Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 16 Tháng Tư, 2024, 04:16:06 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử Bộ đội Biên phòng Cao Bằng 1959-2009  (Đọc 3814 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #10 vào lúc: 03 Tháng Năm, 2023, 08:58:33 am »


Trước phong trào đấu tranh của nhân dân ngày một dâng cao, từ đầu năm 1944, thực dân Pháp điên cuồng khủng bố, đánh phá nhiều cơ sở cách mạng; bắt bớ, giết hại nhiều cán bộ, đảng viên, và dân thường. Chúng tăng cường đóng thêm nhiều đồn, nhằm không chế các tuyến đường giao thông liên lạc, hòng cô lập nhiều vùng căn cứ cách mạng. “Tại châu Hà Quảng, địch xây thêm các đồn Tổng Cọt, Bản Giới, Bó Khuy, Nà Giàng, Co Phầy, Đôn Chương. Ở Hoà An, xây thêm đồn Nà Luông, Nà Vài, Háng Hoá, Nà Ngần, Ben Le, Trương Lương, Hào Lịch; đặc biệt là đồn bốt vây quanh khu Lam Sơn. Ở Nguyên Bình, chúng xây thêm các đồn Phai Khắt, Nà Bao. Chúng còn huy động mật thám, cảnh sát từ Hà Nội lên Cao Bằng, bao vây, giăng lưới nhằm truy bắt cán bộ chủ chốt, phá tan căn cứ cách mạng...”1.

Trước tình hình đó. ngày 13.8.1944, liên Tỉnh Cao - Bắc - Lạng đã tổ chức hội nghị tại Lũng Sa bàn chủ trương phát động khởi nghĩa vũ trang trong phạm vi ba tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn. Khi Liên Tỉnh uỷ báo cáo tình hình và xin ý kiến, lãnh tụ Hồ Chí Minh2 đã phân tích tình hình cụ thể của ba tỉnh Cao - Bắc - Lạng và chỉ rõ: “Phát động vũ trang khởi nghĩa ngay thì địch sẽ tập trung đối phó. Cuộc đấu tranh bây giờ phải từ hình thức chính trị tiến lên hình thức quân sự. Song hiện nay chính trị trọng hơn quân sự, phải tìm ra hình thức thích hợp thì mới có thể đẩy phong trào tiến lên. Nếu phát động đấu tranh mà mỗi khi địch đến nhân dân lại phải tản cư vào rừng thì gặp rất nhiều khó khăn. Phải làm sao cứ hoạt động vũ trang mà nhân dân ở đâu cứ ở đấy sản xuất, chỉ cần tăng cường canh gác đề phòng không để địch bắt hại những người hoạt động”3. Người chủ trương thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, vì cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến toàn dân, vũ trang toàn dân. Trong quá trình thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, lãnh tụ Hồ Chí Minh xác định tầm quan trọng của công tác tổ chức, tuyên truyền và coi chính trị quan trọng hơn quân sự nên chỉ đạo chặt chẽ, cụ thể từ việc lựa chọn đội viên, cán bộ chỉ huy, trang bị vũ khí, chỉ rõ những phương pháp, nguyên tắc, biện pháp cần tuân thủ khi thành lập đội. Khi giao nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ huy Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân cho đồng chí Võ Nguyên Giáp, Người dặn “Phải dựa vào dân, dựa chắc vào dân, thì kẻ địch không sao tiêu diệt được. Tổ chức của đội phải lấy chi bộ Đảng làm hạt nhân lãnh đạo... Trong vòng một tháng phải có hoạt động để gây tin tưởng cho các chiến sỹ và gây truyền thống hành động tích cực nhanh chóng cho bộ đội”.

Ngày 22.12.1944, sau một thời gian gấp rút chuẩn bị, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập tại khu rừng Trần Hưng Đạo, thuộc châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, do đồng chí Võ Nguyên Giáp trực tiếp cnỉ huy. Đây là đơn vị tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Chấp hành chỉ thị của Trung ương và lãnh tụ Hồ Chí Minh “phải đánh thắng trận đầu”, ngay sau ngày thành lập, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã lập chiến công vang dội. Ngày 25 và 26.12.1944, Đội đã diệt hai mục tiêu quân sự của thực dân Pháp là đồn Phai Khắt (xã Tam Kim, châu Nguyên Bình) và đồn Nà Ngần (xã Hoa Thám, châu Nguyên Bình) cùng hai tên đồn trưởng, bắt sống toàn bộ binh lính địch, thu toàn bộ vũ khí, quân trang, quân dụng.

Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân ra đời đã làm xuất hiện tại Cao Bằng ba hình thức tổ chức của lực lượng vũ trang nhân dân: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là đội quân chủ lực; các đội vũ trang tập trung của tỉnh và của các châu; các đội tự vệ (tự vệ thường và tự vệ chiến đấu) và du kích ở các xã. Từ đây, phong trào cách mạng ở Cao Bằng cũng như cả nước bước vào một giai đoạn mới của cuộc đấu tranh vũ trang tiến lên khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.
_______________________________________
1. Cao Bằng - Lịch sử đấu tranh cách mạng 1930 - 1954. Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Cao Bằng, xuất bản 1990, tr.50.
2. Tháng 8.1942, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc lấy tên là Hồ Chí Minh, sang Trung Quốc để liên lạc với quốc tế. Đồng chí bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam hơn một năm, đến tháng 10.1944, về lại Pác Bó.
3. Võ Nguyên Giáp: Từ nhân dân mà ra. Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1964, tr.141, 145.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #11 vào lúc: 03 Tháng Năm, 2023, 09:00:52 am »


Cuối năm 1944 đầu năm 1945, liên Tỉnh uỷ Cao - Bắc - Lạng quyết định tăng cường hơn nữa sức mạnh của lực lượng vũ trang ở ba tỉnh. Các đội tự vệ chiến đấu được biên chế thành các đội du kích; các đội vũ trang của châu, tỉnh chuyển thành quân giải phóng. Thực hiện quyết định đó, Cao Bằng đã nhanh chóng thành lập thêm các đội giải phóng quân ở châu Quảng Uyên, châu Trùng Khánh.

Những chuẩn bị tích cực, khẩn trương đó của Đảng bộ và quân, dân Cao Bằng đã chứng tỏ sự sẵn sàng chớp thời cơ cách mạng. Đúng như dự đoán của Đảng ta, ngày 9.3.1945, phát xít Nhật đảo chính thực dân Pháp để độc chiếm Đông Dương. Chưa đầy một ngày, thực dân Pháp đã nộp súng đầu hàng Nhật trên toàn cõi Đông Dương.

Ngay đêm 9.3.1945, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng mở rộng tại Đình Bảng (tỉnh Bắc Ninh), dưới sự chủ trì của đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh đã đưa ra nhiều chủ trương quan trọng cho cách mạng Việt Nam trong tình hình mới: Khẩu hiệu “Đánh đuổi Nhật - Pháp” đã đổi thành “Đánh đuổi phát xít Nhật”; “phát động phong trào chống Nhật cứu nước mạrih mẽ, gấp rút tiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền”. Ngày 12.3.1945, Ban Thường vụ Trung ương ra chỉ thị “Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”.

Tháng 4.1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị Quân sự Bắc Kỳ. Hội nghị đã quyết định thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam Giải phóng quân; phát triển các đội tự vệ vũ trang và tự vệ chiến đấu, mở trường đào tạo cấp tốc cán bộ quân sự, chính trị và xây dựng 7 chiến khu lớn trong cả nước gồm 4 chiến khu ở Bắc Bộ, hai ở Trung Bộ và một ở Nam Bộ. Trong đó, Cao Bằng là một trong số chiến khu có vị thế rất quan trọng đối với cách mạng chung của cả nước, không chỉ là căn cứ địa cách mạng, mà còn là nơi đóng “đại bản doanh” cơ quan đầu não của cách mạng Việt Nam.

Chấp hành chỉ thị của đồng chí Hồ Chí Minh, ngày 4.6.1945, khu giải phóng đã ra đời tại căn cứ địa Việt Bắc, bao gồm 6 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên và một số vùng thuộc các tỉnh Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yên ở trung du Bắc Bộ. Đồng thời, ở miền Trung và miền Nam cũng thành lập một số khu căn cứ cách mạng. Đây chính là những hậu phương vững chắc, những bàn đạp của cách mạng Việt Nam để tiến tới giành chính quyền.

Với những định hướng của Hội nghị Quân sự Bắc Kỳ và sự lãnh đạo trực tiếp của liên Tỉnh uỷ Cao - Bắc - Lạng, các lực lượng vũ trang Cao Bằng với ba thứ quân phối hợp, liên tục bao vây bọn tàn binh Pháp tháo chạy, chặn đánh những đám địch ngoan cố kháng cự để thu vũ khí. Đêm 10.3.1945, quân dân Cao Bằng đã truy bắt đoàn quân Pháp gồm 800 tên, khi chúng bỏ thị xã Cao Bằng chạy về Quảng Uyên, Trùng Khánh, tìm đường trốn chạy. Kết quả, phần lớn số binh lính người Việt hoặc chạy sang hàng ngũ cách mạng, hoặc chạy trốn về nhà. Khoảng 100 lính Pháp và lính đánh thuê Âu - Phi luồn rừng trốn thoát sang Trung Quốc. Chúng ta thu được 800 súng các loại.

Tại nhiều nơi khác như các châu Trà Lĩnh, Nguyên Bình, Hà Quảng, Thạch An, nhiều toán quân Pháp hoảng sợ trước sức mạnh của các lực lượng vũ trang và quần chúng cách mạng đã phải ra hàng. Ta thu được nhiều quân trang, quân dụng của địch, trong đó có khoảng 4.000 khẩu súng các loại. Lực lượng vũ trang cách mạng Cao Bằng đã có bước trưởng thành lớn cả về số lượng và chất lượng. Các châu trong tỉnh Cao Bằng đã có các đại đội hoặc trung đội vũ trang được trang bị vũ khí đầy đủ hơn, tạo điều kiện cho quân dân Cao Bằng cùng cả nước đủ sức chiến đấu chống Nhật, giữ vững thành quả cách mạng địa phương vừa giành được và góp phần tích cực cho cuộc Tổng khởi nghĩa giàng chính quyền trong cả nước.

Từ ngày 12.3.1945, quân Nhật từ Lạng Sơn, Bắc Kạn kéo đến đánh tan các vị trí quân Pháp còn đóng giữ ở các huyện, thị xã của Cao Bằng. Đến cuối tháng 4.1945, phát xít Nhật đã chiếm một số khu vực trọng yếu của tỉnh. Đi đến đâu, quân Nhật đều bị quân dân Cao Bằng bao vây, chặn đánh quyết liệt.

Tại khu giải phóng Việt Bắc, trước sự phát triển nhanh chóng của phong trào cách mạng, ngày 12.8.1945, Ban chỉ huy lâm thời khu giải phóng ra lệnh cho quân dân các địa phương tiến hành khởi nghĩa.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #12 vào lúc: 03 Tháng Năm, 2023, 10:00:27 am »


Ngày 13.8.1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (huyện Sơn Dương, Tuyên Quang), nhận định: “cơ hội cho nhân dân ta giành chính quyền độc lập đã tới, những điều kiện cho cuộc khởi nghĩa ở Đông Dương đã chín muồi”; Hội nghị chủ trương kịp thời lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa toàn quốc. Ngay trong đêm 13.8.1945, Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc đã gửi Quân lệnh số 1 cho đồng bào và chiến sỹ cả nước nhanh chóng vùng dậy giành chính quyền độc lập.

Trong không khí sôi sục cách mạng đó, tại Cao Bằng, một trong những nơi có phong trào Việt Minh và hoạt động kháng Nhật tiêu biểu, nhiều địa phương đã đồng loạt nổi dậy cùng cả nước Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. “Ban khởi nghĩa của tỉnh đã ra lệnh cho giải phóng quân, lực lượng vũ trang ở các châu và các đội du kích, đội tự vệ, cùng toàn thể nhân dân các dân tộc trong tỉnh nổi dậy đánh chiếm các đồn bốt Nhật ở các châu lỵ và thị xã, các trục đường giao thông, tiêu diệt quân phát xít, các đội bảo an do Nhật tổ chức, bọn tay sai thân Nhật còn sót lại, cướp súng địch để trang bị cho ta”1.

Khởi nghĩa thắng lợi, chính quyền nhân dân lâm thời các địa phương được thành lập và thực hiện chức năng của chính quyền cách mạng: tuyên bố xoá bỏ chính quyền của phát xít Nhật và tay sai, truy kích quân Nhật, trừng trị bọn ta sai bán nước, tổ chức quần chúng mít tinh, hội họp, thực hiện 10 chính sách lớn của Mặt trận Việt Minh.

Ngày 21.8.1945, quân giải phóng tiến vào thị xã Cao Bằng, phối hợp với các lực lượng tự vệ và quần chúng cách mạng bao vây, đánh chiếm các cơ quan, công sở của phát xít Nhật và nguỵ quyền tay sai, như dinh tỉnh trưởng, trại bảo an binh, sở mật thám, sở cảnh sát, trại giam... Địch nhanh chóng tan rã và phải đầu hàng lực lượng cách mạng. Cuộc tổng khởi nghĩa ở Cao Bằng toàn thắng.

Sáng ngày 22.8.1945, đông đảo các tầng lớp nhân dân thị xã Cao Bằng đã tham gia tuần hành, mít tinh biểu dương sức mạnh nhiệt liệt chào đón Uỷ ban nhân dân lâm thời thị xã và Uỷ ban nhân dân lâm thời tỉnh Cao Bằng vừa thành lập.

Sau tổng khởi nghĩa thắng lợi, Tỉnh uỷ Cao Bằng đã chú trọng củng cố và phát triển các lực lượng vũ trang của tỉnh để đáp ứng yêu cầu giữ vững và củng cố chính quyền, bảo vệ thành quả cách mạng.

Ngay trong ngày ra mắt nhân dân, Ủy ban phân dân lâm thời Cao Bằng đã quyết định thành lập Ty Liêm phóng và Ban cảnh sát để trấn áp bọn phản động, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền cách mạng còn non trẻ, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân, giữ gìn an ninh trật tự xã hội. Quân số của Ty Liên phóng Cao Bằng lúc này có khoảng 10 người và Ban Cảnh sát có khoảng 20 người. Phần lớn quân số này đều từ các lực lượng vũ trang trong tỉnh chuyển sang.

Tuy mới được triển khai thành lập, quân số còn ít ỏi, trang bị, phương tiện còn thiếu thốn, trình độ nghiệp vụ an ninh còn non nớt, nhưng lực lượng bảo vệ an ninh trật tự đã thể hiện tinh thần đấu tranh quyết liệt, không khoan nhượng với các loại đối tượng phản cách mạng. Tháng 10.1945, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ, lực lượng Ty Liêm phóng phối hợp cùng Ban cảnh sát, lực lượng tự vệ và quần chúng cách mạng đã trấn áp kịp thời bọn phản động “Việt cách” làm tay sai cho quân đội Tưởng. Đồng thời, tại các huyện Trà Lĩnh2, Phục Hoà, Bảo Lạc... lực lượng bảo vệ an ninh trật tự của tỉnh đã phát huy tốt vai trò đấu tranh linh hoạt, sáng tạo, vô hiệu hoá nhiều hoạt động của bọn phản động tay sai cũ của Pháp, Nhật và một số thổ ty, toán phỉ còn lén lút ngấm ngầm hoạt động.
_____________________________________
1. Lịch sử Đảng bộ tỉnh Cao Bằng (1930 - 2000), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 128.
2. Từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến năm 1958, gọi là huyện Trấn Biên.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #13 vào lúc: 03 Tháng Năm, 2023, 10:04:35 am »


Đầu năm 1946, thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh uý, Ty Liêm phóng Cao Bằng đã phối hợp với bộ đội trong tỉnh, tiến công bọn phản động ở vùng biên giới huyện Hạ Lang; phối hợp với quân dân Lạng Sơn tiêu diệt bọn phản động ở huyện Thạch An (Cao Bằng) và huyện Tràng Định (Lạng Sơn); trấn áp và làm tan rã cái gọi là tổ chức “Việt Nam cách mạng đồng minh hội” trên đất Cao Bằng1.

Ngày 21.2.1946, theo sắc lệnh của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, các lực lượng làm nhiệm vụ đảm bảo an ninh trật tự trên toàn quốc thống nhất gọi là công an2. Ngày 18.4.1946, Bộ Nội vụ ban hành Nghị định số 121 quy định nhiệm vụ, tổ chức của công an và thành lập công an các tỉnh, thành phố trong cả nước.

Tháng 5.1946, thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương, Tỉnh ủy Cao Bằng đã sáp nhập Ty Liêm phóng và Ty Cảnh sát thành Ty Công an và thành lập lực lượng cảnh vệ tức Cảnh vệ đoàn, chuyên trách bảo vệ các cơ quan Đảng, chính quyền cách mạng trong tỉnh. Quân số ban đầu của lực lượng cảnh vệ có khoảng 100 cán bộ, chiến sỹ. Được trên quan tâm chỉ đạo xây dựng, nên lực lượng cảnh vệ phát triển nhanh chóng. Chỉ sau một thời gian ngắn sau thành lập, quân số đã lên trên 500 người và được biên chế thành 26 bộ phận3. Quân số của Ty Công an lúc này gần 30 người, được tổ chức thành các bộ phận: Văn phòng ty, Ban Trinh sát, Ban Hành chính - Căn cước, Ban Cảnh sát - Trật tự và Ban Tư pháp.

Song song với việc xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang làm nhiệm vụ bảo vệ, Tỉnh uỷ Cao Bằng chủ trương tiếp tục phát triển các lực lượng vũ trang chiến đấu. Chi đội Giải phóng quân của tỉnh đã được bổ sung thêm quân số, trang bị, vũ khí. Phần lớn vũ khí trang bị là chiến lợi phẩm của địch. Tuy mức độ có khác nhau nhưng ở các huyện, thị trong tỉnh đều đã tổ chức được đại đội hoặc tiểu đoàn giải phóng quân; ở các xã, khu phố, trị trấn... đều tổ chức các trung đội hoặc tiểu đội du kích, dân quân tự vệ. Mỗi huyện, thị đều thành lập các huyện đội bộ, thị đội bộ để trực tiếp chỉ huy các đơn vị vũ trang.

Sự phát triển nhanh chóng của lực lượng vũ trang toàn tỉnh đòi hỏi phải được củng cố về mặt tổ chức và từng bước hoàn thiện về chức năng, nhiệm vụ nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Tháng 9.1945, chi đội Giải phóng quân của tỉnh được tổ chức, biên chế lại và phát triển thành Trung đoàn 24 Vệ quốc quân. Các đơn vị khác như Trường quân chính. Xưởng quân giới Lê Tổ được củng cố lại và chuyển về thị xã Cao Bằng, đẩy mạnh các hoạt động đào tạo các cán bộ quân sự, tuyển chọn và huấn luyện tân binh, chế tạo và sửa chữa vũ khí. Nhờ đó, Trung đoàn 24 được tăng cường thêm quân số, trang bị vũ khí. Riêng tháng 4.1947, Trung đoàn đã được bổ sung thêm 900 tân binh4.

Ngày 15.4.1947, Tỉnh uỷ chỉ đạo tiếp tục củng cố, hoàn thiện bộ máy chỉ huy lực lượng vũ trang trong tỉnh. Theo đó, Cao Bằng đã thành lập Tỉnh đội bộ dân quân ở tỉnh; củng cố các huyện đội bộ, thị đội bộ đã có sẵn ở các huyện, thị và cho thành lập thêm các ban chỉ huy xã đội ở các xã, tạo thành một hệ thống chỉ huy thống nhất từ tỉnh đến xã.

Với việc thực hiện chủ trương trên, lực lượng vũ trang Cao Bằng đã phát triển cả về số lượng và chất lượng. Đặc biệt, đầu năm 1947, số dân quân du kích toàn tỉnh đã có khoảng 8.000 người và hoạt động rộng khắp. Do đó, khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ (19.12.1946) và nhất là khi chiến sự lan đến Cao Bằng (10.1947), các đơn vị thuộc Trung đoàn 24 - Trung đoàn chủ lực của tỉnh - chốt giữ các huyện biên giới đã có điều kiện chủ động rút về nội địa sẵn sàng kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Trên các vùng giáp biên, các trung đội du kích tập trung của các huyện đã làm nòng cốt phối hợp với dân quân du kích các xã nhanh chóng đảm nhiệm việc tuần tra, canh gác.
______________________________________
1. Tổ chức chính trị thân Tưởng Giới Thạch thành lập tháng 10.1942 ở Trung Quốc (gọi tắt là "Việt cách"). Tháng 8.1945, khi quân Tưởng vào Việt Nam, bọn “Việt cách” cũng vào theo. Tháng 6.1946, quân Tưởng rút về nước, một số tên cầm đầu theo sang Trung Quốc; số còn lại tiếp tục chống phá cách mạng, rồi bị trấn áp và tan rã.
2. Ngày 19.8.1945, lực lượng Công an nhân dân Việt Nam ra đời với tên gọi khác nhau: ở Bắc Bộ gọi là Liêm phóng, ở Trung Bộ gọi là Trinh sát, ở Nam Bộ gọi là Quốc gia tự vệ.
3. Biên chế quân số 26 bộ phận của Cảnh vệ đoàn Cao Bằng gồm: Đại đội bộ: 28 người; Trại giam Trung ương: 34 người; Trại giam tư pháp công an: 15 người; Tiểu đội ATK: 17 người; Tiểu đội KC đặc biệt: 12 người; Tỉnh bộ Việt Minh: 9 người; Tiểu đội KC thường trực: 11 người; Toà án đệ nhị cấp: 8 người; Toà án Quân sự: 4 người; Đội lưu động: 36 người; Huân luyện cứu thương: 4 người; Tiếp tế: 4 người; Tiểu đội ngân khố: 12 người; Thường trực cảnh vệ: 35 người; Tiểu đội Pác Boóc: 12 người; Tiểu đội 2 (huyện Trùng Khánh): 30 người; Tiểu đội Nông Văn Vần: 12 người; Trung đội 1 (huyện Phục Hoà): 35 người; Trung đội 3 (Nguyên Bình): 28 người; Trung đội 4 (huyện Trấn Biên): 25 người; Trung đội 5 (huyện Hạ Lang): 30 người; Trung đội 6 (huyện Đông Khê): 25 người; Trung đội 7 (huyện Quảng Uyên): 29 người; Trung đội 8 (huyện Hoà An): 25 người; Trung đội 9 (huyện Hà Quảng): 28 người; Trung đội 10 (huyện Bảo Lạc): 25 người.
4. Tháng 11.1947, Trung đoàn 24 được bổ sung quân số và đổi thành Trung đoàn 74.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #14 vào lúc: 04 Tháng Năm, 2023, 09:31:46 am »


Trên mặt trận bảo vệ an ninh trật tự, cuối năm 1947 đầu năm 1948, chấp hành nghị quyết của Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ nhất (họp ngày 16.5.1947) và nghị quyết của Tỉnh ủy (họp tháng 11.1947), Ty Công an Cao Bằng thành lập Đội Công an xung phong và các tổ điệp báo để xâm nhập vào các vùng giáp ranh và vùng địch kiểm soát, điều tra tình hình, xây dựng cơ sở bí mật, phá tề; diệt ác, diệt bọn tay sai của địch, làm công tác binh - địch vận; phối hợp với bộ đội, trực tiếp là các đội biệt động của Tỉnh đội tấn công các đồn bốt của địch.

Trước bước phát triển mới của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, ngày 19.8.1949, Bộ Tổng tư lệnh đã quyết định thành lập Trung đoàn chủ lực 174 (Trung đoàn Cao - Bắc - Lạng) tại xã Đức Long, huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng. Vừa thành lập, ngày 3.9.1949, Trung đoàn 174 đã lập chiến công đầu vang dội: diệt 97 xe quân sự (trong đó có 1 đại đội xe tăng) và 1 tiểu đoàn quân Pháp trong trận phục kích tại đèo Bông Lau - Lũng Phầy trên đường số 4. Tháng 6/1949, theo yêu cầu của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ thị cho Trung đoàn 174 vượt biên giới Việt Nam - Trung Quốc phối hợp với “chi đội Tả Giang” thuộc Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc chiến đấu giải phóng vùng đất phía nam tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Trong trận chiến đấu này đã có 22 chiến sỹ Việt Nam anh dũng hy sinh, được nhân dân tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) tặng bức trướng “Chiến thắng quân Tưởng”... Sau đó, Trung đoàn tham gia các chiến dịch: Biên giới, Trung du, Đường 18, Điện Biên Phủ...”1.

Cùng với sự lớn mạnh của các lực lượng vũ trang ở Cao Bằng, Tỉnh uỷ tiếp tục củng cố các đơn vị làm nhiệm vụ an ninh trật tự. Thực hiện Quyết định số 647 - VP/KC của Chính phủ, tháng 12.1949, Ủy ban kháng chiến - hành chính tỉnh Cao Bằng đã sáp nhập lực lượng cảnh vệ vào Ty Công an và đặt lực lượng này trong Ban Trị an hành chính của Ty Công an. Với cơ cấu tổ chức mới, công an Cao Bằng tiếp tục lập được nhiều chiến công trong cuộc đấu tranh với các lực lượng Việt gian, phản động, thổ phỉ, bọn thực dân xâm lược, giữ gìn trật tự xã hội.

Cuối năm 1949, cũng là thời điểm thực dân Pháp xâm lược và bè lũ tay sai bị thất bại nặng nề. Chúng phải co cụm về thị xã Cao Bằng, đóng chốt thêm 12 đồn mới, tạo nên hệ thống chống đỡ, che chở cho lực lượng của chúng. Trước tình hình mới, Tỉnh uỷ quyết định sát nhập lực lượng điệp báo thuộc Ty Công an với lực lượng quân báo thuộc Tỉnh đội thành một đơn vị mới là Ban Quân báo. Ban này có nhiệm vụ hoạt động tình báo. nắm tình hình, ngăn chặn địch lập tề, tiếp tục xây dựng và phát triển cơ sở bí mật, phối hợp với cơ sở phát động chiến tranh du kích, chiến đấu tiêu hao sinh lực địch và phá hoại kho tàng, trại lính... trong vùng địch tạm chiếm.

Tháng 6. I960, Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Biên giới. Thắng lợi của chiến dịch này đã góp phần củng cố và mở rộng căn cứ địa Việt Bắc. Cao Bằng được hoàn toàn giải phóng (3.10.1950). Tỉnh uỷ tiếp tục quan tâm xây dựng, phát triển lực lượng công an nhằm đáp ứng yêu cầu mới của cách mạng. Thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 12.5.1951, của Ban Bí thư Trung ương Đảng “về nhiệm vụ và tổ chức công an” và Nghị quyết của Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ VI (họp tháng 8.1951), từ tháng 9.1951, Tỉnh uỷ đã chỉ đạo Ty Công an Cao Bằng sắp xếp, điều chỉnh lại hệ thống cơ cấu tổ chức để phù hợp với việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ do Trung ương quy định. Lúc này, biên giới quốc gia ở Cao Bằng đã được giải phóng, vì vậy, nhiệm vụ bảo vệ thành quả cách mạng ở vùng biên giới là một trong những nhiệm vụ trọng tâm. Ty Công an Cao Bằng đã thành lập một bộ phận mới là Công an biên phòng (nằm trong Ban bảo vệ Chính trị)2. Bộ phận mới này chuyên trách việc theo dõi, tổng hợp tình hình các huyện giáp biên và tham mưu, đề xuất kế hoạch công tác biên phòng cho lãnh đạo tỉnh.

Năm 1952, yêu cầu bảo vệ biên giới và các mục tiêu địa phương của ta thực sự trở nên cấp thiết. Ban Bí thư Trung ương Đảng chỉ rõ: “Công tác biên phòng là một công tác khó khăn, giải quyết những vấn đề thuộc phạm vi bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc, phải giải quyết những vấn đề liên quan đến đường lối ngoại giao, chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo... Công tác bảo vệ lãnh tụ và cơ quan đầu não của Đảng là một yêu cầu trọng yếu trong sự nghiệp bảo vệ Đảng, bảo vệ cách mạng”3.

Trong bối cảnh đó, Trung ương Đảng chủ trương tiếp tục củng cố phát triển ngành công an trong cả nước. Theo đó, Công an Cao Bằng được thành lập thêm hệ thống công an cấp huyện và kiện toàn tổ chức từ Ty Công an đến công an huyện. Đồng thời, cuối năm 1953, căn cứ vào sắc lệnh số 141/SL của Chủ tịch nước, Tỉnh uỷ Cao Bằng chỉ đạo Ty Công an tách bộ phận Công an biên phòng khỏi Ban bảo vệ Chính trị, bổ sung thêm quân số, xây dựng thành Ban Biên phòng do đồng chí Nông Văn Đàn phụ trách. Mặt khác, để làm tốt công tác biên phòng, Tỉnh uỷ chỉ đạo Ty Công an thành lập 7 đồn công an biên phòng đầu tiên của tỉnh dọc biên giới Việt Nam - Trung Quốc. Đó là các đồn: Nặm Quét, xã Cô Ba, huyện Bảo Lạc; Nặm Đin (sau gọi là Nặm Nhũng), xã Lũng Nặm và Sóc Giang, xã Sóc Hà, huyện Hà Quảng; Trấn Biên, xã Hùng Quốc, huyện Trấn Biên (nay là huyện Trà Lĩnh); Pò Peo, xã Ngọc Khê, huyện Trùng Khánh; Lý Vạn, xã Lý Quốc, huyện Hạ Lang; Tà Lùng, xã Quy Thuận, huyện Phục Hoà. Phần lớn các đồn công an biên phòng lúc bấy giờ đều tận dụng địa điểm và cơ sở hạ tầng trong số 11 đồn cũ do Pháp đóng từ thời Pháp thuộc4.
_____________________________________
1. Trung đoàn 174 từng trực thuộc Bộ Tổng tư lệnh (1949 - 1954), Sư đoàn 316 (1951 - 1966), Mặt trận Tây Nguyên (1966 - 1968), Sư đoàn 5 (1958 - 1969)... trong kháng chiến chống Mỹ, Trung đoàn 174 từng tham gia nhiều chiến dịch lớn từ Tổng tiến công Mậu Thân (1968), phản công giải phóng Đông Bắc Campuchia... cho đến Tổng tiến công mùa xuân 1975 và chiến dịch Hồ Chí Minh (26 - 30.4.1975). Sau năm 1975, Trung đoàn chiến đấu tại mặt trận biên giới Tây Nam (1977 - 1978); tham gia giải phóng nhân dân Campuchia khỏi nạn diệt chủng Pôn Pốt và làm nhiệm vụ quốc tế ở nước này (1979 - 1989). Trung đoàn 174 là đơn vị hai lần được Đảng và Nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (Theo Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam. Nxb Quân đội nhân dân. Hà Nội. 1996, tr.881).
2. Cơ cấu của Ty Công an Cao Bằng gồm có Trưởng ty, Văn phòng ty và 3 ban: Ban bảo vệ Chính trị, Trị an hành chính và Tư pháp.
3. Chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng, năm 1952. Dẫn theo Lịch sử Bộ đội biên phòng, Tập I (1959 - 1979). Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1990, tr.14.
4. Đó là các đồn Đồng Mu (xã Đồng Mu, Bảo Lạc); Năm Quét (xã Cô Ba, huyện Bảo Lạc); Cốc Pàng (xã Cốc Pàng, huyện Bảo Lạc); Bó Rằng (xã Cần Yên, Hà Quảng, nay thuộc huyện Thông Nông); Sóc Giang (xã Sóc Hà, Hà Quảng); Phai Can (xã Hùng Quốc, Trà Lĩnh); Pò Peo (xã Ngọc Khê, Trùng Khánh); Bí Hà (xã Thị Hoa, Hạ Lang); Lý Vạn (xã Lý Quốc, Hạ Lang); Tà Lùng (xã Quy Thuận - nay là thị trấn Tà Lùng, huyện Phục Hoà); Nà Lạn (xã Đức Long, huyện Thạch An).
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #15 vào lúc: 04 Tháng Năm, 2023, 09:34:17 am »


Liên tục từ năm 1951 đến 1954, Công an Cao Bằng đã từng bước chú trọng phát triển lực lượng, phối hợp chặt chẽ với quân đội, nhất là các đơn vị của Tỉnh đội để tiễu phỉ, trừ đặc vụ, bảo vệ hậu phương, bảo vệ các xã biên giới và các mục tiêu nội địa; ra sức hàn gắn vết thương chiến tranh, ổn định đời sống xã hội, củng cố hậu phương vững chắc; phát triển dân quân du kích, xây dựng bộ đội địa phương, chi viện tiền tuyến, cùng cả nước đánh thắng giặc Pháp xâm lược.

Với chiến thắng của quân dân ta ở Điện Biên phủ, ngày 20.7.1954, Chính phủ Pháp buộc phải ký Hiệp định Giơnevơ lập lại hoà bình, công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ 3 nước Đông Dương. Từ đây, cách mạng Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiếp tục đấu tranh hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất đất nước.

Cùng với cả nước, quân dân Cao Bằng vô cùng phấn khởi, tự hào trước thắng lợi vẻ vang và trọng đại của đất nước. Tuy nhiên, trong tình thế bắt buộc phải ký hiệp định đình chiến, thực dân Pháp vẫn ngoan cố không chịu từ bỏ dã tâm chống phá cách mạng nước ta. Chúng ra sức câu kết với Đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện mưu đồ tiếp tục phá hoại công cuộc khôi phục, xây dựng miền Bắc và phong trào đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; hòng chia cắt lâu dài nước ta, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của chúng.

Quán triệt tinh thần Chỉ thị số 91-CT/TW, ngày 8.8.1954, của Trung ương Đảng, Tỉnh uỷ, Ủy ban hành chính tỉnh Cao Bằng và các lực lượng, ban, ngành chức năng của tỉnh đã chủ động cảnh giác, phòng ngừa các hoạt động phá hoại của địch. Tuy vậy, từ đầu năm 1950, tại nhiều địa phương trong tỉnh, các phần tử xấu đã ráo riết hoạt động dụ dỗ, ngấm ngầm đe doạ, cưỡng ép người dân di cư vào Nam theo địch. Mặc dù giáo dân ở Cao Bằng ít, nhưng các phần tử xấu vẫn bám sát đồng bào theo đạo Thiên chúa để tuyên truyền, lôi kéo. Đối tượng của chúng trước hết là tàn quân ngụy và gia đình, giáo dân và những người có trình độ chuyên môn, kỹ thuật... Các hoạt động trên bắt đầu rầm rộ từ tháng 5.1955; mạnh nhất là ở huyện Phục Hoà, trọng điểm là các khu vực Tà Lùng; huyện Hoà An - nhất là phố Cao Bình, thị trấn Nước Hai; thị xã Cao Bằng... Hàng trăm người, chủ yếu là đồng bào theo đạo Thiên chúa đã bị lôi kéo, dụ dỗ vào Nam, phục vụ cho mưu đồ đào tạo, huấn luyện gián điệp, biệt kích để tung trở lại gây mất ổn định chính trị, phá hoại miền Bắc. Quyết tâm, kiên trì và linh hoạt vận dụng nhiều hình thức, biện pháp của chính quyền các cấp và được sự giúp đỡ của nhân dân địa phương, đến cuối năm 1955, việc di cư mới tạm lắng, tình hình Cao Bằng ổn định.

Đồng thời, từ năm 1954 - 1955, an ninh trật tự ở một số tỉnh Đông Bắc, Tây Bắc, Việt Bắc, nhất là các tỉnh giáp biên giới Việt Nam - Trung Quốc bị bọn phỉ phản động, biệt kích, đặc vụ Tưởng liên tục hoạt động quấy rối, gây lo lắng, căng thẳng cho nhân dân.

Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm chỉ đạo công tác trấn áp bọn phản cách mạng, giữ vững an ninh, trật tự xã hội. Ngày 16.4.1955, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 14/CT về việc “phá âm mưu gây phỉ của đế quốc”. Tháng 8.1955, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp bàn về vấn đề “củng cố trật tự trị an, tiễu trừ thổ phỉ, biệt kích và trấn áp bọn gián điệp, bọn phá hoại”. Hội nghị chỉ rõ: “Phải kiên quyết dựa và nhân dân mà tiễu trừ chúng để tăng việc đoàn kết dân tộc, củng cố biên phòng. Một trong những việc trước mắt của công an, quân đội, nhân dân Việt Nam hiện nay là quét sạch thố phỉ”... Đồng thời, Trung ương cũng chỉ rõ: “công tác bảo vệ lãnh tụ và cơ quan đầu não là một yêu cầu có tính khách quan và có một vị trí rất trọng yếu trong sự nghiệp bảo vệ Đảng, bảo vệ cách mạng”.

Chấp hành chỉ thị của Trung ương Đảng, miền Bắc sau ngày hoàn toàn giải phóng, đã thành lập nhiều đơn vị làm công tác biên phòng và bảo vệ các mục tiêu nội địa. Trên toàn tuyến biên giới Việt Nam - Trung Quốc có 28 đồn công an biên phòng làm nhiệm vụ bảo vệ công khai, bảo vệ các cửa khẩu quan trọng, phục vụ hoạt động vận chuyển lưu thông qua biên giới, nối liền nước ta và các nước xã hội chủ nghĩa.

Thực hiện Nghị định số 982-TTg, ngày 28.7.1956 của Chính phủ, Ban Trị an dân cảnh của Ty Công an Cao Bằng đổi thành Ban Cảnh sát nhân dân. Ban Biên phòng của Ty Công an Cao Bằng đang chỉ huy điều hành 7 đồn công an biên phòng trên biên giới (thành lập từ năm 1953) cũng được tăng cường thêm lực lượng. Thực hiện Nghị định 982, tháng 7.1956, Ty Công an Cao Bằng thành lập thêm 4 đồn công an biên phòng là: Cốc Pàng (huyện Bảo Lạc); Bí Hà (nay là Đồn Biên phòng Thị Hoa, huyện Hạ Lang); Kéo Yên và Bó Gai (huyện Hà Quảng)1. Cùng với 11 đồn công an biên phòng, năm 1956, trên đoạn biên giới quốc gia ở Cao Bằng có 8 cửa khẩu thông sang Trung Quốc. Nhiệm vụ chính của các đồn biên phòng là:

- Cấp giấy phép qua lại biên giới, phối hợp cùng lực lượng hải quan kiểm tra và xử lý hàng hoá xuất nhập qua biên giới, thực hiện công tác xử lý hành chính, tuần tra bảo vệ biên giới, chống vượt biên.

- Tuyên truyền, giải thích cho nhân dân hiểu rõ chính sách và các quy định của Nhà nước trong khu vực biên giới, không chứa chấp, bao che người vượt biên trái phép.
______________________________________
1. Năm 1966, huyện Thông Nông được tách ra từ huyện Hà Quảng, Đồn Biên phòng Bó Gai (nay là Đồn Biên phòng Cần Yên) thuộc về địa bàn huyện Thông Nông.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #16 vào lúc: 04 Tháng Năm, 2023, 09:36:03 am »


Trong khi lực lượng Công an tỉnh đang triển khai thực hiện Nghị định của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập cảnh sát nhân dân thì tỉnh Cao Bằng cũng được Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo giải thể Liên khu Việt Bắc, và thành lập Khu tự trị Việt Bắc1.

Với vai trò tích cực tổ chức, chỉ đạo của đảng bộ các tỉnh trong liên khu, ngày 19.8.1956, Khu tự trị Việt Bắc đã được thành lập và Cao Bằng nằm trong cơ cấu hành chính của Khu tự trị. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Khu uỷ, mọi chủ trương đường lối của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đều được Khu uỷ vận dụng chỉ đạo, Đảng bộ Cao Bằng lãnh đạo nhân dân các dân tộc trong tỉnh thực hiện một cách sát hợp với hoàn cảnh đặc điểm của từng vùng, từng dân tộc trong tỉnh... Sự thành lập Khu tự trị Việt Bắc đã tạo điều kiện cho tỉnh bước vào một thời kỳ phát triển mới.

Theo sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, trực tiếp là Khu uỷ, Đảng bộ và chính quyền các cấp của Cao Bằng đã quan tâm chỉ đạo và chăm lo xây dựng các lực lượng vũ trang, tiếp tục tăng cường công tác quốc phòng an ninh, nhằm giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và trấn áp kịp thời bọn phỉ và phản động.

Ngày 23.1.1957, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Cao Bằng ra Nghị quyết số 32-NQ/CB củng cố cơ quan quân sự từ tỉnh xuống đến các huyện, thị; tổ chức biên chế bộ đội địa phương thành 5 đại đội làm nòng cốt phối hợp với dân quân du kích giữ gìn an ninh trong tỉnh. Đồng thời Tỉnh uỷ cũng đã chỉ đạo củng cố, tăng cường lực lượng công an từ Ty Công an đến công an các huyện, thị, các đồn công an nội địa và công an biên phòng.

Đến cuối năm 1957, tỉnh Cao Bằng đã cùng với các tỉnh, thành phố trên toàn miền Bắc căn bản hoàn thành công cuộc khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh. Đó là cơ sở để nhân dân Cao Bằng tiếp tục tiến hành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội. Trong thời gian này, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai ngày càng trắng trợn phá hoại Hiệp định Giơnevơ. Trước diễn biến mới của tình hình, Trung ương đã kịp thời chỉ đạo các cấp bộ Đảng, chính quyền nâng cao cảnh giác, chủ động phòng ngừa, đấu tranh với mọi hoạt động của địch. Ngày 15.8.1958, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 48/CT-TW tiếp tục phá âm mưu gây phỉ, chống âm mưu di cư và tung gián điệp, biệt kích của địch ra miền Bắc.

Thực hiện sự chỉ đạo trực tiếp của Khu uỷ tự trị Việt Bắc, Tỉnh uỷ Cao Bằng lãnh đạo các cấp bộ đảng, chính quyền, các cơ quan, lực lượng trong tỉnh gấp rút thực hiện chủ trương của Trung ương. Từ cuối tháng 8.1958, lực lượng công an Cao Bằng đã đấu tranh với tổ chức phản động “Đảng nhất tân dân tộc”. Đây là tổ chức phản động lúc mới nhen nhóm chủ yếu hoạt động ở địa bàn hai huyện Hà Quảng và Nguyên Bình; sau đó, lan sang các huyện Bảo Lạc, Trùng Khánh, Trà Lĩnh, Hạ Lang... Đến tháng 10.1958, ta phá án, bắt sống nhiều tên, số còn lại phải ra đầu thú.

Ngày 18.12.1958, Tỉnh uỷ Cao Bằng ra Chỉ thị số 01/MTU “giải quyết một vài vấn đề dân tộc miền núi dọc biên giới Cao Bằng”. Trong đó, lực lượng công an tỉnh được giao nhiệm vụ “ngăn ngừa tổ chức phản động lan rộng, gây ảnh hưởng xấu”. Ngày 21.12.1958, Tỉnh uỷ tiếp tục ra Chỉ thị số 39/CT-CB cho lực lượng công an Cao Bằng phải “ra sức đấu tranh chống các tàn dư phỉ, phản động để giữ vững trật tự trị an xã hội”.

Cùng thời gian trên, tỉnh đã giải quyết tốt việc người Trung Quốc vượt biên trái phép vào Cao Bằng. Tình trạng nhập cư trái phép này đã diễn ra một số năm trước đó, nhưng mức độ còn lẻ tẻ. Từ năm 1958, số người nhập cư từ Trung Quốc vào các huyện giáp biên của Cao Bằng ngày càng nhiều; chỉ riêng huyện Bảo Lạc, 4 tháng đầu năm 1958 đã có tới gần 500 người. Trong số những người vượt biên trái phép có một số do không muốn gia nhập công xã ở Trung Quốc; một số vì đời sống kinh tế khó khăn, thiếu đói, tự đi tìm nơi sinh sống; một số khác là những người vi phạm pháp luật Trung Quốc đi tìm nơi trốn tránh. Nhưng đáng chú ý trong đó là những tên đặc vụ, thổ phỉ. Vì vậy, số người vượt biên trái phép đã làm cho an ninh trật tự khu vực biên giới và một số nơi ở nội địa của tỉnh trở nên phức tạp.

Trước tình hình đó, Tỉnh uỷ Cao Bằng chỉ đạo các lực lượng chức năng trong tỉnh phối hợp với công an Trung Quốc, đưa các loại đối tượng vượt biên trái phép lần lượt trở về đất Trung Quốc, từng bước ổn định tình hình an ninh, trật tự biên giới của tỉnh.
_______________________________________
1. Liên khu Việt Bắc được thành lập theo sắc lệnh số 127-SL, ngày 4.11.1949 của Chủ tịch nước, gồm 3 căn cứ địa Việt Bắc, Tây Bắc, Đông Bắc; bao gồm 18 tỉnh, 1 châu, trên cơ sở sáp nhập Liên khu 1 (gồm 10 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyện, Bắc Giang, Bắc Ninh, Phúc Yên, Quảng Ninh, Hòn Gai và Hải Ninh) với Liên khu 10 (gồm 8 tỉnh: Vĩnh Yên, Phú Thọ, Tuyên Quang, Hà Giang, Yên Bái, Lào Cai, Sơn La, Lai Châu và châu Mai Đà của tỉnh Hoà Bình). Lãnh đạo chỉ huy Liên khu Việt Bắc có Ủy ban kháng chiến - hành chính Liên khu và Bộ Tư lệnh Liên khu. Từ tháng 7.1952, 4 tỉnh Yên Bái, Lào Cai, Sơn La, Lai Châu được tách thành khu Tây Bắc. Sau khi Liên khu Việt Bắc giải thể (1956), các Quân khu Tây Bắc, Việt Bắc, Đông Bắc đã được thành lập.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #17 vào lúc: 06 Tháng Năm, 2023, 08:00:37 am »


Cuối năm 1958 tồn tại một thực tế trong công tác bảo vệ là: trong cùng thời gian, trên cùng phạm vi địa bàn hành chính, địa bàn bảo vệ mục tiêu, có nhiều lực lượng, đơn vị của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Quân khu, Khu đội, Tỉnh đội, Ty Công an, các đơn vị dân quân, tự vệ... cùng làm nhiệm vụ bảo vệ. Các hoạt động này chưa có sự chỉ huy, điều hành thống nhất theo một kế hoạch, phương án chung. Giữa các đơn vị chưa có sự phân công, hiệp đồng cụ thể. Vì thế, các hoạt động trên vừa trùng dẫm, chồng chéo, lại vừa có nhiều sơ hở... làm hạn chế chất lượng, hiệu quả công tác bảo vệ.

Trước tình hình mới, ngày 19.11.1958, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp và ra Nghị quyết số 58-NQ/TW “về việc xây dựng lực lượng cảnh vệ nội địa và biên phòng”. Trong đó, “Bộ Chính trị quyết định thống nhất các đơn vị bộ đội quốc phòng đang làm công tác bảo vệ nội địa, bảo vệ biên giới, bờ biển, giới tuyến và các lực lượng công an vũ trang, xây dựng thành một lực lượng vũ trang của Đảng và Nhà nước chuyên trách công tác bảo vệ nội địa và biên phòng giao cho ngành công an trực tiếp chỉ đạo, lấy tên là Lực lượng Cảnh vệ”1. Nhiệm vụ chung của lực lượng cảnh vệ là “trấn áp mọi hành động phá hoại của bọn phản cách mạng trong nước và bọn phản cách mạng ngoài nước xâm nhập phá hoại nước ta, luôn luôn sẵn sàng chiến đấu bảo vệ an ninh biên giới, bờ biển, giới tuyến và nội địa, bảo vệ an toàn cho các cơ sở kinh tế, văn hoá quan trọng”.

Về nhiệm vụ cụ thể, nghị quyết của Bộ Chính quy định: “Lực lượng cảnh vệ biên giới, bờ biển, giới tuyến gọi tắt là Cảnh vệ Biên phòng, có những nhiệm vụ sau đây:

a) Trấn áp kịp thời bọn gián điệp, biệt kích, thổ phỉ, hải phỉ nhỏ và các bọn phá hoại khác qua lại hoạt động ở khu vực biên giới, giới tuyến, bờ biển.

b) Đánh mạnh vào bọn vũ trang xâm phạm biên giới của Tổ quốc, đối phó với mọi hành động có tính cách gây chiến tranh trong khi chờ bộ đội quốc phòng đến tiếp viện.

c) Ngăn ngừa và trừng trị bọn chuyên buôn lậu qua lại khu vực biên giới.

d) Thực hiện quy chế qua lại biên giới do Chính phủ đã quy định, kiểm soát việc qua lại biên giới (kể cả xe, người, hành lý hàng hoá, các tác phẩm văn hoá và các vật dùng khác từ trong nước ra và từ nước ngoài mang vào trong nước).

e) Bảo vệ đời sống an toàn và của cải của nhân dân, tài sản của Nhà nước, các kho tàng, các hợp tác xã, công trường, nông trường ở khu vực biên giới, chống bọn thổ phỉ, hải phỉ, biệt kích tấn công cướp bóc bất ngờ.

Lực lượng Cảnh vệ nội địa có những nhiệm vụ cụ thể sau:

a) Trấn áp mọi hoạt động phá hoại của những toán phỉ nhỏ, bọn gián điệp nhảy dù và các vụ bạo động, phá hoại của các bọn phản cách mạng khác.

b) Bảo vệ các cơ quan đầu não, các lãnh tụ của Đảng và Nhà nước, các cơ quan ngoại giao, các lãnh tụ quốc tế và các vị khách nước ngoài (theo sự quy định của Trung ương và Chính phủ).

c) Bảo vệ các công xưởng, hầm mỏ, kho tàng quan trọng, các trung tâm thông tin liên lạc quan trọng, các đầu mối và trục giao thông quan trọng, các cuộc vận chuyển quan trọng, các cơ sở văn hoá, khoa học kỹ thuật quan trọng.

d) Bảo vệ an ninh thủ đô, các thành phố và thị xã quan trọng, bảo vệ các cuộc mít tinh lớn do Trung ương và Chính phủ quy định, chấp hành lệnh giới nghiêm khi cần thiết và cùng với cảnh sát nhân dân duy trì trật tự chung.

e) Canh gác các trại cải tạo, trại tạm giam, áp giải các phạm nhân chính trị và hình sự quan trọng, bảo vệ các phiên toà.

Bộ Chính trị còn chỉ rõ: “Muốn hoàn thành tốt những nhiệm vụ nói trên, lực lượng cảnh vệ và biên phòng phải biết dựa vào dân, vận động nhân dân làm công tác bảo vệ nội địa và biên phòng; phải tranh thủ sự giúp đỡ của các cơ quan chính quyền, đoàn thể và phải phối hợp chặt chẽ với quân đội nhân dân, với lực lượng công an và nhân dân địa phương”. Do yêu cầu, vị trí, nhiệm vụ của lực lượng cảnh vệ, Nghị quyết của Bộ Chính trị đề cập những vấn đề chỉ đạo phải chú ý chất lượng trong quá trình tuyển chọn, đào tạo cán bộ, chiến sỹ: Lực lượng cảnh vệ là mội lực lượng vũ trang làm công tác bảo vệ, cho nên cán bộ và chiến sỹ phải được chọn lọc kỹ, phải là những người thật tin cậy về chính trị và thông thạo về quân sự...”

Sau khi tổ chức học tập, quán triệt Nghị quyết của Bộ chính trị, tỉnh Cao Bằng khẩn trương triển khai, chuẩn bị mọi mặt để thành lập lực lượng Cảnh vệ.
_______________________________________
1. Bộ Công an. Văn kiện Đảng. Tập III (5.7.1954 - 15.8.1960), in năm 1971, tr.222 - 228. Nghị quyết số 58-NQ/TW. Tối mật. Số bảo quản: VKĐ 190 Thư viện nghiệp vụ Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an).
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #18 vào lúc: 06 Tháng Năm, 2023, 08:01:36 am »


Ngày 3.3.1959, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 100/TTg ‘‘thống nhất các đơn vị bộ đội, quốc phòng đang làm công tác bảo vệ nội địa, bảo vệ biên giới, giới tuyến và các đơn vị công an biên phòng, cảnh sát vũ trang thành một lực lượng chuyên trách công tác biên phòng và bảo vệ nội địa, lấy tên là Công an nhân dân vũ trang, đặt dưới sự lãnh đạo của Bộ Công an”. Từ đó, ngày 3 tháng 3 hàng năm trở thành ngày thành lập và là ngày truyền thống của lực lượng Công an nhân dân vũ trang Việt Nam - nay là Bộ đội Biên phòng Việt Nam.

Ngày 1.9.1959, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 331/TTg quy định hệ thống cấp bậc hàm, cấp hiệu, phù hiệu, công an hiệu và lễ phục của Công an nhân dân vũ trang”.

Chấp hành Nghị quyết của Bộ Chính trị Trung ương Đảng và Nghị định của Thủ tướng Chính phủ, trong tháng 3.1959, Bộ Quốc phòng và Bộ Công an cùng các quân khu, các sở, ty Công an đã khẩn trương hoàn thành các tổ chức cơ quan chỉ huy của Công an nhân dân vũ trang. Đến cuối tháng 3.1959, tổ chức biên chế của lực lượng đã cơ bản định hình, sẵn sàng hoạt động theo đội hình thống nhất trên toàn miền Bắc. Thiếu tướng Phan Trọng Tuệ, Thứ trưởng Bộ Công an được Chính phủ bổ nhiệm làm chỉ huy trưởng kiêm Chính uỷ lực lượng Công an nhân dân vũ trang.

Đúng 19 giờ ngày 28.3.1959, lễ thành lập lực lượng Công an nhân dân vũ trang được tiến hành trọng thể tại Câu lạc bộ Quân nhân Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã huấn thị và giao nhiệm vụ cho toàn lực lượng. Người căn dặn: “Công an và bộ đội phải cảnh giác, phải biết trấn áp kẻ địch bên trong và kẻ địch bên ngoài. Kẻ địch bên trong là bọn phản động, bọn phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; kẻ địch bên ngoài là bọn đế quốc, bọn xâm lược. Chống bọn xâm lược và bọn phá hoại là nhiệm vụ của quân đội, của công an nói riêng và của toàn dân nói chung; là nhiệm vụ mà quân đội và công an phải dựa vào nhân dân mới hoàn thành được tốt. Ví dụ: một vạn công an chỉ có hai vạn tai, hai vạn mắt, hai vạn tay, chân, nhưng nhân dân có hàng triệu tai, hàng triệu mắt, hàng triệu tay chân. Cho nên chúng ta phải dựa vào nhân dân để hoạt động. Khi tổ chức được dân, đoàn kết được dân thì việc gì cũng làm được... Nhất là Công an Biên phòng..., những đơn vị ở biên thuỳ hay ở các đảo, việc ấy phải hết sức chú ý...”. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhắc nhở các cấp lãnh đạo, chỉ huy phải quan tâm chăm lo đời sống vật chất tinh thần cho các đơn vị ở những địa bàn xa xôi hẻo lánh, khó khăn gian khổ; phải động viên làm cho anh em phấn khởi hoàn thành nhiệm vụ, cán bộ, chiến sỹ phải kiên trì tự lực cánh sinh để cải thiện đời sống.

Kết thúc lời huấn thị, giao nhiệm vụ, Người tặng lực lượng Công an nhân dân vũ trang 8 câu thơ:

“Đoàn kết, cảnh giác,
Liêm chính, Kiệm cần,
Hoàn thành nhiệm vụ,
Khắc phục khó khăn,
Dũng cảm trước địch,
Vì nước quên thân,
Trung thành với Đảng,
Tận tuỵ với dân”.

Sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, đặc biệt sự có mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong ngày lực lượng ra đời, cùng những lời giáo huấn, dặn dò của Người là nguồn cổ vũ động viên mạnh mẽ, là phương hướng tư tưởng và hành động cho toàn lực lượng.

Ngày 9.4.1959, Bộ Quốc phòng - Tổng Tư lệnh ra Nghị định (số 406/NĐ) chính thức “chuyển một bộ phận lực lượng quốc phòng đang làm công tác bảo vệ biên phòng, giới tuyến và nội địa sang Bộ Công an để xây dựng lực lượng Công an nhân dân vũ trang”. Trong đó quy định: “Quân khu Việt Bắc: chuyển các đơn vị bảo vệ biên giới và các đơn vị thuộc tỉnh đội đang bảo vệ nội địa”...

Ngày 28.4.1959, Bộ Công an ra Nghị định số 180-CA/NĐ cho phép thành lập Công an nhân dân vũ trang Khu tự trị Việt Bắc và Công an nhân dân vũ trang các tỉnh thuộc khu Công an nhân dân vũ trang Việt Bắc, gồm: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên và Yên Bái. Đồng thời, cùng ngày 28.4.1959, Bộ Công an ra Nghị định số 169-NĐ/CA bổ nhiệm Trung tá Mai Trung Lâm, nguyên cán bộ Trung đoàn trưởng của Quân khu Việt Bắc giữ chức Chỉ huy trưởng Công an nhân dân vũ trang khu tự trị Việt Bắc.

Ngày 19.5.1959, Khu uỷ khu tự trị Việt Bắc đã tổ chức lễ thành lập Công an nhân dân vũ trang khu Việt Bắc. Cơ quan Ban chỉ huy Công an nhân dân vũ trang Khu tự trị Việt Bắc ngày đầu thành lập có 98 cán bộ, chiến sỹ và được tổ chức, biên chế thành 4 ban: Tham mưu, Chính trị, Trinh sát, Hậu cần và đóng quân chung trong cơ quan Bộ Tư lệnh Quân khu Việt Bắc (tại phường Quán Triều, thành phố Thái Nguyên). Hoạt động của Công an nhân dân vũ trang các tỉnh trong Khu tự trị Việt Bắc đều đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện, trực tiếp của Khu uỷ, các Tỉnh uỷ và Đảng uỷ - Ban Chỉ huy Công an nhân dân vũ trang Việt Bắc.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #19 vào lúc: 06 Tháng Năm, 2023, 08:03:47 am »


Tại Cao Bằng, ngày 3.2.1959, Tỉnh uỷ Cao Bằng đã ra Nghị quyết số 52-NQ/CB “thi hành Nghị quyết của Bộ Chính trị về việc xây dựng cảnh vệ nội địa và biên phòng”. Theo đó, Ban Chấp hành tỉnh Đảng bộ quyết định phân công đồng chí Ngọc Văn Thuỳ, Tỉnh uỷ viên, Ủy viên Ủy ban hành chính tỉnh, Trưởng ty Công an trực tiếp phối hợp cùng Ban Chỉ huy Tỉnh đội, Ban Đảng uỷ Tỉnh đội nghiên cứu vả tổ chức thành lập lực lượng cảnh vệ nội địa và biên phòng.

Cuối tháng 5.1959. số cán bộ, chiến sỹ được điều động từ Ty Công an và Tỉnh đội Cao Bằng tập kết tại thị xã Cao Bằng để chuẩn bị cho việc thành lập lực lượng. Tháng 6.1959, “Tỉnh đội Cao Bằng đã nghiên cứu, xem xét, chọn lọc và chuyển một bộ phận lớn cán bộ từ Tỉnh đội phó đến chiến sỹ là quân thường trực Tỉnh đội sang lực lượng công an nhân dân vũ trang của tỉnh”1. Nhiệm vụ đầu tiên của số cán bộ, chiến sỹ mới chuyển sang Công an nhân dân vũ trang là học tập Nghị quyết 58 của Bộ Chính trị. Các đợt học tập đều nhằm mục đích thống nhất nhận thức, quán triệt tình hình nhiệm vụ, yêu cầu tổ chức, xây dựng lực lượng chuyên trách công tác biên phòng, bảo vệ nội địa.

Trên cơ sở phối hợp chặt chẽ giữa Ty Công an và Tỉnh đội, tháng 6.1959, Công an nhân dân vũ trang Cao Bằng được thành lập. Quân số ban đầu có hơn 30 cán bộ, chiến sỹ. Ban Chỉ huy có 3 đồng chí:

- Đại úy Hà Thế Vũ, Tỉnh đội phó Cao Bằng được bổ nhiệm giữ chức Chỉ huy trưởng.

- Đại úy Hoàng Kiêm, Chủ nhiệm Ban Chính trị Tỉnh đội Cao Bằng được bổ nhiệm giữ chức Chính trị viên.

- Thượng úy Nông Văn Đàn, Trưởng ban Biên phòng - Ty Công an Cao Bằng được bổ nhiệm giữ chức Chỉ huy phó Trinh sát.

Đầu năm 1960, cấp trên điều động Thượng úy Lương Văn Thân, Tiểu đoàn phó thuộc Trung đoàn 238, Quân khu Việt Bắc giữ chức Chỉ huy phó Công an nhân dân vũ trang tỉnh.

Cơ quan Ban Chỉ huy Công an vũ trang tỉnh khi mới thành lập được biên chế thành 3 ban để giúp việc cho chỉ huy, gồm:

1. Ban Tham mưu, quân số 10 người, do đồng chí Lương Văn Thân, Chỉ huy phó kiêm Trưởng ban. Trong đó, bộ phận Trinh sát được biên chế 9 người, do đồng chí Nông Văn Đàn, chỉ huy phó trinh sát phụ trách.

2. Ban Chính trị, quân số 4 người, do đồng chí Hoàng Thuý Sơn làm Trưởng ban.

3. Ban Hậu cần, quân số 8 người, do đồng chí Đinh Ngọc Bổng làm Trưởng ban.

Ngoài các ban trên, để đảm bảo thông tin liên lạc phục vụ lãnh đạo chỉ huy, Ban Chỉ huy tỉnh được biên chế một tổ cơ yếu 3 người. Phương tiện chủ yếu lúc này là máy thu phát vô tuyến điện 15w.

Sau khi thành lập, hoạt động của Công an nhân dân vũ trang Cao Bằng chịu sự chỉ đạo về mặt nghiệp vụ của Ty Công an. Các mặt hoạt động khác, kể cả công tác đảm bảo hậu cần đều do Ban Chỉ huy Công an nhân dân vũ trang Trung ương chỉ đạo, điều hành và đảm nhiệm thông qua Ban Chỉ huy Công an nhân dân vũ trang Việt Bắc.

Doanh trại đầu tiên của Công an vũ trang Cao Bằng đóng tại xóm Nà Gà, Tân An, thị xã Cao Bằng (nay là xã Hoà Chung, thị xã Cao Bằng). Năm 1960, Ban chỉ huy Công an nhân dân vũ trang tỉnh chuyển đến đóng quân cùng với Ty Công an tại phố Thầu (nay thuộc khuôn viên khách sạn Phong Lan, phố Kim Đồng, thị xã Cao Bằng). Năm 1961, cơ quan Ban Chỉ huy Công an nhân dân vũ trang tỉnh được xây dựng tại trung tâm thị xã (nay là khu vực cơ quan Thị uỷ, Uỷ ban nhân dân thị xã Cao Bằng).

Về tổ chức Đảng, do quân số và số lượng đảng viên ngày đầu thành lập còn ít, cơ quan Ban chỉ huy Công an nhân dân vũ trang tỉnh chỉ thành lập một chi bộ ghép sinh hoạt chung với chi bộ Ty Công an và trực thuộc Đảng bộ Ty Công an.
______________________________________
1. Cao Bằng lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954 - 1975. Tập II. Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Cao Bằng xuất bản 1994, tr.30.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM