Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 08:53:45 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Tổng kết công tác tiễu phỉ trên địa bàn tỉnh Lào Cai 1950-1970  (Đọc 1210 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« Trả lời #10 vào lúc: 07 Tháng Ba, 2023, 12:05:42 pm »

3- Tiễu phỉ miền tây bảo vệ hậu phương (từ tháng 1 năm 1953 đến tháng 1 năm 1954)

Trong chiến dịch Tây Bắc địch bị thất bại nặng ở Lai Châu, Sơn La, buộc chúng phải rút khỏi Phong Thổ về Sình Hồ và để lại một số quân địa phương phối hợp với tàn quân Quốc dân đảng Trung Quốc hoạt động ở Nậm Xe, đèo Mây, Sàng Ma Sáo, Hồng Ngài (Bát Xát). Âm mưu của địch là tích cực dùng lực lượng địa phương để quấy rối hậu phương ta. Khi còn chiếm đóng Phong Thổ chúng đã lôi kéo được 85 người ở Mường Hum và 143 dân công huyện Bát Xát; hướng Sa Pa 533 người ở Tả Van, Thanh Phú chạy vào Than Uyên, Phong Thổ theo địch. Một số tên lý dịch trước đây chạy theo Pháp đã quay trở lại nắm tình hình hoạt động gây phỉ như: Lý Phù (Cam Đường), Châu A Chùa, Châu A Cả (Sa Pa), Sề Cồ Tìn, tổng đoàn Pẹt (Bát Xát)1 (Hồ sơ C14 quân báo (Tỉnh đội Lào Cai)) nống ra Mường Hum, trạm Chô (Bát Xát), Séo Mí Tỉ, Tả Van (Sa Pa) chuẩn bị hình thành các căn cứ phỉ ở khu tam giác Phong Thổ - Mường Hum - Kim Hoa.


Cuối tháng 2 đầu tháng 3 năm 1952 địch thả 6 biệt kích và 38 dù vũ khí, lương thực xuống Séo Mí Tỉ, trong đó có các tên Hồ Vạn Lìn, Lồ A Mán sau này trở thành đầu sỏ phỉ ở Sa Pa. Tiếp đó chúng lại thả thêm biệt kích và dù vũ khí lương thực xuống Nam Giang (Trịnh Tường), Lùng Phình (Bắc Hà), Vàng Đẹt (Mường Khương).


Tháng 4 năm 1953 chúng hoạt động mạnh ở Mường Hum, Ý Tý, phục kích cán bộ giao thông của ta để cướp tài liệu trên đường Lào Cai đi Sa Pa.

Tình hình quân đội Pháp trên chiến trường Tây Bắc lúc này đang lâm vào tình trạng khốn quẫn. Để cứu vãn tình thế, tướng Na-va vừa nhận chức tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương đã toan tính đến việc “phát triển ngụy quân là một trong những điểm chủ yếu của kế hoạch tổ chức quân đội”, trong đó có thủ đoạn sử dụng lực lượng thổ phỉ và hoạt động du kích sau lưng Việt Minh1 (Theo Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), tập 2, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, tr. 270).


Thực hiện ý đồ trên từ tháng 7 năm 1953 chúng đẩy mạnh việc phỉ hóa, đánh rộng ra vùng Sa Pa, Bát Xát và thúc đẩy bọn tàn phỉ miền đông Lào Cai nổi dậy. Với mục đích phá hoại hậu phương ta, thực dân Pháp chỉ đạo bọn thổ phỉ táo bạo hành động ở mức độ cao tập trung đánh phá kho tàng, cầu cống, tìm diệt cán bộ, bộ đội, bao vây các thị trấn, thị xã, tuyên truyền chống chính sách thuế, dân công và nghĩa vụ tòng quân, cắt đường Lào Cai - Lai Châu, ngăn chặn ta chi viện sức người sức của cho tiền tuyến. Mặt khác chúng ra sức tuyên truyền cho Pháp, Mỹ và Bảo Đại, đe dọa Mỹ sẽ ném bom nguyên tử gây tâm lý hoài nghi sợ hãi trong nhân dân, ly gián các dân tộc, chia rẽ lòng dân với Đảng Cộng sản và Chính phủ Việt Minh. Bằng các thù đoạn thâm độc, xảo quyệt, đến tháng 9 năm 1953 đế quốc Pháp đã cơ bản hình thành xong hành lang thổ phỉ ở khu tam giác Phong Thổ - Sa Pa - Bát Xát, bao vây uy hiếp tiến công thị xã Lào Cai. Tổng số thổ phỉ trên địa bàn Lào Cai cuối năm 1953 có 4.269 tên, trong đó 2.000 tên ở Phong Thổ (lúc ấy còn là một huyện của Lào Cai).


Bố trí của địch như sau: Sa Pa 1.140 tên, Phong Thổ 2.000 tên, Cam Đường 180 tên, Bát Xát 900 tên, Bắc Hà 46 tên, Mường Khương 3 tên.

Bên miền đông, lợi dụng tình hình phỉ miền tây phát triển, một số phần tử ngoan cố đã trở lại móc nối hoạt động thâu tóm tàn phỉ như: Chín Củi, Xếp Thon, Cốt Lương, ở Mường Khương chúng tung tin Nông Vĩnh An sắp về, Pháp đã đánh Lào Cai. Ở Bắc Hà chúng tuyên truyền Pháp đánh Cốc Lếu sẽ nhảy dù xuống Lùng Phình; đồng thời tổ chức đốt thóc lúa của chủ tịch Bản Mế, giết cả một gia đình trung kiên...


Khác với những lần trước, lần này không dùng trực tiếp bọn thổ ty chức dịch cũ tại địa bàn để gây phỉ, đế quốc Pháp đã sử dụng trực tiếp bọn biệt kích GCMÁ đã được đào tạo trước đây tung về địa phương để móc nối, nắm lấy các kỳ hào chức dịch, tổ chức ngầm trong các làng bản dân tộc. Đặc biệt chúng còn mua chuộc cán bộ người địa phương của ta để khi phỉ nổi những người này dễ lôi kéo nhân dân theo chúng. Do đó khi chủ lực tiến đánh và máy bay thả dù ở chỗ nào thì ở đấy theo kế hoạch mà cầm súng nổi lên. Cho nên năm 1953, ở miền tây giai đoạn đầu từ tháng 1 đến tháng 6 địch hoạt động tương đối bí mật, chỉ rộ lên từ cuối tháng 7 trở đi, lúc công tác chuẩn bị của chúng đã xong.


Về ta, sau khi hoàn thành tiễu phỉ miền đông, ta đã phát huy thắng lợi, mở rộng khu phát động: củng cố các “Ủy ban tiễu phỉ Thanh Bình”, các liên phòng đội và các hội liên gia; xây dựng lực lượng dân quân du kích, kiện toàn các huyện đội Bắc Hà, Mường Khương; bổ sung tân binh vào các đơn vị bộ đội địa phương, củng cố thêm một bước cơ sở chính trị với chủ trương giải quyết gọn phỉ miền đông rồi mới sang miền tây ngăn chặn, đánh địch.


Ở miền tây, tỉnh chỉ đạo vận động quần chúng ở Bát Xát, Sa Pa nhưng vấn đề tổ chức, kiểm tra thiếu chặt chẽ nên việc thi hành chính sách thuế, dân công của cán bộ ta nhiều nơi sai lầm nghiêm trọng. Các tổ chức chính quyền, xã đội còn để một số phần tử cơ hội chống đối lọt vào mà không xử lý, buông lỏng mất cảnh giác vẫn sử dụng họ từ ngày giải phóng năm 1950.


Tháng 2 năm 1953 các đơn vị của trung đoàn 148 đã chuyển sang phía Than Uyên, Phong Thổ. Lực lượng Sư đoàn 302 Giải phóng quân Trung Quốc cũng rút về nước. Ở Lào Cai chỉ còn lại lực lượng vũ trang địa phương. Để hoàn thành được nhiệm vụ, tỉnh đã tích cực củng cố xây dựng lực lượng, trước hết là thành lập 2 đại đội bộ đội địa phương của hai huyện Mường Khương, Bắc Hà và các đơn vị dân quân du kích ở các xã. Tiến hành huấn luyện gấp để dần dần tự đảm nhiệm bảo vệ địa phương, đồng thời tỉnh tuyển đủ quân số thành lập tiểu đoàn bộ đội địa phương. Thời. gian này ta vừa chỉnh huấn vừa mở rộng khu phát động quần chúng tiễu phỉ trên toàn tỉnh, nhưng tập trung bộ đội địa phương làm nhiệm vụ ở miền đông. Kết quả 3 tháng đầu năm 1953 ta diệt 10 tên, thu hàng 108 tên gồm (Phong Thổ 9, Bát Xát 20, Mường Khương 43, Bắc Hà 36).


Sang quý II năm 1953 phỉ bắt đầu hoạt động mạnh. Tỉnh mở hội nghị quân chính xác định nhiệm vụ chung: Đề cao cảnh giác, tăng cường chỉ đạo ở các khu phát động, nâng cao mức đấu tranh, mở rộng khu phát động, nơi nào phỉ lén lút hoạt động thì làm trước. Nhiệm vụ căn bản là làm cho phong trào lan ra toàn diện, thường xuyên tiến công địch buộc chúng không được công khai hoạt động. Mặt khác khẩn trương chuẩn bị chiến trường ở mặt tây1 (Báo cáo năm 1953 của Tỉnh đội Lào Cai).


Ngày 10 tháng 6 năm 1953 ta điều đại đội 965 vào Phong Thổ, phát động ở Lan Nhi Thàng. Phỉ đánh chiếm Mường Hum (Bát Xát) tháng 7, bao vây thị trấn Sa Pa (5-8), đánh phá Cốc Lếu (3-10). Trước tình hình đó tỉnh điều tiếp đại đội 962 sang Bát Xát, đại đội 961 về Sa Pa để đánh địch. Mặc dù lực lượng ta có ít, nhiều đồng chí mới nhập ngũ chưa từng trải chiến đấu nhưng bước đầu ta đã diệt và bắt sống 61 tên, gọi hàng 29 tên, thu 32 súng các loại, 5 vô tuyến điện, 17 hòm mìn.


Ngày 26 tháng 10 năm 1953 Trung ương và Khu ủy Tây Bắc chỉ đạo mở chiến dịch tiễu phỉ ở miền tây Lào Cai. Như vậy, từ ngày 28 tháng 10 trở đi cán bộ, nhân dân và lực lượng vũ trang Lào Cai đã bắt tay vào chiến dịch tiễu phỉ lớn lần thứ ba (sau hai chiến dịch miền đông), chống âm mưu phỉ hóa nhân dân của đế quốc Pháp Mỹ, bảo vệ hậu phương trong chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954.


Tham gia chiến dịch gồm 1 tiểu đoàn bộ đội địa phương (đủ 4 đại đội), 1 đại đội công an, 1 trung đội hỏa lực trợ chiến, 3 đại đội du kích Lào Cai; tiểu đoàn 183 của trung đoàn 246; phía Tây Bắc Yên Bái có đại đội của trung đoàn 159, 1 đại đội địa phương tỉnh Yên Bái. Hai đại đội bộ đội địa phương huyện Mường Khương, Bắc Hà làm nhiệm vụ bảo vệ hướng đông của tỉnh. Tổng quân số trên 4 tiểu đoàn và hàng trăm cán bộ các ban ngành, đoàn thể tham gia vận động quần chúng tiễu phỉ với hàng ngàn lượt dân công vận tải cung cấp vũ khí lương thực, thực phẩm cho chiến dịch.


Hướng chính của chiến dịch; từ Bát Xát vào Phong Thổ, hướng quan trọng là Sa Pa, hướng kết hợp là Đá Đinh, Đồng Hồ, Cam Đường.

Phương châm tiễu phỉ: “quân sự chính trị song song, chính trị là căn bản, quân sự là hậu thuẫn”. Đồng thời thực hiện tốt chính sách dân tộc, dân vận, chính sách đối vởi từng loại phỉ, chính sách khoan hồng. Về quân sự tư tưởng chỉ đạo “đánh nhỏ, thọc sâu, ăn chắc”.
Logged
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« Trả lời #11 vào lúc: 07 Tháng Ba, 2023, 12:07:42 pm »

Đợt 1: Tiểu đoàn 183 tiến công phỉ ở Bát Xát, giải phóng Mường Vi nhưng không diệt được những tên đầu sỏ. Đại đội 97 đánh bọn phỉ ở ki-lô-mét 31, ki-lô-mét 32. Đại đội 961 đánh ở Sín Chải nhưng do nắm địch không chác, cách đánh theo kiểu tiến công trận địa, trong khi đó địch phát rừng sặt nhọn còn để ngang gối những nơi ta xung phong, nên ta không phát triển tiến công được lại bị chúng phục, làm hy sinh 9 đồng chí...


Ngày 5 tháng 11, phỉ tập trung 400 tên, có máy bay yểm hộ tiến công liên tục vào thị trấn Sa Pa nhưng đều bị ta đánh bật.

Hướng Bảo Thắng, bị ta đánh ở Đá Đinh, Tả Phời nên địch rút về Séo Trung Hồ, U Sì Sung.


Sang đợt 2: Ta bí mật tiến công Tả Van. Do tổ chức mũi thọc sâu ưu thế và bố trí đón lõng các vị trí hợp lý nên ta đã đánh tan được trung tâm chỉ huy của phỉ, diệt 6 tên (trong đó có 1 tên quan một), bắt 50 tên, thu 3 vô tuyến điện, 1 trung liên, 5 tiểu liên, 1 các-bin, 24 súng trường và 21 tấn quân trang quân dụng.


Tháng 12, tiểu đoàn 183 vào đánh địch ở Phong Thổ, đại đội 97 đánh vào hướng Than Uyên. Đại đội 961 bảo vệ Sa Pa, đại đội 962 bảo vệ Bát Xát.

Hướng Bình Lư, Phong Thổ, tiểu đoàn 183 và đại đội 965 của tỉnh, do rút kinh nghiệm về cách đánh nên chiến đấu có hiệu quả cao. Đặc biệt đại đội 965 đã phối hợp tắc chiến phục kích trận Đông Pao làm tan rã 1 đại đội phỉ, diệt trên 1 trung đội. Cuối tháng 12 ta đã đánh tan được các toán phỉ dọc Bình Lư - Tam Đường - Phong Thổ.


Tháng 1 năm 1954, ta tiếp tục tiến công Na Cạ Bình Lư lần thứ hai diệt 15 tên, bắt sống 56 tên, thu 1 cối 81 và 26 súng các loại. Sau đó lại lùng sục, 30 tên ra hàng (có 2 cai, 1 đội) nộp 17 súng trường và tiểu liên.


Ngày 4 tháng 1, trên đường phỉ rút từ Bản Mấn đi Mường Khoa, đến Đông Pao bị ta phục kích lần thứ hai, diệt 30 tên, bắt sống 40 tên, số còn lại 110 tên chạy về Séo Mí Tỷ (Sa Pa).

Đến cuối tháng 1 năm 1954 tại Bình Lư, Tam Đường ta đã tiêu diệt, bắt sống và gọi hàng 437 tên thổ phỉ và 22 tên ngụy quyền (từ tri châu, chánh tổng, lý trưởng đến kỳ mục), thu 1 cối 60 ly, 8 trung liên, 28 tiểu liên, 290 súng trường, 2 súng ngắn, 8 vô tuyến điện, 10 tấn đạn dược và dù.


Hướng Sa Pa, Bát Xát, cuối tháng 11 và đầu tháng 12 các đại đội bộ đội địa phương của tỉnh và dân quân du kích đã tiến công tiêu diệt phỉ ở Sín Chải, Ý Lìn Hồ, Séo Mý Tỷ, Suối Hồ, Nậm Ngấn, đánh tan vòng vây của phỉ ở phía đông dãy Hoàng Liên Sơn; phát động quần chúng ở Sa Pa và những vùng mới giải phóng; bảo vệ được thị trấn và thông đường Lào Cai - Sa Pa. Đại đội 28 tiếp tục đánh ở Mường Vi, bảo vệ khu phát động Nhạc Sơn, trường quân chính tỉnh, bảo vệ thị xã Lào Cai.


Cuối tháng 1 năm 1954 chiến dịch tiễu phỉ miền tây kết thúc. Ta đã diệt, bắt sống và gọi hàng 689 tên, thu 386 súng các loại, 50 tấn quân trang, quân dụng; giải phóng Sa Pa, Mường Vi, Bình Lư, Tam Đường; phá vỡ vòng vây của phỉ đối với thị xã Lào Cai và các thị trấn Sa Pa, Bát Xát và huyện ly Phong Thổ; đánh tan các ổ phỉ dọc đường Lào Cai đi Lai Châu. Riêng lực lượng vũ trang Lào Cai năm 1953 và tháng 1 năm 1954 đã tiêu diệt 150 tên, bắt sống và gọi hàng 443 tên, bắn rơi 1 máy bay đa-cô-ta, thu 231 khẩu súng các loại, nhiều đạn dược và 21 tấn quân trang, quân dụng. Ta hy sinh 50, bị thương 27 đồng chí bộ đội và du kích, nhân dân bị thương vong 54, bị bắt 200 người.


Công tác tiễu phỉ năm 1953 tuy chưa diệt được những tên phi thủ (phỉ đầu sỏ), song cơ bản đạt được mục đích: đánh tan những cụm phỉ trên hành lang Sa Pa - Bát Xát - Phong Thổ; thông đường cơ động từ Lào Cai đi Lai Châu phục vụ chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ, giải vây các thị trấn và thị xã Lào Cai, giữ vững đường giao thông quốc tế Lào Cai - Vân Nam.


Sau khi các đơn vị chủ lực tiến vào chặn địch ở Than Uyên, Bình Lư, Phong Thổ, các đại đội địa phương của tỉnh trở về phát động quần chúng ở Sa Pa - Bát Xát. Nhưng công tác phát động năm 1953 chưa mạnh, vì ta không có lực lượng quân sự cần thiết làm áp lực ở những khu phát động. Do đó ở vùng nông thôn miền tây các tốp biệt kích, tàn phỉ vẫn công khai hoạt động gây cơ sở chính trị phản động, đe dọa quần chúng tích cực, lôi kéo người theo chúng. Táo bạo hơn, chúng còn giết hại cốt cán, đánh úp cán bộ ngay trong khu phát động. Quần chúng hoang mang dao động, một số cơ sở đã từng nuôi giấu cán bộ từ những năm 1947 nay lại nuôi phỉ, một số cán bộ xã và du kích trở thành chỉ huy phỉ. Điều đó chứng tỏ rằng áp lực quân sự vô cùng quan trọng, nếu nó không đủ mạnh thì việc phát động quần chúng cũng không đạt kết quả.


Việc phát động quần chúng không thành công đã gây ra tư tưởng hoài nghi về phương hướng giải quyết vấn đề phỉ, thậm chí dẫn đến nhận thức sai lệch về nguồn gốc, tính chất của thổ phỉ và gây ảnh hưởng đến công tác tiễu phỉ...


Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến công tác tiễu phỉ năm 1953 chỉ dừng ở mức độ đó là do ta còn coi nhẹ âm mưu của đế quốc Pháp - Mỹ gây phỉ ở mặt tây và có tư tưởng làm gọn phỉ ở mặt đông nên phỉ ở mặt tây phát triển nhanh chóng1 (Theo báo cáo tình hình Lào Cai năm 1953 của Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Lào Cai).


Từ tháng 2 năm 1953 ta đã đặt vấn đề đề phòng âm mưu phỉ ở mặt tây, chọn xã Mường Hụm (Bát Xát) và Sa Pa Trung làm nơi phát động. Nhưng thực tế lại tập trung, xây dựng lực lượng và muốn giải quyết gọn ở miền đông. Bên miền tây chỉ tổ chức du kích tuần hành có tính chất làm áp lực cho công tác khác.


Khi chiến dịch Thượng Lào mở (tháng 4 hăm 1953), Khu chỉ thị phải điều một đại đội sang ngăn chặn trước ở mặt tây, tỉnh lại cho rằng mặt đông quan trọng nên đề nghị khu giữ lại quân ở Bắc Hà - Mường Khương. Đến cuối tháng 5 năm 1953 Khu kiên quyết chỉ thị đại đội 965 sang Phong Thổ, tỉnh mới điều đơn vị này đi thì không còn bao nhiêu thời gian củng cố địa bàn. Tháng 7 địch đánh chiếm Phong Thổ, tỉnh vẫn cho rẳng hướng chính là đường 41, hướng phụ là Lào Cai. Khi địch đánh Bát Xát, Sa Pa tỉnh chưa nhận rõ ý đồ của địch, cho tới cuối tháng 8 mới phán đoán ra hướng phát triển của địch có thể cô lập thị xã...


Đối với việc xử lý bọn trùm phỉ ra hàng ở mặt đông hồi đầu thì bắt bừa, bắt ẩu, sau lại mắc bệnh hữu khuynh, không giam giữ cải tạo, quản lý đến nơi đến chốn mà cho rằng giữ những tên phỉ thủ sẽ có hại tới việc kêu gọi những tên khác, nên sau này chúng lại tiếp tục ngóc đầu dậy hoạt động mạnh hơn.


Những sai lầm của tỉnh năm 1953 cũng là bài học về sự chấp hành mệnh lệnh của trên không triệt để trong việc thực hiện kế hoạch tác chiến chung.
Logged
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« Trả lời #12 vào lúc: 07 Tháng Ba, 2023, 12:10:13 pm »

4- Đánh tan âm mưu "phỉ hóa nhân dân" của đế quốc Pháp - Mỹ (từ tháng 2 năm 1954 đến tháng 5 năm 1955)

Trong chiến dịch miền tây (từ cuối tháng 10 năm 1953 đến tháng 1 năm 1954), ta đã giải phóng Mường Vi, Tả Van, Bình Lư, Phong Thổ; phá vỡ sự uy hiếp của địch đối với các thị trấn và thị xã Lào Cai, giữ vững đường cơ động liên tỉnh, nhưng chưa tiêu diệt được những tên trùm phỉ, biệt kích. Đầu tháng 2 năm 1954 trở đi quân đội Pháp càng có nguy cơ dẫn đến thất bại hoàn toàn ở Điên Biên Phủ, nên chúng càng đẩy mạnh hoạt động thổ phỉ ở Lào Cai để cứu vãn tình thế và chuẩn bị cơ sở phản động phục vụ cho kế hoạch hậu chiến.


Tại Sa Pa phỉ phát triển đánh chiếm Sín Chải, Séo Mý Tỷ, Lao Chải San, đánh úp đại đội 961 và khu phát động ở Má Cha, bắt cóc du kích, phục kích đường Lào Cai - Sa Pa.

Mặt Bát Xát được tăng cường 150 tên ở Nậm Xe sang, địch tiến công đại đội 28 ở Piềng Lao, Nậm Pung chiếm lại Pa Cheo Phin, Trung Hồ, Trung Leng, Tả Giàng Phình. Các toán phỉ đã liên lạc được với nhau gây cơ sở ở Nậm Xe, Tam Đường, Bản Mấn (Phong Thổ); thả biệt kích xuống các xã Phong Niên, Quang Trung, Gia Phú, Xuân Giao (Bảo Thắng); do thám tình hình rẻo thấp, đánh vào làng Nhuần, làng Trang, Kíp Tước, Tả Phời; ám sát cán bộ trung kiên của ta ở khu phát động Nhạc Sơn, đánh úp Tà Thàng, Đồng Hồ, bắt thanh niên U Sì Sung và Dầu Trát theo phỉ.


Cuối tháng 4, được máy bay bắn phá yểm trợ, 200 tên phỉ liên tục tiến công Sa Pa nhưng đều bị ta đánh bật ra khỏi thị trấn.

Bên miền đông, các toán phỉ ở Si Ma Cai - Bắc Hà - Lùng Phình đã liên lạc được với nhau. Chúng lợi dụng khu rừng già Lồ Suối Tủng, Sang Su Văn gây cơ sở, bí mật tuyển mộ lính phỉ; công khai hoạt động uy hiếp Bản Ngo, Bản Lập, giết giao thông của ta ở Bản Già, Sín Cái. Ngày 28 tháng 4 địch thả 49 biệt kích xuống Nà Mạ, bị ta diệt 35 tên. Đầu tháng 5 chúng lại thả tiếp 4 biệt kích xuống Lùng Chin. Bọn đầu sỏ phỉ tích cực gây cơ sở phản động.


Như vậy, đến tháng 5 năm 1954 đế quốc Pháp đã bộc lộ rõ âm mưu phỉ hóa toàn tỉnh Lào Cai.

Sau khi bị thất bại ở Điện Biên Phủ, đế quốc Pháp đã ra sức tranh thủ thả hàng nghìn dù vũ khí, lương thực, quân trang, quân dụng cho bọn thổ phỉ ở Lào Cai, thúc ép chúng nổi lên ở cả hai miền đông và tây và trút mọi cố gắng cuối cùng để mở "cuộc tiến công tổng quát" mà chúng gọi là "chiến dịch Nguyễn Đình Văn" huy động toàn lực phỉ ở Tây Bắc với sự chi viện cao của không quân, đánh chiếm 5 trong số 6 huyện của tỉnh Lào Cai (trừ Mường Khương), Than Uyên, Văn Bàn (Yên Bái) và Quỳnh Nhai (Sơn La)1 (Theo cung tên La Ngọc Kim, thiếu úy GCMA chỉ huy cụm Sa Pa - Bảo Thắng (1954)). Trong cuộc tiến công này, ở Lào Cai phỉ đã phát triển tới 5.380 tên2 (Theo báo cáo quý III của Tỉnh đội Lào Cai năm 1954), hoạt động ở 5 Huyện Phong Thổ, Bát Xát, Sa Pa, Bắc Hà, Bảo Thắng.


Thủ đoạn tuyên truyền gây phỉ của chúng lần này thường lợi dụng mạnh vào nhận thức thấp kém, mê tín trong dân và lính phỉ. Chúng tung luận điệu "vua Mèo sắp ra, lúc đó không đánh cũng sẽ yên, nhân dân không cần phải làm, vua sẽ làm phép cho cây cối hóa thành lúa. Nhà vua cũng có những người biết sàng đạn, quạt đạn. Nếu Việt Minh bắn thì người đó cũng làm cho đạn lọt xuống sông hoặc bay đi". Rằng "Việt Minh chỉ được độc lập đến tháng 9, tháng 10, lúc đó lúa chín, máy bay đi họp về sẽ lại đánh Việt Minh"3 (Báo cáo quý III năm 1954 của Tỉnh đội Lào Cai). Cùng với luận điệu trên chúng còn xuyên tạc ý nghĩa của việc đình chiến và sử dụng những hàng thừa ế của thực dân Pháp để mua chuộc, dụ dỗ quần chúng, lôi kéo nhiều người đi phỉ; tạo dựng cơ sở chính trị phản động; đồng thời tìm kiếm cơ hội trên bàn đàm phán để áp dụng chính sách "dùng người Việt trị người Việt" lâu dài. Phục vụ ý đồ đó, chúng gấp rút tuyên truyền lựa những tên tay sai đắc lực như Toản Seo Cang (đặc vụ Quốc dân đảng), Tạ Quốc An, Pò Păn tức Phan Kỳ Sin, Sề Cồ Hòa, phó lý Hồ, phó lý Thìn (Bát Xát), xếp Chảo (Bắc Hà) và những tên trùm sỏ địa phương như Pò Lem, Chín Củi, Hản Seo Dỉ đưa về Hà Nội giao nhiệm vụ rồi lại thả xuống hoạt động.


Ngày 21 tháng 7 năm 1954, Hội nghị Giơ-ne-vơ kết thúc. Hiệp định đình chiến ở Đông Dương được công bố. Địch ra sức bưng bít nhưng ta kịp thời phổ biến cho quần chúng rồi lan cả vào hàng ngũ phỉ. Trong hàng ngũ phỉ, mới hơn một tháng trước chúng đang hung hăng tàn bạo, xung kích ở "chiến dịch Nguyễn Đình Văn" thì nay lại hoang mang dao động. Một số tên ngụy quyền như: Lương Chính Phương (bang tá Cốc Lếu cũ), Nùng Lý Sun, Pò Quáng, Sề Cồ Sài (Bát Xát), Châu Đoàn Kiểm, Đèo Văn Ngảnh (Phong Thổ) cũng ra đầu thú1 (Trong đó có một số tên phỉ ra hàng theo kế hoạch). Tuy vậy bọn đầu sỏ phỉ vẫn ngoan cố huy động lực lượng thúc ép binh lính cầm súng gây thêm tội ác, điển hình là bọn trùm phỉ ở Bắc Hà. Riêng bọn phỉ ở Sa Pa - Bát Xát, dù đã được lệnh của Pháp cho cất giấu vũ khí ra hàng nhưng chúng vẫn thu gom lực lượng kiên quyết chống lại cách mạng.


Về ta, từ đầu tháng 2 năm 1954, tỉnh chủ trương: Tích cực tiêu diệt những mục tiêu tập trung của địch, chủ yếu nhằm vào bọn đầu sỏ. Tiếp tục truy quét tàn binh, thu hồi hàng phỉ và vũ khí ở những khu vực mới giải phóng, gây không khí thanh bình bảo vệ sản xuất; bảo vệ khu phát động Sa Pa, Nhạc Sơn; kiềm chế sự phát triển của địch xuống đồng bằng Bảo Thắng; bảo vệ kho tàng và đường giao thông Lào Cai - Phong Thổ. Phương châm tác chiến là: nơi nào lực lượng ta ít, địch mạnh thì kiềm chế không cho địch phát triển. Nơi nào ta mạnh địch yếu thì kiên quyết tiêu diệt. Cách đánh thông thường là mật tập, mật phục và kỳ tập, kết hợp chặt chẽ với công tác dân vận, địch vận. Hướng tập trung tiêu diệt địch ở bắc Phong Thổ, kiềm chế địch ở Mường Hum, đánh địch không cho chúng phát triên xuống đồng bằng Bảo Thắng. Bên miền đông, không cho địch gây cơ sở ở rẻo Cao Sơn, Bản Lầu và quét bọn phỉ ở Bắc Hà.


Với phương châm "lấy chính trị tấn công là chủ yếu quân sự làm áp lực", tỉnh đã triển khai cho các huyện thực hiện công tác tiễu phỉ. Đến đầu tháng 8, cán bộ, nhân dân và lực lượng vũ trang địa phương đã tiêu diệt và gọi hàng được trên 300 tên phỉ, thu toàn bộ vũ khí trang bị.


Nắm được âm mưu của địch, ngày 15 tháng 8 năm 1954 Khu Tây Bắc quyết định mở chiến dịch tiễu phỉ ở cả hai miền đông - tây Lào Cai.

Lực lượng tham gia gồm: Trung đoàn 246, trung đoàn 159, tiểu đoàn 5391 (Trung đoàn 246 thuộc Khu Việt Bắc, trung đoàn 159 của Khu Tây Bắc tham gia đến tháng 3 năm 1955, tiểu đoàn 539 của Khu Tây Bắc tham gia đến 10 năm 1954 thì rút khỏi Lào Cai), tiểu đoàn 289 bộ đội địa phương Lào Cai, các đơn vị bộ đội huyện và dân quân du kích toàn tỉnh. Tổng quân số 9 tiểu đoàn.


Đồng chí Vũ Nhất, Khu ủy viên, Phó chính ủy Bộ tư lệnh Khu Tây Bắc trực tiếp làm chính ủy kiêm chỉ huy trưởng mặt trận, các đồng chí trong Tỉnh ủy, các trung đoàn ủy 246, 159 và Tỉnh đội Lào Cai làm ủy viên. Bộ chỉ huy chiến dịch chia thành hai ban chỉ đạo cùng với hai cánh quân xuống miền đông và miền tây.


Phương châm tiễu phỉ: "Lấy chính trị tiến công là chủ yếu, quân sự làm áp lực quan trọng, kiên quyết tiêu diệt bọn thổ phỉ đầu sỏ ngoan cố không chịu ra hàng, nộp khí giới, vận động thành mục tiêu quấy nhiễu nhân dân".


Trước khi mở chiến dịch ta đã tiến hành giáo dục tình hình nhiệm vụ, quán triệt phương châm và các chính sách cho cán bộ chiến sĩ; xây dựng ý chí quyết tâm tiêu diệt địch kết hợp với các đòn tiến công chính trị để giải quyết vấn đề phỉ,


Những ngày đầu chiến dịch ta tiến công Bản Ngò, Nậm Tóng, Ly Chu Phin, Trung Đô, giải phóng phố Bắc Hà1 (Tiểu đoàn 1 trung đoàn 246 hành quản lên Bắc Hà gặp địch đã tiến công ngay, giải phóng phố Bắc Hà ngày 14 tháng Cool.


Từ ngày 20 đến ngày 25 tháng 8 ta đánh mạnh ở Nậm Giá, Nậm Mòn, Trung Đô, chiếm lại Peo Pủng, đánh Ngai Thầu, Lầu Thí Ngải, Ngải Chồ dồn địch về Lùng Phình. Ngày 5 tháng 9 các đơn vị của trung đoàn 148 phối hợp với bộ đội địa phương chiếm Lùng Phình và tiếp tục tiến công Seng Sui, Sà Ván. Ngày 12 tháng 9 lực lượng tiểu đoàn 539, đại đội 965 và bộ đội huyện Mường Khương giải phóng Si Ma Cai, đánh bọn phỉ tập trung ở Quan Thần Sán.


Hướng Sa Pa, từ ngày 25 tháng 8 ta hoạt động ở Tả Van, Ý Lìn Hồ, lùng sục thu hồi hàng phỉ ở Mường Bo (Thanh Phú), nhưng chưa có đòn đánh mạnh nào vào khu tập trung hoặc đầu não phỉ nên chúng đã phục kích, đánh úp lại ta ở Ý Lìn Hồ, Tả Van, Hoa Si Pan gây cho ta nhiều thiệt hại.


Giai đoạn 1 tiến công quân sự tuy tiêu hao được một số lực lượng phỉ nhưng hiệu quả chiến đấu không cao, chưa đạt được phương châm quân sự làm áp lực cho chính trị. Nguyên nhân chính là do ta chủ quan coi thường địch, chưa nắm chấc tính chất vấn đề phỉ và quy luật hoạt động của chúng. Tư tưởng bộ đội muốn nghỉ ngơi sau đình chiến, ỷ vào hỏa lực mạnh, quân đông muốn đánh ồ ạt theo kiểu tiến công quy mô lớn.


Ở hướng Sa Pa, ban chỉ đạo chưa thống nhất với ý định của trên, lẽ ra đánh Sín Chải là mục tiêu tập trung của phỉ, nhưng lại điều bộ đội xuống Thanh Phú, làm phân tán lực lượng ở tuyến trên, nên bị địch phục kích, đánh úp tiêu hao, gây thanh thế chống ta mạnh hơn.


Với nhận thức sai lầm về cách đánh, trận Lùng Phình (Bắc Hà) ngày 5 tháng 9, trận Sín Chải (Sa Pa) ngày 5 tháng 10, sau khi đưa lực lượng lên ta đã sử dụng tới 2 tiểu đoàn, hành quân cơ động chậm, lộ bí mật nên địch rút ra phục lại trên các ngả đi làng Cáng, Bắc Hà; tập kích ta ở Di Thầu Ván (trận Lùng Phình), ở Sín Chải địch để lại bộ phận nhỏ, cài mìn lừa ta, khi ta tiến công đã trúng mìn, bẫy, bị thương vong nhiều mà phỉ vẫn chạy thoát...


Từ tình hình trên, Bộ tư lệnh chiến dịch đã kịp thời tổ chức hội nghị rút kinh nghiệm, chuyển phương thức hoạt động. Tỉnh ủy đã đặt vấn đề trọng tâm là giải quyết tư tưởng cho cán bộ chiến sĩ, bồi dưỡng phương thức tác chiến mới "đánh nhỏ, thọc sâu, diệt gọn", "vừa đánh vừa điều tra". Một số chiến lệ các trận đánh hay của đại đội 72, tiểu đoàn 183, đại đội 20, đại đội 88, tiểu đoàn 185, trung đoàn 246 và đại đội 965 bộ đội địa phương Lào Cai được đưa ra phổ biến. Các đơn vị tiến hành học tập, huấn luyện cách đánh từng phân đội nhỏ tinh nhuệ, trang bị gọn nhẹ, thọc sâu vào sào huyệt của phỉ.
Logged
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« Trả lời #13 vào lúc: 07 Tháng Ba, 2023, 12:12:14 pm »

Đầu tháng 10 năm 1954, thực hiện phương thức tác chiến mới, tất cả các đơn vị tham gia chiến đấu đều xốc lại lực lượng, lấy phân đội làm đơn vị chiến đấu chủ yếu, tăng cường công tác nắm địch, từng phân đội nhỏ tổ chức luồn rừng vào tận mục tiêu chiếm đóng của phỉ để tiêu diệt. Với chiến thuật này ta liên tiếp giành thắng lợi: giải phóng Lùng Phình, Si Ma Cai, Sông Lẫm, thị trấn (Bắc Hà); Nậm Cang, Nậm Ngấn, Sín Chải (Sa Pa); Ý Tý, Sàng Ma Sáo (Bát Xát); Đèo Mây, Nậm Se (Phong Thổ). Hết tháng 11, các mục tiễu phỉ tập trung trên phạm vi toàn tỉnh cơ bản bị đánh tan. Ta đã tiêu diệt và làm tan rã 4.328 tên phỉ bằng ba phần tư sinh lực địch, thu nhiều vũ khí trang bị1 (Báo cáo năm 1954 của Tỉnh đội Lào Cai: trong 4.199 tên có 51 tên từ sestion đến tỉnh trưởng, 68 biệt kích, diệt 291 tên, làm bị thương 134 tên, bắt 185 tên, ra hàng 3.470 tên; thu 6 súng cối, 6 stôck, 86 trung liên, 451 tiểu liên, 2.117 súng trường, 72 súng lục, 15 đài vô tuyến điện, 148 lựu đạn, 458 mìn).


Thời kỳ tiến còng chính trị: từ tháng 10 năm 1954 ta phát động quần chúng tiễu phỉ, lấy huyện Sa Pa làm thí điểm; khi được chấn chỉnh, hoạt động quân sự có tác dụng rất tốt làm áp lực cho hoạt động chính trị. Ngày 26 tháng 1 năm 1955, ta tổ chức hội nghị rút kinh nghiệm phát động quần chúng ở khu thí điểm. Sau 73 ngày vận động, 311 cán bộ, chiến sĩ đã nêu cao tinh thần chịu đựng gian khổ, kiên trì vượt mọi khó khăn mang đường lối chính sách của Đảng giáo dục cho quần chúng; làm cho quần chúng hiểu được âm mưu thâm độc của để quốc, nên đã cùng với bộ đội thu hồi 294 tên phỉ, trong đó có 6 tên đầu sỏ, 200 súng các loại1 (Báo cáo kiểm điểm kết quả hội nghị tổng kết kinh nghiệm vận động tiểu phỉ ngày 26 tháng 1 năm 1955). Kết quả ấy đã củng cố lòng tin tưởng vào phương châm chính trị là chủ yếu, quân sự làm áp lực... trong các lực lượng tham gia tiễu phỉ. Tiếp đó ta mở rộng diện phát động ra các địa phương còn lại. Đây là cuộc phát động quy mô lớn và có bài bản nhất so với các lần trước. Mặt trận đã thống nhất 5 bước tiến hành cụ thể:

1- Thực hiện "ba cùng" bắt rễ, giáo dục đại biểu gia đình.

2- Giáo dục quảng đại nhân dân, mở lớp huấn luyện "rễ"2 ("Rễ" người cốt cán của ta).

3- Tố khổ rộng khắp, đại hội nhân dân thành lập Ủy ban mặt trận đoàn kết tiễu phỉ - sản xuất.

4- Đẩy mạnh thi đua diệt phỉ, gọi hàng phỉ, thu hồi kho tàng vũ khí. Chỉnh đốn các tổ chức đoàn kết giúp nhau sản xuất.

5- Bầu hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, củng cố dân quân du kích.


Vận dụng tốt kinh nghiệm khu phát động thí điểm: dựa vào quần chúng cơ bản tiến hành giáo dục nhân dân ổn định tình hình, bắt "rễ" tốt. Tranh thủ đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân các dân tộc, chú trọng sách lược tranh thủ tầng lớp trên gắn với xây dựng quần chúng cơ bản. Triệt để phân hóa hàng ngũ địch tập trung đả kích vào những tên đầu sỏ phỉ ngoan cố. Tổ chức lực lượng quần chúng lãnh đạo quần chúng đấu tranh. Tập trung lực lượng chủ yếu vận động ở 35 xã trọng điểm, còn những nơi khác vận động ở mức bình thường. Kết quả ta tiếp tục gọi hàng được 417 tên phỉ, trong đó có nhiều tên từ quan một đến châu đoàn, tổng đoàn, thu 1 đại liên, 5 stôck, 21 trung liên, 102 tiểu liên, 427 súng trường, 13 súng ngắn và nhiều phương tiện chiến tranh khác.


Trong các xã phát động đều tổ chức được chính quyền nhân dân, vận động 50 thanh niên tòng quân, củng cố lại các xã đội, dân quân du kích. Bộ đội đã giúp nhân dân phục hoang 300 mẫu ruộng, nương, sửa chữa 13km mương phai, đào 15 giếng nước, làm 5 trường học, mở 13 lớp bình dân học vụ và quyên góp một số gạo tiền cứu đói, quần áo cho những người nghèo khó.


Công tác tiễu phỉ ở Lào Cai đến tháng 4 năm 1955 đã thụ được kết quả rực rỡ, ta đã tiêu diệt và làm tan ra trên 5.000 tên thổ phỉ, thu hàng trăm tấn vũ khí đạn dược, quân trang quân dụng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc Lào Cai đã liên tục chiến đấu đầy hy sinh gian khổ, phối hợp với bộ đội chủ lực và các đơn vị bộ đội địa phương tỉnh Hà Giang, Yên Bái đập tan âm mưu "dùng người Việt trị người Việt" và kế hoạch hậu chiến của đế quốc Pháp - Mỹ câu kết với tàn quân Quốc dân đảng Trung Hoa; đồng thời đè bẹp ý chí phục thù giai cấp, dân tộc của bọn phong kiến cát cứ; giải phóng toàn tỉnh, mang lại cuộc sống thanh bình thực sự cho nhân dân. Tuy vậy, trên địa bàn tỉnh Lào Cai vẫn còn 126 tên phỉ ngoan cố lẩn trốn vào rừng lén lút hoạt động chờ cơ hội Pháp - Mỹ có thể trở lại.


Theo chính sách khoan hồng của Đảng, những tên phỉ bị bắt và ra hàng đều được giáo dục từ 7 đến 15 ngày rồi thả về địa phương làm ăn sinh sống. Qua việc làm đó, ta đã tạo dư luận rộng cãi trong quần chúng phản đối phía Pháp vi phạm Hiệp định Giơ-ne-vơ, âm mưu tập kết thổ phỉ, xúi giục tay sai phá hoại cách mạng nước ta, gây nên những tội ác man rợ đối với đồng bào các dân tộc ở miền núi biên giới mà tập trung là đồng bào các dân tộc Lào Cai phải chịu hậu quả nặng nề nhất trong nhiều vụ gây phỉ của đế quốc Pháp.


Một số hạn chế:

- Thời kỳ tiến công quân sự, lúc đầu công tác nắm địch, đánh giá về địch thiếu chính xác, áp dụng chiến thuật không phù hợp dẫn đến hiệu quả chiến đấu thấp, không tiêu diệt được các vị trí tập trung của phỉ, ta thương vong nhiều. Trái lại, địch thổi phồng uy thế, huy động lực lượng đánh ta mạnh hơn.


- Do nhận thức lệch lạc về nguồn gốc, tính chất vấn đề phỉ nên đối với bọn đầu sỏ phỉ (cả ra hàng và bị bắt) ta chưa phân loại cải tạo mà giáo dục rồi thả đồng loạt hơn nữa lại có hướng sử dụng; khi có vị trí trong bộ máy chính quyền đoàn thể của ta, hầu hết bọn nay đều ngấm ngầm hoạt động chống phá, sau đó phải cải tạo lại, cá biệt có những tên phải trừng trị bằng luật pháp với những hình phạt nặng.
Logged
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« Trả lời #14 vào lúc: 07 Tháng Ba, 2023, 12:13:08 pm »

5- Tiếp tục vận động quần chúng, xây dựng cơ sở chính trị, giải quyết hậu quả vấn đề phỉ (từ tháng 5 năm 1955 đến tháng 5 năm 1970):

Cuộc vận động tiễu phỉ trên địa bàn Lào Cai đến tháng 4 năm 1955 cơ bản hoàn thành, các đơn vị tiến hành tổng kết. Trong khi đó một số tên phỉ vẫn tiếp tục ra hàng, điển hình là ở Bắc Hà có 16 tên, có tên được giác ngộ còn dẫn ta lên kho thu hồi 78 súng trường, 2 trung liên (có 4 nòng phụ), 1 súng ngắn, 51 lựu đạn, 4 quả mìn, 11 quả đạn AT, 7 hòm đạn nguyên, 14.600 viên đạn các loại và một số quân trang quân dụng với nhiều hàng hóa trước đó bị phỉ cướp. Đầu tháng 5, bộ đội ta rút về chỉnh huấn chuẩn bị cho đợt vận động tiếp thì phỉ lại hoạt động mạnh, ở Si Ma Cai, Lùng Phình, Thải Giàng Phố (Bắc Hà), địch đã công khai kêu gọi số phỉ đã về hàng chưa nộp súng đi theo chúng. Tại Lùng Phình phỉ gọi được 4 người và bắt 1 tổ trưởng nông hội. Chúng còn trắng trợn giả làm cán bộ đi vận động thu súng, đạn (tên Giàng Seo Phú, đại đội trưởng phỉ đã gom được 600 viên đạn); phục đường giết một trung kiên, một du kích, giết Chủ tịch xã Lùng Phình, võ trang tuyên truyền phá đường sẳt, phá dân công Bảo Nhai, vây nhà bắn chết một trung kiên của ta, lấy hết của cải. Ở huyện Bát Xát, ngày 3 tháng 6 phỉ vào bản Pá Mán giết hai "rễ" trung kiên, đe dọa bắn giết ủy ban, phục kích bộ đội ta lúc đi công tác lẻ. Ngày 21 tháng 7, sáu tên phỉ (3 tên ở Bảo Thắng 3 tên ở Bắc Hà) kết hợp cướp 2 nhà dân ở làng Gốc Mít xã Xuân Quang. Tình hình trị an trên địa bàn toàn tỉnh còn nhiều phức tạp. Đến tháng 7 năm 1955 tổng số phỉ lẩn trốn có 109 tên, trong đó có 10 tên đại đội trưởng, 3 đầu sỏ1 (Theo Báo cáo dân quân Tỉnh đội Lào Cai, số 82/BCDQ ngày 2 tháng 8 năm 1955. Hồ sơ quân đội c51, quyển số 9); cùng với hàng ngàn tên chỉ huy các cấp của phỉ và ngụy quyền đã ra hàng nhưng ngấm ngầm chống phá ta. Đặc biệt, bọn cầm đầu phỉ miền tây, sau Hiệp định Giơ-ne-vơ đã được lệnh của thiếu tá Phuốc-ni-ê, chỉ huy GCMA Bắc Bộ cho phép giải thể các cụm phi cho lính về hàng, chỉ huy lẩn trốn vào rừng chờ thời cơ hoặc tìm đường sang Lào. Cuối năm 1955 ta tiếp tục truy bắt được 7 tên, thu 357 súng trường, 41 tiểu liên, 18 trung liên, 3 súng ngắn, 152 lựu đạn, 3 hòm đạn còn nguyên với 52.410 viên đạn rời, 2 hòm đạn cối 61mm. Nhưng chúng vẫn ngoan cố, một số phỉ trốn sang Lào đến đầu năm 1956 lại trở về hoạt động gây cơ sở ở các vùng rẻo cao Nhạc Sơn, rẻo thấp Bản Náng, kết hợp với bọn đặc vụ Quốc dân đảng Trung Hoa do Vàng Chín Sồ chỉ huy, liên lạc với Po Păn (tức Phan Kỳ Sin), Pò Giàng Châu, Pò Tao, Pò Sin Gioa tổ chức tay chân cắt điện thoại (Bát Xát - Lào Cai), phản tuyên truyền chính sách của ta, gây tâm lý chiến tranh, hoài nghi sự hòa bình trong nhân dân.


Tháng 4 năm 1956 ta bắt đầu phát động lập khu tự trị, địch liên tục có những hoạt động phá hoại. Bọn Chang Diu Phú, Chang A Dân, Lý A Kỳ (Bát Xát) Vàng A Bâu, Giàng A Di (Sa Pa) tập trung 22 tên đánh úp mậu dịch Mường Hum, đốt nhà xã đội Dền Sáng đốt lều nương thóc lúa ở Phin Ngan, cắm chông cài bẫy, hãm hiếp phụ nữ, tuyên truyền chống chính sách thuê, dân công, cắt đường dây điện thoại từ các huyện về tỉnh và từ các huyện đến xã trọng điểm, cài mìn chèn đá phá đường sắt.


Tư tình hình trên, tỉnh đã chủ trương vận động quần chúng đoàn kết sản xuất chống đói, phòng bệnh, phá âm mưu gây phỉ của đế quốc; chú trọng xây dựng dân quân tự vệ đủ sức tác chiến trị an phối hợp với các lực lượng trấn áp bọn phản động phá hoại; tiếp tục vận động gia đình, người thân của những tên phỉ còn lẩn trốn gọi chúng ra hàng.


Ngày 10 tháng 10 năm 1957, tại Sa Pa đại đội 8 tiểu đoàn 36 tỉnh đội Lào Cai phục kích tên trùm phỉ Vàng A Bâu tự xưng là vua Mèo và bắt 2 tên phỉ khác thu 1 súng côn quay, 12 viên đạn, 505 đồng tiền Đông Dương1 (Báo cáo số 555/TT của đại đội 8 tiểu đoàn 36 Tỉnh đội Lào Cai ngày 25 tháng 10 năm 1957). Cuối năm 1958 ta bắt tên Giàng A Di và Hồ Vạn Lìn chỉ huy phỉ ở khu vực Tả Giàng Phình, Tả Van. Tháng 5 năm 1959 những tên Koong Sắt, tư lệnh Quốc dân đảng Trung Hoa, Lý Xa Xa, Vàng Vần Chúng, Sần Mìn Quang, đặc vụ Tưởng Giới Thạch móc nối với bọn phỉ cũ Bát Xát nổi lên cướp chính quyền ở A Lù, ta đã kịp thời bao vây tiêu diệt và bắt gọn 64 tên. Ta còn đập tan vụ địch đánh úp huyện đội Bắc Hà, Mường Khương cũng do bọn đặc vụ phỉ nước ngoài câu kết với phỉ địa phương gây ra. Tháng 12 năm 1959 ta liên tiếp tiêu diệt và bắt những tên trùm phản động chống đối, như bắt tổng đoàn Sùng A Dế (ở Xín Chải Sa Pa), Chào Phù Tá (Bảo Thắng) diệt 8 tên phỉ cướp đường ở Bắc Hà và một số tên phỉ Trung Quốc chạy sang ta hoạt động gây rối. Tháng 9 năm 1960 bọn tàn phỉ Pha Long lại nổi loạn, dân quân xã Thống Nhất đã nhanh chóng dập tắt và phối hợp với lực lượng của xã Kiến Thiết bắt sống tên đầu sỏ Lý Seo Tả, chỉ huy bạo loạn, thu vũ khí đạn dược. Năm 1960 toàn tỉnh đã tiêu diệt 11 tên, gọi hàng 13 tên, bắt 110 tên, trong đó có một số tên đặc vụ Tưởng Giới Thạch và thu nhiều vũ khí trang bị. Năm 1960 - 1961 ta tiếp tục mở cuộc vận động lớn để giải quyết tàn phỉ, dùng quần chúng và gia đình, dòng họ gọi hàng, sử dụng lực lượng dân quân du kích vây bắt, diệt những tên ngoan cố, phát động quần chúng bảo vệ trị an trấn áp bọn phá hoại. Kết quả ta đã tiêu diệt, bắt, gọi hàng hầu hết số tên phỉ ngoan cố. Trên địa bàn toàn tỉnh chỉ còn 13 tên lẩn trốn. Phong trào sản xuất phát triển, đời sống nhân dân từng bước bớt khó khăn. Hệ thống chính trị được củng cố kiện toàn.


Những năm 1962-1963 đế quốc Mỹ liên tiếp dùng không quân thả xuống địa bàn các tỉnh Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu nhiều toán gián điệp, biệt kích là phỉ cũ mà chúng đã đưa đi đào tạo từ trước, trong đó có những tên rất nguy hiểm là người quê ở Lào Cai.


Tháng 6 năm 1963, sau vụ ta bắt gọn toán biệt kích thả xuống Phú Nhuận do tên Triệu Trung cầm đầu thì âm mưu kích động nhen nhóm bọn phản động thực hiện phá hoại hậu phương của ta và gây bạo loạn khi có điều kiện đã bị bộc lộ. Một số phần tử cách mạng theo đế quốc Pháp trước đây lại tỏ ra nghe ngóng trông chờ gián điệp biệt kích Mỹ đến móc nối. Có nơi chúng đã hoạt động tuyên truyền chống phá chính sách hợp tác xã, chính sách sản xuất, ba thu và chính sách nghĩa vụ quân sự của ta, có nơi chúng dùng thủ đoạn lợi dụng tình cảm dân tộc ăn uống, vay mượn mua chuộc cán bộ xã, thậm chí đe dọa đảng viên, cán bộ cơ sở như ở Bản Phùng, Sa Pả (Sa Pa), Cửa Cải, Màn Thân, Si Ma Cai (Bắc Hà). Cuối năm 1965 đầu năm 1966, ở Hoàng Thu Phố (Bắc Hà), Tả Phin (Sa Pa), Ý Tý (Bát Xát) bọn phản động đã liên hệ với nhau để chống phá. Tại Sa Pa 4 tên phỉ lẩn trốn và 2 tên trốn tập trung cải tạo ở Pa Cheo Phin, Bát Xát, ngoan cố không chịu về làng bản làm ăn sinh sống cũng ngấm ngầm khống chế cơ sở.
Logged
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« Trả lời #15 vào lúc: 07 Tháng Ba, 2023, 12:13:57 pm »

Để làm thất bại âm mưu phá hoại của đế quốc Mỹ và chủ động phòng ngừa địch gây bạo loạn, tỉnh Lào Cai đã tập trung đẩy mạnh các biện pháp đấu tranh củng cố vùng xung yếu. Trong 10 xã, 8 thôn trọng điểm chống âm mưu gây bạo loạn của bọn phản động, tỉnh đã chỉ đạo các huyện tăng cường cán bộ xuống cơ sở bám nắm địa bàn, phát động tư tưởng đồng bào các dân tộc, nâng cao giác ngộ chính trị, vạch rõ âm mưu thủ đoạn của địch; xây dựng lòng căm thù đế quốc, bồi dưỡng niềm tin vào thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ cứu nước; vận động đoàn kết các dân tộc, cảnh giác sẵn sàng chiến đấu bảo vệ trật tự trị an, củng cố hợp tác xã nông nghiệp phát triển sản xuất cải thiện đời sông nhân dân; coi trọng xây dựng chi bộ đạt chỉ tiêu 4 tốt, chính quyền đạt tiêu chuẩn giỏi toàn diện. Gắn với việc củng cố tổ chức, tỉnh đã tiến hành điều tra cơ bản chính trị xã hội, phân loại đối tượng, trấn áp kịp thời, chính xác những tên phản động ở Hoàng Thu Phố (Bắc Hà), Tả Phin, Bản Phùng (Sa Pa), Tả Thàng (Mường Khương), Cống Hồ, Phong Hải (Bảo Thắng). Đặc biệt khi thực hiện chỉ thị 115/CT-TW ngày 6 tháng 12 năm 1965 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về vấn đề cai tạo tại chỗ các đối tượng chính trị, tỉnh đã thanh lọc công bố 128 đối tượng trước quần chúng, trong đó có 11 đối tượng ở các địa bàn trọng điểm chống âm mưu gây bạo loạn. Từ năm 1965 đến 1969 ta đã thanh toán được 9 tên phỉ lẩn trốn (diệt 1, bắt 3, gọi hàng 4, bức hàng 1) và tiếp tục bắt 39 đối tượng nguy hiểm tới an ninh xã hội, giải quyết tồn tại của công tác tập trung cải tạo. Mặt khác ta đã lập các phiên tòa công khai xét xử một số vụ án chính trị, nghiêm trọng với âm mưu tập hợp lực lượng gây bạo loạn.


Đầu năm 1968 Tỉnh ủy tiếp tục ra chỉ thị số 132/CT-TƯ về vận động củng cố vùng cao. Chỉ thị này được thực hiện đến năm 1970. Các xã trọng điểm chống âm mưu gây bạo loạn của địch từng bước được củng cố. Một số xã được tỉnh tập trung chỉ đạo xây dựng vững mạnh về chính trị và trật tự an ninh như Tả Phin (Sa Pa), Lao Táo (Mường Khương), Sàng Ma Sáo (Bát Xát)1 (Báo cáo 112/BC-TU ngày 5 tháng 5 năm 1969 của Tỉnh ủy Lào Cai). Số còn lại là xã Sa Pả, San Xả Hồ (Sa Pa), Pa Cheo Phin, Trung Lèng Hồ (Bát Xát), Pha Long (Mường Khương), Si Ma Cai (Bắc Hà) do các huyện trực tiếp đưa cán bộ xuống giúp cơ sở.


Bằng nhiều các biện pháp tích cực gắn với thực hiện các chính sách kinh tế xã hội vùng cao, ta đã đưa phong trào bảo vệ chính trị, trật tự an ninh phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Cơ sở xã hội của bọn phản cách mạng đã bị triệt phá. Những tên phỉ ngoan cố lẩn trốn trên núi Hoàng Liên Sơn ở khu vực đèo Sa Pa đã bị ta vây bắt, trong đó có tên Thào A Đỏa chạy trốn bị bắt vào tháng 5 năm 1970 tại xã Thanh Phú huyện Sa Pa. Đó cũng là tên phỉ cuối cùng bị bắt sau 20 năm tỉnh Lào Cai anh dũng chiến đấu, kiên trì thuyết phục để giải quyết nạn thổ phỉ và hậu quả của vấn đề phỉ do đế quốc gây ra.


Việc thanh toán tàn phỉ là một bộ phận công tác lớn của Lào Cai trong những năm 1955-1970. Sự quan tâm đặc biệt là loại trừ khả năng gây phỉ, gây bạo loạn nầm trong âm mưu của đế quốc và bọn phản động, vì vậy các nhiệm vụ chmh trị thời gian đó được xác định gán với việc tiễu phỉ là: củng cố cơ sở Đảng, chính quyền, đoàn thể và các tập thể tổ chức xã hội chủ nghĩa (tổ đổi công, hợp tác xã); phát triển sản xuất, đẩy mạnh lưu thông phân phối, giáo dục văn hóa, tư tưởng cải thiện đời sống, xây dựng quan hệ sản xuất mới, cải tạo xã hội tiến bộ mọi mặt, gây lòng tin tưởng vào chế độ xã hội chủ nghĩa trong nhân dân; mở rộng mặt trận đoàn kết dân tộc, xây dựng phong trào bảo vệ an ninh tổ quốc, củng cố lực lượng vũ trang địa phương, củng cố mạng công an, dân quân du kích xã làm nòng cốt cho cơ sơ; khắc phục sơ hở, nắm vững vùng xung yếu, vùng xa xôi hẻo lánh nơi địch có thể lợi dụng gây bạo loạn; kiên quyết trấn áp bọn phản cách mạng, phá hoại hiện hành.


Phải nói rằng, những năm tháng ấy đã tạo ra sự chuyển biến lớn về xây dựng cơ sở cách mạng, loại trừ cơ sở phản động, làm cho kẻ địch không còn đất đứng để nổi phỉ, gây bạo loạn. Nhưng hậu quả của vấn đề phỉ còn âm ỷ dai dẳng trong tư tưởng quần chúng nơi có phỉ. Đây là một hiện tượng hết sức phức tạp. Ngay trong những năm trước, lần nào ta cũng tổ chức vận động quần chúng, giải thích tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng, phát động quần chúng tiễu phỉ, thế mà đến khi phỉ nổi loạn đánh phá chính quyền cách mạng, cướp của cải thì quần chúng lại đi theo phỉ. Tất nhiên, có thể giải thích được rằng những bọn trùm phỉ có ảnh hưởng lớn trong nhân dân, chúng lại lợi dụng vào trình độ nhận thức thấp kém, vào những tập tục lạc hậu như lệ "ăn ước", lệ "mỗi nhà góp một chiến binh khi có biến"; lợi dụng những sai lầm của ta trong thực hiện các chính sách để phản tuyên truyền cùng với những biện pháp đe dọa mê hoặc quần chúng các dân tộc vùng cao để huy động lực lượng cầm súng. Nhưng cũng cần nhận thức rõ về việc chúng rất dày công tuyên truyền tiêm nhiễm tư tưởng phản động vào quần chúng. Do đó, nhìn bề ngoài, cuộc chiến đấu tiễu phỉ có hình thức như một cuộc chiến hoàn toàn bạo lực vũ trang, nhưng thực chất đó là một cuộc chiến vũ trang kết hợp với chính trị, trong đó chính trị là chủ yếu để giành dân đánh địch và đánh địch để giành dân. Vì vậy, quá trình tiễu phỉ bao giờ cũng đặt trọng tâm vào công tác chính trị tư tưởng; và khi đã cơ bản giải quyêt nạn thổ phỉ thì vấn đề tư tưởng, hậu quả của nó không thể một sớm một chiều xóa đi những hoài nghi độc hại, mà phải qua những thời gian dài giáo dục tuyên truyền kết hợp đồng thời với các biện pháp kinh tế và văn hóa xã hội, nâng cao mặt bằng dân trí, cải tạo con người trong xã hội mới.


Thực tế sau năm 1955 ta đã tổ chức nhiều cuộc vận động lớn như học tập chính sách khu tự trị, chính sách hợp tác hóa hoàn thành cải cách dân chủ... tránh đề cập đến vấn đề phỉ trong giáo dục tuyên truyền nhưng tư tưởng quần chúng vẫn bộc lộ hoài nghi: không biết Đảng, Chính phủ có tin cậy vùng dân tộc có nhiều người đi phỉ không? Liệu có bị phân biệt đối xử không? Nhất là khi thực hiện Nghị quyết 39 của Bộ Chính trị về bảo vệ chính trị nội bộ, ta tăng cường cải tạo cơ sở xã hội của phỉ, tiến hành cải tạo những phần tử có nguy hại đến an ninh quốc gia, rà soát những người không đủ tiêu chuẩn chính trị đưa ra khỏi Đảng và việc thực hiện Chỉ thị 192 làm trong sạch nội bộ Đảng. Có nơi diện đảng viên phải xử lý tỷ lệ cao, trong đó có nhiều đảng viên phải đưa ra khỏi Đảng. Một số cán bộ cấp huyện củng phải xử lý.


Nghiên cứu quá trình tiễu phỉ ở Lào Cai, xét về nguồn gốc của thổ phỉ để giải quyết vấn đề phỉ, sau khi phỉ đã mất chỗ dựa là đế quốc Pháp và can thiệp Mỹ, còn lại tàn dư xã hội cũ, vấn đề dân tộc, vấn đề dân sinh là những việc phải giải quyết sâu sắc cho đến lúc tên phỉ cuối cùng ra đầu thú và đến tận sau này khi mà trình độ nhận thức, trình độ sản xuất, đời sống mọi mặt của đồng bào vùng cao, biên giới còn lạc hậu, thấp kém thì công tác tư tưởng để chống địch lợi dụng phá hoại vẫn còn là một công tác thường xuyên phải chú trọng.
Logged
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« Trả lời #16 vào lúc: 07 Tháng Ba, 2023, 12:15:31 pm »

PHẦN BA
NHỮNG BÀI HỌC TRONG CÔNG TÁC TIỄU PHỈ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LÀO CAI


BÀI HỌC THỨ NHẤT
Nhận rõ âm mưu thủ đoạn gây phỉ của đế quốc và tính chất của thổ phỉ trong công tác tiễu phỉ giải phóng địa phương


Trong công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, ở Lào Cai công tác tiễu phỉ đã chiếm gần hai phần ba số thời gian. Nếu tính từ ngày 20 tháng 9 nam 1950, ngày giải phóng Bắc Hà đến khi bắt tay vào cuộc chiến đấu tiễu phỉ ngày 5 tháng 11 năm 19501 (Ngày mở chiến dịch tiễu phỉ Pha Long - Mường Khương và ngày 11 tháng 11 năm 1950 ta giải phóng Mường Khương đồng thời cũng là ngày phỉ chiếm lại huyện lỵ Bắc Hà) thời gian mới chỉ hơn một tháng. Đây là cuộc chiến đấu với một đối tượng tác chiến mới mà trước đây chưa hề có tiền lệ. Do đó việc nhận thức âm mưu thủ đoạn thâm độc của đế quốc Pháp gây dựng bọn thổ phỉ để chống lại ta là một việc rất khó khăn cần phải có thời gian và thực tế; đặc biệt là ở cơ sở và những lực lượng trực tiếp làm nhiệm vụ tiễu phỉ thì khi nhận thức được đầy đủ âm mưu thủ đoạn của địch để tìm ra được biện pháp đối phó đã phải trả giá bằng xương, bằng máu của nhiều đồng chí đồng đội, cán bộ và nhân dân.


Về đội ngũ lãnh đạo của tỉnh và chỉ huy lực lượng vũ trang của Lào Cai, phần nhiều am hiểu tình hình địa bàn từ năm 1946 (khi vận động lực lượng vũ trang thổ ty đánh Quốc dân đảng, tranh thủ tầng lớp trên xây dựng chính quyền nhân dân và sự phản bội của chúng), sau đó lại trải qua những năm tháng hoạt động hậu địch đầy gian khổ hy sinh, vì vậy ngay trong chỉ thị phối hợp công tác của địa phương cuối đợt 2 chiến dịch Lê Hổng Phong, ngày 30 tháng 10 năm 1950, Tỉnh ủy đã nhận định: "Căn cứ vào hoạt động nghi binh của địch và việc ta chiếm Bản Lầu, Chợ Chậu, Bản Phiệt tương đối dễ dàng, có thể địch đã rút chủ lực về xuôi, như vậy lực lượng ta còn phải đối phó ở Lào Cai là tàn quân Tưởng, thổ phỉ và bọn ngụy quân Nùng, Thái do một số cán bộ Pháp chỉ huy... ở hướng Lào Cai, âm mưu của chúng là sẽ sử dụng lực lượng võ trang phản động địa phương cùng bọn thổ phỉ cố thủ thị xã và quấy rối biên giới để kiềm chế chủ lực của ta, ngăn sự liên lạc giữa ta với Trung Hoa". Đồng thời tỉnh đề ra một loạt các chủ trương đối phó ở các vùng địch kiểm soát, công tác củng cố miền mới được giải phóng. Đáng chú ý, phần củng cố miền mới giải phóng và vấn đề tiếp thu các vùng được giải phóng, Tỉnh ủy đã nêu rõ: đập tan bộ máy ngụy quyền không có nghĩa chỉ diệt trừ hay trừng trị phản động mà phải quét sạch ảnh hướng bộ máy cai trị của địch trong nhân dân, vạch rõ chính sách bóc lột đàn áp của ngụy quyền tay sai, tạo cho nhân dân có ý thức so sánh chế độ thực dân với chế độ dân chủ của ta. Việc thành lập chính quyền, việc đưa các thổ ty đã làm việc với Pháp tham gia ủy ban phải được tỉnh đồng ý... Ở những vùng mới được giải phóng nhân dân nói chung còn hoang mang sợ sệt, phải tích cực dùng chính sách chiêu an, đối với những kẻ a dua theo địch trước đây, phải khoan hồng khuyên giải, tránh bắt bớ bừa bãi. Việc trừng trị bọn phản động phải báo cáo với tỉnh để đề nghị Khu quyết định... Tỉnh cũng chỉ ra rằng các đồng chí cán bộ Bắc Hà đưa Hoàng La Ú ra làm chủ tịch Si Ma Cai là một việc làm hấp tấp trái với chủ trương của Tỉnh ủy.


Trong chỉ thị ngày 14 tháng 11 năm 1950 gửi ban cán sự Mường Khương, Tỉnh ủy tiếp tục nhận định: chủ trương của Pháp là dùng lực lượng Châu Quang Lồ liên kết với thổ phỉ Giàng Cổ Hòa, Hản Sào Chúng dưới sự điều khiển của đặc vụ và cán bộ của Pháp để cố thủ Mường Khương, Pha Long, chiếm lại Hoàng Su Phì, Bắc Hà là những nơi ảnh hưởng của Pháp và thổ ty phản động còn tương đối mạnh trong nhân dân, ở đó ta chưa có phong trào quần chúng; làm căn cứ kéo dài cuộc chống đỡ hòng phá hoại công cuộc kiến thiết của ta, tạo điều kiện cho quân chủ lực Pháp tái chiếm Lào Cai... Vì nhân dân địa phương do địch nắm, nên địch có thể triệt để lợi dụng điều kiện địa dư và nhân lực ở đó để mở một cuộc chiến tranh du kích chống ta.


Cho nên nhiệm vụ ở Mường Khương Pha Long lúc này là vấn đề đấu tranh chính trị. Chúng ta phải nhận rõ âm mưu của đế quốc Pháp và kẻ thù trực tiếp là đặc vụ và thổ phỉ, Châu Quang Lồ chỉ là một cá nhân trong đó, còn nhân dân địa phương là nạn nhân.


Chỉ thị ngày 30 tháng 11 năm 1950 gửi ban cán sự Bắc Hà sau khi đồng chí Trần Phượng, Tỉnh ủy viên, Chính trị viên tỉnh đội đi kiểm tra tình hình thổ phỉ chiếm Bắc Hà, Tỉnh ủy chỉ rõ: những hoạt động của bọn thổ phỉ ở Hoàng Su Phì, Mường Khương, Pha Long đều do đặc vụ điều khiển theo kế hoạch của Pháp để lại nên có tính chất đấu tranh chính trị như nêu khẩu hiệu "Mèo, Mán, Nùng đoàn kết chống Việt Minh".


Những nhận thức ngay từ đầu đó cơ bản đã khẳng định sự sáng suốt của lãnh đạo tỉnh. Trong điều kiện chiến tranh liên miên, cơ sở cách mạng còn nhiều non kém, nhưng chúng ta đã chủ động đi trước một bước, đánh giá về địch và có những chủ trương đúng, chỉ đạo các huyện thực hiện nhiệm vụ cách mạng, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng đồng bào các dân tộc Lào Cai khỏi ách thống trị của đế quốc, phong kiến. Nó thể hiện tinh thần dũng cảm, khí phách kiên cường, mẫu mực với bản lĩnh chính trị vững vàng của bộ máy lãnh đạo chiến tranh trong suốt quá trình chống Pháp - tiễu phỉ ở Lào Cai. Những nhận thức ban đầu, tuy chưa toàn diện nhưng cũng làm được rõ nội dung thổ phỉ là nằm trong âm mưu của đế quốc Pháp, là bọn ngụy quân cài lại và lực lượng võ trang thổ ty cát cứ do đặc vụ Pháp chỉ huy; bản chất giai cấp của thổ phỉ là sự câu kết giữa đế quốc - phong kiến phản động. Báo cáo tổng kết tiễu phỉ miền đông từ ngày 25 đến ngày 27 tháng 11 năm 1951 viết: "Phỉ là tụi trùm phản động phong kiến cát cứ, tàn quân Pháp và được sự phối hợp của các lực lượng phản động Trung Quốc...


Nguyên nhân có phỉ là do âm mưu của Pháp, do chế độ phong kiến cát cứ có võ trang ở địa phương và do hoàn cảnh biên giới thuận tiện cho phỉ". Đánh giá này làm căn cứ để xác định phương châm hoạt động của chiến dịch tiễu phỉ thu hồi Pha Long - Mường Khương: "Chính trị là chủ yếu, quân sự làm áp lực". Đầu tháng 12 năm 1950, khi có phương châm tiễu phỉ của Trung ương thì những điểm đó cơ bản phù hợp với chủ trương của trên. Nhưng thời gian này Lào Cai cũng chưa thấy hết sự thâm độc của âm mưu địch lợi dụng vấn đề dân tộc, vấn đề quần chúng trong việc gây phỉ của bọn gián điệp, đặc vụ GCMA. Sự thực chúng đã sử dụng bọn thổ ty chức dịch, ngụy quân, ngụy quyền phản động người địa phương, đưa ra các chiêu bài phản động; thổi phồng những sai lầm khuyết điểm của một số cán bộ, bộ đội ta để kích động, hằn thủ dân tộc.
Logged
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« Trả lời #17 vào lúc: 07 Tháng Ba, 2023, 12:16:12 pm »

Trong tài liệu "Cục diện địa phương về hành động tại các vùng miền núi", số 212S2 ngày 27 tháng 2 năm 1952 của GCMA (Com-măng-đô hỗn hợp nhảy dù) có đoạn viết: "Cuộc chiến đấu của ta, hơn bất kỳ cuộc chiến đấu nào khác, phái gắn chặt toàn bộ vào địa phương. Các thổ dân là bộ phận chủ yếu. Không có họ thì không có vấn đề thâm nhập vào một vùng thực sự nắm nhân dân". Triệt để lôi kéo quần chúng tổ chức các cụm phỉ. Dựa vào quan hệ dòng họ còn đậm nét trong dân tộc, chúng mua chuộc các trưởng họ để gây dựng cơ sở chính trị phản động, hình thành hệ thống chỉ huy phỉ ở từng địa phương như bốn họ: Chấu, Sùng, Lò, Chang (Pha Long); hai họ: Nùng, Sề (Bát Xát); ba họ: Châu, Giàng, Vàng (Sa Pa)... tổ chức những tốp phỉ của chúng theo dòng họ nên có sự gắn bó mang tính chất gia đình, thân tộc. Lợi dụng tàn dư công xã nông thôn với tục "ăn ước", Châu Quang Lồ đã tập hợp tất cả các chức dịch, người đứng đầu dòng họ cùng "ăn ước" tự bảo vệ địa phương không theo Việt Minh...". Ai không tuân thủ sẽ bị "bắn tại chỗ" và tục lệ "mỗi nhà góp một chiến binh khi có biến" hoặc "nhận ruộng làng thì phải đi lính". Với những thủ đoạn xảo quyệt ấy, chỉ trong thời gian ngắn chúng đã huy động được hàng nghìn trai tráng cầm súng theo phỉ. Ba thủ đoạn kích động tư tưởng; xây dựng cơ sở chính trị phản động; tổ chức hệ thống chỉ huy theo quan hệ dòng họ, dân tộc và chế độ binh dịch cổ truyền trên và những biện pháp căn bản để hình thành ra lực lượng võ trang của phỉ, làm cho thổ phỉ mang tính chất kích động dân tộc thiểu số và tính chất lợi dụng lôi kéo quần chúng.


Sau một thời gian thấy hoạt động của thổ phỉ có tác dụng, đế quốc Pháp và can thiệp Mỹ đã nâng vấn đề phỉ thành nội dung trong chiến lược "dùng người Việt trị người Việt", đồng thời tăng cường chi phí ngân sách, cung cấp phương tiện chiến tranh, chi viện không quân tạo mọi điều kiện cho phỉ điên cuồng đánh phá cách mạng. Việc thực dân Pháp dùng thủ đoạn lôi kéo đông đảo quần chúng các dân tộc tham gia phỉ là một hành động nham hiểm, gây cho ta nhiều khó khăn trong giải quyết vấn đề phỉ. Từ năm 1952 trở đi, qua thực tế ta càng hiểu rõ âm mưu của đế quốc và tính chất của thổ phỉ, đồng thời xác định cuộc chiến đấu tiễu phỉ là một cuộc đấu tranh giai cấp gay go quyết liệt lâu dài, đ tiêu phi để đập tan mưu toan phục hồi chế độ thuộc địa nửa phong kiến của đế quốc và bọn phong kiến cát cứ; là một cuộc đấu tranh mà tính nhân văn được thể hiện một cách cụ thể nhất trên chiến trường.


Thật vậy, công tác tiễu phỉ ở Lào Cai không chỉ là cuộc chiến đấu đập tan lực lượng vũ trang phản cách mạng mà điều chủ yếu là cuộc vận động cách mạng trong nhân dân các dân tộc nhằm vạch mặt kẻ thù xâm lược và bọn cầm đầu phỉ phản động; tuyên truyền giáo dục làm cho quần chúng thấy cuộc đấu tranh của ta là chính nghĩa, là vì dân để nhân dân đoàn kết đứng lên cùng bộ đội, cán bộ tiễu phỉ trừ gian ác giải phóng cho họ.


Âm mưu của đế quốc Pháp, Mỹ rất nham hiểm và thường xuyên được bổ sung, cho nên muốn nắm chắc âm mưu địch phải nghiên cứu kỹ những biểu hiện diễn biến của nó. Việc gây phỉ lúc đầu chỉ nhằm mục đích kiềm chế lực lượng của ta để quân đội Pháp rút lui an toàn, nhưng đến giữa năm 1951 đã trở thành một biện pháp chiến lược, có đội biệt kích nhảy dù GCMA chuyên trách gây phỉ phục vụ cho ý đồ "Dùng người Việt trị người Việt". Năm 1952 lại có sự tham gia của Mỹ, sử dụng đặc vụ Tưởng phối hợp với GCMA Pháp để gây phỉ trên dọc biên giới Việt - Trung hòng biến nơi đây thành căn cứ phản động phá hoại hòa bình ở châu Á - Thái Bình Dương. Năm 1953 mục tiêu gây phỉ nhằm phá hoại hậu phương, ngăn chặn ta chi viện sức người của cho tiền tuyến. Thủ đoạn của chúng thời gian này có thay đổi: dùng đặc vụ lôi kéo thanh niên miền tây vào vùng địch huấn luyện trước và sử dụng bọn đặc vụ GCMA trực tiếp gây phỉ. Khác với bên miền đông trước đây, chúng không thông qua bọn thổ ty, thổ hào để gây phỉ; công tác chuẩn bị rất bí mật, chỉ khi chủ lực phỉ đánh đến đâu thì phản động địa phương mới nổi loạn tới đó. Cách làm đó của địch đã gây cho ta bất ngờ, phán đoán sai hành động của chúng. Khi chúng tiến công ra Phong Thổ, ta vẫn cho rằng hướng chính của địch là đường 41, chưa nhận định ngay âm mưu của địch là bao vây đánh vào các thị xã - thị trấn, triệt phá kho tàng, đường giao thông, nên bước đầu đối phó gặp một số khó khăn, làm hạn chế kết quả tiêu diệt địch và bị thiệt hại nặng ở thị xã Lào Cai.


Năm 1954-1955 âm mưu gây phỉ của địch không chỉ để cứu vãn tình thế thua đau ở Điện Biên Phủ mà còn có ý đồ chuẩn bị cho kế hoạch hậu chiến, phân công có cụm phỉ hoạt động, có cụm phỉ nằm lì phá hoại lâu dài, còn bọn chỉ huy lẩn trốn chờ thời cơ Pháp - Mỹ quay trở lại.


Kẻ thù của nhân dân Lào Cai trong cuộc chiến đấu tiễu phỉ là đế quốc nhưng trực tiếp lại là bọn đặc vụ (kể cả đặc vụ Pháp và đặc vụ Tưởng Giới Thạch) với bọn trùm phản động bán nước và bọn thổ ty địa chủ miền núi phục thù giai cấp; với nhiều thủ đoạn nham hiểm, thâm độc luôn luôn ở những động thái khác nhau. Do đó, việc đánh giá đúng âm mưu của địch, tìm ra chỗ mạnh chỗ yếu của phỉ, làm cơ sở xác định đúng nhiệm vụ chính trị của địa phương, đề ra phương châm biện pháp sắc bén giải quyết vấn đề phỉ; đồng thời chuyển hóa nó thành quyết tâm của lãnh đạo, quyết tâm của lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc là một yếu tố quyết định thắng lợi của công tác tiễu phỉ ở Lào Cai. Nó phải được xem xét trên lập trường cách mạng, bằng phương pháp khoa học, tư duy tổng hợp trong không gian, thời gian cụ thể; theo quan điểm vận động phát triển, luôn chú ý đến yếu tố khách quan và chủ quan trong chỉ đạo; kết hợp nắm vững tính chất của vấn đề phỉ, phân tách cô lập kẻ thù, phát động quần chúng tiễu phỉ với nhiệm vụ xây dựng cơ sở chính trị cách mạng để đánh bại âm mưu đế quốc, tiễu trừ thổ phỉ, mang lại cuộc sống hòa bình cho nhân dân.
Logged
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« Trả lời #18 vào lúc: 14 Tháng Ba, 2023, 07:07:48 am »

BÀI HỌC THỨ HAI
Nắm vững phương châm "quân sự chính trị song  song, chính trị là căn bản, quân sự là áp lực", triệt để vận dụng vào lãnh đạo địa phương tiễu phỉ giành thắng lợi


Do nắm được âm mưu thủ đoạn của địch và tính chất của thổ phỉ cho nên ngay tử cuối tháng 10 Đảng bộ Lào Cai đã xác định phương châm tiễu phỉ là: ”chính trị là chủ yếu, quân sự là áp lực", tức chính trị nặng hơn quân sự. Binh lực của ta mang đi tiễu phỉ có tác dụng uy hiếp địch làm cho địch thấy không thể chống cự nổi, bức chúng phải quy hàng. Trong trường hợp địch quyết tâm chống lại thì phải tập trung bộ đội để giải quyết, song đã đánh là phải thắng để làm đà cho công tác vận động chính trị.


Dùng quân sự không có nghĩa là quân sự chỉ đến đóng quân hoặc có bộ đội chỉ làm nhiệm vụ quân sự thuần túy mà phải quan niệm là không kể cán bộ dân vận, bộ đội hay nhân viên chính quyền đều phải coi công tác chính trị là trọng yếu và phải tùy theo khả năng của ngành mình mà hướng vào nhiệm vụ chính theo chủ trương đề ra. Đến tháng 12 năm 1950 Trung ương Đảng ta đã chỉ đạo phương châm tiễu phỉ chính thức là "quân sự chính trị song song, chính trị là căn bản, quân sự là áp lực", vì thổ phỉ là một lực lượng vũ trang phản động được đế quốc Pháp - Mỹ cung cấp vật chất và phương tiện chiến tranh hiện đại, muốn thắng chúng phải dứt khoát dùng lực lượng quân sự mạnh với ưu thế áp đảo. Nhưng thổ phỉ có tính chất kích động gây hận thù trong các dân tộc thiểu số, tính lợi dụng quần chúng; để thắng chúng, ta không thể chỉ dùng lực lượng quân sự đơn thuần. Ngược lại, cái chính là phải giáo dục quần chúng nhận rõ kẻ thù, phát động quần chúng đứng lên ủng hộ cán bộ, bộ đội tiễu phỉ thì mới mong giành thắng lợi. Điều đó cho ta thấy quần chúng chỉ là nạn nhân. Suốt những năm địch chiếm đóng, nhân dân các dân tộc Lào Cai (trừ một số vùng căn cứ cách mạng) hầu như bị địch bưng bít đầu độc về tư tưởng, không hiểu biết về cách mạng; đến ngày gây phỉ lại bị bọn ngụy quyền, trùm sỏ phỉ lừa phỉnh, hù dọa tuyên truyền, bịa đặt nói xấu Chính phủ và cán bộ Việt Minh, làm nhân dân mờ đi tính chất đấu tranh giai cấp, cam chịu cuộc đời nô lệ. Do vậy việc khơi dậy cho quần chúng tự giác đứng lên giải phóng mình là một việc làm công phu có tính chủ đạo trong công tác tiễu phỉ.


Qua thực tiến tiễu phỉ ở Lào Cai, lực lượng quân sự vừa là lực lượng làm áp lực, tiêu diệt làm tan rã các mục tiêu tập trung của phỉ; đồng thời là lực lượng chủ yếu làm công tác vận động chính trị phát động quần chúng tiễu phỉ. Khi nào và nơi nào coi nhẹ lực lượng quân sự thì lúc đó, ở đó bị thất bại, gây tổn thất lớn cho địa phương. Nhưng hiểu như thế nào đối với lực lượng quân sự để thực hiện đúng phương châm tiễu phỉ của Đảng? Ta cũng tránh sự nhầm lẫn rằng lực lượng quân sự làm tất cả, tuyệt đối hóa, trở thành lực lượng bao biện làm thay cho các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể của địa phương, mà ở đây chỉ giới hạn phạm vi là lực lượng chủ yếu trong điều kiện thổ phỉ còn khả năng tác chiến quân sự, cơ sở chính trị của ta non kém, quần chúng còn bị ảnh hưởng lớn, có mối quan hệ với phỉ... Các cấp, các ngành phải chủ động phối hợp theo chức năng nhiệm vụ, sát cánh với lực lượng quân sự để tiến hành công tác.


Áp lực quân sự tuy không là chủ yếu, nhưng phải được sử dụng ngay từ đầu, vì quy luật nổi phỉ bao giờ lúc đầu chúng cũng tập trung lực lượng gây thanh thế, thậm chí có cả không quân Pháp chi viện, thực hành tiến công một số mục tiêu quan trọng của ta như thị xã, thị trấn, kho tàng, vô hiệu hóa chính quyền nhân dân để lập ra chính quyền phản động rồi đến chiếm cứ một số nơi có giá trị chiến thuật ngăn chặn lực lượng ta tiến công. Do đó lực lượng quân sự của ta trước hết phải đánh tan các mục tiêu tập trung của phỉ, tức là phải đánh vào những nơi trung tâm, đầu não, các kho tàng, lùng sục diệt những tên phỉ đầu sỏ, đánh liên tục, thu vũ khí và phương tiện thông tin liên lạc, làm cho chúng tan rã, không còn khả năng tập trung lực lượng, tạo điều kiện cho công tác vận động chính trị. Tính chất hoạt động quân sự của phỉ là không cố định, thoắt ẩn thoât hiện, ít khi tổ chức trận địa, chủ yếu dựa vào rừng rậm, hang sâu, hẻm núi, có nơi gần làng bản để tiện cung cấp hậu cần và khi bị đánh mạnh nhanh chóng giấu súng giả làm dân. Lực lượng phân tán, do bọn đầu sỏ địa phương chỉ huy, lúc tập trung thường chỉ 30 đến 50 tên. Tư tưởng tác chiến của chúng là hoạt động du kích, với phương châm: tránh mạnh đánh yếu, phục kích trên các đường giao thông, đánh vận chuyển tiếp tế và các bộ phận lẻ, tập kích những nơi ta sơ hở. Phương châm của địch như vậy vì: - Phỉ không thể tập trung lâu, phải bám vào dân lấy nguồn tiếp tế. - Lính phỉ là người địa phương, không chịu rời bỏ địa phương, khi tác chiến không chi viện được cho nhau. - Bọn chỉ huy phỉ muốn phát triển chiến tranh du kích; nhưng tinh thần đề kháng kém, không có khả năng phát triển chiến đấu rộng.


Một số đơn vị bộ đội của ta trong tác chiến ở các chiến dịch tiễu phỉ hầu hết giai đoạn một chưa nắm được tính chất hoạt động và phương châm tác chiến của địch. Quen tiến công có quy mô, bố trí binh hỏa lực mạnh cho nên hiệu quả chiến đấu thấp, mang tính xua địch chạy, không tiêu hao được sinh lực địch, bị phỉ đánh bất ngờ làm thiệt hại nặng như: trận Mao Chóa Sủ ngày 23 tháng 11 năm 1950, tiểu đoàn 930 trung đoàn 148 hy sinh 49 đồng chí. Đến chiến dịch mùa hè năm 1952 tư tưởng đánh lớn của trung đoàn vẫn chưa được khắc phục, một số cán bộ chiến sĩ còn nảy sinh tư tưởng thích đánh Pháp hơn đánh phỉ, muốn giải quyết nhanh vấn đề phỉ. Năm 1953 đại đội 97 tiểu đoàn 183, trung đoàn 246, đại đội 961 bộ đội địa phương tỉnh cũng bị thất bại bởi lối đánh tiến công trận địa ở ki-lô-mét 31-32 đường Lào Cai đi Sa Pa và trận đồi Dù Sín Chải. Đầu năm 1954 tư tưởng đánh lớn vẫn còn ảnh hưởng làm hạn chế nhiều đến thắng lợi tiễu phỉ. Hệ thống các phương thức hoạt động quân sự có hiệu quả trong các chiến dịch phải là phương thức "đánh nhỏ, thọc sâu, diệt gọn", "vừa đánh, vừa điều tra". Đó là phương hướng phù hợp với yêu cầu áp lực quân sự của phương châm chung tiễu phỉ. Nói như vậy không có nghĩa mâu thuẫn giữa chiến dịch lớn với cách đánh nhỏ. Chúng ta thực hiện các trận đánh nhỏ, sử dụng lực lượng, trang bị gọn nhẹ đánh ở khắp nơi, vừa đánh vừa điều tra, lùng sục. Như vậy địch mới tan rã, mang lại hiệu quả chiến đấu cao cho chiến dịch.
Logged
saoden
Thành viên
*
Bài viết: 1075



« Trả lời #19 vào lúc: 14 Tháng Ba, 2023, 07:08:30 am »

Căn cứ vào tình hình phỉ hoạt động phân tán, trước hết về sử dụng binh lực ta không thể sử dụng lực lượng theo quy mô lớn. Một vấn đề thật khách quan là địch vận dụng chiến thuật du kích ở địa bàn rừng núi hiểm trở thì ta phải đối phó bâng chiến thuật du kích. Với mục tiêu địch tập trung khoảng 30 tên đến 50 tên; khi đánh chúng ta chỉ cần 1 tiểu đội đến 1 trung đội. Đánh phỉ chủ yếu dùng chiến thuật tập kích, phục kích; lùng sục điều tra phục vụ hai cách đánh trên.

- Cách đánh tập kích: Mục tiêu của phỉ linh hoạt, không có tính chất đề kháng lại được dân chúng che giấu (vì dân chưa hiểu ta) nên ta phải hết sức bí mật, tổ chức lực lượng nhỏ, trang bị gọn nhẹ, lương thực khô đảm bảo 5 đến 7 ngày luồn rừng truy tìm thổ phỉ ở những nơi nghi vấn. Khi gặp địch, nhanh chóng triển khai tác chiến chia thành các mũi hướng, đánh mạnh vào bên sườn phía sau, có bộ phận đón lõng để diệt gọn quân địch.

- Cách phục kích: Phỉ thưởng ở những điểm cao, đường hẻm, hai bên núi cao mục đích đánh các bộ phận đi lẻ, triệt tiếp tế, giao thông của ta. Để đối phó với chúng, mỗi khi ta hành quân, trú quân đến đâu ta phải nắm chắc địa hình rồi tổ chức phục kích trước khi phỉ phục kích ta. Hoặc tổ chức phục kích chặn đường liên thôn bản, những nơi phỉ hay qua lại, phục kích trước những nơi phỉ thường phục kích chờ chúng đến phục kích ta sẽ tiêu diệt gọn.

- Truy kích lùng sục: Cách đánh này đuổi sau lưng địch mà phải linh hoạt pháp, đoán chặn đầu, khi bị mất mục tiêu phải nhanh chóng tổ chức các mũi nhỏ bao vây, lùng sục điều tra phát hiện địch, nắm chắc địch để tổ chức phục kích, tập kích tiêu diệt địch.    Quán triệt, vận dụng phương châm tiễu phỉ thường xuyên chú ý đến mục đích quân sự làm áp lực phục vụ nhiệm vụ vận động chính trị, chống mọi biểu hiện nóng vội, chủ quan coi thường địch, điều tra đánh giá thiếu chính xác về địch, không phân biệt rõ đâu là địch, đâu là dân dẫn đến hiện tượng bắt bừa, bắt ẩu. Trong tác chiến phải có ý thức chính trị cao, chấp hành đúng các chính sách dân tộc, dân vận, với chính sách phỉ vận, đối xử đúng mức với từng loại phỉ theo chính sách khoan hồng của Đảng làm cơ sở cho công tác chính trị, phát động quần chúng "gọi phỉ ra hàng, gọi dân về làng".


Chính trị là căn bản: Thực hiện phương châm chính trị là căn bản, trước hết mỗi lực lượng làm công tác tiễu phỉ phải nhận rõ âm mưu địch và đường lối phương châm, chính sách của Đảng. Trước khi bước vào tiễu, phỉ, chất lượng quán triệt các quan điểm đường lối chính sách và các biện pháp cụ thể của công tác chính trị là một yêu cầu không thể thiếu, nó quyết định đến thái độ, hành động cách mạng, làm sáng tỏ chính nghĩa, bản chất tốt đẹp của chế độ mới, quân đội kiểu mới, bằng hành động thực tế đập tan những luận điệu xuyên tạc vu cáo của địch, để nhân dân hiểu râng chúng ta đến tiễu phỉ là mang lại, cuộc sống hòa bình, hạnh phúc cho họ.


Thực tế cho thấy thời gian tiến hành công tác chính trị bao giờ cũng dài gấp hai, gấp ba lần thời gian tiến công quân sự, và chính trị là căn bản, nếu không có áp lực quân sự mạnh thì hoạt động chính trị củng không thể thành công. Trường hợp năm 1953, khi chủ lực đánh sâu vào Phong Thổ - Than Uyên, khu phát động quần chúng của ta ở Sa Pa - Bát Xát không có lực lượng quân sự đủ mạnh để tiến công áp đảo phỉ, nên không bảo vệ được khu phát động, ngay sau đó phỉ lại nổi lén hoạt động. Nhưng khi đã có lực lượng quận sự làm cho phỉ tan rã thì công tác vận động chính trị sẽ thu được thắng lợi rực rỡ. Đó là năm 1952 ta sử dụng tới 5 trung đoàn đánh phỉ bằng quân sự mà chỉ tiêu diệt được mấy trăm tên, còn lúc phát động quần chúng tiễu phỉ đã có hàng mấy nghìn tên bị bắt và ra hàng, ta thu hàng nghìn khẩu súng các loại và hàng tấn vũ khí đạn dược, phương tiện chiến tranh. Tiến công phỉ bằng chính trị là căn bản phải được thức hiện xuyên suốt trong quá trình tiễu phỉ, nhưng thơi cơ tập trung cao độ là lúc các mục tiêu tập trung của phỉ đã bị đánh tan, ta tiếp tục lùng sục.


Ba vấn đề cơ bản của chính trị trong tiễu phỉ là phát động quần chúng; chính sách khoan hồng; cải thiện đời sống dân sinh. Những nhiệm vụ đó đan xen lẫn nhau, không tách rời nhau và có tính độc lập tương đối với các bước đi thích hợp cho từng nhiệm vụ. Áp lực trực tiếp trong quá trình vận động chính trị là công tác lùng sục, trấn áp những tên đầu sỏ, tìm diệt những hang ổ phỉ không chịu đầu thú, ngoan cố chống lại cách mạng.


Yêu cầu của công tác chính trị đòi hỏi phải kiên trì nhẫn nại, đứng vững trên lập trường cách mạng của giai cấp công nhân, khôn khéo linh hoạt nêu cao cảnh giác có quan điểm thực tiễn, giáo dục làm cho quần chúng từ chỗ chưa hiểu ta đến chỗ có cảm tình với ta, ủng hộ ta và tham gia tiểu phỉ. Nếu chưa giác ngộ được nhân dân để nhân dân cùng ta diệt phỉ thì ta không thể diệt hết phỉ được vì bọn trùm phì chính là tầng lớp thổ ty thổ hào, phản động cố cựu ở địa phương, chúng là tay sai của đế quốc, có quyền lợi gắn với quyền lợi của đế quốc. Chúng đã lừa bịp, đàn áp nhân dân từ lâu. Thêm vào đó, mối quan hệ gia đình, chủng tộc rất sâu sắc, nên đầu sỏ phỉ còn ảnh hưởng lớn trong nhân dân, nhân dân còn tin ở chúng, bao che, cung cấp cho phỉ lương thực, thực phẩm và tin tức tình báo, thành kiến với bộ đội, cán bộ, cho ta là kẻ bóc lột cai trị họ.


Ở Seng Sui, Nà Cáng, Tả Pha Chải, Lùng Chin, Cửa Cải, quê hương Hản Sào Lùng, phó tổng chỉ huy phỉ, là khu trình độ nhân dân thấp, dân rất sợ phỉ. Có nơi ta ở với dân đã quen, khi ta đi vắng vài hôm trở về có người trông thấy vẫn chạy, không dám báo tin cho ta. Bọn phỉ ngoan cố, ngày ở rừng đêm về bản ngủ nói chuyện với dân, được dân che chở. Nắm được tình hình đó, ta kiên trì vận dụng phương châm chính trị, tiếp tục phát động quần chúng gần 5 tháng ròng. Nhân dân từng bước đã giác ngộ và có tinh thần diệt phỉ hăng hái. Hầu hết số phỉ đã được dân gọi về hàng, mang theo súng đạn nộp ta, trong đó có 30 tên ngoan cố là đại đội trưởng, trung đội trưởng củng mang vũ khí trung liên, tiểu liên, cối 61, cối 81 ra đầu thú. Hoặc cuối năm 1954, sau 73 ngày phát động thí điểm ở Sa Pa-ta đã đấu tranh thu hàng 294 phỉ, có 6 đầu sỏ phỉ quan trọng, thu 200 súng các loại. Chiến dịch tiễu phỉ năm 1952 và chiến dịch năm 1954-1955 nhờ làm tốt công tác vận động chính trị mà ta đã thu được thắng lợi lớn. Kết quả đó càng khẳng định tính hiệu quả và giá trị của phương châm chính trị là căn bản.


Phương châm quân sự chính trị song song, quân sự là áp lực, chính trị là căn bản thể hiện mối quan hệ biện chứng; mặc dù giữa quân sự và chính trị không ngang bằng nhau nhưng luôn gắn bó, ràng buộc với nhau. Hiệu quả của áp lực quân sự tốt sẽ tạo đà cho vận động chính trị giành thắng lợi và ngược lại. Nếu áp lực quân sự không đủ ưu thế thì công tác vận động chính trị kém hiệu quả (như cuối năm 1953), hoặc coi nhẹ công tác chính trị, thiên về công tác quân sự thì không thể tiêu diệt được hết phỉ, trong tác chiến sẽ bị tổn thất (như trận cuối tháng 11 năm 1950)... Song chính trị bao giờ cũng phải được coi trọng, là vấn đề chủ yếu để giải quyết vấn đề phỉ trong phương châm tiễu phỉ và quá trình công tác tiễu phỉ.
Logged
Trang: « 1 2 3 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM