tranh ngày càng quyết liệt. Những kinh nghiệm chỉ đạo, được rút ra từ chiến dịch Tây Bắc thực sự quý giá, giúp Đảng ta giành được những kết quả to lớn hơn trong chỉ đạo các chiến dịch tiếp sau, đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ 18 tháng sau đó, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1704



« Trả lời #14 vào lúc: 18 Tháng Chín, 2023, 07:46:45 am »

TẦM NHÌN VÀ TƯ TƯỞNG CHỈ ĐẠO CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỚI CHIẾN DỊCH TÂY BẮC 1952

Đại tá, TS LÊ VĂN THÁI
Chủ nhiệm bộ môn Lịch sử Tư tưởng quân sự,
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam
Đại úy LÊ MẠNH TIẾN
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam


Ngay từ đầu cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược nổ ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải thích dễ hiểu về quy luật chiến tranh và khẳng định cuộc kháng chiến của nhân dân ta dù phải trải qua nhiều khó khăn, gian khổ nhưng nhất định thắng lợi. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Người, cuộc kháng chiến của ta ngày càng lớn mạnh, tinh thần chiến đấu của quân dân ta ngày càng lên cao. Nhằm thúc đẩy cuộc kháng chiến phát triển lên một bước mới mang tính quyết định, sau chiến dịch Hòa Bình kết thúc thắng lợi, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định chuyến hướng tiến công chủ yếu của bộ đội chủ lực lên Tây Bắc. Đây là chủ trương đúng đắn, thể hiện tầm nhìn và tư tưởng chỉ đạo sáng suốt của cơ quan lãnh đạo kháng chiến do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu Tây Bắc là địa bàn chiến lược quan trọng của Bắc Bộ Việt Nam nói riêng, của Bắc Đông Dương nói chung. Phía Tây là biên giới giáp hai tỉnh Phong Xa Lý và Sâm Nưa của Lào. Phía Bắc là biên giới giáp tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Phía Đông là căn cứ địa Việt Bắc. Phía Nam là tỉnh Hòa Bình, nối liền với các tỉnh thuộc Liên khu 3 và Liên khu 4. Phần lớn đất đai vùng này là núi cao, rừng rậm; núi xen kẽ cao nguyên và thung lũng. Đường vào Tây Bắc vừa ít lại phải qua nhiều sông suối. Hai trục đường lớn đi vào là con đường 41 từ Hòa Bình đi vào Mộc Châu và đường 13 từ Yên Bái vào Nghĩa Lộ. Với một địa hình như vậy, khi tiến quân vào Tây Bắc, ta thuận lợi trong việc giấu quân, bất ngờ khi tiến công; hạn chế được ưu thế về vũ khí kỹ thuật quân sự của đối phương, khoét sâu chỗ yếu của chúng trong quá trình tác chiến. Hơn nữa ở Tây Bắc, địch tương đối sơ hở, lực lượng của chúng chỉ có 8 tiểu đoàn và 41 đại đội, phân tán trên 144 cứ điểm1 (Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, tập 1, Nxb Quân đội nhân dân, H. 1994, tr.364), nên ta có điều kiện tiến công tiêu diệt nhiều sinh lực đối phương.


Tiến công làm chủ được Tây Bắc, ta không những bảo vệ vững chắc khu đầu não kháng chiến Việt Bắc, tạo thành thế liên hoàn nối liền một dải với hậu phương kháng chiến rộng lớn mà còn có điều kiện thuận lợi trong việc mở rộng giao lưu quốc tế, đặc biệt là tăng cường thêm tình đoàn kết chiến đấu Việt - Lào cùng chống kẻ thù chung. Mặt khác, tiến công vào Tây Bắc, thông qua tuyên truyền vận động nhân dân và hoạt động tác chiến, ta không những giải phóng nhân dân và phần lớn đất đai mà còn đập tan mưu đồ chia rẽ khối đoàn kết dân tộc của thực dân Pháp.


Do chiến dịch Tây Bắc có ý nghĩa quân sự, chính trị to lớn, nên từ tháng 4 năm 1952, Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị xúc tiến công tác chuẩn bị và sự chuẩn bị cho chiến dịch đó phải khẩn trương chu đáo về mọi mặt, trong đó chú trọng đến vấn đề xây dựng phương án tác chiến và kế hoạch hậu cần.


Chấp hành chỉ thị của Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng Quân ủy và Bộ Tổng tư lệnh chỉ đạo Bộ Tổng tham mưu nhanh chóng triển khai lập phương án tác chiến. Qua nghiên cứu, Bộ Tổng tham mưu dự kiến chia chiến dịch làm ba đợt: Đợt 1, tiêu diệt Phân khu Nghĩa Lộ và Tiểu khu Phù Yên, đồng thời cho một bộ phận chủ lực thâm nhập vùng Quỳnh Nhai phối hợp với bộ đội địa phương kiềm chế địch; đợt 2, nhanh chóng đánh Sơn La kết hợp với việc cắt đường 41 và hoạt động ở vùng sau lưng địch để cô lập Sơn La; đợt 3, tiến công Sơn La1 (Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Viẻt Nam, Tóm tát cac chiến dịch trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Nxb Quân đội nhân dân, H. 2000, tr.390). Để phân tán lực lượng đối phương, ta tổ chức nghi binh ở Bắc Giang, Phúc Yên và giao nhiệm vụ cho các tỉnh tả ngạn, hữu ngạn sông Hồng tích cực hoạt động phối hợp. Lực lượng tham gia chiến dịch gồm các đại đoàn 308 (3 trung đoàn), 312 (3 trung đoàn), 316 (2 trung đoàn), Tiểu đoàn 910 thuộc Trung đoàn 148; 6 đại đội sơn pháo 75mm, 3 đại đội cối 120mm, ba tiểu đoàn thuộc Trung đoàn công binh 151, Đại đoàn công pháo 351 và 11 đại đội bộ đội địa phương Yên Bái, Lai Châu, Sơn La, Lào Cai. Hoạt động vùng sau lưng địch ở Liên khu 3 là các đại đoàn 320, 304.


Về hậu cần, dự kiến lượng vật chất đảm bảo cho chiến dịch khoảng 9.000 tấn lương thực, thực phẩm, 120 tấn vũ khí, đạn và dụng cụ thuốc men. Để vận chuyển lượng vật chất đó từ hậu phương ra tiền tuyến cần huy động khoảng 35.000 dân công1 (Bộ Quốc phòng. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam. Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), tạp 2. Nxb Quân đội nhân dân. H. tr.206).


Trước nhu cầu về nhân lực, vật lực phục vụ chiến dịch, Chính phủ giao các tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa, Hòa Bình, Sơn La... trực tiếp phục vụ hướng đường 41 Sơn La; các tỉnh Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Tuyên Quang, Yên Bái trực tiếp phục vụ hướng Nghĩa Lộ. Để tạo điều kiện cho công tác huy động dân công được thuận lợi, Chính phủ ban hành Điều lệ tạm thời về huy động và sử dụng dân công. Điều lệ quy định chế độ làm việc và tiêu chuẩn tính công cho dân công gánh trên đường rừng núi. Bộ Tổng tư lệnh phân công đồng chí Trần Đăng Ninh, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp trực tiếp phụ trách cung cấp tiền phương, đồng thời lệnh cho cơ quan đảm bảo hậu cần không được chuyển vật phẩm lên trước lập chân hàng mà phải chuẩn bị ở tả ngạn sông Hồng, khi chiến dịch mở màn mới tổ chức vận chuyển theo sát các mục tiêu tiến công nhằm đảm bảo bí mật, bất ngờ cho chiến dịch.


Trong không khí khẩn trương chuẩn bị cho chiến dịch, ngày 24 tháng 6 năm 1952, Tổng Quân ủy tổ chức Hội nghị cung cấp toàn quân lần thứ nhất. Đến dự và phát biểu chỉ đạo hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ bổn phận của cán bộ cung cấp "là phục vụ chiến sĩ đi đánh giặc và những người dân công đi giúp chiến dịch. Đối với chiến sĩ phải săn sóc họ, làm sao cho họ đã ăn, đủ mặc, đủ súng, đủ thuốc. Đối với dân công cũng phải như vậy, nếu để họ đói, họ ốm, ảnh hưởng đến công tác của các chú trước, rồi ảnh hưởng đến cả chiến dịch. Các chú phải làm thế nào một bát gạo, một đồng tiền, một viên đạn, một viên thuốc một tấc vải, phải đi thẳng đến chiến sĩ"1 (Hồ Chí Minh - Những bài viết và nói về quân sự, tập 2. Nxb Quân đội nhân dân. H 1987, tr 146). Tiếp đó, nhằm tăng cường hoạt động quân sự sau lưng địch phối hợp với chiến trường Tây Bắc, từ ngày 17 tháng 7 đến ngày 15 tháng 8, Trung ương Đảng và Tổng Quân ủy tổ chức Hội nghị chiến tranh du kích Bắc Bộ. Phát biểu tại hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Trước hết nội bộ, tức là quân, dân, chính, Đảng phái đoàn kết chặt chẽ... Phải nghiên cứu kỹ, áp dụng đúng và triệt để thi hành những chỉ thị, mệnh lệnh của Trung ương và của Chính phủ. Điểm trọng yếu là bất kỳ bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích đều phải bám sát lây dân, rời dân ra nhất định thất bại. Bám sát lấy dân là làm sao cho được lòng dân, dân tin, dân mến, dân yêu... Bộ đội chủ lực trong địch hậu có nhiệm vụ giúp đỡ bộ đội địa phương và dân quân du kích về tổ chức, huấn luyện mọi mặt, giúp đỡ chứ không bao biện. Hơn nữa phải giúp đỡ cả nhân dân..."2 (Hồ Chí Minh. Toàn tập. tập 6 (1950 - 1952). Nxb Chính trị quốc gia. H 2009. tr 525).


Tây Bắc là địa bàn chiến lược quan trọng nhưng dân cư thưa, lúc đó chỉ có khoảng 14 vạn dân gồm nhiều đồng bào dân tộc thiểu số3 (Chiến dịch tiến công Tây Bắc (Thu Đông 1952). Nxb Quân đội nhân dân. H 1992. tr 12). Để động viên nhân dân ủng hộ, hăng hái tham gia kháng chiến nhiều hơn nữa, tháng 8 nủm 1952, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về chính sách vận động dân tộc ít người. Cũng trong tháng 8, Chủ tịch Hồ Chí Minh tự tay soạn thảo "Tám điều mệnh lệnh của Chính phủ Dân chủ cộng hòa Việt Nam" (công bố ngày 9-9). Đây là những quy định cụ thể nhằm bảo vệ tính mạng, tài sản, nghề nghiệp của nhân dân; xử lý tài sản của giặc Pháp và bọn phản quốc; bảo vệ chùa chiền, nhà thờ, trường học, bệnh viện và các cơ quan văn hóa, xã hội; bảo vệ tính mạng, tài sản của kiều dân nước ngoài; giữ gìn trật tự trị an; thưởng người có công, phạt người có tội; tổ chức lại nhân dân để tăng gia sản xuất và để giúp chính quyền, quân đội. Tinh thần cơ bản của Tám điều mệnh lệnh là "Giải phóng cho đồng bào khỏi ách nô lệ và giúp đỡ đồng bào xây dựng một đời sống tự do, sung sướng hơn"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Sđd, tr. 564-567).
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1704



« Trả lời #15 vào lúc: 18 Tháng Chín, 2023, 07:48:27 am »

Cuối tháng 8 năm 1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh nghe Đại tướng Võ Nguyên Giáp trình bày kế hoạch tác chiến chiến dịch Tây Bắc. Cuối buổi làm việc, Người chỉ rõ: "Đây là lần đầu tiên ta mở chiến dịch lớn, địa hình hiểm trở; cần nắm chắc địa hình và chú trọng thực hiện đúng chính sách dân tộc, giúp đỡ đồng bào dân tộc, bộ đội phải giữ kỷ luật dân vận''2 (Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Hồ Chí Minh - Biên niên sự kiện quân sự (1919 - 1969), Nxb Quân đội nhân dân, H. 2011, tr. 360).


Đầu tháng 9 năm 1952, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định mở chiến dịch Tây Bắc nhằm mục đích: "Tiêu diệt sinh lực địch, tranh thủ nhân dân, giải phóng một bộ phận đất đai có tính chất quan trọng về chiến lược"3 (Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng, Toàn tập. tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2000, tr. 304). Ngày 9 tháng 9, Bộ Chính trị và Người quyết định thành lập Bộ chỉ huy chiến dịch, chỉ định các đồng chí: Võ Nguyên Giáp - Chỉ huy trưởng, Hoàng Văn Thái - Tham mưu trưởng, Nguyễn Chí Thanh - Chủ nhiệm chính trị, Nguyễn Thanh Bình - Chủ nhiệm Cung cấp. Cũng trong ngày 9 tháng 9, mặc dù trời mưa to, lại phải qua con suối nước chảy mạnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn vượt qua con suối đến dự Hội nghị phổ biến kế hoạch chiến dịch Tây Bắc do Bộ Tổng tư lệnh tổ chức. Phát biểu chỉ đạo Hội nghị, Người nhấn mạnh: "Trung ương Đảng và Tổng Quân ủy đã cân nhắc kỹ chỗ dễ và chỗ khó của chiến trường sắp đến và quyết tâm là chiến dịch này phải đánh cho thắng lợi, Quyết tâm của Trung ương chưa đủ, còn phái để các chú cân nhắc kỹ thấy rõ cái dễ và cái khó để truyền quyết tâm đó cho các chú. Trung ương và các chú quyết tâm cũng chưa đủ, mà phải làm cho quyết tâm đó xuống đến mọi người chiến sĩ. Quyết tâm đó từ Trung ương qua các chú mà đến người chiến sĩ. Quyết tâm đó phải thành một khối thống nhất từ trên xuống dưới và từ dưới lên trên... Phải quyết tâm chiến đấu, quyết tâm chịu khổ, chịu khó, quyết tâm khắc phục mọi khó khăn, quyết tâm chấp hành chính sách của Trung ương Đảng và Chính phủ. Nghĩa là trong thái độ, trong tư tưởng, trong hành động, trong chiến đấu, bất kỳ một việc lớn hay nhỏ đều phải có quyết tâm làm cho bằng được"1 (Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 6, Sdd. tr. 558). Biết công tác đảm bảo hậu cần chiến dịch rất khó khăn vì địa bàn tác chiến xa hậu phương Việt Bắc và Thanh - Nghệ - Tĩnh nên Người càn dặn: Cán bộ, chiến sĩ bên cung cấp phải có quyết tâm để có đủ lương thực, vũ khí cho bộ đội. Còn bên bộ đội thì phải có quyết tâm chịu đựng lúc thiếu thốn, lúc cần thì ra sức giúp đỡ anh em cung cấp. Phải quán triệt sâu sắc rằng "lương thực, vũ khí là mồ hôi, nước mắt của đồng bào, là xương máu của bộ đội. Vì vậy phải quý trọng nó, phải tiết kiệm, ngăn nắp, phải sử dụng hợp lý"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6. Sđd, tr. 559, 560, 573, 575), về chính sách đối với đồng bào thiểu số "Chính phủ đã có quy định, các chú và bộ đội phải làm đúng. Đó là một cách tranh thủ nhân dân để phá tan âm mưu của địch "lấy người Việt hại người Việt". Phải làm cho mỗi chiến sĩ là một người tuyên truyền"2 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6. Sđd, tr. 559, 560, 573, 575).


Sau Hội nghị phổ biến kế hoạch chiến dịch Tây Bắc, các đơn vị phấn khởi xuất quân với quyết tâm chiến đấu giành thắng lợi. Ngày 1 tháng 10 năm 1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi hai bức thư đến bộ đội và dân công. Trong "Thư gửi các cán bộ và chiến sĩ chiến dịch Tây Bắc" Người nhấn mạnh: Chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng. Các chú phải đánh cho thắng. Tất cả cán bộ và chiến sĩ đều phải: Quyết tâm chiến đấu, triệt để chấp hành mệnh lệnh; bền bỉ, dẻo dai khắc phục mọi khó khăn, gian khổ; thương dân, trọng dân và tốt với dân; tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giành cho được toàn thắng3 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6. Sđd, tr. 559, 560, 573, 575). Trong "Thư gửi các chiến sĩ dân công ở Mặt trận Tây Bắc" Người khẳng định: Các cô, các chú cũng là chiến sĩ, cũng có công như các chiến sĩ... Tất cả các cô, các chú đều phải: Quyết tâm làm tròn nhiệm vụ phục vụ bộ đội... khắc phục mọi khó khăn; đảm bảo việc cung cấp đầy đủ cho bộ đội; cùng bộ đội giành toàn thắng cho chiến dịch"4 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6. Sđd, tr. 559, 560, 573, 575).


Những lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị phổ biến kế hoạch chiến dịch Tây Bắc cũng như trong hai bức thư gửi cán bộ, chiến sĩ và dân công ở Mặt trận Tây Bắc cổ vũ mạnh mẽ các lực lượng tham gia chiến dịch quyết tâm vượt qua mọi khó khăn gian khổ, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.


Trên cơ sở chuẩn bị chu đáo về mọi mặt, ngày 14 tháng 10 năm 1952, chiến dịch Tây Bắc mở màn. Trải qua gần hai tháng chiến đấu, quân dân ta tiêu diệt các vị trí của địch từ sông Thao đến tả ngạn sông Đà; tiếp đó vượt sông Đà giải phóng một vùng rộng lớn từ Mộc Châu đến Điện Biên Phủ, đồng thời đánh bại cuộc hành quân của địch lên hậu phương chiến dịch ở Phú Thọ, Tuyên Quang. Ngày 10 tháng 12 năm 1952, ta chủ động kết thúc chiến dịch. Trong chiến dịch này ta đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 6.000 tên địch (nếu tính cả trung du và đồng bằng thì ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 13.800 tên), giải phóng 28.500km2 với 25 vạn dân; đập tan âm mưu củng cố "Xứ Thái tự trị", "Xứ Nùng tự trị" của Pháp.


Theo dõi sát diễn biến chiến sự ở Mặt trận Tây Bắc và đồng bằng. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi bộ đội và dân công: "Bác được tin các chú, các cô thắng trận, bắt nhiều tù binh, thu nhiều vũ khí, giải phóng đồng bào và một phần đất đai Tây Bắc, đánh du kích mạnh ở đồng bằng... Chiến dịch này các cô, các chú quyết tâm từ trên xuống dưới: bộ đội thì quyết tâm chiến đấu, dân công thì quyết tâm phục vụ, chịu gian khổ nhiều. Đơn vị nào, đoàn nào cũng có thành tích"1 (Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 6, Sđd. tr.590). Ngày 29 tháng 1 năm 1953, tại Hội nghị tổng kết chiến dịch Tây Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương Đảng, Chính phủ biểu dương cán bộ, chiến sĩ, dân công, Người nói: "Trung ương, Chính phủ khen ngợi toàn thể cán bộ, chiến sĩ. Trung ương, Chính phủ, Bác bằng lòng các chú, lần này chưa phải hoàn toàn, nhưng hơn mọi lần trước"2 (Những tài liệu chỉ đạo chiến dịch của Trung ương Đảng. Tổng Quân ủy và Bộ Tổng tư lệnh. Bộ Tổng tham mưu xuất bản. 1963. tập 4. tr. 419).


Chiến thắng của quân và dân ta trong chiến dịch Tây Bắc có ý nghĩa chiến lược về quân sự, chính trị, kinh tế. Chiến thắng đó bắt nguồn từ nhiều nhân tố, trước hết là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt của Người, quân và dân ta vượt qua muôn vàn khó khăn gian khổ, chiến đấu anh dũng, giành thắng lợi vẻ vang; tạo đà cho những thắng lợi tiếp theo trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1704



« Trả lời #16 vào lúc: 18 Tháng Chín, 2023, 07:56:51 am »

CÔNG TÁC ĐẢNG, CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ TRONG
CHIẾN DỊCH TÂY BẮC (1952) - MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM

Trung tướng MAI QUANG PHẤN
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị
Quân đội nhân dân Việt Nam


Thắng lợi của chiến dịch Hoà Bình - Đông Xuân 1951-1952 đã làm thay đổi cục diện trên chiến trường chính Bắc Bộ có lợi cho ta. Cùng với thắng lợi đó, bộ đội ta đã khẩn trương tiến hành tổng kết kinh nghiệm tác chiến chiến dịch. Từ tháng 5 năm 1952, các đơn vị đã bước vào chỉnh huấn chính trị nhằm nâng cao nhận thức và trình độ giác ngộ ý thức dân tộc và ý thức giai cấp. Đây là cuộc chỉnh huấn chính trị tập trung lớn nhất của quân đội ta kể từ khi thành lập. Cuộc chỉnh huấn chính trị kết thúc, các đơn vị lại chuyển ngay sang cuộc chỉnh huấn quân sự. Cùng với các cuộc chỉnh huấn nói trên, các đơn vị chủ lực còn được tiến hành chấn chỉnh tổ chức biên chế, trang bị và thực hiện Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng về "Tổ chức Đảng trong bộ đội chủ lực" trong toàn quân từ ngày 1 tháng 7 năm 1952.


Để phát huy thắng lợi đã giành được và kết quả của các cuộc chỉnh huấn, đồng thời từ kinh nghiệm chọn hướng chiến lược qua chiến dịch Hòa bình, Tổng Quân ủy nhận định chiến trường Tây Bắc có tầm chiến lược quan trọng, là địa bàn ta có nhiều điều kiện để tác chiến tập trung tiêu diệt lớn sinh lực địch và lúc này không có hướng nào địch yếu như Tây Bắc.


Tây Bắc là một vùng chiến lược quan trọng của thực dân Pháp. Từ đây có thể uy hiếp căn cứ địa Việt Bắc và che chở cho Thượng Lào. Trên địa bàn chiến dịch, địch chia làm bốn phân khu gồm: Lai Châu, Sông Đà, Nghĩa Lộ, Sơn La; và ba tiểu khu độc lập là: Thuận Châu, Phù Yên và Tuần Giáo. Nhân dân Tây Bắc chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số, kinh tế nghèo nàn, cơ sở chính trị non yếu, đường vận chuyển tiếp tế khó khăn, khả năng huy động nhân lực, vật lực tại chỗ rất hạn chế.


Đầu tháng 9 năm 1952, Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Tây Bắc nhằm: "Tiêu diệt sinh lực địch, tranh thủ nhân dân vùng Tây Bắc, giải phóng một bộ phận đất đai ở Tây Bắc". Ngày 14 tháng 10 năm 1952, chiến dịch mở màn và được tiến hành qua ba đợt: Đợt 1, tấn công Phân khu Nghĩa Lộ và Tiểu khu Phù Yên; đợt 2, tấn công chủ yếu vượt sông Đà, đánh vào khu phòng thủ của địch trên cao nguyên Mộc Châu; đợt 3, tấn công Sơn La. Sau gần hai tháng chiến đấu quyết liệt, chiến dịch đã kết thúc thắng lợi to lớn. Địch bị tiêu diệt 13.800 tên ở cả hai mặt trận Tây Bắc và đồng bằng. Nhiều tiểu đoàn, đại đội thuộc các binh đoàn cơ động của địch bị tiêu diệt gọn. Nhiều tên chỉ huy phân khu, tiểu khu, đồn trưởng tham chiến lâu năm ở Tây Bắc đã bị tiêu diệt hoặc bị bắt sống. Hầu hết quân ngụy người địa phương, chỗ dựa của địch để chiếm đóng Tây Bắc bị tan rã. Tỉnh Sơn La (trừ Nà Sản), bốn huyện phía Nam Lai Châu, hai huyện phía Tây Yên Bái rộng 28.000km2 với 25 vạn dân được giải phóng. Căn cứ địa Việt Bắc được mở rộng và củng cố thêm vững chắc. Sau chiến thắng Tây Bắc, cách mạng Việt Nam có điều kiện phối hợp thuận lợi hơn với cách mạng Lào.


Chiến dịch Tây Bắc thắng lợi là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố, cả khách quan và chủ quan, trong đó có vai trò rất quan trọng của công tác đảng, công tác chính trị trong chiến dịch. Từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức hoạt động công tác đảng, công tác chính trị trong chiến dịch Tây Bắc có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm chủ yếu sau:

Một là, quán triệt sâu sắc chủ trương, quyết tâm của Trung ương Đảng, Tổng Quân ủy, ra chỉ thị công tác đảng, công tác chính trị đúng đắn, kịp thời.

Đây là bài học kinh nghiệm hàng đầu đối với hoạt động công tác đảng, công tác chính trị trong tác chiến chiến dịch. Khác với các chiến dịch trước đó, chiến dịch Tây Bắc diễn ra trên một địa bàn rộng lớn, rừng núi hiểm trở, việc cơ động của bộ đội và công tác bảo đảm cho chiến đấu, cứu chữa thương, bệnh binh gặp rất nhiều khó khăn. Hơn nữa, nơi đây chủ yếu là đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống. Vì vậy, việc quán triệt sâu sắc chủ trương, quyết tâm của Trung ương Đảng, Tổng Quân ủy, ra chỉ thị công tác Đảng, công tác chính trị đúng đắn, kịp thời là vấn đề rất quan trọng và cấp thiết.


Ngay sau khi Bộ Chính trị Trung ương Đảng chủ trương mở chiến dịch Tây Bắc, từ ngày 6 đến ngày 9 tháng 9 năm 1952, Tổng Quân ủy, Bộ Tổng tư lệnh đã tổ chức Hội nghị cán bộ chiến dịch Tây Bắc. Hội nghị vinh dự được Chủ tịch Hồ Chí Minh tới dự và nói chuyện. Hội nghị tập trung thảo luận và quyết định nhiều vấn đề quan trọng nhằm bảo đảm cho chiến dịch thắng lợi.


Về mục đích của chiến dịch, Hội nghị nhất trí ba vấn đề lớn đã được Bộ Chính trị xác định là: "Tiêu diệt sinh lực địch - Tranh thủ nhân dân vùng Tây Bắc - Giải phóng một bộ phận đất đai ở Tây Bắc". Hội nghị cho rằng, ba nhiệm vụ này bao gồm cả nội dung quân sự và chính trị, có quan hệ mật thiết với nhau và đều quan trọng, trong đó, tiêu diệt sinh lực địch mới giành được dân và giải phóng được đất đai, làm cho chiến dịch thắng lợi to lớn, tạo điều kiện và cơ sở vững chắc để thúc đẩy kháng chiến mau thành công.


Về chủ trương tác chiến được Tổng Quân ủy xác định là: Tập trung binh lực tiêu diệt địch ở Phân khu Nghĩa Lộ và Tiểu khu Phù Yên, sau đó hết sức tranh thủ thời gian tiến quân ngay lên Sơn La để nhanh chóng tiêu diệt địch, giải phóng Sơn La. Trong mọi trường hợp, dù phải tác chiến hai hay ba bước, nhưng tinh thần của Tổng Quân ủy là quyết tâm giải phóng Sơn La.


Tổng Quân ủy chỉ rõ những việc cần chú ý trong chỉ đạo tổ chức hoạt động công tác đảng, công tác chính trị chiến dịch phải nắm vững là: Chiến dịch này thời gian dài, bộ đội phải liên tục chiến đấu, cho nên về tổ chức, phải được bổ sung chấn chỉnh một cách nhanh chóng. Phải chuẩn bị sẵn tân binh và cán bộ để kịp thời bổ sung. Phải chú trọng chăm sóc thương binh và bệnh binh để họ mau trở về đơn vị chiến đấu...


Quán triệt sâu sắc và nghiêm chỉnh chấp hành chủ trương, quyết tâm của Đảng, Tổng Quân ủy, ngày 19 tháng 9 năm 1952, Tổng cục Chính trị ra "Chỉ thị về công tác chính trị chiến dịch Thu Đông 1952" nêu rõ những công việc cụ thể cần thực hiện như: "A. Động viên sâu rộng, nhiều lần và kế tiếp để làm cho thấm nhuần quyết tâm tứ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, làm cho ai nấy đều hăng hái, phấn khởi, tích cực hoàn thành nhiệm vụ của mình; B. Bảo đảm cung cấp kịp thời, tìm đủ mọi cách tăng cường công tác cung cấp, hết sức giúp đỡ, động viên ngành cung cấp, làm cho bộ đội luôn luôn được khỏe mạnh để củng cố sức chiến đấu; C. Bảo đảm chiến thuật được hoàn thành, kết hợp với kỹ thuật...; D. Bảo đảm chấp hành chính sách dân tộc thiểu số của Trung ương và kiên quyết thi hành 8 điều mệnh lệnh của Hồ Chủ tịch (tức là giữ vững kỷ luật của quần chúng); E. Hoàn thành công tác ngụy vận, làm đúng chính sách tù, hàng binh để mở đường tốt đẹp cho công việc tranh thủ nhân dân...; F. Tăng cường công tác chính sách đối với dân công...; G. Nâng cao tinh thần thương yêu nhau ngoài mặt trận, giải quyết chu đáo công tác thương binh..."1 (Công tác chính trị chiến dịch. tập 3, phần VIII, Tổng cục Chính trị, H 1959, tr 43).


Chỉ thị còn yêu cầu các cấp ủy phải thảo luận kỹ lưỡng để hiểu rõ quyết tâm của Trung ương và bàn kỹ về công tác lãnh đạo; đồng thời phải làm như thế nào để động viên các cấp ủy dưới, nhất là cấp chi bộ hoàn thành nhiệm vụ.


Cùng với chỉ thị chung, cơ quan chính trị chiến dịch còn ra những chỉ thị, hướng dẫn chuyên ngành, đi sâu vào lãnh đạo đảm bảo các mặt, các khâu công tác chuyên môn như: "Chuẩn bị công tác chính trị chiến dịch Tây Bắc của các ban, ngành trong cơ quan chính trị", "Chỉ thị về công tác chính trị đối với dân công phục vụ tiền tuyến", "Chỉ thị về thưởng, phạt trong Thu Đông 1952", "Chỉ thị về mấy vấn đề trong phong trào anh hùng và chiến sĩ thi đua",...


Chỉ thị công tác đảng, công tác chính trị đúng đắn, kịp thời, toàn diện là yếu tố hết sức quan trọng để cấp ủy, chỉ huy, cơ quan chính trị, đội ngũ cán bộ chính trị các cấp lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức tốt việc giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng, xây dựng ý chí quyết tâm chiến đấu hoàn thành mọi nhiệm vụ được Trung ương, Tổng Quân ủy giao. Vấn đề này cần được nghiên cứu, vận dụng, bổ sung, phát triển trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc nêu xảy ra.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1704



« Trả lời #17 vào lúc: 18 Tháng Chín, 2023, 07:59:51 am »

Hai là, thường xuyên làm tốt công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng, động viên cổ vũ kịp thời tinh thần chiến đấu dũng cảm, ngoan cường, bền bỉ, dẻo dai của bộ đội trong cả quá trình diễn ra chiến dịch.


Quán triệt quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin: "Trong mọi cuộc Chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi đều tuỳ thuộc vào tinh thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường, lòng tin vào cuộc chiến tranh chính nghĩa, sự giác ngộ rằng cần phải hy sinh đời mình cho hạnh phúc của anh em là yếu tố nâng cao tinh thần của binh sĩ và làm cho họ chịu đựng những khó khăn chưa từng thấy"1 (V. I. Lênin, Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ. M. 1977, tr. 147). Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: "Quân đội mạnh là nhờ giáo dục khéo, nhờ chính sách đúng và nhờ kỷ luật nghiêm"2 (Hồ Chí Minh, Toàn tập. tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2000, tr. 560).


Xuất phát từ đặc điểm tình hình địch, ta, địa hình, thời tiết; mục tiêu nhiệm vụ của chiến dịch và quyết tâm của Tổng Quân ủy; kế thừa kinh nghiệm của các chiến dịch trước đó, ngay trong Hội nghị cán bộ chiến dịch Tây Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã huấn thị: "Trung ương Đảng và Tổng Quân ủy đã cân nhắc kỹ chỗ dễ và chỗ khó của chiến trường sắp đến, và quyết tâm là chiến dịch này phải đánh cho thắng lợi. Quyết tâm của Trung ương chưa đủ, cần phải để các chú cân nhắc kỹ thấy rõ cái dễ và cái khó để truyền cái quyết tâm đó cho các chú. Trung ương và các chú quyết tâm cũng chưa đủ, mà phải làm cho quyết tâm đó xuống đến mọi người chiến sĩ". "Quyết tâm đó phải thành một khối thống nhất từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên". "Gặp thuận lợi thì phải quyết tâm phát triển, gặp khó khăn thì phải quyết tâm khắc phục". "Phải quyết tâm chiến đấu, quyết tâm chịu khổ, chịu khó, quyết tâm khắc phục mọi khó khăn, quyết tâm chấp hành chính sách của Trung ương Đảng và Chính phủ. Nghĩa là trong thái độ, trong tư tưởng, trong hành động, trong chiến đấu, bất kỳ mọi việc lớn hay việc nhỏ đều phải có quyết tâm làm cho bằng được"1 (Hồ Chí Minh, Về đấu tranh vũ trang và lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb Quân đội nhân dân, H. 1972, tr. 272 - 273).


Thực hiện lời huấn thị của Bác, hội nghị đã xác định: Về tư tưởng, cần thấy rõ tất cả những khó khăn của vấn đề lãnh đạo tư tưởng trong liên tục chiến đấu. Phải có dự kiến và bám sát diễn biến để lãnh đạo kịp thời, đề phòng những tư tưởng thắng thì chủ quan, tự mãn, bại thì bi quan dao động; đề phòng những tư tưởng lo ngại thương vong, lo ngại cho việc xây dựng đơn vị, phải thấy rõ rằng chịu đựng gian khổ và liên tục tác chiến là cách rèn luyện tốt nhất cho đơn vị. Công tác chính trị phải lãnh đạo đảm bảo thực hiện tốt về chỉ đạo chiến thuật là: Bảo đảm hành quân nhanh chóng, bao vây chặt, truy kích đến cùng, tiêu diệt gọn... Nói tóm lại, việc lãnh đạo tư tưởng cần làm cho thấu triệt quyết tâm, động viên liên tục chiến đấu, phát huy đến cùng tinh thần khắc phục khó khăn, chịu dựng gian khổ. Đối với dân thì bảo đảm giữ vững kỷ luật chính trị, đối với đơn vị bạn thì giữ đúng tinh thần đoàn kết phối hợp. Đó là một bảo đảm rất quan trọng cho chiến dịch được thành công.


Nắm vững chủ trương của Tổng Quân ủy, Chỉ thị của Tổng cục Chính trị, cơ quan chính trị khẩn trương lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức phổ biến quán triệt mục đích ý nghĩa, yêu cầu về lãnh đạo và chỉ huy đối với mọi tư tưởng và hành động của bộ đội trước, trong và sau chiến dịch. Tiến hành học tập thấu suốt chỉ thị của Đảng về "Thi hành chính sách dân tộc thiểu số ở khu vực Tây Bắc", "Tám điều mệnh lệnh của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà" về chính sách dân vận trong chiến dịch, "Huấn thị của Hồ Chủ tịch tại Hội nghị cán bộ chính trị chiến dịch Tây Bắc"...


Nhờ làm tốt công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng nên cán bộ, chiến sĩ trên hướng tấn công chủ yếu cũng như thứ yếu, trực tiếp chiến đấu cũng như bảo đảm, lúc thuận lợi cũng như khó khăn... đều xác định tốt nhiệm vụ, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, thắng lợi của từng trận đánh và cả chiến dịch, quyết tâm khắc phục mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh để hoàn thành nhiệm vụ.


Thực tiễn trên chiến trường sau thắng lợi đợt 1, bộ đội ta bước vào chuẩn bị tấn công đợt 2 bên hữu ngạn sông Đà. Lúc này địch thấy nguy cơ mất Tây Bắc nên chúng đã điều lực lượng cơ động đến tăng viện lên tới 10 tiểu đoàn Âu - Phi, xây dựng Nà Sản thành tập đoàn cứ điểm mạnh và lập cầu hàng không Hà Nội - Nà Sản. Đồng thời, để đỡ đòn cho Mặt trận Tây Bắc, địch đã tập trung 12 tiểu đoàn bộ binh và dù cùng nhiều phân đội hoả lực mạnh đánh sâu vào hậu phương ta ở Phú Thọ - Đoan Hùng, hòng uy hiếp căn cứ địa Việt Bắc, kéo lực lượng chủ lực của ta từ Tây Bắc về, làm giảm sức mạnh và nhịp độ tấn công của ta trên hướng chính, để chúng xoay xở đối phó lại kế hoạch Thu Đông của ta.


Đây là một tình huống hết sức phức tạp, ảnh hướng đến quyết tâm chiến lược. Trước tình hình đó, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo hết sức sáng suốt của Đảng ủy và Bộ chỉ huy chiến dịch, cùng với công tác quân sự và các mặt công tác khác, công tác giáo dục chính trị tư tưởng đã kịp thời động viên bộ đội tuyệt đối phục tùng chỉ huy, khẩn trương cơ động lực lượng, triển khai đội hình chiến đấu, giữ vững quyết tâm thực hiện thắng lợi đợt 2 chiến dịch.


Bài học về công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng trong chiến dịch Tây Bắc vẫn còn nguyên giá trị đối với hiện nay, nhất là trước yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch đối với nhân dân ta.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1704



« Trả lời #18 vào lúc: 18 Tháng Chín, 2023, 08:03:17 am »

Ba là, chủ động, kịp thời củng cố kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng lãnh đạo, chỉ huy, đặc biệt chú trọng các đơn vị tác chiến trên hướng chủ yếu.

Quy mô của chiến dịch Tây Bắc lớn, chiến đấu khốc liệt; mọi mặt công tác quân sự, chính trị, tư tưởng và tổ chức càng trở nên phức tạp. Đó là đòi hòi khách quan phải không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, của các cấp ủy đang từ Tổng Quân ủy đến các chi bộ; phải kịp thời củng cố, kiện toàn tổ chức cả trước, trong và sau chiến dịch.


Một vấn đề hết sức quan trọng liên quan đến công tác lãnh đạo, chỉ đạo của chiến dịch là: Đầu tháng 7 năm 1952, Trung ương Đảng ra Nghị quyết về tổ chức Đảng trong bộ đội chủ lực. Nghị quyết chỉ rõ: "Khi có chiến dịch lớn và cần thiết thì sẽ tổ chức ra Đảng ủy mặt trận do Trung ương chỉ định"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia. H. 2001, tr. 191). Tiếp đó, ngày 17 tháng 7 năm 1952, Trung ương Đảng ra Nghị quyết thành lập Khu ủy Tây Bắc và xác định: "Khu ủy Tây Bắc chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Tổng Quân ủy về những công tác có liên quan đến việc chuẩn bị và thực hiện kế hoạch quân sự trong khu này"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 13. Sđd, tr. 211); "Công tác trọng tâm của Khu ủy hướng vào việc chuẩn bị chiến trường, đồng thời chuẩn bị và xây dựng các căn cứ du kích và thu hồi các vùng được giải phóng"3 (Đảng Cộng sàn Việt Nam. Văn kiện Đảng. Toàn tập, tập 13, Sđd, tr. 212).


Đầu tháng 10 năm 1952, Trung ương Đảng quyết định thành lập Bộ chỉ huy chiến dịch gồm: Đồng chí Võ Nguyên Giáp, Chỉ huy trưởng; đồng chí Hoàng Văn Thái, Tham mưu trưởng; đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Chủ nhiệm Chính trị; đồng chí Nguyễn Thanh Bình, Chủ nhiệm Cung cấp.


Cùng với các nghị quyết, quyết định quan trọng của Trung ương Đảng, trong Chỉ thị về công tác chính trị chiến dịch của Tổng cục Chính trị còn nêu rõ: "... Phải phát huy cho được sức mạnh của công tác lãnh đạo của chi bộ, nghĩa là tất cả mọi quyết tâm và kế hoạch của thượng cấp đều nhờ sự lãnh đạo của chi bộ mà được hoàn thành"4 (Công tác chính trị chiến dịch, tập 3. phần VIII, Sđd, tr. 51).


Thực hiện các nghị quyết, chỉ thị trên, công tác xây dựng, củng cố kiện toàn tổ chức đảng, chỉ huy được tiến hành hết sức khẩn trương phù hợp với biên chế tổ chức các đơn vị tham gia chiến dịch. Guồng máy hoạt động chuẩn bị cho chiến dịch làm việc liên tục ngày đêm và đạt kết quả tốt ngay từ khi chuyển quân từ hậu phương ra tiền tuyến, mở đường vận tải bảo đảm cung cấp chiến dịch đều khẩn trương, giữ bí mật, an toàn mặc dù vô cùng gian nan vất vả. Việc củng cố kiện toàn tổ chức lãnh đạo, chỉ huy được tiến hành chặt chẽ, kịp thời trong các đợt tấn công của chiến dịch, cũng như kết thúc chiến dịch, trọng tâm là các đơn vị tác chiến trên hướng chủ yếu như: các đại đoàn 308, 312, 316; Đại đoàn công pháo 351, Trung đoàn bộ binh 148... Nhờ đó, quyết tâm chiến đấu của Bộ chỉ huy được giữ vững ngay trong những lúc khó khăn, quyết liệt nhất.


Diễn biến và kết quả thắng lợi to lớn của chiến dịch Tây Bắc đã chứng minh việc củng cố, kiện toàn tổ chức lãnh đạo, chỉ huy, biên chế tổ chức các đơn vị; sự phối hợp giữa các đơn vị trên các chiến trường, trên hướng chiến lược, chú trọng các đơn vị chủ lực, trên hướng chính và hướng nghi binh sau lưng địch. Trong Thông báo của Ban Bí thư về chiến thắng Tây Bắc đã nêu rõ: "Các chiến trường phối hợp đánh khá, đã chia xẻ được lực lượng địch. Đặc biệt, ta điều động một đơn vị chủ lực ở Tây Bắc về tác chiến ở Phú Thọ, có thể đã khiến địch hiểu lầm đại bộ phận chủ lực của ta đã rút về và phán đoán sai kế hoạch đợt 2 ở Tây Bắc"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng. Toàn tập, tập 14. Nxb Chính trị quốc gia, H. 2001, tr. 4).


Bài học về chủ động, kịp thời củng cố kiện toàn tổ chức lãnh đạo, chỉ huy trong chiến dịch Tây Bắc được nghiên cứu, vận dụng, kế thừa và phát huy trong chiến cuộc Đông - Xuân 1953 - 1954 mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1704



« Trả lời #19 vào lúc: 18 Tháng Chín, 2023, 08:04:08 am »

Bốn là, tích cực, chủ động làm tốt công tác dân vận, địch vận; phát huy sức mạnh tổng hợp của thế trận chiến tranh nhân dân.

Xuất phát từ đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện của Đảng. Để huy động một lực lượng lớn dân công, cấp ủy, chính quyền và nhân dân địa phương cho chiến dịch, bước vào thời kỳ chuẩn bị cho chiến dịch, Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị liên quan đến công tác dân vận, địch vận, huy động sức mạnh tổng hợp cho chiến tranh nhân dân. Quán triệt các nghị quyết, chỉ thị của trên, các đơn vị tham gia chiến dịch đã tăng cường giáo dục về quan điểm chiến tranh nhân dân của Đảng, cụ thể hóa trong việc hướng dẫn cán bộ, chiến sĩ về công tác dân vận, địch vận; chủ trương liên hệ, phối hợp, thống nhất với cấp ủy, chính quyền địa phương trong các hoạt động phá tề, trừ gian, diệt đồn bốt... cả trước, trong và sau chiến dịch. Các đơn vị chủ lực còn tích cực tham gia xây dựng cơ sở, dìu dắt, giáo dục huấn luyện trang bị cho lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương có nhận thức đúng đắn về mục đích của chiến dịch, phương châm tác chiến, cách đánh của ta và âm mưu, thủ đoạn của địch thực hiện chiến lược xây dựng "Xứ Thái tự trị", "Xứ Mường tự trị" ở Tây Bắc, dùng người Việt đánh người Việt. Nhò đó, ta đã huy động được một lực lượng lớn dân công tham gia làm đường, sửa đường vận chuyển vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm, thuốc men,... phục vụ chiến dịch; phong trào du kích phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hêt; tình cảm quân dân nhất trí và cùng quyết tâm cao thực hiện thắng lợi chiến dịch.


Công tác địch vận cũng dược các đơn vị quan tâm qua rút kinh nghiệm của các chiến dịch trước. Quán triệt chủ trương của trên, các đơn vị đã thống nhất kế hoạch và hành động giữa tác chiến và địch vận trong quá trình phát triển chiến đấu. Do nhận thức đúng đắn tác dụng của công tác địch vận và biết nắm thời cơ tiến hành, nên các đon vị chủ lực của ta đã áp sát địch, triển khai đội hình tấn công mà vẫn giữ được bí mật. Ta vừa đánh vừa kêu gọi binh lính địch đầu hàng, tiêu biểu như trận chiến đấu tấn công vào Phân khu Nghĩa Lộ và một số nơi khác.


Đánh giá về kết quả đạt được của công tác dân vận, địch vận, trong Báo cáo của Ban Bí thư Trung ương Đảng về chiến dịch Tây Bắc đã chỉ rõ: "Chính sách dân tộc thiếu số đúng của Đảng và Tám điều mệnh lệnh của Hồ Chủ tịch đã làm cơ sở cho công tác chính trị của ta được thắng lợi đối với nhân dân địa phương, đã huy động được họ ủng hộ bộ đội và làm tan rã ảnh hưởng của địch"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng, Toàn tập. tập 14, Nxb Chính trị quốc gia. H 2001. tr. 4).


Bài học kinh nghiệm về công tác dân vận, địch vận trong chiến dịch Tây Bắc, sau này đã được Đáng, Nhà nước, Quân đội kế thừa và phát triển sáng tạo trong chiến dịch Điện Biên Phủ, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc ngày nay.


Thắng lợi của chiến dịch Tây Bắc cách đây 60 năm, nhưng những bài học kinh nghiệm về hoạt động công tác đảng, công tác chính trị trong chiến dịch vẫn còn nguyên giá trị. Nắm vững những bài học đó, vận dụng sáng tạo, bổ sung và phát triển trong xây đựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, đòi hỏi cấp ủy, chỉ huy, chính ủy, chính trị viên, cơ quan chính trị các cấp trong toàn quân cần thực hiện tốt mấy vấn đề sau:

Thứ nhất, quán triệt sâu sắc Cương lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết của Quản ủy Trung ương, chỉ thị của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; chủ động, kịp thời ra chỉ thị công tác đảng, công tác chính trị, hướng dẫn, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị trong học tập, công tác và trong thực hiện nghiêm túc, triệt để; bảo đảm cho công tác đảng, công tác chính trị thực sự giữ vị trí, vai trò quan trọng trong xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.


Thứ hai, thường xuyên đẩy mạnh và không ngừng đổi mới công tác giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tinh thần yêu nước, bản chất, truyền thống anh hùng của quân đội; xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, tinh thần "quyết tâm", "thống nhất" cao, lối sống trong sạch lành mạnh, phương pháp, tác phong công tác, ý thức tổ chức kỷ luật của người quân nhân cách mạng, phẩm chất "Bộ đội Cụ Hồ" cho mọi cán bộ, chiến sĩ quân đội.


Thứ ba, trên cơ sở quán triệt sâu sắc nguyên tắc lãnh đạo, nguyên tắc tổ chức và cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội; thường xuyên chăm lo xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức chỉ huy, đội ngũ chính ủy, chính trị viên, cơ quan chính trị các cấp, các tổ chửc quần chúng trong cơ quan, đơn vị và toàn quân vững mạnh về mọi mặt. Đây chính là nhân tố quyết định bảo đảm hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ chiến đấu, lao động sản xuất và công tác được giao.


Thứ tư, trong bối cảnh quốc tế và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ chống phá cách mạng nước ta; những tác động mặt trái của kinh tế thị trường... đòi hỏi toàn quân phải nêu cao cảnh giác cách mạng, phân biệt rõ đối tượng, đối tác; nhạy bén, sắc sảo trong phân tích đánh giá và xử lý kịp thời các tình huống; tích cực chủ động và làm tốt công tác dân vận, xây dựng quan hệ quân dân cá nước; giữ gìn đoàn kết nội bộ; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ... Đó chính là những việc làm thiết thực nhất góp phần tôn vinh và làm tỏa sáng những thắng lợi của quân và dân ta đã giành được trong chiến dịch Tây Bắc nói riêng và cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược nói chung.
Logged
Trang: « 1 2 3 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM