Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 18 Tháng Tư, 2024, 04:16:33 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Chiến thắng Hòa Bình thành công xuất sắc về chỉ đạo chiến lược của Đảng  (Đọc 2994 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #40 vào lúc: 19 Tháng Năm, 2023, 08:10:38 am »

Thực hiện chủ trương của Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh ngày 17 tháng 11 năm 1951, Bộ Tổng Tham mưu tổ chức Hội nghị giao nhiệm vụ sơ bộ cho các đại đoàn 308, 312, 316 và Liên khu Việt Bắc. Các đơn vị được phổ biến, quán triệt những nhận định và chủ trương sắp tới của Tổng Quân ủy là: "Tranh thủ thời gian, lợi dụng lúc địch chưa được củng cố, tiêu diệt một bộ phận sinh lực quan trọng của địch, tiến tới phá kế hoạch chiếm đóng Hòa Bình của địch; lợi dụng địch sơ hở, ta mạnh dạn đánh sâu vào địch hậu, đẩy mạnh du kích chiến tranh; Tổng Quân ủy đề nghị với Trung ương Đảng cho đình chỉ mở chiến dịch tại Liên khu 3 và một số nơi khác để mở chiến dịch tại Hòa Bình"1 (Bộ Tổng Tham mưu, Lịch sử Bộ Tổng Tham mưu trong kháng chiến chống Pháp (1945 -1954), Bộ Tổng Tham mưu xuất bản, Hà Nội, 1991, tr. 522). Tiếp đó, ngày 18 tháng 11 năm 1951, Tổng Quân ủy nhận định: "Cuộc tiến công của địch sẽ gây cho ta những khó khăn nhưng cũng tạo cho ta một cơ hội tốt để tiêu diệt sinh lực địch. Vì địch đã mang lực lượng cơ động tinh nhuệ phân tán trên một tuyến dài đột xuất, công sự chưa vững chắc, địa hình không thuận lợi"; vì phần lớn lực lượng cơ động đã tập trung vào Mặt trận Hòa Bình, cho nên lực lượng của địch ở vùng địch hậu đồng bằng bị dàn mỏng, các vùng từ hữu ngạn, tả ngạn Liên khu 3 đến trung du đều tương đối sơ hở hơn trước1 (Nhận định của Tổng Quân ủy về cuộc tấn công của địch ra Hòa Bình ngày 18 tháng 11 năm 1951, dẫn theo Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, Tập 1, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, tr. 324).


Tổng Quân ủy - Bộ Tổng Tư lệnh quyết định sử dụng 3 đại đoàn (308, 312 và 304) vây hãm và tiêu diệt quân cơ động của địch ở Mặt trận Hòa Bình; Đại đoàn 320 và Đại đoàn 316 phối hợp với lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương đánh phá bình định, phát triển chiến tranh du kích ở vùng sau lưng địch đồng bằng Bắc Bộ.


Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hòa Bình được thành lập, do Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Tư lệnh và phụ trách Bí thư Đảng ủy Chiến dịch2 (Ngày 30 tháng 11 năm 1951, Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Tư lệnh Chiến dịch tới Sở Chỉ huy Tiền phương ở Đồng Lương thuộc huyện Cẩm Khê, bên bờ sông Thao để chỉ huy chiến dịch), đồng chí Nguyễn Chí Thanh làm Chủ nhiệm Chính trị kiêm Phó Bí thư, Thiếu tướng Hoàng Văn Thái làm Tham mưu trưởng. Ngày 23 tháng 11 năm 1951, Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi thư cho đồng chí Nguyễn Chí Thanh và đồng chí Hoàng Văn Thái ở Sở Chỉ huy Tiền phương báo tin Bác và các đồng chí trong Bộ Chính trị nhất trí với đề nghị của Tổng Quân ủy là chuyển hướng chiến dịch về Hòa Bình và nhấn mạnh một số điểm: "Đây là cơ hội rất tốt, thuận lợi để tiêu diệt địch. Đáng lẽ ra ta phải đánh điểm diệt viện, phải điều nó ra để đánh, ở đây ta không cần đánh điểm mà viện của nó cũng ra. Đây là cơ hội hiếm có để tích cực kìm hãm địch. Đây là cơ hội rất thuận lợi để phát triển du kích chiến tranh rộng rãi. Cần hết sức tranh thủ thời gian, nhiều thắng lợi nhỏ cộng lại sẽ thành thắng lợi lớn nên không chờ đợi lâu quá"3 (Bộ Tổng Tham mưu, Lịch sử Bộ Tổng Tham mưu trong kháng chiến chống Pháp (1945 -1954), Sđd, tr. 525).


Quán triệt chủ trương của Trung ương Đảng về "Nhiệm vụ phá cuộc tấn công Hòa Bình của địch" và những lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong "Thư gửi các cán bộ, chiến sĩ chủ lực và dân quân du kích trong Chiến dịch Hòa Bình", ngày 2 tháng 12 năm 1951, Tổng Quân ủy - Bộ Tổng Tư lệnh tổ chức Hội nghị cán bộ phổ biến nhiệm vụ và kế hoạch tác chiến chiến dịch. Đại tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt Tổng Quân ủy - Bộ Tổng Tư lệnh, Đảng ủy và Bộ Chỉ huy Chiến dịch báo cáo trước Hội nghị "Chủ trương tác chiến trên mặt trận sông Đà", về chủ trương và phương châm tác chiến, Đại tướng nêu rõ: "Tập trung lực lượng tiêu diệt Tu Vũ và Núi Chẹ, đồng thời tranh thủ đánh viện trên sông, trên bộ và bên hữu ngạn, Núi Chẹ và hữu ngạn thì địch có thể bất ngờ, ít nhất cũng giúp cho việc tiêu diệt Tu Vũ được thuận lợi hơn…"1 (Báo cáo kế hoạch tác chiến chiến dịch và tổng kết kinh nghiệm của các chiến dịch lớn, Bộ Tổng Tham mưu xuất bản năm 1963, Tập 2, tr. 27). Kết thúc Hội nghị, Đại tướng Võ Nguyên Giáp ra "Huấn lệnh" kêu gọi toàn thể cán bộ, chiến sĩ, bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương: "Tìm địch mà đánh, diệt các cứ điểm mới đóng của địch, diệt các đội càn quét của chúng, cắt đường giao thông liên lạc của chúng, biến sông Đà thành sông Lô năm xưa, Đường số 6 thành Đường số 4, tiêu diệt sinh lực địch, phá tan âm mưu chiếm đóng Hòa Bình"2 (Những tài liệu chỉ đạo các chiến dịch của Trung ương Đảng, Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh, Tập 4, Sđd, tr. 73).


Như vậy, mở Chiến dịch Hòa Bình là quyết định mang tầm chiến lược của Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh. Quyết định được đưa ra trên cơ sở phân tích đúng đắn tình hình địch - ta và khả năng thực tế chiến trường. Đề nghị mở Chiến dịch Hòa Bình được Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh phê chuẩn, là cơ sở để Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh chỉ đạo, điều hành chiến dịch giành thắng lợi, tạo bước phát triển mới cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đang bước vào giai đoạn cam go, ác liệt.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #41 vào lúc: 19 Tháng Năm, 2023, 08:11:53 am »

2. Sự chỉ đạo, điều hành của Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh - nhân tố quan trọng, quyết định thắng lợi Chiến dịch Hòa Bình

Địa bàn chiến dịch diễn ra trên khu vực từ Xuân Mai đến thị xã Hòa Bình dài 50km và từ Trung Hà đến thị xã Hòa Bình dài khoảng 60km. Đây là khu vực có địa hình rừng núi sát với đồng bằng, có hai dãy núi cao, dãy Ba Vì 1.287m và dãy Viên Nam cao 1029m. Phía Đông Ba Vì có nhiều đồi núi trống trải, phía Tây Ba Vì là rừng núi kín đáo. Có 3 trục đường lớn, cơ giới hoạt động được là Đường số 89, Đường số 87 và Đường số 6 là đường giao thông chính, ven đường có nhiều núi rừng xen kẽ đồi gianh. Sông Đà rộng và sâu, nước chảy mạnh, các tàu nhỏ đi lại được, nhưng dễ bị ta phục kích1 (Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Tóm tắt các chiến dịch trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000, tr. 367 - 368).


Chiến dịch Hòa Bình có nhiệm vụ đánh địch trên cả 2 mặt trận chính diện và sau lưng địch, có sự chỉ đạo phối hợp chặt chẽ 2 mặt trận với nhau. Tại Mặt trận Hòa Bình, lực lượng của địch lúc nhiều nhất là 29 tiểu đoàn, lúc ít nhất là 21 tiểu đoàn. Chúng đóng thành 3 phân khu: Phân khu Chợ Bến, Phân khu sông Đà và Phân khu Hòa Bình (bao gồm cả Đường số 6). Ở thị xã Hòa Bình, địch xây dựng một cụm cứ điểm lớn với binh lực gần 8 tiểu đoàn. Hình thức phòng ngự theo kiểu tập đoàn cứ điểm đã xuất hiện.


Để đảm bảo công tác hậu cần cho chiến dịch, Tổng Quân ủy quyết định thành lập 2 ban cung cấp tiền phương ở Bắc và Nam Hòa Bình. Ban Cung cấp Tiền phương Mặt trận Bắc Hòa Bình có nhiệm vụ bảo đảm cho Đai đoàn 308, Đại đoàn 312 và Đại đoàn Công pháo 351 cùng các lực lượng vũ trang địa phương. Ban Cung cấp Tiền phương Mặt trận Nam Hòa Bình có nhiệm vụ bảo đảm cho Đại đoàn 304 và Đại đoàn 320.


Ngày 20 tháng 11 năm 1951, Bộ Tổng Tư lệnh ra "Mệnh lệnh" tác chiến số 1 cho Đại đoàn 312: Đánh địch từ thị xã Hòa Bình lên Trung Hà, dọc 2 bên tả ngạn và hữu ngạn sông Đà, tiêu diệt những cứ điểm địch mới chiếm đóng, lực lượng cơ động đường bộ và đường thủy, quân địch đi càn quét sục sạo xung quanh các vị trí... Yêu cầu Đại đoàn khẩn trương ra quân, trận đầu phải đánh thắng, chủ động tìm địch mà đánh; khi có điều kiện thuận lợi thì tổ chức đánh địch, không phải chờ lệnh; thực hiện nhiệm vụ tác chiến phải nhanh chóng, bí mật, nắm vững tình huống, không bỏ lỡ thời cơ. Đồng thời, Bộ Tổng Tư lệnh chỉ thị cho Đại đoàn 316 được tăng cường Trung đoàn 246 tranh thủ thời gian, hoạt động mạnh ở Bắc Bắc (Bắc Ninh, Bắc Giang, Vĩnh Phúc), cho một bộ phận táo bạo vào sâu địch hậu phát triển chiến tranh du kích, mở rộng vùng du kích, căn cứ du kích, tiêu diệt sinh lực địch; có kế hoạch phối hợp, giúp đỡ bộ đội địa phương chống càn quét... Bộ Tổng Tư lệnh ra mệnh lệnh cho Đại đoàn 308 dự bị chiến lược và các phân đội pháo binh phối thuộc, bố trí Trung đoàn 88 ở phía Nam Phong Vực, Trung đoàn 102 và Trung đoàn 36 ở Bắc tỉnh Phú Thọ, từ Đào Giã đến Chí Chủ giáp tới sông Lô, chuẩn bị sẵn sàng tác chiến và khi có điều kiện tập trung tiêu diệt địch nếu chúng chiếm đóng Hưng Hóa hoặc đánh lên Phong Vực, Phú Thọ.


Ngày 10 tháng 12 năm 1951, đợt 1 Chiến dịch Hòa Bình bắt đầu và kết thúc vào ngày 26 tháng 12 năm 1951. Tại Hội nghị đợt 1 chiến dịch, Tổng Quân ủy nhận định: "Địch bị thất bại lớn về quân sự và chính trị. Trong một thời gian ngắn địch bị tiêu diệt 23 đại đội. Với chiến thắng Tu Vũ, Nam Ba Vì, Đường số 6 trực tiếp uy hiếp kế hoạch chiếm đóng của địch. Trận đánh vào Phát Diệm và những trận thắng lợi ở trung du đã góp phần vào việc phát triển du kích chiến tranh và làm rối loạn hậu phương của chúng, hiện nay địch vẫn còn sơ hở... Những trận thắng vừa qua đã giải quyết được nhiều vấn đề chiến thuật... Bộ đội ta có thể đi sâu vào địch hậu. Nhưng, vừa qua chưa có trận nào tiêu diệt gọn ghẽ. Ta bỏ nhiều cơ hội tiêu diệt địch trong vận động". Chủ trương của Tổng Quân ủy là "tranh thủ tiêu diệt thêm sinh lực địch trong khu Cơ động Ba Vì, Đường số 6, Bắc thị xã Hòa Bình, chuẩn bị có thể đánh điểm diệt viện trong khu vực Đá Chông, Chẹ và tiếp tục kiềm chế lực lượng của chúng để các hướng và địch hậu có thể phát triển thuận lợi. Ở chiến trường phối hợp, "trung du mạnh dạn đưa thêm chủ lực vào địch hậu để mở rộng thêm các khu Căn cứ... Liên khu 3 cần có kế hoạch giúp đỡ tả ngạn phát triển du kích chiến tranh". Ở các chiến trường xa, "lệnh cho các chiến trường Bình - Trị - Thiên, Liên khu 5, Nam Bộ ra sức hoạt động kiềm chế địch, tích cực phối hợp với chiến trường chính". Phương châm tác chiến ở chiến trường chính là "đánh điểm diệt viện, tranh thủ đánh một trận tương đối lớn. Phải tổ chức đánh giao thông thường xuyên trên Đường số 6"1 (Bộ Tổng Tham mưu, Lịch sử Bộ Tổng Tham mưu trong kháng chiến chống Pháp (1945 -1954), Sđd, tr. 539). Đợt 2 chiến dịch bắt đầu vào ngày 27 tháng 12 năm 1951 và kết thúc vào ngày 31 tháng 12 năm 1951. Tính chung qua 2 đợt chiến dịch, ta đã tiêu diệt nhiều sinh lực địch trên mặt trận chính diện, đồng thời mở rộng hoạt động vũ trang vào vùng sau lưng địch.


Nắm vững tình hình sau 2 đợt tiến công, tại Hội nghị chuẩn bị đợt 3 chiến dịch họp ngày 1 tháng 1 năm 1952, Tổng Quân ủy nhận định: Địch bị thất bại nặng nề, kế hoạch chiếm đóng Hòa Bình gặp nhiều khó khăn, nhất là do tuyến vận tải trên sông Đã hoàn toàn tê liệt và Đường số 6 luôn bị cắt đứt. Vì vậy, chúng có thể cố gắng chiếm giữ Hòa Bình, nhưng hoàn cảnh khách quan cũng có thể buộc địch phải nghĩ đến việc rút quân2 (Báo cáo kế hoạch tác chiến và tổng kết kinh nghiệm trong các chiến dịch lớn, Tập 2, Sđd, tr. 53). Tổng Quân ủy chủ trương: Chuyển mặt trận xuống phía Nam, lấy vùng Hòa Bình, Đường số 6 là hướng chính, vùng Chẹ, Đá Chông, Bắc Ba Vì là hướng phụ; tiêu diệt sinh lực địch, cắt Đường số 6 và mở rộng vùng sau lưng địch ở hướng chính, tiêu hao kiềm chế, cắt đường tiếp tế trên sông Đà, mở rộng mặt trận sau lưng địch ở Đá Chông, Chẹ, Bắc Ba Vì nhằm tiếp tục tiêu diệt sinh lực địch, thu hút và kiềm chế đối phương ở Hòa Bình để các mặt trận phối hợp và địch hậu có điều kiện phát triển mạnh; chuẩn bị sẵn sàng để đánh tiêu diệt khi địch rút quân. Phương châm vẫn là đánh điểm, diệt viện nhưng tuỳ tình hình cụ thể mà vận dụng và phối hợp tác chiến chặt chẽ với mặt trận vùng sau lưng địch. Hướng vùng sau lưng địch là đưa chủ lực sang tả ngạn sông Đà củng cố cơ sở, đẩy mạnh chống càn, phối hợp tích cực với Mặt trận Hòa Bình, Đường số 61 (Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), Tập II, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, tr. 168). Đợt 3 chiến dịch bắt đầu vào ngày 7 tháng 1 năm 1952 với sự kiện Trung đoàn 102 (Đại đoàn 308) tiến công cứ điểm Pheo.


Khi đợt 3 chiến dịch đang diễn ra, ngày 30 tháng 1 năm 1952, Bộ Tổng Tư lệnh họp, nhận định tình hình địch - ta sau 2 tháng hoạt động trong Chiến dịch Hòa Bình, về tình hình địch, Bộ Tổng Tư lệnh nêu rõ: Trong đợt 3, địch bị ta tiếp tục đánh mạnh và thiệt hại nặng trên mặt trận chính diện và trong địch hậu. Trên Mặt trận Hòa Bình - Đường số 6, phòng tuyến sông Đà bị bức rút, thị xã Hòa Bình bị đánh mạnh và bao vây, Đường số 6 bị tấn công và cắt đứt. Địch hậu cũng bị đánh mạnh, nhất là ở Bắc Ninh, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình. Địch đang ở trong tình trạng lúng túng, mâu thuẫn giữa sự đòi hỏi của mặt trận chính diện và địch hậu, giữa yêu cầu quân sự và chính trị. Theo thế chung, dù muốn hay không muốn, địch cũng phải rút Hòa Bình2 (Những tài liệu chỉ đạo cuộc đấu tranh vũ trang của Trung ương Đảng và Tổng Quân ủy (từ năm 1945 đến năm 1954), Tập 3, Bộ Tổng Tham mưu xuất bản năm 1963, tr. 188- 195).


Căn cứ nhận định của Tổng Quân ủy, Bộ Tổng Tham mưu xây dựng kế hoạch đánh địch rút chạy. Đúng như dự đoán của ta, ngày 23 tháng 2 năm 1952, quân địch bắt đầu rút chạy khỏi Hòa Bình. Trên cơ sở kế hoạch đánh địch rút chạy, quân ta tiêu diệt thêm một bộ phận quân địch. Ngày 25 tháng 2 năm 1952, Chiến dịch Hòa Bình kết thúc.


Có thể khẳng định, mở chiến dịch Hòa Bình là quyết định đúng đắn của Bộ Chính trị, Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh. Quyết định được đưa ra trên cơ sở cân nhắc, phân tích, tính toán kỹ tình hình mọi mặt địch - ta. Do vậy, ngay từ khâu chuẩn bị chiến dịch, Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh đã có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, kịp thời đối với các lực lượng tham gia chiến dịch, với các chiến trường phối hợp nhằm đảm bảo chiến dịch diễn ra được thuận lợi và giành thắng lợi. Khi chiến dịch diễn ra, Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh luôn có sự chỉ đạo, điều hành sát thực tế chiến trường. Thắng lợi của Chiến dịch Hòa Bình là thành công của Tổng Quân ủy và Bộ Tư lệnh trong việc chỉ đạo tiến công địch trên cả hai hướng chiến lược chủ yếu, kết hợp hai mặt trận chính diện và sau lưng địch, kết hợp vận động chiến và du kích chiến, kết hợp tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng. Trong Chiến dịch này, dưới sự chỉ đạo, điều hành của Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh, lực lượng vũ trang ta có bước tiến bộ mới về trình độ kỹ, chiến thuật, về khả năng chiến đấu liên tục dài ngày cũng như về sự phối hợp tác chiến giữa ba thứ quân, để lại nhiều kinh nghiệm quý đối với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #42 vào lúc: 08 Tháng Sáu, 2023, 06:45:16 am »

ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP VỚI CHIẾN DỊCH HÒA BÌNH


Trung tá, TS TRẦN ANH TUẤN
Trưởng phòng Lịch sử quân sự Thế giới,
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam


Tháng 11 năm 1951, thực dân Pháp đưa 20 tiểu đoàn, phần lớn là lực lượng cơ động chiến lược, mở cuộc tiến công quy mô lớn lên Hòa Bình nhằm giành lại quyền chủ động chiến lược; mở rộng khu Chiếm đóng, bịt chặt cửa ngõ phía Tây Nam đồng bằng Bắc Bộ, chặn đường liên lạc vận chuyển của ta giữa Việt Bắc và các liên khu 3,4; tiêu diệt một bộ phận chủ lực và phá sự chuẩn bị tiến công Thu - Đông của ta. Với tầm nhìn chiến lược, kinh nghiệm thực tiễn phong phú, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã cùng Tổng Quân ủy - Bộ Tổng Tư lệnh kịp thời tham mưu cho Bộ Chính trị mở Chiến dịch Hòa Bình và trực tiếp điều hành công tác chuẩn bị, xây kế hoạch tác chiến và chỉ đạo quân và dân ta đánh địch trên cả hai mặt trận chính diện và sau lưng, đập tan kế hoạch đầy tham vọng của thực dân Pháp.


1. Cùng Tổng Quân ủy nhận định, đánh giá đúng âm mưu, thủ đoạn của địch, kịp thời tham mưu cho Bộ Chính trị mở Chiến dịch Hòa Bình

Trước khi địch điều quân lên đánh chiếm Hòa Bình, trong báo cáo đề nghị của Tổng Quân ủy tại Hội nghị Bộ Chính trị ngày 19 tháng 10 năm 1951, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã có dự kiến phương án địch đánh ra Hòa Bình nhưng cho rằng khả năng đó ít, vì đây là vùng rừng núi bất lợi cho chúng. Báo cáo đề cập đến tình huống nếu địch đánh ra thì sẽ đề nghị chuyển hướng chiến dịch, tập trung lực lượng tiêu diệt sinh lực địch trên chiến trường chính là Hoà Bình, các hướng khác phối hợp cùng với các chiến trường toàn quốc nhằm mục đích tiêu diệt sinh lực địch và đẩy mạnh chiến tranh du kích. Đặc biệt, Đại tướng đã sớm nhận định: "Nếu địch đánh ra Hòa Bình thì đó là một cơ hội cho ta tiêu diệt"1 (Những chỉ đạo chiến dịch của Trung ương Đảng, Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh, Tập 4, Bộ Tổng Tham mưu xuất bản, 1963, tr. 30).


Ngày 10 tháng 11 năm 1951, được tin địch đánh ra Chợ Bến, Đại tướng Võ Nguyên Giáp phán đoán "nhiều khả năng địch sẽ chiếm Hòa Bình". Quả nhiên, chiều 14 tháng 11 năm 1951, 3 tiểu đoàn dù địch nhảy xuống Hoà Bình; nửa đêm, 2 binh đoàn cơ động chia làm 2 hướng, 1 hướng theo Đường số 6 tiến về thị xã Hòa Bình, 1 hướng theo sông Hồng và sông Đà tiến công đánh chiếm Tu Vũ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận định: "Đờ Lát đã cho ta những cơ hội bằng vàng để tiêu diệt sinh lực địch và cứu vãn tình hình địch hậu"2 (Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tập hồi ký, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2006, tr. 773). Ngày hôm sau (15.11.1951), Đại tướng triệu tập Hội nghị Tổng Quân ủy. Trước khi vào cuộc họp, Đại tướng nói với mọi người nhận định của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi nghe báo cáo về việc địch tiến công ra Hòa Bình: "Đó là một cơ hội tốt cho ta. Trước kia ta phải lừa địch ra mà đánh. Nay địch tự ra cho ta đánh"3 (Trần Trọng Trung, Võ Nguyên Giáp - Danh tướng thời đại Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 263 (bản PDF)). Bước vào Hội nghị, khi phân tích tình hình, Tổng Quân ủy nhận định: Đờ Lát muốn giành lại quyền chủ động. Địch đánh trước hòng gây tiếng vang về chính trị đối với Pari và Oasinhtơn, đồng thời hy vọng gây thêm khó khăn cho ta. Nhưng, chúng đưa một lực lượng lớn thoát khỏi phòng tuyến boongke, hình thành một tuyến dài đột xuất trên chiến trường rừng núi, là một dịp tốt cho ta mở chiến dịch quy mô lớn, tiêu diệt sinh lực địch trên hướng chính diện, đồng thời lợi dụng tình thế sơ hở trong vùng tạm bị chiếm để đẩy mạnh cuộc đấu tranh trong vùng sau lưng địch. Tổng Quân ủy nhất trí đình chỉ việc mở chiến dịch Liên khu 3, đề nghị Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh "cho mở chiến dịch tại Hòa Bình, chuyển thế bị động sang thế tiến công quân địch mới chiếm đóng. Hòa Bình là hướng chính, các nơi khác là mặt trận phối hợp"1 (Quân đội nhân dân Việt Nam - Bộ Tổng Tham mưu, Lịch sử Bộ Tổng Tham mưu trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 -1954), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2015, tr 381).


Trong thư đề ngày 15 tháng 11 năm 1951 gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tồng Bí thư Trường Chinh và các đồng chí Trung ương, Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã báo cáo toàn diện về tình hình địch, về chiến trường Hòa Bình; những khó khăn, thuận lợi của ta; công tác chuẩn bị và phương sách đối phó đầu tiên... Báo cáo nhấn mạnh: Mở chiến dịch tiến công giải phóng Hòa Bình là giải phóng một trung tâm chính trị của vùng đồng bào Mường, không chỉ quan trọng về quân sự mà còn cả về chính trị và kinh tế. Mặt khác, do chúng điều một bộ phận lực lượng cơ động ra ngoài phòng tuyến là một cơ hội cho chiến tranh du kích nói riêng và cuộc đấu tranh trong vùng đồng bằng tạm chiếm nói chung có điều kiện phát triển hơn.


Ngày 23 tháng 11 năm 1951, Bộ Chính trị họp dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhất trí với nhận định và đề nghị của Tổng Quân ủy về chuyển hướng chiến dịch về Hòa Bình và nêu rõ, đây là cơ hội tốt để ta đánh địch trên Mặt trận Hòa Bình, mặt trận sau lưng địch và các mặt trận khác. Bộ Chính trị quyết định tổ chức Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hoà Bình gồm các đồng chí: Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Chỉ huy trưởng kiêm Bí thư Đảng ủy; Nguyễn Chí Thanh làm Chủ nhiệm Chính trị kiêm Phó Bí thư Đảng ủy; Thiếu tướng Hoàng Văn Thái làm Tham mưu trưởng Chiến dịch. Tiếp đó, ngày 24 tháng 11 năm 1951, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 22-CT/TƯ "về nhiệm vụ phá cuộc tấn công Hòa Bình của địch".


Như vậy, nhờ nắm chắc tình hình, nhận đúng âm mưu, thủ đoạn của đối phương, ngay khi địch vừa đưa quân đánh chiếm Hòa Bình, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng tập thể Tổng Quân ủy đã kịp thời tham mưu cho Bộ Chính trị mở Chiến dịch Hòa Bình; đánh địch trên cả hai mặt trận chính diện và sau lưng. Thực tiễn đã minh chứng, việc tham mưu cho Bộ Chính trị mở chiến dịch tiến công địch ở Hòa Bình là hoàn toàn đúng đắn, kịp thời.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #43 vào lúc: 08 Tháng Sáu, 2023, 06:46:18 am »

2. Chủ động chỉ đạo tiến hành công tác chuẩn bị, xây dựng kế hoạch tác chiến chiến dịch khoa học

Ngay khi thực dân Pháp lên Hòa Bình, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã chỉ đạo Bộ Tổng Tham mưu dự kiến ngay phương án tác chiến, chuyển hướng theo tình huống chiến lược mới. Trong khi chờ quyết định chính thức của Bộ Chính trị, Đại tướng đã chỉ đạo cơ quan hậu cần tranh thủ cử cán bộ đi nghiên cứu, triển khai hệ thống kho trạm ở phía Nam tỉnh Phú Thọ; chỉ đạo cơ quan tham mưu triệu tập hội nghị giao nhiệm vụ sơ bộ cho các đại đoàn 308, 312, 316 và Liên khu Việt Bắc, đồng thời điện cho Đại đoàn 312 đang trên hướng Tây Bắc nhanh chóng chuyển xuống chuẩn bị chiến trường, bảo vệ căn cứ tiếp tế, bảo vệ đường vận chuyển hậu cần và cho một đơn vị xuống sát Hoà Bình, cùng bộ đội địa phương Phú Thọ bám sát, quấy rối, tiêu hao địch.


Ở Liên khu 3, để thống nhất chỉ huy bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương, Tổng Quân ủy quyết định thành lập Ban Chỉ đạo lâm thời do đồng chí Văn Tiến Dũng - Tư lệnh kiêm Chính ủy Đại đoàn 320 phụ trách. Nhiệm vụ trước mắt của Ban là điều động lực lượng, bám sát và tiêu hao địch dọc Đường số 6, giữ vững tinh thần và cơ sở nhân dân, tăng cường hoạt động ở Chợ Bến. Tổng Quân ủy đề nghị Khu ủy tăng cường cán bộ và giúp đỡ Tỉnh ủy Hòa Bình.


Về tổ chức nắm địch, Bộ Tổng Tư lệnh thành lập 2 đoàn cán bộ đi nghiên cứu, chuẩn bị chiến trường trên cả hai hướng Chiến dịch Hòa Bình và hướng địch hậu. Phần lớn cán bộ từ cấp tiểu đoàn trở lên của các đơn vị đều được đi nghiên cứu chiến trường. Ngoài ra, ta còn tăng thêm lực lượng trinh sát để nắm tình hình địch ở thị xã Hòa Bình. Các đoàn nghiên cứu chiến trường trinh sát đã căn bản nắm được tình hình địch, địa hình, xác định được phương án tác chiến cho từng đơn vị.


Ngay sau khi Trung ương và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định mở Chiến dịch Hòa Bình, Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết thư cho đồng chí Nguyễn Chí Thanh và đồng chí Hoàng Văn Thái1 (Ngày 18 tháng 11, theo sự phân công của Tổng Quân ủy, các đồng chí Nguyễn Chí Thanh và Hoàng Vân Thái cùng với một bộ phận nhẹ của Bộ Tổng Tham mưu iên đường đi trước tới Cẩm Khê (Phú Thọ), gần Hòa Bình để kịp thời chỉ đạo, chỉ huy tác chiến) nói lại những ý kiến của Bộ Chính trị: Đây là cơ hội rất tốt, thuận lợi để tiêu diệt địch, để phát triển du kích chiến tranh rộng rãi. Cần hết sức tranh thủ thời gian, góp nhiều thắng lợi nhỏ thành thắng lợi lớn, không nên chờ đợi quá lâu. Có thể tiêu diệt ngay một, hai cứ điểm đột xuất như La Phù, Tu Vũ. Nếu Đại đoàn 312 đánh công sự vững chắc chưa bảo đảm thì điều động một trung đoàn thuộc Đại đoàn 3082 (Trần Trọng Trung, Võ Nguyên Giáp - Danh tướng thời đại Hồ Chí Minh, Sđd, tr. 275).


Trước khi lên đường tới Sở Chỉ huy tiền phương, Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết bản Huấn lệnh kêu gọi toàn thể cán bộ, chiến sĩ bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích: "Tìm địch mà đánh, diệt các cứ điểm mới đóng của địch, diệt các đội càn quét của chúng, cắt đứt đường giao thông liên lạc của chúng, biến sông Đà thành sông Lô năm xưa, Đường số 6 thành Đường số 4, tiêu diệt sinh lực địch, phá tan âm mưu chiếm đóng Hòa Bình"1 (Những chỉ đạo chiến dịch của Trung ương Đảng, Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh, Tập 4, Sđd, tr. 73).


Ngày 30 tháng 11 năm 1951, Đại tướng đến Sở Chỉ huy Chiến dịch đặt ở Đồng Lương (huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ), thông qua kế hoạch tác chiến. Ngày 2 tháng 12 năm 1951, Tổng Quân ủy tổ chức Hội nghị cán bộ phổ biến nhiệm vụ và kế hoạch tác chiến chiến dịch. Đại tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt Tổng Quân ủy, Bộ Tổng Tư lệnh, Đảng ủy và Bộ Chỉ huy Chiến dịch báo cáo trước Hội nghị về chủ trương tác chiến trên Mặt trận Sông Đà. Từ kết quả trinh sát, nắm tình hình địch, Hội nghị phân tích: Hiện nay, địch đã củng cố khu vực chiếm đóng của chúng thành 2 khu: Hoà Bình - Đường số 6 và sông Đà. Nếu ta tác chiến lớn ở Hòa Bình - Đường số 6 thì cung cấp gặp khó khăn và không tranh thủ được thời gian. Khu sông Đà, địch chia thành 2 tiểu khu phòng ngự then chốt: La Phù - Đan Thê và Tu Vũ - Núi Chẹ. Tiểu khu La Phù - Đan Thê mạnh hơn, vì các vị trí có thể yểm hộ, ứng cứu lẫn nhau, nhiều đường giao thông thủy, bộ, trong khi đó, tiểu khu Tu Vũ - Núi Chẹ yếu hơn vì ở vào vị trí cô lập, có sông ngăn cách, xa các căn cứ Sơn Tây, Trung Hà, chỉ có một con đường bộ (Đường số 87) và một đường thủy (sông Đà - Hoà Bình đi Trung Hà). Hai cứ điểm Tu Vũ và Núi Chẹ quan hệ mật thiết với nhau. Núi Chẹ là trận địa hỏa lực và căn cứ hậu cần của Tu Vũ, còn Tu Vũ là bình phong của Núi Chẹ, nhưng giữa hai cứ điểm có sông ngăn cách.


Trên cơ sơ phân tích thế bố trí của địch, những thuận lợi, khó khăn của ta, Hội nghị chủ trương: Tập trung lực lượng đột phá tuyến Sông Đà, bắt đầu bằng trận tiêu diệt Tu Vũ và Núi Chẹ, đồng thời tranh thủ tiêu diệt viện binh địch cả trên bộ và trên sông, ở vùng sau lưng địch, tích cực phát triển du kích chiến tranh, phối hợp với mặt trận phía trước. Phương châm tác chiến đề ra cho Mặt trận Hoà Bình - sông Đà - Đường số 6 là "đánh điểm, diệt viện" (có thể vây điểm, diệt viện), hết sức tranh thủ giải quyết xong trận đánh trong một đêm, đồng thời chuẩn bị sẵn sàng tiếp tục đánh ban ngày, về đánh viện, chuẩn bị đánh viện binh địch cả trên đường thủy, đường bộ, cả cơ giới và quân dù hết sức tạo cơ hội và không bỏ lỡ cơ hội diệt viện binh địch ban đêm. Tư tưởng chỉ đạo tác chiến là tích cực, chủ động, linh hoạt tìm địch mà đánh; nhanh chóng, bí mật, nêu cao tinh thần phối hợp, giúp đỡ lẫn nhau.


Hội nghị chỉ rõ những điều cần đặc biệt chú ý: Đánh thông tư tưởng, làm cho toàn thể cán bộ, chiến sĩ nhận rõ cơ hội thuận lợi để tiêu diệt sinh lực địch, thấu triệt ý nghĩa và mục đích quan trọng của chiến dịch; chú trọng công tác tuyên truyền, đề cao tinh thần mạnh bạo, cương quyết hoàn thành nhiệm vụ; triệt để giữ bí mật. Cơ quan tham mưu phải nắm vững địch ở Bắc Bộ, đặc biệt là Mặt trận Sông Đà; tổ chức chỉ huy chu đáo, tăng cường nắm vững thông tin liên lạc; giải quyết các vấn đề chiến thuật cho bộ đội, nhất là chiến thuật qua sông, đánh sông, đánh cơ giới, phòng không, đánh pháo; giúp đỡ địa phương tăng cường lực lượng vũ trang, phát triển chiến tranh du kích. Cơ quan cung cấp có kế hoạch chuẩn bị để có thể liên tục chiến đấu; hết sức tiết kiệm lương thực, dân công; giải quyết chu đáo vấn đề thương binh, tử sĩ...


Theo kế hoạch tác chiến chiến dịch, Bộ Chỉ huy Chiến dịch sử dụng Đại đoàn 308 và Đại đoàn 312 đánh địch trên hướng chủ yếu của chiến dịch, tiêu diệt sinh lực địch và phá vỡ tuyến phòng ngự Sông Đà. Đại đoàn 308 có nhiệm vụ tiêu diệt cứ điểm Tu Vũ và đánh viện cả trên bộ và trên sông Đà từ Tu Vũ đến Hoà Bình. Riêng Trung đoàn 102 (làm dự bị) đứng chân ở Cổ Tiết, phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương Phú Thọ sẵn sàng đánh địch tiến công ra vùng tự do Hạc Trì, Lâm Thao, Hưng Hoá. Nhiệm vụ tiến công Tu Vũ được giao cho Trung đoàn 88. Đại đoàn 312 có nhiệm vụ tiêu diệt vị trí Núi Chẹ (đồng thời với Đại đoàn 308 tiến công Tu Vũ), đánh viện trên hướng Sơn Tây - Đá Chông - Trung Hà, giao cho Trung đoàn 209 tiến công Núi Chẹ. Đại đoàn 304 ở hướng thứ yếu của chiến dịch làm nhiệm vụ kiềm chế mọi hoạt động của địch ở thị xã Hoà Bình và đánh địch trên Đường số 6.


Sau Hội nghị, Đại tướng Võ Nguyên Giáp gặp riêng Ban Chỉ huy Trung đoàn 88 nhấn mạnh: Giao nhiệm vụ cho Trung đoàn 88, Đảng ủy đã cân nhắc, thấy khả năng các đồng chí làm được. Nhớ rằng trận đầu phải thắng, chỉ được phép thắng. Có nhiều khó khăn đấy. Phải quyết tâm vượt qua, mà vượt qua được thì Trung đoàn các đồng chí sẽ rất trưởng thành.


Về công tác bảo đảm, ngay khi địch đánh chiếm Hòa Bình, Tổng Quân ủy chỉ đạo tiến hành triển khai hệ thống kho trạm trên một diện rất rộng từ Bắc Ninh - Bắc Giang qua Phú Thọ sang hướng sông Đà, Đường số 6, trong đó có những vùng "vành đai trắng" như Trung Hà trên các trục đường số 89, số 87, số 21; đẩy mạnh việc chuẩn bị lương thực, thực phẩm, đạn dược cho chiến dịch. Để nhanh chóng huy động được nhân lực vật lực, bảo đảm cho tác chiến trên các hướng theo quyết tâm chiến dịch, Tổng Quân ủy quyết định thành lập 2 ban cung cấp tiền phương ở Bắc và Nam Hoà Bình. Ban Cung cấp tiền phương Mặt trận Bắc Hoà Bình có nhiệm vụ bảo đảm cho Đại đoàn 308, Đại đoàn 312 và Đại đoàn công pháo 351 cùng các lực lượng vũ trang địa phương; Ban Cung cấp tiền phương Mặt trận Nam Hoà Bình có nhiệm vụ bảo đảm cho Đại đoàn 304 và Đại đoàn 320.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #44 vào lúc: 08 Tháng Sáu, 2023, 06:47:13 am »

3. Chỉ đạo tác chiến chiến dịch linh hoạt, phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa mặt trận chính diện và sau lưng địch

Khi địch mới tiến công lên Hòa Bình, ta chủ trương mở chiến dịch phản công, đập tan cuộc tiến công quy mô lớn của địch. Nhưng, trên cơ sở đánh giá toàn diện, nhất là nhận thấy địch đã chuyển nhanh sang trạng thái phòng ngự theo kiểu tập đoàn cứ điểm, trong khi chúng ta chưa có khả năng tổ chức ngay chiến dịch phản công, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Tổng Quân ủy đã kịp thời chuyển từ loại hình chiến dịch phản công sang loại hình chiến dịch tiến công khi ta bắt đầu nổ súng mở màn chiến dịch.


Từ chuyển hướng đúng đắn đó, Đại tướng đã cùng Tổng Quân ủy khẩn trương chỉ đạo công tác chuẩn bị, kịp thời cơ động và triển khai lực lượng chiến dịch; xây dựng được kế hoạch tác chiến chiến dịch đúng đắn, sáng tạo. Đó là kết hợp tác chiến chặt chẽ giữa mặt trận chính diện (Hòa Bình) và mặt trận sau lưng địch (trung du và đồng bằng Bắc Bộ). Hai mặt trận này luôn gắn bó với nhau một cách hữu cơ, cùng tạo điều kiện cho nhau để giành thắng lợi. Thực tiễn đã chứng minh chủ trương phối hợp tác chiến giữa hai mặt trận phía trước và vùng sau lưng địch trong một chiến dịch là một cách đánh sáng tạo và có hiệu quả, buộc địch phải phân tán lực lượng đối phó trên hai chiến trường phía trước và sau lưng, đẩy địch ngày càng lún sâu vào thế bị động, bị tổn thất nặng nề.


Suốt quá trình chiến dịch, Đại tướng Võ Nguyên Giáp luôn bám sát thực tiễn chiến trường, nắm chắc diễn biến của từng đợt, từng trận đánh, nhất là những trận then chốt để kịp thời giải quyết mọi khó khăn và xử trí các tình huống phức tạp; kịp thời bổ sung kế hoạch, điều chỉnh lực lượng sát với diễn biến chiến dịch tiến công. Ngay sau đợt 2 của chiến dịch, Đại tướng và Tổng Quân ủy đã kịp thời chuyển hướng chính của chiến dịch sang tuyến thị xã Hòa Bình - Đường số 6, tuyến sông Đà - Ba Vì thành hướng phụ; tiến hành cắt Đường số 6, bao vây, khống chế, cô lập thị xã Hòa Bình và tổ chức nhiều hoạt động nhỏ để tiêu hao sinh lực, khiến cho quân Pháp càng lâm vào thế bị động. Đặc biệt, sau từng trận đánh thành công hoặc không thành công, sau mỗi đợt chiến dịch, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đều chỉ đạo các đơn vị tổ chức Hội nghị rút kinh nghiệm và phổ biến kinh nghiệm chiến đấu; kịp thời gửi thư động viên cán bộ, chiến sĩ khắc phục mọi khó khăn, hoàn thành xuất sẳc nhiệm vụ.


Trên cơ sở so sánh lực lượng khoa học, nắm vững âm mưu, thủ đoạn của địch, Đại tướng đã chỉ đạo các đơn vị quán triệt, vận dụng phương châm tác chiến "đánh điểm, diệt viện", "liên tục chiến đấu"; tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu, bí mật bất ngờ, nghi binh lừa địch, tận dụng địa hình rừng núi để chủ động tiêu diệt địch. Cách đánh đó không chỉ đem lại kết quả về mặt tiêu diệt sinh lực địch mà còn khoét sâu khó khăn chủ yếu của chúng về mặt hậu cần tiếp tế và cơ động lực lượng, ở mặt trận sau lưng địch, Đại tướng chỉ đạo các đơn vị phát triển "đánh điểm, diệt viện", kết hợp với đánh nhỏ, đánh vừa và đánh lớn, tiến công và nổi dậy của quần chúng. Dưới sự chỉ huy của Bộ Chỉ huy Chiến dịch, ta "đánh điểm" nhiều trận hiệu quả cao như tập kích Điểm cao 600, Điểm cao 400; diệt trận địa pháo địch trong thị xã Hòa Bình của Đại đội 41 Trung đoàn 36; trận Gốp Bộp của Trung đoàn 209 Đại đoàn 312...


Cách đánh và sự phối hợp chặt chẽ của ta trên cả hai hướng (Đường số 6 và tập kích trận địa pháo trong thị xã Hoà Bình) đã gây cho quân Pháp tổn thất nặng nề. Tướng Xalăng phải thừa nhận rằng, quân Pháp bất lực, không thể đối phó đồng thời trên cả hai mặt trận, số thương vong của các binh đoàn cơ động không thể bổ sung. Thị xã Hòa Bình ngày càng bị cô lập do bị ngăn chặn cả đường không và đường bộ. Đó là nguyên nhân dẫn đến quyết định của Tướng Xalăng, từng bước rút quân khỏi chiến trường Hoà Bình - Đường số 6, trước hết là rút hẹp dần phạm vi chiếm đóng trên hướng sông Đà, chuẩn bị từng bước rồi bí mật và nhanh chóng đưa toàn bộ lực lượng hơn 2 vạn quân về bên trong phòng tuyến boongke.


Từ cuối tháng 1 năm 1952, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhân định: "Theo thế chung thì muốn hay không muốn, địch cũng phải rút khỏi Hoà Bình. Hiện nay đã có nhiều triệu chứng chứng từ địch rút và có thể là địch tranh thủ rút nhanh"1 (Trần Trọng Trung, Võ Nguyên Giáp - Danh tướng thời đại Hồ Chí Minh, Sđd, tr. 275) và chỉ đạo cơ quan tham mưu xây dựng ngay kế hoạch đánh địch rút chạy. Đúng như nhân định của Đại tướng, do bị bao vây, cô lập ở Hoà Bình, lại bị đánh mạnh ở đồng bằng, từ ngày 23 tháng 2 năm 1952, có 5 tiểu đoàn địch bắt đầu lặng lẽ rút chạy khỏi thị xã Hòa Bình. Quân Pháp dùng 3 vạn viên đạn pháo để yểm trợ cho cuộc rút lui với hy vọng giảm thiểu thiệt hại. Trên đường rút chạy, bị chủ lực, bộ đội địa phương ta đón đánh gây thiệt hại một phần, phần lớn quân địch chạy thoát về Xuân Mai.


Dưới sự chỉ huy của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, sau hơn 2 tháng chiến đấu (10.12.1951 - 25.2.1952), ở Mặt trận Hoà Bình ta đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 6 nghìn tên địch, bắn rơi 9 máy bay, bắn chìm 17 tàu, xuồng, phá hủy 12 pháo và hơn 200 xe quân sự, thu 24 pháo và gần 800 súng các loại; giải phóng khu vực Hoà Bình - sông Đà, giữ vững đường giao thông chiến lược giữa Việt Bắc và các liên khu 3, 4; đập tan âm mưu giành lại quyền chủ động chiến lược, mở rộng vùng chiếm đóng và lập "Xứ Mường tự trị" của Pháp. Ở mặt trận địch hậu, ta loại khỏi vòng chiến đấu hơn 15.000 tên địch, thu 6.000 súng các loại, mở rộng nhiều khu du kích và căn cứ du kích, đẩy mạnh chiến tranh du kích trong vùng địch tạm chiếm, phối hợp và hỗ trợ cho mặt trận chính Hoà Bình giành thắng lợi. Nhà báo, nhà sử học Bécna Phôn (Bernard Fall) sau này đã viết: "Chiến dịch Hòa Bình đối với quân Pháp cũng tổn thất về sinh mạng và trang bị nhiều không kém gì Chiến dịch Biên Giới và Chiến dịch Điện Biên Phủ sau này"2 (Dẫn theo: Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tập hồi ký, Sđd, tr. 805).


Bằng tư duy nhạy bén, kinh nghiệm thực tiễn phong phú, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Bộ Chỉ huy Chiến dịch đã nhận định đúng tình hình tham mưu cho Bộ Chính trị mở Chiến dịch Hòa Bình, trực tiếp chỉ đạo công tác chuẩn bị chu đáo; luôn bám sát diễn biến của chiến dịch để kịp thời điều chỉnh lực lượng, chuyển hướng, mục tiêu tiến công chính xác; chỉ đạo phối hợp chặt chẽ, linh hoạt, hiệu quả giữa hai mặt trận, tạo sức mạnh tổng hợp bảo đảm tiến công địch liên tục, dài ngày, càng đánh càng mạnh; đề ra được phương châm tác chiến chiến dịch phù hợp; tạo được thế trận bao vây, chia cắt thế trận địch, đẩy đối phương ngày càng lâm vào thế bị động, bị tổn thất nặng nề về lực lượng, cuối cùng chịu thất bại hoàn toàn. Chiến dịch Hòa Bình đã để lại nhiều kinh nghiệm quý về nghệ thuật chỉ đạo chiến lược, chiến dịch. Đúng như Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đúc kết: "Sau ba chiến dịch Xuân - Hè ở trung du và đồng bằng, đến Chiến dịch Hoà Bình, một vấn đề có tầm chiến lược đã được khẳng định: Địa bàn rừng núi là chiến trường bộ đội ta có thêm điều kiện hạn chế ưu thế về binh khí, kỹ thuật và khả năng cơ động tăng viện của địch đồng thời cũng là chiến trường quân ta có thể phát huy sở trường chiến đấu của mình nhằm tiêu diệt sinh lực địch đủ để tạo nên chuyển biến lớn có ý nghĩa chiến lược"1 (Trần Trọng Trung, Võ Nguyên Giáp - Danh tướng thời đại Hồ Chí Minh, Sđd, tr. 276).
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #45 vào lúc: 08 Tháng Sáu, 2023, 06:49:35 am »

THẮNG LỢI CHIẾN DỊCH HÒA BÌNH
BƯỚC PHÁT TRIỂN ĐIỀU HÀNH CHIẾN TRANH CỦA ĐẢNG


Đại tá, TS LÊ THANH BÀI
Trưởng phòng Lịch sử Tư tưởng, tổ chức quân sự -
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam


Lãnh đạo nhân dân ta tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp, Trung ương Đảng đã đề ra đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, với phương châm đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính. Đường lối đó là sự vận dụng truyền thống đánh giặc giữ nước của cha ông và quy luật chiến tranh cách mạng bảo vệ Tổ quốc nhằm huy động tối đa sức mạnh, chuyển hóa lực lượng cho cuộc chiến đấu chống lại kẻ xâm lược hơn hẳn về tiềm lực vật chất, giành thắng lợi từng bước để đi đến thắng lợi cuối cùng. Trong quá trình chỉ đạo kháng chiến, với cách điều hành ngày càng linh hoạt, Trung ương Đảng đã hướng cho mọi hoạt động diễn ra theo đường lối, chủ trương đã xác định, ngày càng đạt hiệu quả cao. Thắng lợi của Chiến dịch Hòa Bình trong Đông - Xuân 1951 - 1952 là bước phát triển điều hành chiến tranh của Trung ương Đảng.


1. Nắm chắc tình hình, linh hoạt chớp thời cơ

Thắng lợi của Chiến dịch Biên Giới (Thu - Đông 1950) đã tạo bước ngoặt cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân ta. Kể từ đây, cuộc kháng chiến đã thoát khỏi vòng vây quân thù, quân và dân ta đã giành được quyền chủ động chiến lược, đẩy mạnh vận động chiến để đi đến giành những thắng lợi lớn hơn. Tuy nhiên, sau bốn chiến dịch (Trần Hưng Đạo, Hoàng Hoa Thám, Quang Trung, Lý Thường Kiệt) và một tháng hoạt động du kích đã không đạt kết quả như dự kiến, nên đến nửa cuối năm 1951 "Chúng ta chưa giành được ưu thế quân sự, chưa phá được phòng tuyến của địch, chưa thay đổi được tình thế ở đồng bằng Bắc Bộ"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 12, 1951, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 573), trong khi Pháp và tay sai củng cố thế phòng ngự, ra sức đẩy mạnh chiến tranh tổng lực, càn quét bình định quyết liệt hòng biến vùng tạm chiếm và vùng du kích trở thành hậu phương vững chắc của chúng. Âm mưu và hành động của địch gây cho chúng ta khá nhiều khó khăn, nhất là ở Nam Bộ và đồng bằng Bắc Bộ.


Trước tình hình đó, Hội Nghị Trung ương lần thứ 2 (10.1951) chủ trương: nâng cao chất lượng của bộ đội chủ lực, đẩy mạnh vận động chiến, phát triển chiến tranh du kích nhằm "tiêu diệt sinh lực của địch, phá kế hoạch phòng ngự của chúng, giữ vững thế chủ động, tiến tới giành ưu thế quân sự trên chiến trường chính"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 12, Sđd, tr. 587). Tuy nhiên, để thực hiện được chủ trương trên là một vấn đề lớn, bởi chúng ta vẫn chưa tìm ra phương hướng phù hợp cho bộ đội chủ lực hoạt động, chưa chọn được được hướng tiến công và kế hoạch tác chiến nhằm phá ý đồ tấn công giành quyền chủ động của địch trong Đông - Xuân 1951 - 19523 (Xem Bộ Tổng Tham mưu, Ban Tổng kết - Biên soạn lịch sử, Lịch sử Bộ Tổng Tham mưu trong kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954), 1991, tr. 509).


Ngày 13 tháng 10 năm 1951, trong kế hoạch tác chiến báo cáo lên Tổng Quân ủy, cơ quan tham mưu nhận định: Ta chưa đủ điều kiện để tấn công vào vùng Đông Bắc và địa bàn trung du nơi địch bố trí đông lực lượng, công sự vững chắc; Hướng Tây Bắc địch bố trí phân tán, ít có điều kiện sử dụng binh lực lớn, nhưng thắng lợi Tây Bắc sẽ không gây ảnh hướng lớn về chính trị. Cơ quan tham mưu lựa chọn hữu ngạn Liên khu 3 làm hướng tiến công chủ yếu. Dù nơi đây địa hình khá bằng phẳng, bị sông ngòi chia cắt, bất lợi cho hoạt động của ta… nhưng có thuận lợi là địch tương đối yếu, xa các căn cứ chính. Ta có điều kiện đánh công kiên, đánh vận động tiến sâu vào lòng địch. Thắng lợi ở hướng này sẽ gây ảnh hưởng lớn về mặt chính trị, tranh thủ được nhân dân, trực tiếp thúc đẩy phong trào chiến tranh du kích ở đồng bằng, có thể phá được kế hoạch giành lại quyền chủ động của địch. Trên cơ sở đó, Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh quyết định mở "Chiến dịch Liên khu 3" tiến công địch ở đồng bằng Bắc Bộ bằng lực lượng của 2 đại đoàn 320 và 304 và một số đơn vị pháo binh, hướng phối hợp là trung du và Tây Bắc do Đại đoàn 316 và Đại đoàn 312 đảm nhiệm; dự kiến chiến dịch sẽ diễn ra trung tuần tháng 12 năm 1951.


Bộ Tổng Tham mưu cũng dự kiến và lên phương án đánh địch nếu chúng tiến công Thanh Hóa, Hòa Bình, hoặc Lạng Sơn, vùng tự do khu vực trung du Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Giang. Đối với hướng Hòa Bình, khi địch tấn công, lực lượng địa phương sẽ đối phó trước. Sau đó tuỳ theo điều kiện sẽ sử dụng lực lượng của ba đại đoàn 308, 304 và 320 để đánh địch và căn cứ điều kiện cụ thể có thể mở chiến dịch phản công. Dự kiến trên đã thể hiện tư tưởng chỉ đạo của cơ quan tham mưu là vừa chuẩn bị tiến công nhưng vẫn sẵn sàng đánh phản công. Tuy vậy, ta vẫn nhận định: "Táo bạo địch có thể sục sạo hay tấn công đánh chiếm Hòa Bình. Nhưng khả năng này hiện nay còn ít"1 (Chỉ thị cho Liên khu 3, số 520 CT/GS ngày 24 tháng 10 năm 1951, Dẫn theo Lịch sử Bộ Tổng Tham mưu trong kháng chiến chống Pháp,.. Sđd, tr. 515).


Về phía Pháp, dưới sự chỉ huy của Đờ Lát - Cao ủy kiêm Tổng Tư lệnh quân đội Pháp ở Đông Dương, quân viễn chinh Pháp nhanh chóng triển khai phòng tuyến với trên 80 vị trí gồm 800 lô cốt chạy dài từ Hòn Gai, Đông Triều qua Bắc Giang, Bắc Ninh, sang Sơn Tây, Hòa Bình, xuống Ninh Bình - Phát Diệm, được trấn giữ bởi 25 tiểu đoàn quân Âu - Phi tinh nhuệ, với 1.200 khẩu cối, 500 khẩu pháo từ 37mm đến 105mm và trên 10 nghìn súng tự động1 (Trần Trọng Trung, Lịch sử một cuộc chiến tranh bẩn thỉu, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr. 346). Với phòng tuyến này, cộng với sự tập trung của 54% quân số trên toàn Đông Dương (86 tiểu đoàn bộ binh, trong đó có 26 tiểu đoàn cơ động chiến lược và 15 tiểu đoàn cơ động chiến thuật), địch đã binh định, đánh chiếm hầu hết vùng đồng bằng chiến lược, thế trận chiến tranh nhân dân ở đây bị suy giảm nghiêm trọng. Với kết quả đó, Đờ Lát tính đến phải có trận đánh quyết định hòng làm thay đổi tương quan lực lượng, giành quyền chủ động trên chiến trường Bắc Bộ để xoay chuyển tình thế cuộc chiến tranh. Mục tiêu đầu tiên mà viên tướng đầy tham vọng này lựa chọn là Thanh Hóa, vùng hậu phương chiến lược của ta. Dự kiến vào nửa cuối tháng 10 năm 1951 sẽ cho 10 tiểu đoàn hành quân đường biển đổ bộ vào Sầm Sơn, 8 tiểu đoàn sẽ nhảy dù xuống thị xã Thanh Hóa và vùng phụ cận, nhằm thọc sâu vào vùng tự do của ta, phá hậu phương quan trọng của cuộc kháng chiến, buộc chủ lực ta phải giao chiến ở địa bàn mới lạ, xa căn cứ Trung ương. Tuy nhiên, sau khi cân nhắc, với mong muốn "hút chủ lực đối phương để tiêu diệt", Đờ Lát chuyển mục tiêu tấn công lên Hòa Bình, tinh miền núi, có hơn 15.000 dân, chủ yếu dân tộc Mường, địa bàn Pháp phải rút bỏ sau thất bại ở biên giới Thu - Đông 1950.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #46 vào lúc: 08 Tháng Sáu, 2023, 06:50:41 am »

Hòa Bình không phải là hậu phương quan trọng của cuộc kháng chiến nhưng lại là đầu mối giao thông giữa Việt Bắc với các tỉnh đồng bằng hữu ngạn sông Hồng và vùng tự do Liên khu 4, vào Liên khu 5, chiến trường Nam Bộ; là cửa ngõ tiến vào Tây Bắc, thông sang Thượng Lào. Chiếm được Hòa Bình, không những thực hiện được việc chia cắt chiến trường mà còn mở rộng phòng tuyến Tây Nam đồng bằng Bắc Bộ, biến Hòa Bình thành bàn đạp tiến công vào miền núi rừng phía Bắc, uy hiếp vùng tự do của ta ở Phú Thọ, tây Ninh Bình, Thanh Hóa. Đờ Lát cũng cho rằng với việc chiếm đóng Hòa Bình sẽ thu hút được được chủ lực ta đến tiêu diệt. Thắng lợi về mặt quân sự sẽ tạo thế cho việc lập lại cái gọi là "Xứ Mường tự trị", tiếp tục thực hiện chính sách chia rẽ dân tộc. Viên chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương cũng hy vọng với thắng lợi này sẽ nhận thêm được sự viện trợ của Mỹ và Anh1 (Trong tháng 9 và 10 năm 1951, Đờ Lát công du Mỹ và Anh nhằm xin thêm viện trợ. Được Mỹ cam kết sẽ gửi sang chiến trường Đông Dương 9.000 súng tiểu liên, 500 súng máy, 5.000 xe vận tải; xem xét viện trợ xe tăng, máy bay, tàu chiến... Anh cung cấp thêm một số trang bị, chủ yếu súng tiểu liên cá nhân. Tuy vậy, những cam kết trên đã không đáp ứng được yêu cầu của Đờ Lát, đó là chưa kể Mỹ ra điều kiện phần lớn hàng viện trợ phải được sử dụng vào tổ chức và trang bị cho quân đội Quốc gia Bào Đại).


Ngày 9 tháng 11, cuộc hành quân tấn công Hòa Bình chính thức bắt đầu. Dưới sự chỉ huy của tướng Đờ Linarét (De Linares) - Tư lệnh lục quân Bắc Việt, 7 tiểu đoàn bộ binh và dù thực hiện cuộc hành quân Hoa Tuylíp đánh ra Chợ Bến. Ngày 14 tháng 11 năm 1951, tướng Xalăng tập trung lực lượng thuộc 5 binh đoàn cơ động cùng với quân dù, có máy bay, pháo binh, xe tăng, tàu xuồng chiến đấu yểm trợ, mở hành quân Hoa sen (Lôtuýt) đánh chiếm Hòa Bình, Đường số 6 và khu vực sông Đà - Ba Vì. Các hướng tiến của địch gần như không gặp trở ngại, đến 17 giờ ngày 14, chúng đã chiếm được thị xã Hòa Bình, sang ngày 15 hoàn thành việc chiếm đóng các vị trí then chốt trong khu vực Hòa Bình - Đường số 6, sông Đà - Ba Vì. Pháp tổ chức phòng ngự thành 2 phân khu: Sông Đà - Ba Vì (khu Bắc) và Hòa Bình - Đường số 6 (khu Nam), được xây dựng theo hình thức tập đoàn cứ điểm gồm 28 vị trí lớn nhỏ bằng gỗ, đất, gạch đá, có thể hỗ trợ cho nhau khi bị tiến công. Ngoài ra còn có phân khu Chợ Bến là tiền đồn phía đông bảo vệ Hòa Bình. Toàn bộ lực lượng gồm 13 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn dù, 4 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn thiết giáp, 1 đại đội công binh và 1 trung đội xe tăng1 (Sau khi hoàn thành việc chiếm đóng Hoà Bình, Pháp đã rút một số lực lượng gồm 3 tiểu đoàn bộ binh, 2 tiểu đoàn pháo về tăng cường cho đồng bằng Bắc Bộ). Sau khi tái chiếm Hòa Bình, Bộ chỉ huy quân viễn chinh Pháp đốc thúc xây dựng trận địa phòng thủ, chờ cơ hội để tiêu diệt bộ đội chủ lực ta.


Trước hành động của địch, ngày 15 tháng 11 năm 1951, Tổng Quân ủy họp mở rộng, quyết định đình chỉ công tác chuẩn bị chiến trường Liên khu 3. Trong báo cáo gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp phân tích: Với cuộc tiến công ra Chợ Bến, Hòa Bình, địch đã chiếm được một vị trí chiến lược quan trọng, cố gắng giành lại quyền chủ động, gây cho ta những khó khăn mới về chính trị, quân sự, kinh tế. Nhưng chúng phải dùng một bộ phận cơ động để mở rộng phạm vi chiếm đóng khiến cho chiến tranh du kích ở đồng bằng có điều kiện phát triển. Đồng thời, địch phải phân tán một lực lượng trên chiến trường rừng núi, giao thông không thuận lợi, công sự mới xây dựng chưa được vững chắc. Đại tướng nhận định: "Trước cũng có dự kiến nếu địch đánh ra Hòa Bình... và chủ trương nếu địch đánh ra thì chuyển hướng chiến dịch, và tập trung lực lượng tiêu diệt sinh lực trên chiến trường đó. Nay chủ trương mở Chiến dịch Hòa Bình, chuyển kế hoạch hoạt động thu đông sang tiến công nơi địch mới chiếm. Hòa Bình sẽ là hướng chính, các nơi khác phối hợp. Mục đích chính của chiến dịch này là tiêu diệt sinh lực địch ở chiến trường Hòa Bình, đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích nơi khác"2 (Những tài liệu chỉ đạo các chiến dịch của Trung ương Đảng, Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh, Tập 4, Bộ Tổng Tham mưu xuất bản, 1963, tr. 50). Tổng Quân ủy đề nghị Bộ Chính trị thành lập Ban Chỉ huy lâm thời để chỉ đạo bộ phận chuẩn bị chiến trường, khẩn trương chuẩn bị hậu cần chiến dịch.


Ngày 21 tháng 11 năm 1951, trong thư gửi các đồng chí trong Tổng Quân ủy, đồng chí Phạm Văn Đồng thông báo Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị hoàn toàn nhất trí với nhận định và chủ trương của Tổng Quân ủy và khẳng định: "Đây là cơ hội rất tốt để mình đánh giặc. Phải thấy điều đó để tin tưởng và quyết tâm đánh và thắng"1 (Những tài liệu chỉ đạo các chiến dịch của Trung ương Đảng, Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh, Tập 4, Sđd, tr. 56). Ngày 24 tháng 11, trong Chỉ thị số 22-CT/TU "về nhiệm vụ phá cuộc tấn công Hòa Bình của địch", sau khi vạch rõ âm mưu của đánh ra Hòa Bình của địch, nêu lên nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, Ban Chấp hành Trung ương đã phân tích những đặc điểm của thời cơ mới: "Địch phải phân tán các đội ứng chiến của chúng trên một mặt trận rộng lớn, rừng núi hiểm trở, công sự chưa kịp xây dựng, chưa kịp củng cố. Đó là cơ hội tốt để ta đánh địch... Địch dùng phần lớn lực lượng Âu - Phi tinh nhuệ của chúng ở Hòa Bình, buộc phải sơ hở các mặt trận khác và ở sau lưng địch. Đó cũng là cơ hội tốt để ta đánh địch trên các mặt trận ấy và hoạt động mạnh trong vùng du kích nhất là ở tả ngạn Hồng Hà. Vậy ta phải nắm cơ hội tốt này tranh thủ thời gian để đánh địch, tiêu diệt sinh lực địch trên mặt trận Chợ Bến, Hòa Bình, trên các mặt trận khác và khắp vùng du kích sau lưng địch, nhằm mục đích phá âm mưu quân sự mới của địch"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 12, Sđd, tr. 596,598). Chỉ thị cũng nhắc nhở chiến trường trên toàn quốc "phải tìm chỗ sơ hở mà đánh địch trên mặt chính và mặt sau lưng... để kìm hãm địch, không cho chúng điều động ra Bắc Bộ"3 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 12, Sđd, tr. 596,598). Hạ tuần tháng 11 năm 1951, trong thư gửi cán bộ, chiến sĩ chủ lực, dân quân, du kích tham gia Chiến dịch Hòa Bình, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Trước kia, ta phải lừa địch ra mà đánh. Nay địch tự ra cho ta đánh. Đó là cơ hội rất tốt cho ta"4 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 242).


Như vậy, trên cơ sở nắm chắc tình hình, Tổng Quân ủy, Bộ Tổng Tư lệnh đã kịp thời điều chỉnh kế hoạch tác chiến, tạo cơ sở để Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Hòa Bình. Điều này đã thể hiện sự linh hoạt trong điều hành chiến tranh, vận dụng nhận thức đúng đắn vào thực tiễn, tranh thủ thời cơ, xoay chuyển tình huống có lợi cho kháng chiến. Đây chính là bước phát triển trong điều hành chiến tranh ở Chiến dịch Hòa Bình.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #47 vào lúc: 08 Tháng Sáu, 2023, 06:51:59 am »

2. Chỉ đạo thành công chiến dịch quy mô lớn đầu tiên

Chấp hành Chỉ thị của Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng Quân ủy xác định quyết tâm phải phá tan âm mưu của địch trong Thu - Đông 1951, nhấn mạnh việc "Địch mang lực lượng vào chiến trường miền Tây là cơ hội tốt để tiêu diệt chúng, đồng thời phải đẩy mạnh chiến trường du kích ở khắp các nơi sau lưng địch hiện đang sơ hở. Để tận dụng kịp thời cơ hội này, chúng ta phải tranh thủ thời gian, vừa chuẩn bị vừa ra trận, khắc phục mọi khó khăn, đánh cho địch những đòn nặng"1 (Những tài liệu chỉ đạo các chiến dịch của Trung ương Đảng, Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh, Tập 4, Sđd, tr. 72). Bộ Tổng Tư lệnh đã huy động 3 đại đoàn chủ lực (304, 308, 312) và Đại đoàn công pháo 351, có nhiệm vụ đánh địch trên Mặt trận Hòa Bình - Sông Đà - Đường số 6; Đại đoàn 316 tấn công địch ở trang du Bắc Bộ; các đơn vị chủ lực của Liên khu 4 được lệnh đẩy mạnh hoạt động ở chiến trường Bình - Trị - Thiên. Đại đoàn 320 cùng Trung đoàn 42, Trung đoàn 46 (chủ lực Liên khu 3) dưới sự chỉ đạo của Ban Chỉ huy Mặt trận đồng bằng, phối hợp với lực lượng bộ đội địa phương dân quân du kích tiến sâu vào lòng địch, đánh tiêu diệt, đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích. Như vậy, đây là lần đầu tiên chúng ta tiến hành chiến dịch trên mặt trận cả chính diện và sau lưng địch, trên phạm vi rộng của khu vực trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Kể từ ngày đầu kháng chiến, đây cũng là chiến dịch huy động lực lượng cao nhất (6 đại đoàn, 2 trung đoàn)2 (Chiến dịch Biên Giới có 1 đại đoàn (308), 2 trung đoàn (209, 174), 3 tiểu đoàn (426, 428, 888); Chiến dịch Trần Hưng Đạo có 4 đại đoàn (308, 312 hướng chính, 320, 304 hướng Liên khu 3); Chiến dịch Hoàng Hoa Thám có 4 đại đoàn (308, 312 hướng chính; 304, 320 hướng phối hợp) và 2 trung đoàn (98,174); Chiến dịch Quang Trung có 3 đại đoàn (304, 308, 320) và 5 liên đội pháo). Đây cũng là chiến dịch huy động lực lượng dân công lớn nhất trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp1 (Chiến dịch Biên Giới có 121.700 người, Chiến dịch Trần Hưng Đạo có 300.000 người, Chiến dịch Hoàng Hoa Thám có 110.000 người, Chiến dịch Quang Trung có 161.000 người, Chiến dịch Tây Bắc có 194.400 người, Chiến dịch Thượng Lào có 62.530 người, Chiến dịch Điện Biên Phủ có 261.451 người), lên đến 333.200 lượt người với tổng số 11.914.000 ngày công2 (Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam - 80 năm xây dựng và phát triển, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội, 2010, tr. 173).


Sau 78 ngày đêm tiến hành chiến dịch, trên mặt trận chính diện, bộ đội ta liên tiếp tấn công địch ở phòng tuyến Sông Đà và Đường số 6, vây hãm địch ở Hòa Bình. Trên "Mặt trận đồng bằng" bộ đội chủ lực các đơn vị bộ đội chủ lực thuộc Đại đoàn 320 các trung đoàn chủ lực Liên khu, ở vùng trung du các đơn vị của Đại đoàn 316 và Trung đoàn 246 phối hợp chặt chẽ với lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương kết hợp tác chiến với nổi dậy phá tề trừ gian, phát triển sâu rộng chiến tranh du kích. Trên mặt trận chính diện, ta đã phá kế hoạch chiếm đóng của địch giải phóng khu vực Hòa Bình, sông Đà với diện tích trên 1.000km2 và 20 nghìn dân, diệt 6.012 tên địch, thu 24 khẩu pháo các loại, 788 súng, 98 máy vô tuyến điện, phá hủy 12 khẩu pháo, bắn rơi 9 máy bay, bắn chìm, bắn cháy 17 canô, phá hủy 246 xe quân sự. Trên Mặt trận Trung du và đồng bằng Liên khu 3, bộ đội chủ lực phối hợp chặt chẽ với lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương, kết hợp tác chiến với phá tề, trừ gian ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 15.237 tên địch, phá hơn 1.000 đồn bốt, thu 6.126 súng các loại giải phóng 4.000km2 với hơn 1 triệu dân3 (Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Tóm tắt các chiến dịch trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000, tr. 379), khôi phục và mở rộng căn cứ du kích, khu du kích cả những vùng ở sâu trong vùng địch tạm chiếm. Phối hợp với Chiến dịch Hòa Bình, quân dân Bình - Trị - Thiên và Nam Trung Bộ đẩy mạnh hoạt động, giành được những thắng lợi quan trọng.


Kể từ ngày đầu kháng chiến, số binh lực bị tiêu diệt và tan rã trong Chiến dịch Hòa Bình là thiệt hại cao nhất của Pháp qua một chiến dịch. Đó là thắng lợi "cực kỳ quan trọng về tiêu diệt địch, giải phóng đất đai, đặc biệt là tạo nên thế trận mới chưa từng có của ta ở vùng địch tạm chiếm ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ"1 (Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Chiến dịch tiến công Hòa Bình (12.1951 - 2.1952), Hà Nội, 1991, tr, 6). Âm mưu củng cố phòng tuyến, tấn công ra vùng tự do của ta và giành lại quyền chủ động của thực dân Pháp đã bị thất bại nặng. "Chẳng những chúng không giành lại được quyền chủ động mà lại trở thành bị động hơn trước"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 13, 1952, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 46). Phía Pháp cũng phải thừa nhận "Cuộc hành quân chấm dứt bằng cuộc rút chạy của chúng ta trong những điều kiện khó khăn mà không đạt được một kết quả chiến lược nào. Rủi thay, cuộc chiến ở Hòa Bình đã giữ chân lực lượng cơ động của ta ở xa đồng bằng quá lâu, do đó đã tạo điều kiện cho Việt Minh xâm nhập vào đây với số lượng lớn. Và từ đó bắt đầu tình trạng "ruỗng nát" mỗi ngày một tăng, dần dần làm bất động đại bộ phận đạo quân viền chinh. Đối phương đã giành thắng lợi căn bản"3 (Henri Nava, Thời điểm của những sự thật, Nguyễn Huy Cầu dịch, Nxb Công an nhân dân - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Hà Nội, 1994, tr. 43-44). "Sự phối hợp chiến lược có hiệu quả giữa 2 chiến trường Hòa Bình và địch hậu đã buộc địch phải chấp nhận "một thất bại kép về chiến lược", thất bại cả 2 mặt trận"4 (Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử nghệ thuật chiến dịch Việt Nam 1945- 1975, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995, tr. 135).


"Thành công của Chiến dịch Hòa Bình rõ ràng là thành công của Đảng ta trong việc chỉ đạo chiến dịch tiến công trên cả 2 hướng chiến lược chủ yếu, kết hợp 2 mặt trận chính diện và sau lưng địch, kết hợp vận động chiến với du kích chiến, kết hợp tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng"1 (Trận đánh ba mươi năm, Tập 1, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995, tr. 475). Với việc chỉ đạo tiến hành chiến đấu giành thắng lợi trong chiến dịch huy động lực lượng cao nhất, trên địa bàn rộng lớn nhất, kết hợp nhiều hình thức tác chiến, đấu tranh kể từ ngày đầu cuộc kháng chiến và giành thắng lợi đã khẳng định sự phát triển của Trung ương, Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh về chỉ đạo chiến dịch. Nhạy bén nắm bắt tình hình, kịp thời thay đổi kế hoạch, hạ quyết tâm mở chiến dịch, xây dựng phương pháp tác chiến đến vận dụng chiến thuật hiệu quả đã tạo bước phát triển mới về điều hành chiến tranh của Đảng, làm thay đổi cục diện chiến trường chính của Bắc Bộ có lợi cho ta sau 3 chiến dịch liên tiếp ở trung du và đồng bằng (Trần Hưng Đạo, Hoàng Hoa Thám, Quang Trung), đã khẳng định sự phát triển trong điều hành chiến tranh của Đảng, phát huy quyền chủ động chiến lược, làm phá sản kế hoạch chiến tranh lớn của địch. Nghiên cứu về Chiến dịch Hòa Bình, các sử gia Trường Đại học Quebec (Canada) cũng nhận định: "Rõ ràng từ thời điểm này, Quân đội Việt Nam dân chủ cộng hòa đang hoạt động theo kiểu hiện đại, chỉ huy của họ có khả năng phối hợp và điều hành một trận chiến trên một khu vực rộng lớn"2 (Hòa Bình, battle of (10 december 1951-25/ebruary 1952), https://indochine. uqam.ca/en/historical-dictionary/603-hoa-binh-battle-of-10-december-195125-febni- ary-1952.html).
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #48 vào lúc: 08 Tháng Sáu, 2023, 06:53:49 am »

CHIẾN THẮNG HÒA BÌNH
KẾT QUẢ CỦA SỨC MẠNH CHIẾN TRANH NHÂN DÂN


Đại tá, PGS, TS HỒ KHANG
Nguyên Phó Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam


Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Hòa Bình có một vị trí quan trọng, là cửa ngõ kết nối giữa căn cứ địa Việt Bắc với các căn cứ kháng chiến ở đồng bằng Bắc Bộ và vùng tự do Liên khu 4. Vì thế, trong mục tiêu giành lại thế chủ động trên chiến trường chính Bắc Bộ, Bộ Chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương coi việc đánh và chiếm giữ dược Hòa Bình là một ưu tiên quân sự nhằm cắt tuyến liên lạc Bắc - Nam của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa, đồng thời nối lại hành lang Đông - Tây, thông đường từ đồng bằng Bắc Bộ lên Tây Bắc, sang Thượng Lào, củng cố vị thế của lực lượng Pháp ở Bắc Đông Dương.


Sau một thời gian chuẩn bị khá kỹ lưõng nhằm "buộc Việt Minh phải tiếp nhận chiến đấu trên một địa điểm do Pháp lựa chọn", trung tuần tháng 11 năm 1951, Bộ Chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương huy động 20 tiểu đoàn bộ binh tinh nhuệ, 3 tiểu đoàn dù và nhiều binh chủng phối thuộc, chia làm 3 cánh phối hợp tấn công, đánh chiếm Hòa Bình1 (Các binh chủng phối thuộc có 7 tiểu đoàn pháo binh, 2 liên đoàn thiết giáp (tương đương trung đoàn), 1 tiểu đoàn công binh, 2 hải đoàn xung kích). Nhận định về cuộc tấn công Hòa Bình của địch, Tổng Quân ủy chỉ rõ, cuộc tấn công này "sẽ gây cho ta một số khó khăn về quân sự, nhưng mặt khác cũng tạo cho ta một cơ hội tốt để tiêu diệt sinh lực địch"1 (Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Báo cáo về kế hoạch tác chiến và tổng kết kinh nghiệm trong những chiến dịch lớn, Bộ Tổng Tham mưu xuất bản, tr. 15, 16, 18). Từ nhận định đó, Tổng Quân ủy hạ quyết tâm phải nhanh chóng tranh thủ thời gian, "lợi dụng lúc địch chưa kịp củng cố, tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực của địch, tiến tới phá kế hoạch chiếm đóng mới của chúng"2 (Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Báo cáo về kế hoạch tác chiến và tổng kết kinh nghiệm trong những chiến dịch lớn, Bộ Tổng Tham mưu xuất bản, tr. 15, 16, 18).


Với tinh thần "chủ động, linh hoạt và tích cực tiêu diệt địch"3 (Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Báo cáo về kế hoạch tác chiến và tổng kết kinh nghiệm trong những chiến dịch lớn, Bộ Tổng Tham mưu xuất bản, tr. 15, 16, 18) Quân đội nhân dân Việt Nam đã tác chiến trên nhiều hướng chính diện và sau lưng địch; phối hợp chặt chẽ giữa đánh địch trên khu vực sông Đà - Hòa Bình, Hòa Bình - Đường số 6 với đánh địch khôi phục, gây dựng cơ sở kháng chiến ở các vùng tạm bị chiếm nhất là ở khu vực trung du phía Bắc đồng bằng sông Hồng và phía Nam đồng bằng sông Hồng. Với cách đánh đó, toàn bộ Bắc Bộ trở thành một chiến trường, có sự chỉ đạo tác chiến thống nhất. Đây là chiến dịch có phạm vi chiến đấu rộng lớn nhất từ trước tới thời điểm đó; đồng thời, đây cũng là chiến dịch có khoảng thời gian tác chiến dài nhất, lên tới trên 2 tháng. Kết quả, ta đã giải phóng khoảng 2.000km2, tiêu diệt 22.000 sinh lực địch, bắt và bức hàng gần 7.000 tên4 (Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tập luận văn, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2006, tr. 261). Đặc biệt, trong số sinh lực địch bị tiêu diệt, có nhiều binh chủng đặc biệt (công binh, pháo binh, không quân, hải quân...), có nhiều vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại. Có thể nói, đó là mức tiêu diệt sinh lực địch cao nhất trong một chiến dịch từ khi bắt đầu cuộc kháng chiến đến thời điểm này.


Thắng lợi to lớn đó có được là nhờ ở sức mạnh của chiến tranh nhân dân, một cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện, lấy lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt.

Trước tiên, Đảng, Chính phủ và Tổng Quân ủy - Bộ Tổng Tư lệnh đã thành công trong việc tranh thủ nhân dân, đoàn kết các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là nhân dân trong vùng địch hậu để tiến hành kháng chiến. Sự tin tưởng của nhân dân vào tiền đồ của cuộc kháng chiến, vào thắng lợi tất yếu của cuộc chiến tranh lâu dài, gian khổ là một yếu tố quan trọng trong việc huy động các tầng lớp nhân dân tham gia vào cuộc kháng chiến nói chung, tham gia vào Chiến dịch Hòa Bình nói riêng. Trong Chiến dịch Hòa Bình, nhân dân tham gia giúp đỡ, ủng hộ bộ đội chiến đấu một cách dẻo dai, bền bỉ, không quản ngại hy sinh cả những thứ quý giá nhất của mình. Đồng bào nhiều địa phương đã dành cả những ngày Tết Nguyên đán thiêng liêng để đi dân công hỏa tuyến vận tải lương thực, đạn dược, làm đường..., đảm bảo cho bộ đội chiến đấu. Ở vùng địch hậu thuộc trung du và đồng bằng Bắc Bộ, nhân dân các thôn, xã vận chuyển, xay thóc, giã gạo cho bộ đội; góp tre, gỗ làm cầu, thuyền hỗ trợ bộ đội vượt sông, kênh mương đến nơi tập kết, chuẩn bị chiến đấu an toàn, ở mặt trận chính diện, dù không được chuẩn bị trước, nhưng để đảm bảo cho bộ đội chiến đấu, nhân dân các tỉnh Phú Thọ, Sơn Tây, Hòa Bình đã ủng hộ hàng nghìn tấn lương thực, thực phẩm cùng hàng nghìn vật dụng, đồ dùng sinh hoạt. Trong đó, nhân dân huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội ngày nay) góp 2.000 gốc sắn1 (Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945- 1954), tập II, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, tr. 149); nhân dân các huyện: Cẩm Khê, Tam Nông, Thanh Thủy, Thanh Sơn, Lâm Thao, Thanh Ba, Yên Lập (tỉnh Phú Thọ) góp 2.800 tấn gạo, 250 con trâu, 123 con bò, 428 con lợn. Riêng nhân dân trên khu vực sông Thao của tỉnh Phú Thọ còn ủng hộ bộ đội 1.200 chiếc thuyền nan vốn là phương tiện sinh nhai để giúp cho bộ đội vượt sông2 (Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử Hậu cần - Kỹ thuật quân sự Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2002, tr. 213). Tính trong 78 ngày đêm bảo đảm cho chiến dịch, nhân dân ở cả hai mặt trận đã ủng hộ hơn 6.000 tấn gạo, 70 tấn muối, 70 tấn thịt, 60 tấn thực phẩm khác, số người tham gia dân công lên tới 333.200 lượt người với 11.914.000 ngày công1 (Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), tập V, Phát triển thế tiến công chiến lược, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2014, tr. 167). Để bảo đảm cho các đơn vị chiến đấu ở cả mặt trận chính diện và địch hậu cùng với sự giúp đỡ của nhân dân, Cơ quan Hậu cần còn huy động và cung cấp kịp thời cho các đơn vị chiến đấu 6.275 tấn gạo, hơn 200 tấn thực phẩm2 (Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử Hậu cần - Kỹ thuật quân sự Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 -1954), Sđd, tr. 215).


Chiến dịch Hòa Bình có đặc điểm hết sức quan trọng, khác biệt so với các chiến dịch trước đây. Trong chiến dịch này bên cạnh tập trung bộ đội chủ lực 3 đại đoàn (308, 312, 304) ở mặt trận chính diện, 2 đại đoàn chủ lực khác (316, 320) của Quân đội nhân dân Việt Nam còn được điều đi sâu hoạt động trong vùng địch hậu ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ, thực hiện nội ngoại tuyến phối hợp một cách rất chặt chẽ trên toàn chiến trường Bắc Bộ cũng như ở mỗi mặt trận; từ đó, phối hợp chiến tranh chính quy với chiến tranh du kích trên một quy mô rộng lớn. Trong khi ở mặt trận chính diện, nhất là phòng tuyến sông Đà - Hòa Bình và Đường số 6 - Hòa Bình, các đại đoàn chủ lực (308, 312, 304) ra sức tiến công tiêu diệt các cứ điểm, đoàn tiếp viện, tuần tra... của quân Pháp thi ở mặt trận sau lưng địch, các đại đoàn 316, 320 cùng lực lượng bộ đội địa phương, dân quân du kích cùng nhân dân ở các tình Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Dương, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình, Hà Nam, Thái Bình và Hải Phòng cũng mở các cuộc tiến công tiêu diệt đồn binh của Pháp và của lực lượng tay sai chính quyền Bảo Đại thân Pháp. Sự phối hợp chặt chẽ đó của quân và dân ta ở Bắc Bộ khiến Bộ Chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương lúng túng đối phó, quân Pháp phải căng sức đối phó. Vào tháng 12 năm 1951, việc Bộ Chỉ huy quân viễn chinh Pháp phải điều gấp 2 binh đoàn cơ động số 1 và số 4 từ Mặt trận Hòa Bình về ứng phó với hoạt động của Đại đoàn 316 ở địa bàn Bắc Ninh đã tạo thuận lợi hơn cho các đơn vị chủ lực của Quân đội nhân dân Việt Nam tiêu diệt vị trí đồn Tu Vũ và một số cứ điểm nhỏ của đối phương trên phòng tuyến sông Đà - Hòa Bình. Sang đầu năm 1952, chuẩn bị cho cuộc rút quân khỏi Hòa Bình, tướng Xalăng - Phó Tổng Chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương phải huy động hầu hết lực lượng dự bị cơ động ở đồng bằng Bắc Bộ (tương đương 6 binh đoàn cơ động) đê đảm bảo giao thông trên Đường số 6 từ Hòa Bình về Hà Nội. Tình hình đó càng tạo điều kiện thuận lợi cho các đại đoàn chủ lực 316 và 320 của ta tăng cường luồn sâu, đẩy mạnh phối hợp tác chiến với các lực lượng vũ trang địa phương ở Khu Tả Ngạn và Liên khu 3 đánh lui các cuộc càn quét của quân Pháp. Riêng ở Liên khu 3, cuối tháng 1 năm 1952, lần đầu tiên một lực lượng bộ đội chủ lực lớn (Đại đoàn 320) đã luồn sâu thành công vào địa bàn tỉnh Thái Bình. Tại đây, Đại đoàn 320 phối hợp với các lực lượng vũ trang địa phương đẩy mạnh chiến tranh du kích, đẩy lùi các cuộc hành quân càn quét của đối phương vào các huyện Tiền Hải, Thái Thụy, Thụy Anh...
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #49 vào lúc: 08 Tháng Sáu, 2023, 06:54:39 am »

Như vậy, trong Chiến dịch Hòa Bình, Tổng Quân ủy đã có một bước đi táo bạo và sáng tạo khi vừa tiêu diệt địch ở mặt trận chính diện Hòa Bình, vừa kết hợp với đẩy mạnh tác chiến ở mặt trận sau lưng địch, tạo nên thế trận chiến tranh nhân dân "thiên la địa võng", đẩy địch vào thế lúng túng. Quân Pháp không thể vừa củng cố vị trí mới chiếm đóng ở mặt trận sông Đà - Hòa Bình, vừa duy trì an ninh ở vùng đồng bằng Bắc Bộ.


Quán triệt phương châm "đánh địch trên hai mặt trận" của Trung ương, khi đưa chủ lực vào địch hậu, Tổng Quân ủy đồng thời cho lập các ban chỉ đạo để thống nhất chỉ đạo cuộc đấu tranh về mọi mặt ở vùng sau lưng địch. Theo cơ chế đó, trong vùng địch hậu, bộ đội chủ lực cùng với lực lượng vũ trang địa phương, kết hợp với phong trào nổi dậy của quần chúng tiêu diệt, bức hàng, bức rút hàng loạt cứ điểm của địch, giải tán chính quyền do Pháp lập lên, mở rộng căn cứ du kích và khu du kích. Nhiều căn cứ du kích được mở rộng ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ, đi thông từ tỉnh này sang tinh khác; hàng triệu đồng bào được giải phóng, mùa màng và tài sản được bảo vệ. Tình hình đó khiến cho vùng tạm chiếm của thực dân Pháp ở đồng bằng Bắc Bộ bị thu hẹp lại, chỉ còn chiếm khoảng 1/3 đất đai vùng này. Địa bàn mà quân Pháp còn giữ quyền kiểm soát tập trung chủ yếu ở những nơi gần các đường giao thông quan trọng và các đô thị lớn1 (Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tập luận văn, Sđd, tr. 390). Riêng ở Thái Bình, quân Pháp mât hoàn toàn quyền kiểm soát 2 huyện Kiến Xương, Tiền Hải, khoảng 1/2 diện tích các huyện Thái Ninh, Thụy Anh và nhiều xã, thôn ở các huyện Quỳnh Côi, Phụ Dực, Vũ Tiên... Những thắng lợi của bộ đội trong địch hậu, một phần quan trọng là nhờ có đồng bào giúp đỡ hay phối hợp tranh đấu, đáng chú ý trong đó có sự góp sức của đồng bào công giáo Phát Diệm, Ninh Bình. Như thế, sự phát triển mạnh mẽ của phong trào kháng chiến ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ đã làm tiêu tan kết quả bình định trong phần lớn năm 1951 mà Bộ Chỉ huy quân Pháp đã phải bỏ nhiều công sức mới có được, đồng thời cũng phá hỏng một phần kế hoạch "tổng động viên" nhân lực của địch ở địa bàn chiến lược này. Nếu như trong các chiến dịch trước đây, địch thua ở mặt trận chính diện nhưng củng cố được vùng địch hậu, thì lần này, địch thất bại cả ở mặt trận chính diện và địch hậu - đó là một hiện tượng mới, một thất bại mới của quân Pháp. Thắng lợi to lớn ở mặt sau lưng địch đã "làm thay đổi tình thế đồng bằng Bắc Bộ, đã có ý nghĩa quyết định thắng lợi của toàn bộ Chiến dịch Hòa Bình"2 (Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam (1944- 1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005, tr 459).


Bên cạnh việc tranh thủ và vận động nhân dân giúp đỡ bộ đội chủ lực trong các hoạt động tác chiến, Tổng Quân ủy hết sức chú trọng phát triển lực lượng nòng cốt của chiến tranh nhân dân - phát triển bộ đội chủ lực về tổ chức, về tư tưởng, về chiến thuật và kỹ thuật. Trong Chiến dịch Hòa Bình, tinh thần anh dũng tập thể của bộ đội được phát huy khá cao, xuất hiện nhiều chiến sĩ dũng cảm đánh xe tăng, đánh pháo; nhiều chiến sĩ bị thương hai, ba lần nhưng vẫn quyết tâm chiến đấu, nhiều chiến sĩ và đơn vị kiên quyết khắc phục mọi khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ và giúp đỡ thêm anh em đồng đội. Nhìn chung, tất cả các đơn vị đều tiến bộ. Bộ đội có nhiều tiến bộ về kỹ thuật và khả năng phối hợp tác chiến, về phương diện chiến thuật, bộ đội giữ vững và đảm bảo các nguyên tắc chiến thuật như nguyên tắc tập trung ưu thế binh lực để bao vây chia cắt tiêu diệt địch, kiên quyết áp dụng chiến thuật đánh gần, dưới phi cơ và pháo binh của địch, để khắc phục chỗ mạnh của địch về hỏa lực và lợi dụng chỗ yếu của chúng về tinh thần... Bên cạnh đó, tác phong lãnh đạo của cán bộ được nâng cao một bước đáng kể: Cán bộ được rèn luyện trong chiến đấu đã tiến bộ hơn, quyết tâm hơn, tinh thần trách nhiệm cao hơn, tinh thần chấp hành mệnh lệnh nghiêm túc hơn, đi sát chiến sĩ hơn, chỉ huy sát bộ đội hơn, lãnh đạo dân chủ hơn...


Chiến dịch Hòa Bình đã khiến quân đội Pháp đã bị thiệt hại nặng nề về người và của. Qua đó, phản ảnh sự thất bại về chiến lược của quân Pháp khi các binh đoàn chủ lực cơ động tinh nhuệ của họ bị giam chân ờ xa đồng bằng trong một thời gian dài. Nhận xét về Chiến dịch Hòa Bình, nhà sử học người Pháp Bécna Phôn (Bernard Fall) cho rằng: "Chiến dịch Hòa Bình đối với Quân đội Pháp cũng tổn thất về sinh mạng và trang bị nhiều không kém gì Chiến dịch Biên Giới và Chiến dịch Điện Biên Phú sau này"1 (Bernard B. Fall, Street without Yoy, Indochina at war, 1946-54, The Stackpoie Company, Harrisbarg, Pennsylvania, 1961, p. 55).


Gửi thư khen ngợi Bộ Chỉ huy Chiến dịch và các chiến sĩ mặt trận Hòa Bình, dân công phục vụ và đồng bào địa phương, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "So với những thắng lợi trước, thắng lợi lần này là khá to. Thắng lợi lần này đã đánh dấu một bước tiến bộ mới của bộ đội ta và đã làm cho địch phải thất bại nhục nhã trong âm mưu củng cố phòng ngự chuyển lên tiến công"1 (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 186).


Có thể khẳng định rằng, thắng lợi của Chiến dịch Hòa Bình là kết quả tập trung nhất của sức mạnh chiến tranh nhân dân và đến lượt mình, chiến thắng đó tác động trở lại, thúc đẩy chiến tranh nhân dân phát triển mạnh mẽ lên một bước mới, tạo điều kiện cho thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp - cuộc kháng chiến bảo vệ lợi ích của nhân dân, mang lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho nhân dân nhanh chóng đến gần.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM