Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 03:01:59 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Chiến thắng Hòa Bình thành công xuất sắc về chỉ đạo chiến lược của Đảng  (Đọc 3003 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #30 vào lúc: 04 Tháng Năm, 2023, 07:53:01 am »

Cùng với chỉ đạo cuộc chiến đấu trên mặt trận chính, Trung ương Đảng chỉ đạo các cấp bộ Đảng, quân và dân các địa phương đẩy mạnh tiến công, phối hợp với Mặt trận Hòa Bình.

Một ngày sau khi Chiến dịch Hòa Bình bắt đầu, để đẩy mạnh hoạt động phối hợp và hỗ trợ Mặt trận Hòa Bình, ngày 11 tháng 12 năm 1951, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị đặc biệt gửi ban cán sự và các tỉnh ủy tả ngạn Liên khu 3 nêu rõ: "Trước cơ hội rất tốt cho cuộc vận động đấu tranh chống địch ở trong vùng tạm bị chiếm và vùng du kích, Trung ương đã chỉ thị cho các khu phải kịp hành động phối hợp chặt chẽ với chủ lực ta đang tiêu diệt địch ở Mặt trận Hòa Bình - Chợ Bến"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đàng toàn tập, Tập 12, Sđd, tr. 617).


Ngày 1 tháng 1 năm 1952, Tổng Quân ủy nhận định tình hình và chủ trương tiếp tục tiêu diệt, thu hút và kiềm chế quân cơ động địch ở Hòa Bình để mặt trận địch hậu có điều kiện phát triển; đưa chủ lực sang tả ngạn hoạt động, đẩy mạnh củng cố cơ sở, chống càn quét, phát triển chiến tranh du kích.


Trên cơ sở đó, ngày 20 tháng 1 năm 1952, Ban Chấp hành Trung ương ban hành Chỉ thị "về đẩy mạnh du kích chiến tranh trên chiến trường Bắc Bộ", yêu cầu các đảng bộ, quân dân các địa phương Bắc Bộ nhân khi địch đánh ra Chợ Bến, Hòa Bình, cơ sở vùng địch hậu, "nắm vững cơ hội thuận lợi tranh thủ thời gian, đẩy mạnh phong trào đấu tranh về mọi phương diện". Tiếp đó, ngày 26 tháng 1 năm 1952, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành "Chỉ thị phát triển và củng cố các vùng du kích và căn cứ du kích tích cực chuẩn bị chống giặc càn quét", nhắc nhở các địa phương kết hợp chặt chẽ lực lượng quần chúng và lực lượng vũ trang, bảo đảm tập trung thống nhất lãnh đạo, nêu cao cảnh giác, chống tư tưởng sai lầm như lạc quan tếu, bi quan...


Dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, quân và dân các địa phương tranh thủ cơ hội, đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống địch ở vùng tạm chiếm và vùng du kích, phối hợp chặt chẽ với mặt trận chính Hòa Bình, Chợ Bến. Cùng với tiếng súng tiến công trên mặt trận Hòa Bình, quân và dân ta trên khắp các chiến trường, nhất là vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng và trung du Bắc Bộ đã liên tục tiến công hàng loạt vị trí địch, kết hợp với nổi dậy phá tề, trừ gian, giành quyền làm chủ, đưa chiến tranh du kích lên đỉnh cao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, khôi phục và mở rộng các căn cứ du kích của ta, thu hẹp phạm vi chiếm đóng của địch.


Ở vùng Đông Bắc, quân và dân các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh, Quảng Ninh liên tục bao vây nhiều vị trí địch, phá vành đai trắng, mở rộng vùng giải phóng. Ở tả ngạn Liên khu 3, những ngày cuối năm 1951 đầu năm 1952, lực lượng vũ trang địa phương chủ động tác chiến, diệt nhiều vị trí địch. Bộ đội địa phương và dân quân du kích Thái Bình trực tiếp hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy phá tề, diệt dõng, mở lại các khu du kích trong vùng, ở hữu ngạn Liên khu 3, quân và dân các tỉnh Hà Đông, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình... liên tục tiến công tiêu diệt địch, bức rút nhiều vị trí địch, phục hồi được cơ sở, mở rộng căn cứ du kích, đẩy mạnh phá tề, tiến hành công tác binh vận, ngụy vận,... Đến cuối năm 1951 đầu năm 1952, hàng loạt khu du kích và căn cứ du kích được khôi phục, phát triển với tổng diện tích 4.800km2 (chiếm hai phần ba diện tích đồng bằng châu thổ). Nhiều căn cứ du kích liên tỉnh, liên huyện rộng lớn đã xuất hiện, nối liền với nhau thành thế liên hoàn từ Bắc Giang, Bắc Ninh đến Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Kiến An, Quảng Yên, Nam Định, Ninh Bình, Hà Nam, Hà Đông. Quân và dân đồng bằng Bắc Bộ đã tiêu diệt và bắt hơn 10.000 tên địch, tiêu diệt 160 cứ điểm do quân chủ lực địch đóng giữ, khoảng 1.000 vị trí của bọn tề vũ trang, tổng dõng, vệ sĩ; tịch thu và phá hủy nhiều vũ khí và phương tiện chiến tranh của chúng. Cao trào tiến công quân sự của các lực lượng vũ trang địa phương, hỗ trợ phong trào nổi dậy của quần chúng trong cuộc tổng phá tề lần thứ hai, phá tan từng mảng lớn ngụy quân, ngụy quyền, từng bước làm "ruỗng nát" hệ thống chiếm đóng của chúng.


Cùng với quân và dân miền Bắc, quân và dân Bình - Trị - Thiên, Liên khu 5, Nam Bộ tích cực phát triển đấu tranh quân sự, tiến công đồn bốt địch, kiềm chế lực lượng quân ứng chiến, phối hợp với chiến trường chính Bắc Bộ.


Có thể thấy, phạm vi không gian của "Chiến dịch Hòa Bình" trên thực tế đã mở rộng bao gồm cả đồng bằng Bắc Bộ. Thế trận chiến tranh nhân dân được phát huy, sự phối hợp giữa mặt trận chính diện Hòa Bình và mặt trận sau lưng địch ở đồng bằng Bắc Bộ đã đẩy quân Pháp vào thế đối phó hết sức lúng túng; phải điều động các binh đoàn cơ động số 1, số 3, số 4, số 5, số 7 vào một cuộc "kéo quân như đèn cù", đỡ đòn xuôi ngược, từ trong vùng địch hậu ra ngoài, từ ngoài trở vào đồng bằng để "chữa cháy".


Sau hơn 2 tháng tấn công và chiếm đóng Hòa Bình và hơn 10 ngày sau khi Đờ Lát - cha đẻ của cuộc tấn công ra "thủ phù xứ Mường" qua đời tại Pháp, quân Pháp buộc phải "mở cuộc triệt thoái" mang tên "Arcenciel", rút khỏi khỏi Hòa Bình vào ngày 23 tháng 2 năm 1952. Tất cả những toan tính và và các tham vọng của quân Pháp khi mở cuộc tấn công ra Hòa Bình không đạt được. Hơn nữa, bị thiệt hại về mọi phương diện, thất bại này là một đòn giáng mạnh vào âm mưu sử dụng vũ lực kéo dài chiến tranh ở Đông Dương, đưa quân Pháp tiếp tục bị động, đối phó, "sa lầy ở Đông Dương". Tướng Yves Gras viết: "Cuộc rút lui khỏi Hòa Bình đã gây nên một cảm giác buồn nản thậm chí thảm hại. Mưu toan duy nhất chuyển sang tiến công Việt Minh đã kết thúc bằng một cuộc rút lui. Mưu toan này đã gây nên bao nhiêu hy vọng thì nay sự thất vọng càng lớn bấy nhiêu"1 (Yves Gras, Lịch sử chiến tranh Đông Dương, Sđd). Những cộng sự của phía Pháp sau này cũng nhận định: "Đây là một thất bại chiến lược của De Lattre", "De Lattre vẫn chủ trương dùng vũ lực với đường lối chiến tranh thuộc địa kiểu D’ Argenlieu, Pignon và đã không có một đường lối giải quyết tiến bộ nào (...). De Lattre chỉ kéo dài chiến tranh chứ không thể làm nước Pháp thoát khỏi cảnh sa lầy tại Đông Dương", "Hòa Bình là một thất bại cho Pháp (...) việc rút lui này làm tiêu tan ý chí chiến thắng cuối cùng của quân Pháp"2 (Bộ Tổng Tham mưu quân đội Việt Nam cộng hòa, Quân sử 4,1972, tr. 53-54,144).


Chiến thắng Hòa Bình có ý nghĩa chiến lược to lớn về nhiều phương diện. Chiến thắng Hòa Bình là đòn giáng mạnh vào kế hoạch quân sự Đờ Lát, báo hiệu sự phá sản của những âm mưu, nỗ lực chiến tranh mới của thực dân Pháp ở Đông Dương. Qua chiến dịch Hòa Bình, ta đã làm thất bại âm mưu lập "xứ Mường tự trị" của địch, tiêu diệt 6.012 quân địch, giải phóng một vùng đất đai rộng lớn trên 1.000km2 với 20.000 dân1 (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử Đảng, Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Tập 1, Quyển 2 (1945 - 1954), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2018, tr. 382-383). Bằng việc đẩy mạnh tấn công địch ở các chiến trường phối hợp, thắng lợi to lớn của ta ở mặt trận sau lưng địch ở làm thay đổi tình thế đồng bằng Bắc Bộ, có ý nghĩa phát triển thắng lợi của ta trong Chiến dịch Hòa Bình, đồng thời, có vai trò trong thắng lợi của Chiến dịch, góp phần làm cho cục diện chiến trường thay đổi có lợi cho ta. Phạm vi chiếm đóng của địch bị thu hẹp vùng du kích mở rộng là điều kiện căn bản để giữ vững và đẩy mạnh chiến tranh du kích, giải quyết vấn đề hoạt động chiến lược trong địch hậu và mọi mặt công tác địch hậu.


Chiến thắng Hòa Bình là kết quả của sự nỗ lực lớn lao của quân và dân ta, mà trước hết là kết quả của sự lãnh đạo, chỉ đạo chiến lược của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sự lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng thể hiện rõ sự đúng đắn, kịp thời, linh hoạt trong nắm bắt thời cơ, đề ra quyết tâm chiến lược, xác định phương hướng tiến công và nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh nhân dân: Kết hợp mặt trận chính diện và mặt trận sau lưng địch, kết hợp đánh tập trung và đánh phân tán, vây điểm diệt viện, đánh tiêu diệt và đánh tiêu hao, kết hợp ba thứ quân, kết hợp đấu tranh quân sự chính trị, binh vận, trong đó, quân sự là chính, qua đó làm thất bại âm mưu quân sự và chính trị của thực dân Pháp...


Chiến thắng Hòa Bình tạo thế và lực cho ta, đồng thời, đặt ra yêu cầu đối với toàn Đảng, toàn quân và dân cần phải nỗ lực hơn nữa để tiếp tục đẩy mạnh cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi cán bộ, chiến sĩ và nhân dân tham gia Chiến dịch Hòa Bình. Người căn đặn: "Chớ vì thắng mà kiêu, chớ chủ quan khinh địch... Bộ đội phải luôn luôn cố gắng thi đua giết giặc lập công và ra sức học tập chỉnh huấn, đồng bào phải ra sức thi đua tăng gia sản xuất hơn nữa để tranh lấy thắng lợi to hơn nữa"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 7, Sđd, tr. 331-332). Chiến thắng Hòa Bình để lại nhiều kinh nghiệm quý báu trong lãnh đạo, chỉ đạo và điều hành chiến tranh, kinh nghiệm về nghệ thuật chiến dịch Việt Nam.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #31 vào lúc: 19 Tháng Năm, 2023, 08:01:00 am »

CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỚI CHIẾN DỊCH HÒA BÌNH


PGS, TS LÝ VIỆT QUANG*
TS TRẦN THỊ HUYỀN
* Viện trưởng Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng,
Học viện Chính trị quốc gia Hổ Chí Minh
** Giảng viên chính Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh


Chiến dịch Hòa Bình diễn ra từ ngày 10 tháng 12 năm 1951 đến ngày 25 tháng 2 năm 1952 là một mốc son lịch sử trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của quân và dân ta. Đây là chiến thắng đánh dấu sự trưởng thành, lớn mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam non trẻ, đã bẻ gãy cuộc phản công chiến lược của những đơn vị tinh nhuệ vào loại bậc nhất của quân đội Pháp ở Đông Dương, phá tan âm mưu giành lại quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ và đẩy thực dân Pháp ngày càng lún sâu vào thế bị động chiến lược, khoét sâu hơn nữa mâu thuẫn giữa phân tán và tập trung. Chiến thắng lịch sử này cũng thể hiện vai trò và tầm vóc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ thiên tài, nhà quân sự lỗi lạc của Đảng và dân tộc Việt Nam.


Sau thất bại ở biên giới trong Thu - Đông 1950, tiếp đó lại bị ta đánh mạnh ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ với 3 chiến dịch: Hoàng Hoa Thám, Quang Trung và Trần Hưng Đạo, quân Pháp lâm vào tình thế phòng ngự bị động. Để xoay chuyển tình thế, cuối tháng 12 năm 1950, thực dân Pháp đưa tướng Đờ Lát sang làm Cao ủy kiêm Tổng Chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Sau những nỗ lực xây dựng các binh đoàn cơ động và càn quét, bình định vùng đồng bằng Bắc Bộ, tháng 10 năm 1951, Đờ Lát tuyên bố, đã tới lúc giành lại chủ động trên chiến trường, buộc Việt Minh phải tiếp nhận chiến đấu trên một địa điểm do Pháp lựa chọn. Đờ Lát quyết định chọn Hòa Bình - địa bàn chỉ cách Hà Nội 76km, nằm trong tầm hoạt động của máy bay ném bom Pháp, là nút giao thông thủy - bộ nối liền Việt Bắc với đồng bằng Bắc Bộ và miền Trung làm điểm tấn công. Mục tiêu của Pháp khi mở cuộc tiến công Hòa Bình để lập phòng tuyến Sông Đà với tuyến phòng thủ trung tâm nhằm nối lại "Hành lang Đông - Tây"; tăng cường khả năng phòng thủ đồng bằng Bắc Bộ, cắt đứt đường liên lạc giữa Chiến khu Việt Bắc với các Liên khu 3 và Liên khu 4 của ta.


Thực hiện ý đồ trên, ngày 9 tháng 11 năm 1951, quân Pháp mở cuộc hành quân Tuylíp đánh chiếm Chợ Bến, nhằm cắt đường di chuyển chủ lực của ta từ Việt Bắc xuống đồng bằng. Ngày 14 và 15 tháng 11 năm 1951, quân Pháp tiếp tục mở cuộc hành quân Lôtuýt, sử dụng 3 tiểu đoàn nhảy dù xuống thị xã Hòa Bình (nay là thành phố Hòa Bình). Chiều ngày 15 tháng 11 năm 1951, Đờ Lát chủ trì họp báo ở Hà Nội, thông báo về "chiến thắng Hòa Bình" và cho rằng, tiến công Hòa Bình có nghĩa là chúng ta (quân Pháp - NV) đã bắt buộc đối phương phải xuất trận. Trận Hòa Bình sẽ có ảnh hưởng quốc tế lớn. Sau khi chiếm đóng Hòa Bình, quân Pháp đã xây dựng một hệ thống theo kiểu tập đoàn cứ điểm mạnh, hình thành hai tuyến phòng ngự dọc Đường số 6 và dọc sông Đà, đồng thời cho thành lập các "Xứ Mường tự trị" để thực hiện âm mưu "dùng người Việt Nam đánh người Việt Nam".


Trước âm mưu của Pháp, ngày 15 tháng 11 năm 1951, Tổng Quân ủy họp mở rộng, thống nhất đề nghị Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho mở chiến dịch Hòa Bình, chuyển hưởng hoạt động sang tiến công nơi địch mới chiếm đóng; xác định Hòa Bình là hướng chính, các nơi khác là hướng phối hợp nhằm tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng thị xã Hòa Bình đập tan phòng tuyến sông Đà và tạo điều kiện phát triển chiến tranh du kích ở đồng bằng Bắc Bộ.


Ngày 18 tháng 11 năm 1951, Trung ương Đảng và Tổng Quân ủy nhận định: "Đó là một cơ hội hiếm cho ta tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Đánh ra Hòa Bình địch phải phân tán lực lượng cơ động tinh nhuệ trên một mặt trận rộng lớn, núi rừng hiểm trở, địa hình đột xuất, công sự chưa vững chắc. Mặt khác vì phải tập trung phần lớn quân cơ động ra Hòa Bình nên lực lượng địch ở đồng bằng bị dàn mỏng, các vùng từ hữu ngạn, tả ngạn Liên khu 3 đến trang du đều tương đối sơ hở hơn trước"1 (Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Chiến dịch tiến công Hòa Bình (12.1951 - 2.1952), Hà Nội, 1991, tr. 9).


Căn cứ nhận định trên, ngày 21 tháng 11 năm 1951, đồng chí Phạm Văn Đồng thông báo với các đồng chí trong Tổng Quân ủy ý kiến của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đồng ý nhận xét và chủ trương mở Chiến dịch Hòa Bình của Tổng Quân ủy. Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Việc địch đánh ra Hòa Bình có làm khó cho ta, nhưng cũng gây cơ hội cho ta đánh địch, thắng địch... Phải coi việc địch đánh Hòa Bình là việc ta dự đoán trước, không có gì lạ, đó chỉ là một biểu hiện của thế khó khăn, lúng túng của nó, ta khéo và quyết nhằm chỗ hở của nó mà đánh chúng cho đúng, cho kịp thời, chuẩn bị chu đáo và bí mật thì ta sẽ thắng"2 (Những tài liệu chỉ đạo các chiến dịch của Trung ương Đảng, Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh, Tập 4, Bộ Tổng Tham mưu xuất bản năm 1963 tr. 55).


Ngày 23 tháng 11 năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trì họp Bộ Chính trị3 (Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tập hồi ký, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội 18, tr. 776), nhất trí với đề nghị của Tổng Quân ủy chuyển hướng chiến dịch về Hòa Bình, nhằm tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng thị xã Hòa Bình, phá phòng tuyến Sông Đà trên hướng chủ yếu, đồng thời tạo điều kiện và phát triển chiến tranh du kích ở đồng bằng Bắc Bộ trên hướng phối hợp.


Ngay sau cuộc họp Bộ Chính trị, ngày 24 tháng 11 năm 1951, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị "về nhiệm vụ phá cuộc tấn công Hòa Bình của địch"1 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 594-599, 598-599). Chỉ thị vạch rõ, địch quyết chiếm Hòa Bình để cắt đường giao thông liên lạc của ta từ Việt Bắc đi các khu phía Nam, bảo vệ các phòng tuyến của chúng ở Tây Nam trung châu Bắc Bộ, mở rộng phạm vi chiếm đóng, gây ảnh hưởng chính trị đối với Mỹ, Anh. Từ sự phân tích đó, Chỉ thị đưa ra nhận định:

"1- Đánh và chiếm đóng chợ Bến và Hòa Bình, địch phải phân tán các đội ứng chiến của chúng trên một mặt trận rộng lớn, rừng núi hiểm trở, công sự chưa kịp xây dựng, chưa kịp củng cố. Đó là cơ hội tốt để ta đánh địch.

2- Địch dùng phần lớn lực lượng Âu - Phi tinh nhuệ của chúng ở Hòa Bình, buộc phải sơ hở các mặt khác và ở sau lưng địch. Đó cũng là cơ hội tốt để ta đánh địch trên các mặt trận ấy và hoạt động mạnh trong vùng du kích nhất là ở tả ngạn Hồng Hà.

Vậy ta phải nắm cơ hội tốt này tranh thủ thời gian để đánh địch, tiêu diệt sinh lực của địch trên mặt trận Chợ Bến, Hòa Bình, trên các mặt trận khác và khấp vùng du kích sau lưng địch, nhằm mục đích phá âm mưu quân sự mới của địch"2 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 594-599, 598-599).


Chỉ thị cũng nêu rõ: "Địch chiếm chợ Bến và Hòa Bình có gây khó khăn cho ta, nhưng cũng gây cơ hội tốt đế ta đánh địch trên Mặt trận Hòa Bình, trên các mặt trận khác và sau lưng địch"3 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 594-599, 598-599).


Cũng trong tháng 11 năm 1951, nhằm kịp thời chỉ đạo và động viên bộ đội, dân quân du kích đánh giặc, Chủ tịch Hồ Chí Minh có "Thư gửi các cán bộ, chiến sĩ chủ lực và dân quân du kích trong Chiến dịch Hòa Bình". Trong thư, Người chỉ rõ: "Trước kia, ta phải lừa địch ra mà đánh. Nay địch tự ra cho ta đánh. Đó là cơ hội rất tốt cho ta"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011 tr. 242). Cách nhìn và tinh thần lạc quan của vị lãnh tụ là luồng sinh khí nhân lên sức mạnh cho cán bộ, chiến sĩ và dân quân du kích tham gia chiến dịch. Từ suy nghĩ của thực dân Pháp cho rằng việc chọn Hòa Bình là "buộc Việt Minh phải tiếp nhận chiến đấu trên một địa điểm do Pháp lựa chọn" thì với cách nhìn nhận của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta, đây chính là "cơ hội", "thuận lợi" cho ta tiêu diệt quân thù, ta từ chỗ phải lừa địch ra để đánh, nay địch lại tự ra cho ta đánh. Đó là thuận lợi, cơ hội cần tranh thủ, phát huy. Tuy nhiên, để tránh suy nghĩ chủ quan trong cán bộ, bộ đội và dân quân du kích, trong thư, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: "Muốn thắng thì ta phải tích cực, tự động, bí mật, mau chóng, kiên quyết, dẻo dai. Chắc thắng mới đánh. Nhưng tuyệt đối chớ chủ quan, khinh địch. Bộ đội chủ lực đánh. Bộ đội địa phương, dân quân du kích cũng đánh. Các lực lượng phải phối hợp nhau chặt chẽ để tiêu diệt sinh lực của địch, để đánh tan kế hoạch Thu - Đông của chúng"2 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011 tr. 242). Người còn động viên, khích lệ tinh thần chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ, dân quân du kích khi hứa sẽ "để dành giải thường đặc biệt cho bộ đội nào và chiến sĩ nào lập công to nhất"3 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011 tr. 242).
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #32 vào lúc: 19 Tháng Năm, 2023, 08:02:13 am »

Thực hiện chỉ thị của Trung ương Đảng và Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các lực lượng vũ trang và nhân dân ta đã chiến đấu dũng cảm trên các mặl trận chính diện tại Chợ Bến sông Đà, Hòa Bình và vùng sau lưng địch ở Bắc Ninh, Bắc Giang Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình...


Tại mặt trận chính, Chiến dịch Hòa Bình diễn ra thành 3 đợt. Đợt 1 (10 - 26.12.1951), ta cắt đứt tuyến Sông Đà, tiến công tiêu diệt các cứ điểm Tu Vũ, Núi Chẹ. Đợt 2 (27 - 31.12.1951), ta tiếp tục đập vỡ phòng tuyến Sông Đà, tiêu diệt các điểm cao 400, 600, Đá Chông, Chẹ, chặn đánh các cánh quân viện trên các trục Đường số 87, Ba Vì, Mỹ Khê. Đợt 3 (7.1 - 25.2.1952), ta tiếp tục vận dụng tốt phương châm tác chiến "đánh điểm, diệt viẹn và thường xuyên uy hiếp các đường tiếp tế thủy, bộ để cầm chân số lớn lính Pháp (riêng tại Đường số 6, Pháp phải huy động tới 16 tiểu đoàn để bảo vệ). Trên hướng phối hợp, ta tiến sâu vào vùng địch tạm chiếm ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ, liên tục tiến công địch, góp phần vào thắng lợi của mặt trận chính.


Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn theo sát diễn biến của chiến dịch, kịp thời chỉ đạo và động viên cán bộ, chiến sĩ, đồng bào tham gia chiến dịch. Ngay trong đợt 1 của chiến dịch, ngày 22 tháng 12 năm 1951, khi Đại đội 756 đánh trận vận động phục kích diệt gọn đoàn tàu địch 5 chiếc ở gần bến Lạc Song (dưới thị xã Hòa Bình 10km), Người đã kịp thời động viên, tặng Đại đội 756 lá cờ "Chiến thắng Lạc Song"1 (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng, Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, Tập 5, xuất bản lần thứ ba, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2016, tr 106-107).


Ngày 25 tháng 12 năm 1951, trong cuộc họp cuối năm của Hội đồng Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trì kiểm điểm công tác năm 1951, bàn kế hoạch năm 1952, nghe báo cáo tình hình quân sự từ sau cuộc hành quân của địch vào tỉnh Hòa Bình, Người đã chỉ rõ và nhấn mạnh nhiệm vụ của năm 1952 là đẩy mạnh tăng gia sản xuất, quyết giành thắng lợi to lớn hơn nữa. Đây chính là nguồn động lực tinh thần to lớn để toàn Đảng, toàn quân, toàn dân quyết tâm vượt mọi khó khăn, tiếp tục đẩy mạnh những thắng lợi mới trên mọi mặt trận, đặc biệt là Chiến dịch Hòa Bình.


Đầu năm 1952, khi nghe báo cáo của Tổng Tham mưu trưởng về kế hoạch 3 đợt của Chiến dịch Hòa Bình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: "Ngay lúc này, cần có kế hoạch nếu địch rút Hòa Bình thì ta khuếch trương về quân sự, chính trị như thế nào cũng phải chuẩn bị trước". Tư tưởng chỉ đạo này thể hiện tầm nhìn xa, trông rộng, chủ động trong tiến hành chiến dịch của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng thời, Người cũng căn dặn cách thức xử lý, giải quyết với từng loại tù binh "thì nguyên tắc là sĩ quan không được thả, binh lính cho ăn uống, giáo dục rồi thả sớm..."1 (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng, Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, Tập 5, Sdd, tr. 115).


Qua 3 đợt chiến đấu, với sự lãnh đạo trực tiếp của Tổng Quân ủy, sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát của Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chiến dịch Hòa Bình đã kết thúc thắng lợi. Ta đã tiêu diệt được 6.012 quân địch, giải phóng một vùng đất đai rộng lớn trên 1.000km2 với 20.000 dân, phá tan âm mưu lập cái gọi là "Xứ Mường tự trị" của thực dân Pháp.


Ngày 25 tháng 2 năm 1952, ngay khi Chiến dịch Hòa Bình kết thúc, tỉnh Hòa Bình được giải phóng, để khuyến khích tinh thần chiến đấu của bộ đội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi Điện khen ngợi Ban chỉ huy và các chiến sĩ mặt trận Hòa Bình, dân công phục vụ chiến dịch và đồng bào địa phương. Người khẳng định: "So với những thắng lợi trước, thắng lợi lần này là khá to. Thắng lợi lần này đã đánh dấu một bước tiến bộ mới của bộ đội ta, và đã làm cho địch phải thất bại nhục nhã trong âm mưu củng cố phòng ngự chuyển lên tiến công"2 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tặp 7, Sđd, tr. 331). Thắng lợi đó cũng được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ trong Bảo cáo tại Hội nghị lần thứ ba của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa II, phần tình hình và nhiệm vụ đã đánh giá: "Cuộc thắng lợi của Chiến dịch Hòa Bình đã phá tan kế hoạch Thu - Đông của dịch, đã đẩy mạnh chiến tranh du kích sau lưng địch ở Bắc Bộ, đã có tiếng vang dội trong nước và ngoài nước"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 7, Sđd, tr. 389, 331-332, 401).


Đồng thời, Người cũng căn dặn bộ đội: "Phải luôn luôn cố gắng thi đua giết giặc lập công và ra sức học tập chỉnh huấn, đồng bào phải ra sức thi đua tăng gia sản xuất hơn nữa để tranh lấy thắng lợi to hơn nữa"2 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 7, Sđd, tr. 389, 331-332, 401).


Giữ đúng lời hứa với đồng bào trong bức thư gửi những ngày đầu chiến dịch, kết thúc Chiến dịch Hòa Bình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tặng thưởng cờ danh dự và gửi thư khen Tiểu đoàn phòng không 387. Người nêu rõ: "Bác rất vui lòng thay mặt Chính phủ thưởng các chú một lá cờ danh dự. Bác cho phép các chú chọn một thành tích to nhất trong Chiến dịch Hòa Bình mà thêu vào lá cờ và từ nay về sau trong mọi chiến dịch mới, cứ chọn trận thắng lợi to nhất của các chú mà thêu thêm vào. Mong các chú luôn luôn cố gắng học tập, tiến bộ và thắng trận, để xứng đáng với danh dự vẻ vang này"3 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 7, Sđd, tr. 389, 331-332, 401). Đặc biệt, nhân những thành tích của các đơn vị trong Chiến dịch Hòa Bình và nhân dịp Ngày Quốc tế Lao động (1.5.1952), Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Thư khen thưởng các đơn vị bộ đội chiến thắng: Tiểu đoàn 387, Đại đội 313, Đại đội 314 thuộc Đại đoàn X; các đại đội 270, 755, 756, 752 thuộc Đại đoàn Y, Đại đội công binh Đại đoàn Z một cờ thường danh dự và một thiếp khen.


Thắng lợi của Chiến dịch Hòa Bình là thắng lợi của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Thắng lợi đó là kết quả của đường lối lãnh đạo đúng đắn, linh hoạt, sáng tạo của Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh; là sự quyết tâm, đồng lòng, đồng sức của toàn quân, toàn dân ta. Đặc biệt, sở dĩ Chiến dịch Hòa Bình mau giành được thắng lợi có một phần rất lớn xuất phát từ tầm nhìn sáng suốt, sự chỉ đạo quyết liệt, cương quyết và sự quan tâm sâu sát của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cán bộ, bộ đội và đồng bào tham gia chiến dịch. Sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát của Người đối với cán bộ, bộ đội và đồng bào tham gia chiến dịch đã góp phần rất to lớn trong việc phán đoán đúng âm mưu, thủ đoạn của thực dân Pháp, đồng thời nâng cao sức mạnh chiến đấu của cán bộ, bộ đội và dân quân du kích, đem lại thắng lợi cho Chiến dịch Hòa Bình, tạo đà để nhân dân ta tiếp tục xốc tới, giành những thắng lợi lớn hơn trong cuộc tiến công Tây Bắc, tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954 mà đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #33 vào lúc: 19 Tháng Năm, 2023, 08:03:57 am »

QUÁN TRIỆT CHỈ ĐẠO CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH "CHẮC THẮNG MỚI ĐÁNH, NHƯNG TUYỆT ĐỐI CHỚ CHỦ QUAN KHINH ĐỊCH’’ TRONG CHIẾN DỊCH HÒA BÌNH


Đại tá, TS LÊ VĂN THÁI
Nguyên Chủ nhiệm Bộ môn Lịch sử Tư tưởng quân sự,
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam


Trong khi các đại đoàn chủ lực và các lực lượng vũ trang địa phương đã sẵn sàng bước vào đợt tác chiến Đông - Xuân 1951 - 1952 thì nửa đầu tháng 11 năm 1951, giới "chóp bu" quân sự Pháp ở Đông Dương tập trung lực lượng lớn tiến công Hòa Bình nhằm mở rộng vùng chiếm đóng, chia cắt Bắc Bộ với Liên khu 4 và chiến trường phía Nam. Trước tình hình đó, Trung ương Đảng ra Chỉ thị "về nhiệm vụ phả cuộc tấn công Hòa Bình của địch Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới cán bộ, chiến sĩ chủ lực và dân quân du kích tham gia Chiến dịch Hòa Bình. Trong thư, Người nêu rõ: "Trước kia, ta phải lừa địch ra mà đánh. Nay địch tự ra cho ta đánh. Đó là cơ hội rất tốt cho ta"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 242). Để đánh thắng giặc trong Chiến dịch Hòa Bình, Người nhấn mạnh: "Chắc thắng mới đánh. Nhưng tuyệt đối chớ chủ quan khinh địch"2 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 242). Quán triệt chỉ đạo của Người, Tổng Quân ủy, Bộ Tổng Tư lệnh đã chỉ đạo quân và dân ta khẩn trương tiến hành toàn bộ công tác chuẩn bị chiến dịch chu đáo; hiệp đồng chặt chẽ các lực lượng trên chiến trường, tiến hành các hình thức tác chiến có hiệu quả chiến đấu, nên đã giành thắng lợi to lớn trong Chiến dịch Hòa Bình.


Sau khi nắm rõ ý đồ và diễn biến cuộc hành quân của địch, Trung ương Đảng chủ trương mở cuộc tiến công đánh địch trên 2 mặt trận. Hướng chính là Mặt trận Hòa Bình và mặt trận sau lưng địch (trung du, đồng bằng Bắc Bộ) nhằm tiêu diệt sinh lực địch, phá tan kế hoạch chiếm đóng Hòa Bình, đẩy mạnh chiến tranh du kích, trọng tâm là ở đồng bằng Bắc Bộ. Bộ Chính trị quyết định thành lập Đảng ủy và tổ chức Bộ Chỉ huy Chiến dịch, cử Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp làm Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng ủy Chiến dịch; Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Nguyễn Chí Thanh làm Chủ nhiệm Chính trị kiêm Phó Bí thư Đảng ủy; Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái làm Tham mưu trưởng Chiến dịch.


Để giành thắng lợi trong Chiến dịch Hòa Bình, trước hết công tác chuẩn bị Chiến dịch phải đầy đủ, chu đáo. Đây là một trong những nguyên tắc tác chiến mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ trong tài liệu "Để hiểu chiến lược "Không chuẩn bị đầy đủ thì không đánh. Không chắc thắng thì không đánh"1 (Tư liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh. Hồ sơ H6-C5/5). Quán triệt nguyên tắc tác chiến và chỉ đạo của Người, quân và dân ta đã nỗ lực cao trong việc chuẩn bị chiến dịch chu đáo, đầy đủ về mọi mặt để đánh địch dài ngày, đảm bảo chắc thắng trong tác chiến diệt địch. Điều đó thể hiện ở các điểm chủ yếu sau:


Về nắm tình hình địch. Nắm chắc tình hình địch có vị trí hết sức quan trọng trong công tác chuẩn bị chiến trường cũng như trong quá trình tác chiến diệt địch. Nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nắm chắc tình hình địch, trước ngày Toàn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: "Không biết rõ tình hình bên địch mà dám khai chiến, thời có khác gì đánh bạc với chiến tranh"2 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 7, Sđd, tr. 61). Do đó, trong quá trình chuẩn bị chiến trường, Ban Tham mưu Mặt trận đã khẩn trương hoạt động nắm tình hình địch, biết rõ bố trí lực lượng của địch ở Hòa Bình, Đường số 6, sông Đà và Ba Vì. Tại khu vực này, quân Pháp tổ chức phòng ngự thành 2 phân khu: Phân khu Hòa Bình - Đường số 6 (khu Nam) và Phân khu Sông Đà - Ba Vì (khu Bắc). Hệ thống phòng ngự của địch gồm 28 điểm lớn, nhỏ. Mỗi cứ điểm có từ 1 đến 2 đại đội bộ binh, những cứ điểm lớn có 3 đại đội bộ binh, được tăng cường 1 đại đội pháo và 1 trung đội xe tăng. Việc nắm tình hình địch tiếp tục được thực hiện để rõ thêm cách bố phòng của chúng trong mỗi căn cứ để lựa chọn mục tiêu tiến công địch trong các đợt tác chiến.


Về công tác chính trị. Ngày 19 tháng 11 năm 1951, Cơ quan Chính trị đã gửi toàn mặt trận Chỉ thị "Tuyên truyền về cuộc hành binh của địch ở Hòa Bình" và tiến hành mọi mặt hoạt động công tác chính trị: Chuẩn bị bộ đội, dân công phối hợp tác chiến với dân vận, địch vận1 (Bảo cáo kế hoạch tác chiến chiến dịch và tổng kết kinh nghiêm của các chiến dịch lớn, Bộ Tổng Tham mưu xuất bản, 1963, tr. 37). Thực hiện chỉ đạo của Cơ quan Chính trị Mặt trận, các đơn vị đã giáo dục tư tưởng, quán triệt nhiệm vụ để bộ đội được chuẩn bị kỹ càng trước khi bước vào chiến đấu.


Về đảm bảo hậu cần. Đề cập đến vấn đề hậu cần, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: "Về quân sự, quân nhu và lương thực rất quan trọng. Có binh hùng, tướng giỏi, nhưng thiếu quân nhu, lương thực, không thể thắng trận được"2 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 296). Do tầm quan trọng của công tác hậu cần trong hoạt động tác chiến, Bộ Tổng Tư lệnh đã chỉ đạo thành lập 2 ban cung cấp ở Bắc và Nam Hòa Bình. Ban Cung cấp tiền phương ở Mặt trận Bắc Hòa Bình có nhiệm vụ bảo đảm cho Đại đoàn 308, Đại đoàn 312 cùng lực lượng vũ trang địa phương. Ban Cung cấp tiền phương Mặt trận Nam Hòa Bình có nhiệm vụ đảm bảo cho Đại đoàn 304 và Đại đoàn 320. Thời kỳ đầu ở hướng chính Hòa Bình, ta đã chuẩn bị được 820 tấn gạo, huy động 20 nghìn dân công phục vụ chiến dịch1 (Suốt Chiến dịch Hòa Bình, các ban cung cấp mặt trận đã tiếp tế cho bộ đội 6.475 tấn lương thực, thực phẩm và 280 tấn đạn).
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #34 vào lúc: 19 Tháng Năm, 2023, 08:05:05 am »

Về kế hoạch tác chiến. Thực hiện chỉ thị của Trung ương Đảng, Tổng Quân ủy, Bộ Tổng Tư lệnh quyết định sử dụng các đại đoàn (308, 312, 304) vào nhiệm vụ tiêu diệt địch trên hướng chính ở Hòa Bình. Đại đoàn 316 kết hợp với Liên khu Việt Bắc hoạt động ở Trung du, trọng điểm là vùng Bắc Ninh, Bắc Giang. Đại đoàn 320 phối hợp với Liên khu 3 hoạt động ở Hà Nam Ninh. Căn cứ vào quyết định sử dụng lực lượng của Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh, trong kế hoạch tác chiến chiến dịch, Bộ Chỉ huy Chiến dịch sử dụng Đại đoàn 308 và Đại đoàn 312 đánh địch trên hướng chủ yếu. Đại đoàn 304 ở hướng thứ yếu làm nhiệm vụ kiềm chế mọi hoạt động của địch ở thị xã Hòa Bình và đánh địch trên Đường số 6. Kế hoạch tác chiến chiến dịch xác định rõ hướng tiến công, điểm đột phá mở đầu chiến dịch. Nghiên cứu tình hình bố trí lực lượng của địch, Bộ Chỉ huy Chiến dịch quyết định không đánh vào tập đoàn cứ điểm Hòa Bình, bởi nơi đây lực lượng địch rất mạnh gồm 6 tiểu đoàn bộ binh, trận địa pháo và sân bay, trong khi lúc này quân ta chưa có nhiều kinh nghiệm đánh địch cố thủ trong các công sự vững chắc, nên khó đảm bảo "chắc thắng" khi đánh. Ta cũng không tập trung lực lượng đánh ngay địch trên Đường số 6 vì địa hình nơi đây trống trải, lại phải qua sông, rất khó tiếp cận mục tiêu. Còn lực lượng địch ở Phân khu Sông Đà gồm 2 tiểu khu Đa Thê - La Phù và Tu Vũ - Núi Chẹ thì lực lượng địch ở tiểu khu Tu Vũ - Núi Chẹ yếu hơn vì bị cô lập do sông ngăn cách, lại xa căn cứ Sơn Tây, Trung Hà. Để tạo điều kiện thuận lợi cho chiến dịch phát triển bằng trận mở đầu thắng lợi, Bộ Chỉ huy Chiến dịch quyết định tập trung binh hỏa lực đột phá tuyến sông Đà, bắt đầu bằng cuộc tiến công cụm cứ điểm Tu Vũ, Núi Chẹ.


Không chủ quan khinh địch đánh vào nơi chúng đã tổ chức phòng ngự theo hình thức tập đoàn cứ điểm mạnh mà lựa chọn hướng đột phá, điểm đột phá phù hợp để chắc thắng khi tiến hành đánh địch được nêu rõ trong kế hoạch tác chiến thể hiện sự quán triệt chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh "Chắc thắng mới đánh. Nhưng tuyệt đối chớ chủ quan khinh địch".


Ngày 21 tháng 11 năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh chuẩn y kế hoạch của Bộ Tổng Tư lệnh và chỉ rõ: "Ta khéo và quyết nhằm chỗ sơ hở của nó mà đánh cho đúng, cho kịp thời, chuẩn bị chu đáo và bí mật thì ta sẽ ăn"1 (Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Hồ Chí Minh - Biên niên sự kiện quân sự (1919 - 1969), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2011, tr. 346). Hơn một tuần sau, ngày 2 tháng 12, Tổng Quân ủy - Bộ Tổng Tư lệnh tổ chức Hội nghị cán bộ phổ biến nhiệm vụ và kế hoạch tác chiến chiến dịch. Thay mặt Tổng Quân ủy - Bộ Tổng Tư lệnh, Đảng ủy và Bộ Chỉ huy Chiến dịch, Đại tướng Võ Nguyên Giáp báo cáo trước Hội nghị về "Chủ trương tác chiến trên Mặt trận Sông Đà", nêu rõ: "Tập trung lực lượng tiêu diệt Tu Vũ và Núi Chẹ, đồng thời tranh thủ đánh viện trên sông, trên bộ...".


Công tác chuẩn bị chiến dịch đã được thực hiện chu đáo và đầy đủ về mọi mặt, ngày 10 tháng 12 năm 1951, chấp hành mệnh lệnh của Bộ Chỉ huy Chiến dịch, quân ta nổ súng tiến công địch, mở đầu chiến dịch. Quá trình tác chiến, sự quán triệt chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trong việc lựa chọn vị trí tiến công, chỉ huy tác chiến linh hoạt và tinh thần chiến đấu ngoan cường của quân dân ta qua 3 đợt chiến đấu.


Ngày 10 tháng 12, trên hướng chủ yếu, Trung đoàn 88 (Đại đoàn 308) được tăng cường 1 tiểu đoàn, 8 khẩu sơn pháo và 1 đại đội súng phòng không 12,7mm nổ súng tiến công cứ điểm Tu Vũ. Sau hơn 5 giờ chiến đấu, quân ta hoàn toàn làm chủ Tu Vũ. Cũng trong ngày 10 tháng 12, khi Trung đoàn 209 (Đại đoàn 312) đang vận động chuẩn bị tiến công căn cứ Núi Chẹ thì địch tổ chức lực lượng càn quét ở làng Chúc phía Nam Ba Vì. Linh hoạt và quyết đoán trong chỉ huy tác chiến, Bộ Chỉ huy Chiến dịch ra lệnh cho Trung đoàn 209 tạm dừng tiến công Núi Chẹ, vận động đến Ninh Mít phối hợp với 2 tiểu đoàn địa phương chặn đánh địch càn quyết, tiêu diệt địch ngoài công sự. Trong 3 ngày (10 -12.12.1951), quân ta tiêu diệt 6 đại đội bộ binh và 1 trung đội cơ giới địch1 (Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử nghệ thuật chiến dịch Việt Nam (1945 - 1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995, tr. 128).


Nhận được báo cáo chiến thắng trong trận mở đầu chiến dịch, ngay trong ngày 10 tháng 12 năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới chiến sĩ Mặt trận Hòa Bình. Trong thư, Người viết: "Bác rất vui lòng nhận được báo cáo thắng trận của các chú..., "Chớ vì thắng mà kiêu, chớ chủ quan khinh địch"2 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 7, Sđd, tr. 242) bởi trong hoạt động quân sự rất "thiên biến vạn hóa", kẻ địch lại lắm âm mưu, thủ đoạn. Nếu chủ quan khinh địch, không điều tra kỹ để nắm tình hình địch thì khó đảm bảo chắc thắng khi tiến công đánh chúng. Nhận được thư khen ngợi, động viên và lời căn dặn của Bác, cán bộ, chiến sĩ Mặt trận Hòa Bình càng hăng hái thi đua đánh giặc, lập công.


Từ ngày 11 đến ngày 13 tháng 12, Tiểu đoàn 84 (Đại đoàn 308) và Tiểu đoàn 16 (Đại đoàn 312) phục kích địch bên sông Đà, bắn chìm 2 canô địch, cắt đứt tuyến cơ động của chúng trên sông Đà. Trên hướng Đường số 6, một đơn vị của Đại đoàn 304 phục kích trên quãng đường từ Cầu Dụ đến Hang Đá, bắn cháy 34 xe địch. Tiếp đó, quân ta tổ chức phục kích ờ đoạn đường từ Hòa Bình đi Chợ Bờ, diệt 1 đại đội Âu - Phi, phá hủy 5 xe, chặn đánh địch gần điểm cao 585, diệt nhiều địch. Bị quân ta đánh mạnh ở Hòa Bình, quân Pháp phải bỏ dở cuộc càn ở khu vực tỉnh Bắc Ninh để điều quân ứng cứu cho khu vực sông Đà, Ba Vì.


Phối hợp với hướng chính Mặt trận Hòa Bình, ở mặt trận sau lưng địch, Đại đoàn 320 và Đại đoàn 316 phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương tiến công địch rộng khắp, giành thắng lợi lớn. Địch lại phải điều quân ở Hòa Bình về để đối phó. Ngày 26 tháng 12, đợt 1 chiến dịch kết thúc.


Sau Đợt 1, Đại đoàn 308 được giao nhiệm vụ đánh căn cứ Đá Chông, Đại đoàn 312 đánh căn cứ Núi Chẹ và điểm cao 600. Khi quân ta đang tổ chức điều tra để nắm rõ hơn các vị trí hỏa lực và bố trí lực lượng của địch trong 2 căn cứ đó để chọn điểm đột phá trận đánh thì quân Pháp điều quân tăng cường cho căn cứ Đá Chông và Núi Chẹ làm cho lực lượng địch ở 2 căn cứ này thay đổi lớn. Trước tình hình đó, quán triệt chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh "Chắc thắng mới đánh. Nhưng tuyệt đối chớ chủ quan khinh địch", Bộ Chỉ huy Chiến dịch quyết định tạm dừng kế hoạch tiến công 2 cứ điểm Đá Chông và Núi Chẹ để tập trung lực lượng đánh các vị trí khác, đảm bảo chắc thắng khi đánh.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #35 vào lúc: 19 Tháng Năm, 2023, 08:06:06 am »

Bước vào đợt 2, đêm 29 tháng 12, Trung đoàn 141 (Đại đoàn 312) bí mật tập kích địch ở điểm các cao 600, 165 và 400 (Ba Vì) diệt nhiều địch. Trên Đường số 6, đêm 30 tháng 12, Trung đoàn 9 (Đại đoàn 304) tiến công vị trí Hàm Voi, diệt phần lớn địch trong đồn; Trung đoàn 57 (Đại đoàn 304) tiêu diệt nhiều địch ở Đồi Mồi. Trong những ngày này, tại mặt trận sau lưng địch, ta đẩy mạnh hoạt động quân sự, tiêu diệt, bức rút nhiều đồn bốt địch, mở rộng nhiều khu Căn cứ du kích. Ngày 31 tháng 12 năm 1951, đợt 2 chiến dịch kết thúc.


Đợt 3 chiến dịch, Bộ Chỉ huy quyết định tập trung lực lượng đánh địch trên Đường số 6 và bao vây chặt tập đoàn cứ điểm Hòa Bình. Thực hiện kế hoạch, đêm ngày 7 tháng 1 năm 1952, trong khi 1 trung đoàn của Đại đoàn 308 và 1 trung đoàn của Đại đoàn 304 tiến công căn cứ Pheo và Đầm Huống gặp khó khăn thì 1 đơn vị của Trung đoàn 36 (Đại đoàn 308) bí mật tiếp cận trận địa pháo địch nằm sâu trong thị xã Hòa Bình phá hủy 4 khẩu pháo 105mm; 2 tiểu đoàn khác của Trung đoàn 36 tiến công tiêu diệt vị trí Đồi Cháy, Đồi Dè, Khuỳu, Râm và 1 trận địa pháo địch1 (Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Tóm tắt các chiến dịch trong khủng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000, tr. 377).


Phối hợp với Mặt trận Hòa Bình, ở mặt trận sau lưng địch, 2 đại đoàn chủ lực (320 và 316) phối hợp với bộ đội địa phương và dân quân du kích vận dụng cách đánh sáng tạo, kết hợp tiến công và nổi dậy của quần chúng liên tục tiến công, diệt nhiều địch, giải phóng nhiều vùng ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ.


Hoạt động tác chiến mạnh mẽ của quân dân ta ở mặt trận chính và mặt trận sau lưng địch trong đợt 3 đã làm cho tình thế chiến trường Hòa Bình thay đổi rõ rệt2 (Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), Tập 2, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, tr. 176). Trước nguy cơ thất bại lớn, tướng Xalăng gấp rút đưa toàn bộ lực lượng trên tuyến sông Đà về thị xã Hòa Bình và Đường số 6 chuẩn bị cho cuộc rút lui. Quân ta tiếp tục bao vây thị xã và các vị trí địch trên Đường số 6.


Lúc này, quân ta đã cắt đứt tuyến vận chuyển trên sông Đà, khống chế tuyến tiếp tế trên bộ, quân Pháp trong thị xã Hòa Bình lâm vào tình trạng nguy khốn. Tuy vậy, quân địch ở thị xã Hòa Bình và một số vị trí trên Đường số 6 vẫn còn mạnh, lại cố thủ trong công sự vững chắc. Quán triệt chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh "Chắc thắng mới đánh. Nhưng tuyệt đối chớ chủ quan khinh địch", Bộ Chỉ huy Chiến dịch quyết định không tiến công thị xã Hòa Bình và các vị trí địch đã được tăng cường lực lượng trên Đường số 6 mà ra lệnh tập trung lực lượng đánh địch ngoài công sự khi chúng tháo chạy.


Chiều ngày 22 tháng 2 năm 1952, 5 tiểu đoàn địch ở thị xã Hòa Bình triển khai vượt sông Đà, rồi tổ chức vượt sông tiếp. Ngày 24 tháng 2, địch ở Ao Trạch rút về Đồng Bãi. Hôm sau (25.2) chúng từ Đồng Bãi rút về Xuân Mai. Quá trình rút quân, địch dùng máy bay nối nhau trút bom, dùng pháo bắn 30 nghìn viên đạn yểm trợ nhưng vẫn không tránh khỏi tổn thất lớn. Trong 4 ngày đánh địch rút lui, quân ta đã tiêu diệt 6 đại đội địch, bắn rơi 1 máy bay, phá hủy 23 xe quân sự, thu trên 100 tấn đạn, quân trang, quân dụng. Ngày 25 tháng 2 năm 1952, Tổng Quân ủy quyết định kết thúc chiến dịch.


Hơn 2 tháng chiến đấu liên tục (10.12.1951 - 25.2.1952), quân và dân ta đã đánh thắng kế hoạch đánh chiếm Hòa Bình của địch loại khỏi vòng chiến đấu 22.000 tên. Tại Mặt trận Hòa Bình, ta diệt hơn 6.000 tên địch, thu 24 khẩu pháo, 788 súng, 98 máy vô tuyến điện, phá hủy 12 khẩu pháo, bắn rơi 9 máy bay, bắn chìm, cháy 17 canô, tàu chiến, phá hủy 246 xe quân sự, giải phóng 15 vạn dân. Mặt trận sau lưng địch (Trung Du, Liên khu 3) diệt 15.000 tên địch, bức hàng, bức rút hơn 1.000 đồn bốt, tháp canh, giải phóng hơn 2 triệu dân1 (Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị, Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945 - 1947, thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 526).


Ngay trong ngày kết thúc chiến dịch thắng lợi, ngày 25 tháng 2 năm 1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi cán bộ, chiến sĩ Mặt trận Hòa Bình và mặt trận sau lưng địch. Trong thư, Người viết: "So với thắng lợi trước, thắng lợi lần này là khá to. Thắng lợi lần này đã đánh dấu một bước tiến bộ mới của bộ đội ta và đã làm cho địch phải thất bại nhục nhã trong âm mưu củng cố phòng ngự chuyển lên tiến công"2 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 6, Sđd, tr. 331). Hai tháng sau (cuối tháng 4 năm 1952), trong Báo cáo đọc tại Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã biểu dương và khái quát thành tích của quân dân ta trong Chiến dịch Hòa Bình: "Thắng lợi của Chiến dịch Hòa Bình đã phá tan kế hoạch Thu Đông của địch, đã đẩy mạnh chiến tranh du kích sau lưng địch ở Bắc Bộ, đã có tiếng vang dội trong nước và ngoài nước. Bộ đội địa phương và dân quân du kích cũng tiến bộ. Việc phối hợp với quân chủ lực ở các nơi, nhất là ở đồng bằng Bắc Bộ, việc mở rộng vùng du kích, việc phá tề và vận động ngụy binh... đều có thành tích khá"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 7, Sđd, tr. 389).


Chiến thắng của quân dân ta trong Chiến dịch Hòa Bình có ý nghĩa chiến lược về quân sự, chính trị. Chiến thắng đó bắt nguồn từ nhiều nhân tố, trước hết là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Quán triệt chỉ đạo của Người trong Chiến dịch Hòa Bình "Chắc thắng mới đánh. Nhưng tuyệt đối chớ chủ quan khinh địch", quân dân ta đã nỗ lực chuẩn bị chiến trường chu đáo, đầy đủ về mọi mặt, đảm bảo chắc thắng khi nổ súng diệt địch. Quá trình tác chiến sử dụng lực lượng hợp lý, ta đã lựa chọn mục tiêu tiến công phù hợp, phối hợp chiến đấu giữa các chiến trường và ba thứ quân chặt chẽ, chỉ huy tác chiến linh hoạt, quân dân chiến đấu kiên cường... nên đã giành được thắng lợi to lớn, tạo đà cho những chiến dịch tiếp theo trong giai đoạn cuối cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #36 vào lúc: 19 Tháng Năm, 2023, 08:07:03 am »

CHỈ ĐẠO CHIẾN LƯỢC, CHIẾN DỊCH CỦA TRUNG ƯƠNG ĐẢNG VÀ TỔNG QUÂN ỦY TRONG CHIẾN DỊCH HÒA BÌNH


Đại tá NGUYỄN BỘI GIONG
Nguyên Thư ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp,
tham gia Chiến dịch Hòa Bình


Chiến dịch Hòa Bình (10.12.1951 - 25.2.1952) giành thắng lợi là kết quả thành công xuất sắc về chỉ đạo chiến lược, chiến dịch của Trung ương Đảng và Tổng Quân ủy. Là người trực tiếp được vinh dự giúp việc Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong Chiến dịch Hòa Bình, tôi phân tích làm rõ thêm về sự chỉ đạo chiến lược, chiến dịch xuất sắc của Trung ương Đảng và Tổng Quân ủy mà tôi trực tiếp chứng kiến, cảm nhận.


Sau Chiến thắng Biên Giới Thu - Đông 1950, trên chiến trường chính Bắc Bộ, Bộ Tổng Tư lệnh đã mở 4 chiến dịch tiến công: Trần Hưng Đạo (Trung Du), Hoàng Hoa Thám (Chiến dịch Đường 18), Quang Trung (Hà Nam Ninh) và Lý Thường Kiệt (Nghĩa Lộ). Tham gia chiến dịch đều là những đơn vị chủ lực của Bộ và lực lượng vũ trang địa phương, các đơn vị pháo binh, công binh, thông tin. Cả 4 chiến dịch đều chưa đạt mục đích chiến lược, chưa phát huy được thành quả từ Chiến dịch Biên Giới, nói chung là ta bị tiêu hao. Đây là điều mà Đại tướng Võ Nguyên Giáp sau này trong quá trình viết hồi ký, mà chúng tôi được phục vụ đều nhắc lại một cách rất xót xa. Vậy nguyên nhân từ đâu? Lúc bấy giờ, tư tưởng về mặt chiến lược là giai đoạn tổng phản công, mở các chiến dịch tiến công, mục tiêu là giải phóng đất đai và giải phóng nhân dân. Mà đã giải phóng đất đai thì thế nào cũng phải đánh điểm, vì địch là kẻ xâm lược, chiếm đóng ở đâu thì lập đồn bốt và có công sự vững chắc, thường xuyên củng cố hoàn thiện. Trong khi đó, ta chưa có điều kiện để đánh điểm một cách chắc thắng. Lý do: Thứ nhất, do thiếu hỏa lực; thứ hai, do phương tiện trinh sát chưa đầy đủ; thứ ba, trình độ cán bộ, về mặt kinh nghiệm đánh công kiên còn thiếu. Một phương pháp tác chiến nữa rất lợi hại là đánh viện "đánh điểm diệt viện" hoặc là "vây điểm diệt viện", tức là làm cách nào cho địch ra khỏi công sự mà đánh thì ta lại chưa đánh được trận nào lớn và chưa có nhiều kinh nghiệm.


Tuy nhiên cũng có một số trận ta đánh địch vận động khá tốt, như trận Thanh Lâm Bồ ở Thừa Thiên; trận Xuân Trạch ở Vĩnh Yên trong Chiến dịch Trung Du do anh Lê Trọng Tấn chỉ huy. Trận Thanh Lâm Bồ tiêu diệt cả lính Âu - Phi lẫn lính ngụy hơn 1 tiểu đoàn (gần 1.000), còn trận đánh ở Vĩnh Yên thì tiêu diệt gần 400 tên của 1 tiểu đoàn ngụy. Kinh nghiệm của 2 trận đó được đúc rút thành bài học nghệ thuật quân sự được giảng dạy trong nhà trường và các hội nghị lớn khi đó.


Như thế có thể nói một cách cụ thể là lúc bấy giờ, ta đang ở thế rất khó về mặt chiến thuật do cả nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan. Đó là trang bị vật chất kỹ thuật kém, thông tin yếu. Đã đánh vận động thì phái có thông tin tốt nhưng bây giờ thông tin cấp trung đoàn mới có máy vô tuyến, tiểu đoàn thì một số tiểu đoàn chủ công mới có, còn các tiểu đoàn khác không có, chỉ có máy điện thoại, không thể đi đến đâu rải dây đến đó, dễ bị địch phát hiện. Trong khi đó, trang bị của địch từ trung đội trở lên đã có máy thông tin vô tuyến rồi. Cái thiếu thứ 2 là cơ động toàn hành quân bộ, trong khi địch thì đi ô tô, xe bọc thép hoặc trực thăng đổ bộ. Thứ 3 là địch có hỏa lực mạnh. Chúng tôi đã tính toán, trong những trận đánh, hỏa lực của địch bao giờ cũng gấp 3 đến 5 lần hỏa lực ta. Riêng Chiến dịch Hòa Bình, hỏa lực địch gấp 10 lần ta. Đó là những điều kiện khách quan và chủ quan mà ta chưa khắc phục được, cho nên chỉ có đánh phục kích, tiêu diệt lẻ tẻ 1 - 2 đại đội, hoặc là tiêu hao lực lượng địch. Tiểu đoàn Âu - Phi của địch là trên 1.000 quân, tiểu đoàn ngụy là 1.300 - 1.400 quân, trong khi một tiểu đoàn của ta về quân số chiến đấu nhiều nhất là 600. Như vậy, về quân số, tiểu đoàn địch gấp khoảng 2 lần tiểu đoàn ta, chưa nói đến vũ khí, trang bị và các phương tiện bổ trợ. Trong điều kiện như thế, rất khó đánh vận động, nhưng ta vẫn tổ chức đánh công kiên. Vì vậy, 3 chiến dịch lớn đó, diệt địch cũng nhiều nhưng chỉ diệt được bộ phận địch, chưa diệt lớn.


Sau này, khi viết hồi ký, anh Văn (Đại tướng Võ Nguyên Giáp) có nói với chúng tôi là: Biết là cái thế như thế nhưng lúc đó theo sự chỉ đạo chung thì ta chuyển sang giai đoạn tổng phản công, nặng về tác chiến, nhẹ về xây dựng. Vì vậy, địch nhận định về ta là: Việt Minh đã bị tiêu hao khá nặng trong mấy chiến dịch vừa qua, cho nên chúng mới dám đánh ra Hòa Bình. Địch đánh ra Hòa Bình trong khi ta đang chuẩn bị một kế hoạch hoạt động Thu - Đông 1951, nhưng chưa đầy đủ. Có mấy lý do, sau khi bị tiêu hao qua các chiến dịch trước thì kế hoạch chung là đi vào xây dựng, các cơ quan Tổng bộ, tác chiến, quân lực, dân quân, thông tin, binh chủng đều đi vào kế hoạch xây dựng, kiện toàn các đơn vị chủ lực cấp Bộ và cấp liên khu. Về kế hoạch tác chiến thì chưa chuẩn bị xong và thực ra cũng chưa đánh giá được một cách cụ thể địch sẽ hoạt động như thế nào trong Thu - Đông 1951. Các cơ quan của Bộ từ quân lực tác chiến, quân báo đến thông tin lúc bấy giờ đã đi xuống các liên khu, nhất là xuống Liên khu 3 để chuẩn bị cho đợt hoạt động Đông - Xuân 1951 - 1952. Đúng lúc đó, quân Pháp đánh ra Hòa Bình mà không gặp một sức kháng cự đáng kể nào. Lực lượng địch tung ra rất mạnh gồm 20 tiểu đoàn bộ binh (của các GM: 1, 2, 3, 4, 7), 7 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn thiết giáp và 2 đại đội xe tăng. Cho nên rất dễ hiểu tại sao nó đánh rất nhanh và bất ngờ như thế. Như vậy, lần này địch sử dụng lực lượng mạnh hơn lực lượng trong Chiến dịch Biên Giới, và so sánh xa nữa là còn mạnh hơn toàn bộ lực lượng mà địch định tiến công căn cứ địa Việt Bắc năm 1947.


Sau khi địch nhảy dù đánh ra Hòa Bình, Tổng Quân ủy và sau đó Trung ương Đảng đã nhanh chóng nắm bắt, phân tích tình hình. Tại Hội nghị Trung ương, Bác Hồ có nói một câu: "Địch đánh ra Hòa Bình tức là chúng đã rời khỏi công sự vững chắc, đó là thời cơ tốt nhất để chúng ta tiêu diệt địch". Ý Bác là địch đánh ra Hòa Bình là không chủ động, liều lĩnh nhằm thay đổi tình hình. Đối với ta thì địch ra khỏi công sự vững chắc là thời cơ tiêu diệt lớn đã đến. Khi phân tích ý đó, đồng chí Võ Nguyên Giáp nhấn mạnh, như thế là Bác nhìn với một cái thế chiến lược rất chủ động. Nếu nhìn qua thấy địch sử dụng lực lượng lớn, đánh lớn, hiệp đồng cả bộ binh, pháo binh, thiết giáp cơ giới lẫn quân nhảy dù thì cho là quân địch rất mạnh. Nhưng theo nhận định của Bác thì đó là sự liều lĩnh của địch. Chiến tranh mà liều lĩnh cầu may là không phải, chiến tranh phải khoa học, đánh đến đâu chắc đấy như Bác Hồ nói: Có chắc thắng mới đánh. Không chắc thắng không đánh. Nhận định của Bác có sự bao quát rất lớn.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #37 vào lúc: 19 Tháng Năm, 2023, 08:07:33 am »

Đi vào Chiến dịch Hòa Bình, đại để kế hoạch tiến công có 2 giai đoạn: Giai đoạn 1 đánh địch trên khu vực địch đang chiếm (thị xã Hòa Bình và vùng phụ cận phía Bắc bờ sông Đà). Giai đoạn 2 đánh địch tăng viện hoặc rút lui. Ngay từ đầu Tổng Quân ủy nhận định: Trước sau địch sẽ rút Hòa Bình. Do kế hoạch của ta và do nhiều yếu tố mà Tổng Quân ủy và Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng như cơ quan giúp việc của Bộ Tổng Tham mưu đã đánh giá đúng, chính xác. Thời gian đó anh Nguyễn Chí Thanh là Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị nhưng rất quan tâm vấn đề thảo luận về quân sự cho nên trong quá trình chỉ đạo, rất nhiều hôm anh trực tiếp dự họp với Bộ Tổng Tham mưu. Tôi làm thư ký dự nhiều cuộc họp thảo luận về chính trị nhưng chưa thấy lần nào như trong Chiến dịch Hòa Bình mà Chủ nhiệm Tổng cục Chínli trị lại sát sao đến vấn đề quân sự như thể. Điều đó chứng tỏ là Bộ Chính trị rất quan tâm đến chiến dịch. Những chỉ đạo của anh Thanh cũng rất sắc bén, nhất là ý kiến: Không được tự tiêu hao (ý kiến này Bác Hồ cũng đã có nói). Chủ lực ta được xây dựng lại sau 3 chiến dịch như thế nhưng rất dễ bị tiêu hao trong chiến dịch này. Bởi vi địch có lực lượng mạnh: Thứ nhất, hết sức phát huy hỏa lực của pháo binh và không quân; thứ hai, phát huy tác dụng ngăn chặn của bộ binh, thiết giáp và xe tăng; thứ ba, phát huy bất ngờ của lính dù và trên chiến trường Hòa Bình hết sức phát huy tác dụng của hai con đường sông Đà và Đường số 6. Địch tiến công cũng trên 2 con đường đó và sau này chúng rút lui cũng trên 2 con đường đó.


Trước tầm quan trọng của chiến dịch, Đại tướng - Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp và cả anh Trường Chinh đã 3 lần sang Bộ Tổng Tham mưu trao đồi, nghe báo cáo và có ý kiến. Như vậy, từ cuối tháng 11 sang tháng 12 năm 1951 đã có sự bài binh bố trận của cả 2 bên rất rõ ràng. Địch thì bắt đầu bài binh bố trận đánh ta, còn ta thì bài binh bố trận để đánh địch, mở rộng chiến tranh du kích ở các vùng địch tạm chiếm. Lúc bấy giờ đánh theo tinh thần một câu nói vui: Một đòn đập chết 2 mạng. Anh Văn nói với anh em. Hai mạng ở đây là gì? Mạng thứ nhất là ở thị xã Hòa Bình và vùng phụ cận. Mạng thứ hai là ở vùng địch tạm chiếm, do du kích chiến tranh đánh. Tức là lần này, ta đánh địch khi chúng đánh ra, tiến hành vây hãm, tiêu hao, thậm chí có những trận đánh tiêu diệt. Bên cạnh đó, ở những vùng địch tạm chiếm, mặt trận sau lưng địch cũng sẽ đẩy mạnh chiến tranh du kích cộng với chiến tranh chính quy để tiêu diệt địch và có thể giải phóng những vùng rộng lớn ở trong những vùng địch tạm chiếm, giải phóng nhân dân, đánh bại kế hoạch rất lớn của địch hồi đó là kế hoạch Đờ Lát được thi hành từ năm 1950. Đây là kế hoạch địch tấn công vào những khu phòng thủ chính của ta; rút ngắn tuyến chiếm đóng biên giới, quay về kiện toàn tuyến phòng thủ ở lưu vực sông Hồng tức là vùng đồng bằng Bắc Bộ, nhất là khu vực phía Nam của lưu vực sông Hồng là Thái Bình, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình. Sau Chiến dịch Biên Giới, ta bắt được nguyên văn kế hoạch, chính anh Văn nghiên cứu rất kỹ, rất sâu, anh Văn nói kế hoạch này có tác động đến Đông Dương trong vòng từ 3 đến 5 năm, vì đây là một kế hoạch chiến lược.


Như vậy, địch đánh ra Hòa Bình là thời cơ tốt để ta tiêu diệt chúng. Có thể nói địch chuẩn bị hết sức kỹ. Sau khi địch đánh Hòa Bình thì Bác có hỏi rất nhiều và nói với anh Văn là: Không nên ham đánh quá. Ý là địch đã đánh thì ta phản công. Cho nên cái phản công thì nhằm vào chỗ nó chiếm để mà giải phóng, nhưng không nên ham đánh quá. Ý Bác nói là cẩn thận như lối đánh trận Đông Khê. Ham đánh và cậy chủ lực của Bộ mới chỉnh huấn, tập huấn về. Thực ra những kết quả rèn luyện của mình so với địch bao giờ cũng thấp hơn. Tôi nói thí dụ giữ ở thị xã Hòa Bình (giữ Pheo) địch dùng 2 tiểu đoàn DBLE (bán lữ đoàn lê dương cơ động) rất mạnh, rất nổi danh ở mặt trận Bắc Phi trong Thế chiến thứ 2. Nên khi đưa DBLE sang Đông Dương, địch cho là để đi du lịch thôi chứ Đông Dương không có đối thủ. Đưa tiểu đoàn đó giữ Hòa Bình thì đủ biết tính toán của Đờ Lát cũng ghê gớm. Vì thế đến đánh trận Pheo thì Tổng Tư lệnh trực tiếp chỉ đạo đến tận trung đoàn là Trung đoàn 102, bởi vì địch rất mạnh. Lúc bấy giờ ta đã làm kế hoạch là phải đánh một trận vào thị xã. Tức là công kiên đánh vào vị trí trọng yếu, nơi địch dựa vào để không rút bỏ Hòa Bình. Trận then chốt phải đánh, tốn người cũng phải đánh để buộc địch phải rút. Trong nhận định của Tổng Quân ủy ngay từ đầu khi đặt kế hoạch phản công Hòa Bình đã nói là trước sau địch sẽ rút.


Đó là phán đoán hết sức chính xác, phải nói đó là một tài năng, là một ưu điểm về chỉ đạo chiến lược. Trước sau địch sẽ rút khỏi Hòa Bình vừa nói lên quyết tâm vừa nói lên đánh giá thế của địch.

Kế hoạch tác chiến cụ thể: Đánh trận then chốt sau đó đánh vận động, tạo thời cơ. Hết sức tránh điểm mà đánh vận động. Đánh vận động lớn tiêu diệt tương đối lớn trong thế địch đã rời khỏi công sự. Khi địch không có công sự vững chắc bằng bê tông cốt thép, mà công sự làm bằng đất đá và gỗ, làm thành tuyến phòng thủ chống lại ta nên dễ đánh. Đánh một trận then chốt thôi mà phải đánh kỳ thắng, còn các trận khác chuyển sang đánh vận động, đánh nhỏ, đánh vừa, đánh lớn.


Trên cơ sở đó, chúng ta tổ chức đánh địch trong thị xã, vừa tiêu hao địch vừa đánh những chỗ then chốt nhất mà địch không thể có hy vọng ở lại thị xã Hòa Bình; sau đó đánh vận động trên sông Đà, trên Đường số 6 để tiêu diệt lớn quân địch. Đồng thời, kết hợp tiêu diệt từng bộ phận địch ở hướng chính là hướng Hòa Bình. Tại các hướng phối hợp tức là các mặt trận sau lưng địch, ở đồng bằng Bắc Bộ, ở Thừa Thiên Huế, Liên khu 5, thì mở rộng chiến tranh du kích kết hợp với một phần chủ lực khu để giải phóng những vùng địch chiếm, giải phóng nhân dân, tiêu diệt từng bộ phận địch ở mặt trận sau lưng địch, làm cho địch căng thẳng đối phó cả hai nơi. Thực hiện kế hoạch đó, ta đưa hẳn một bộ phận chủ lực lớn của Bộ vào tả ngạn, hữu ngạn sông Hồng là vùng địch hậu, lấy vùng đó làm vùng tác chiến lớn tiêu hao địch. Cụ thể, đưa Đại đoàn 320 đang đóng ở giữa hữu và tả ngạn đưa hẳn sang tả ngạn; đưa Đại đoàn 316 vào hữu ngạn. Một lúc ta đưa 2 đại đoàn gần 5 vạn quân vào. Các đồng chí chuyên gia Trung Quốc lúc bấy giờ cho rằng làm như thế táo bạo quá, ta vẫn làm và làm thành công.


Khi Mặt trận đồng bằng Bắc Bộ của địch đã bị uy hiếp, tại Hòa Bình ta chuyển sang tiêu hao chặn địch trên Đường số 6. Đại đoàn 308 phụ trách thị xã Hòa Bình cộng với một đơn vị chủ công của Đại đoàn 304. Đại đoàn 312 phụ trách đánh địch ở tuyến sông Đà (La Phù, Đan Thê), Đại đoàn 304 phụ trách đánh địch trên Đường số 6, đánh đường bộ đến giáp chợ Bến, Xuân Mai. Như thế, lực lượng gồm 3 đại đoàn bộ binh và Đại đoàn công pháo 351. Bác chỉ đạo rất chặt cách đánh.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #38 vào lúc: 19 Tháng Năm, 2023, 08:08:15 am »

Ở thị xã Hòa Bình có 2 căn cứ Tu Vũ và Chẹ. Chẹ là căn cứ pháo binh đồng thời là căn cứ của bộ binh. Tu Vũ là căn cứ của bộ binh và xe tăng thiết giáp, ở đấy địch đã bố trí tiểu đoàn DBLE như đã nói ở trên, đồng thời cộng một số bộ phận nữa, gọi là các đơn vị xung kích là bộ binh thiết giáp và xe tăng. Công sự đất đá nhưng yểm hộ cho bộ phận chiếm đóng là pháo binh và hỏa lực không quân. Đó là một kế hoạch yểm trợ bằng pháo binh duy nhất được thực hiện từ khi bắt đầu chiến tranh đến bây giờ chưa có chỗ nào, để thấy rõ tài năng của Đờ Lát. Ở mặt trận chính, địch đã bắn đến 3 vạn viên đạn pháo, còn trước khi rút bắn 1 vạn viên. Có thể nói rằng địch tập trung giữ Hòa Bình bằng pháo binh.


Lúc bấy giờ, anh Văn là Chỉ huy trường, khi ngồi nói chuyện với chúng tôi có nói là riêng Tu Vũ địch bắn khoảng 45 phút pháo, cối 120mm và pháo 105mm thì các anh ấy tính cũng không dưới 5.000 - 6.000 viên. Mà nói 5.000 - 6.000 thì phải so sánh với Him Lam và Độc Lập ở Điện Biên Phủ sau này mới rõ. Ở Him Lam, ta bắn 500 viên đạn pháo. Khi ta chiếm đồi Độc Lập bắt tù binh nó nói chưa bao giờ tôi thấy rùng rợn khiếp sợ như trận vừa rồi, pháo các ông đánh ghê gớm quá. Trận Tu Vũ là trận công kiên oanh liệt và dũng cảm bởi vì một phái viên của Bộ về báo cáo lại, khi địch nổ pháo thì anh Thái Dũng - Trung đoàn trướng Trung đoàn 88 có nói là cho nó bắn chán đi mới đánh. Nhiệm vụ của mình là đào sâu công sự để tránh nhưng kiên quyết tiêu diệt Tu Vũ. Cho nên khi địch ngừng bắn 10 phút thì ta xung phong và đánh chiếm Tu Vũ, tiêu diệt luôn tiểu đoàn DBLE, xe thiết giáp có mười mấy chiếc. Đó là trận then chốt công kiên trong Chiến dịch Hòa Bình. Đánh Tu Vũ kiềm chế Đầm Huống vì Đầm Huống giao cho Trung đoàn 66 đánh nhưng mà không đánh nổi. Đồng ý cho 66 đánh kiềm chế, nên giao cho Trung đoàn 88 do các anh Thái Dũng và Đặng Quốc Bảo chỉ huy. Hai đồng chí đó trong Chiến dịch Hòa Bình nổi danh là những chỉ huy rất kiên quyết và mưu lược, quyết tâm rất cao. Biểu dương Trung đoàn 88, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nói: Thái Dũng đáng là tấm gương về quyết tâm của những người chỉ huy. Sau khi tiêu diệt Tu Vũ và kiềm chế tiêu hao Đầm Huống, địch chắc chắn sẽ rút bỏ và chuyển về hướng Đường số 6 và sông Đà.


Lúc đó, Trung đoàn 209 được giao chịu trách nhiệm ở sông Đà, La Phù, Đan Thê; Trung đoàn 36 ở hướng đầu Đường số 6 và sông Đà. Khi thực tế vào cuộc chiến đấu thì không thực hiện được đánh vận động lớn, chỉ đánh được vận động nhỏ vì địch cũng có kế hoạch chặt chẽ. Địch đã dùng pháo binh và không quân để giữ những chỗ Việt Minh có thể xuất kích đánh vào. Đó là cầu sang sông, địch phá cầu trước, đồng thời hỏa lực pháo binh chặn đánh ta. Địch tuyên bố trong quá trình yểm hộ cho quá trình rút chạy chúng tôi đã dùng 3 vạn viên đạn pháo, cho nên nó rút được tuy bị tiêu hao 8 đại đội, mất gần 40 chiếc thiết giáp, xe tăng... Lực lượng rút chạy khoảng 2 vạn quân. Sau đó, chúng tôi có phỏng vấn anh Hồng Sơn chỉ huy của Trung đoàn 36. Anh Hồng Sơn nói không thể xuất kích được vì nó chặn trước, cả Đường số 6 và đầu thị xã Hòa Bình. Anh có nói là "không thực hiện được nhiệm vụ của Bộ cũng thấy nhục nhưng mình đã giữ được lực lượng không bị tiêu hao, cũng là một cái công".


Trên sông Đà cũng vậy, các thủy đội của địch đi lại trên sông, pháo bắn cả ban đêm và mờ sáng. Trong Chiến dịch Hòa Bình, kế hoạch rút lui được địch chuẩn bị rất chu đáo, nó chuẩn bị rút từ ngày 15 tháng 12 năm 1951 cho đến ngày 22 tháng 2 năm 1952 mới rút. Tất cả các điểm từ thị xã Hòa Bình về Chợ Bến địch bố trí 18 vị trí chốt để chống lại Việt Minh.


Kế hoạch đợt 2 của ta chưa hoàn thành, chưa đánh được trận vận động nào lớn ở thị xã Hòa Bình ra sông Đà. Ta thắng lợi ở vùng Thừa Thiên Huế và địch hậu đồng bằng Bắc Bộ.

Chúng ta thành công về kế hoạch một đòn đập 2 mạng. Trên mặt trận chính diện và trên mặt trận phối hợp. Ta giải phóng được vùng phía Nam lưu vực sông Hồng. Tư tưởng chỉ đạo của Trung ương và Tổng Quân ủy là luôn luôn giữ vững quan điểm đánh địch trên 2 mặt trận chính diện và sau lưng. Kéo dài chiến dịch không cho địch rút. Đáng lẽ Tết Nhâm Thân là kết thúc thì tiếp tục có lệnh vây hãm Hòa Bình cho địch hậu còn chiến đấu, cho nên đến cuối tháng 2 năm 1952 mới kết thúc (Tết Nhâm Thân vào khoảng ngày 18 đến ngày 20 tháng 1 năm 1952). Giỏi là chỗ đó. Cái giỏi thứ 2 là thấy đánh điểm không được thì chuyển sang đánh vận động, không đánh lớn được thì đánh vừa, không đánh vừa được thì đánh nhỏ. Đánh được vận động là đánh. Giỏi nữa là thích ứng ngay với tình hình biến đổi của địch, không đánh theo phương án cố định, sáng tạo, tránh tiêu hao. Tránh tiêu hao ta nhưng tiêu hao nhỏ địch, nhiều tiêu hao nhỏ thành tiêu hao lớn.


Về thành tích của riêng tôi trong Chiến dịch Hòa Bình là quá trình mã thám. Tổ mã thám do Cục phó Cục Quân báo Cao Pha đề xuất và thực hiện, hình thành tổ chức mã thám và đã đạt thành tích rất cao. Tôi nhớ lúc đó là bắt đầu vào khoảng trung tuần tháng Giêng. Một đồng chí cán bộ mã thám mang đến Bộ Chỉ huy Chiến dịch một bức điện. Tôi cầm xem trước khi báo cáo anh Văn. Tôi xem xong dịch sang tiếng Việt thế này: "Bình minh Kim Tự Tháp sẽ nở hoa". Tôi chợt nhớ đến khi học trường Bưởi, một giáo sư dạy lịch sử nước Pháp có nói với chúng tôi rằng quê ông ở miền Bắc của đảo Coócxơ là quê hương của Napôlêông, có dãy núi đặc biệt là một năm nó đổi mầu một lần vào mùa Thu, có màu vàng rất đẹp, có thể sánh với Kim Tự Tháp ở Ai Cập. Cho nên trong bức mã thám có nói đến Kim Tự Tháp thì tôi nghĩ ngay đến Kim Tự Tháp ở núi đá chứ không phải sa mạc cát. Thứ 2 là nở hoa, thì nở hoa là gì, là dù bung ra. Đưa bản đồ ra xem thì thấy ở Xuân Mai, Chợ Bến trở lên quá Lương Sơn là một dãy núi. Tôi phán đoán là địch sẽ rút trên Đường số 6 và các điểm nhảy dù trên dãy núi sẽ yểm hộ cho quân địch rút trên con đường này. Lúc bấy giờ, Anh Văn đọc và hỏi tôi: Cậu thấy thế nào. Tôi báo cáo như trên. Lập tức anh Văn gọi báo ngay anh Hoàng Văn Thái ra lệnh cho anh Lê Trọng Tân chuẩn bị 2 tiểu đoàn tinh nhuệ ngay trong buổi chiều vượt lên gần Lương Sơn chuẩn bị nếu địch nhảy dù thì đánh. Sau khi đi một lúc thì báo cáo lại là ở đó có dãy núi đá và rừng cây thưa có thể nhảy dù được. Sau đó ra lệnh cho bộ đội địa phương chuẩn bị các trung đội, nếu trong đêm hoặc sáng mai địch nhảy dù thì bắt kỳ hết. Đúng 6 giờ đến 7 giờ ngày hôm sau thì chúng nhảy dù, ta bắt hơn 200 tên địch, bắn rơi 6 trực thăng. Qua đó, thấy rằng thành tích của mã thám rất cao. Tôi được tặng thưởng Huân chương Chiến công trong trận đó và được 1 Bằng khen của Tổng cục Chính trị do đồng chí Nguyễn Chí Thanh ký.


Thắng lợi của Chiến dịch Hòa Bình có tầm vóc và ý nghĩa to lớn trong tiến trình cuộc kháng chiến chống Pháp. Thắng lợi đó bắt nguồn từ nhiều nhân tố, nhưng nhân tố tiên quyết, đóng vai trò quyết định chính là sự chỉ đạo chiến lược, chiến dịch tài tình, sáng suốt của Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh. 70 năm đã trôi qua, nhưng những bài học về sự chỉ đạo chiến dịch, chiến lược trong Chiến dịch Hòa Bình vẫn còn nguyên giá trị trong xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #39 vào lúc: 19 Tháng Năm, 2023, 08:09:46 am »

CHIẾN THẮNG HÒA BÌNH THÀNH CÔNG CỦA TỔNG QUÂN ỦY, BỘ TỔNG TƯ LỆNH TRONG CHỈ ĐẠO VÀ ĐIỀU HÀNH CHIẾN DỊCH

Đại tá, PGS, TS NGUYỄN VĂN SÁU
Phó Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam


Cách đây 70 năm (1951 - 2021), Bộ Chính trị, Tổng Quân ủy quyết định mở chiến dịch Hòa Bình nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, đập tan kế hoạch chiếm đóng Hòa Bình của thực dân Pháp. Thắng lợi của Chiến dịch Hòa Bình là dấu ấn quan trọng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tạo thế và lực cho cách mạng tiến lên, đẩy thực dân Pháp tiếp tục rơi vào thế bị động. Thắng lợi của Chiến dịch Hòa Bình bắt nguồn từ sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, là thắng lợi của sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, của sự kết hợp nhịp nhàng giữa các chiến trường và sự nỗ lực, cố gắng vượt bậc của lực lượng vũ trang; đồng thời khẳng định vai trò to lớn của Tổng Quân ủy, Bộ Tổng Tư lệnh trong chỉ đạo và điều hành chiến dịch, thể hiện trên những nội dung chủ yếu sau:

1. Mở Chiến dịch Hòa Bình - quyết định mang tầm chiến lược của Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh

Trước những diễn biến mới của tình hình trên chiến trường, ngày 19 tháng 10 năm 1951, Tổng Quân ủy báo cáo Bộ Chính trị về "Phương hướng chiến dịch mùa Đông năm 1951 và Kế hoạch đề phòng địch tấn công", trong đó dự kiến trường hợp địch đánh nhỏ và đánh lớn vào hướng Hòa Bình: "Trong trường hợp địch đánh lớn ra Hòa Bình thì chuẩn bị tiêu diệt địch ở Hòa Bình rồi sẽ xem tình huống" để tiếp tục phát triển trong Thu - Đông 1951 - 1952. Trong khi vạch kế hoạch đánh địch ở hướng hữu ngạn Liên khu 3, Tổng Quân ủy cũng dự kiến "nếu địch đánh ra Hòa Bình thì đó là một cơ hội cho ta tiêu diệt địch"1 (Những tài liệu chỉ đạo các chiến dịch của Trung ương Đảng, Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh, Bộ Tổng Tham mưu xuất bản năm 1963, Tập 4, tr. 15-34).


Về phía thực dân Pháp, sau thắng lợi trong cuộc hành quân Chợ Bến, ngày 11 tháng 11 năm 1951, Bộ Chỉ huy quân Pháp ra lệnh mở cuộc hành quân đánh chiếm Hòa Bình. Với lực lượng quân sự vượt trội, ngày 14 tháng 11 năm 1951, quân Pháp chiếm được thị xã Hòa Bình và đến hết ngày 15 tháng 11 năm 1951 đã hoàn thành việc chiếm đóng các vị trí then chốt trong khu vực Hòa Bình - Đường số 6, sông Đà - Ba Vì.


Sau khi đặt chân lên Hòa Bình, địch cấu trúc hệ thống phòng ngự dã chiến với nhiều cứ điểm lớn nhỏ bằng đất, gỗ, có hàng rào dây thép gai bao bọc. Mỗi cứ điểm có từ 1 đến 2 đại đội bộ binh, ở những vị trí quan trọng như Pheo, Đồng Hến, Ao Trạch, Chẹ, Đá Chông, địch bố trí 3 đại đội bộ binh, tăng cường 1 trung đội xe tăng, 1 đại đội pháo binh. Khu vực Hòa Bình - sông Đà, Đường số 6 hình thành cụm cứ điểm mạnh - một hình thức tổ chức chiếm đóng quy mô tương đối lớn, lần đầu tiên xuất hiện ở Đông Dương.


Được tin địch đánh chiếm Hòa Bình, Tổng Tham mưu trưởng trao đổi nhanh với một số cán bộ chủ chốt trong cơ quan về tình hình và dự kiến kế hoạch đối phó báo cáo lên Tổng Quân ủy. Ngày 15 tháng 11 năm 1951, Tổng Quân ủy họp mở rộng. Sau khi nghe Bộ Tổng Tham mưu báo cáo tình hình địch đánh chiếm Hòa Bình, tình hình bộ đội ta sẵn sàng chiến đấu và đề đạt ý kiến mở chiến dịch Hòa Bình, Tổng Quân ủy đã trao đổi, thống nhất và nhận định: "Cuộc tấn công ra Hòa Bình địch đã thu được thắng lợi... Chúng đã mở rộng được đất đai, giành lại quyền chủ động; chúng đã chiếm được một vị trí chiến lược quan trọng, một đường giao thông trọng yếu, cắt đứt liên lạc của ta giữa Việt Bắc với Liên khu 3 và miền Nam. Cuộc tấn công này quan trọng về mặt quân sự, còn gây khó khăn cho ta về mặt chính trị và kinh tế. Nhưng địch chiếm rộng ra như vậy phải dùng một lực lượng cơ động nên đồng bằng sơ hở, chiến tranh du kích có điều kiện phát triển. Địch phải phân tán một bộ phận trên chiến trường rừng núi, giao thông không thuận tiện, trong một thời gian nữa mới củng cố được thế phòng ngự, do đó chúng ta có cơ hội tiêu diệt sinh lực địch"1 (Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng, phông Bộ Tổng Tham mưu, Hồ sơ 109).


Đối với ta, Tổng Quân ủy nhận định: "Từ khi ta giải phóng Hòa Bình (4.11.1950) tới nay vừa tròn một năm nhưng việc củng cố vùng giải phóng của ta chưa làm được mấy... Cuộc tiến công của địch ra Hòa Bình xảy ra lúc ta còn chuẩn bị tiến công chúng, ta bị động về kế hoạch... Khó khăn chính của ta vẫn là vấn đề lương thực và đạn dược...". Tổng Quân ủy chủ trương: "Trước đây ta có dự kiến địch đánh ra Hòa Bình (nhưng khả năng này ít) và có chủ trương nếu địch đánh ra thì chuyển chiến dịch tập trung lực lượng tiêu diệt sinh lực địch trên chiến trường đó". Tổng Quân ủy đề nghị lên Bộ Chính trị, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh "Cho mở chiến dịch tại Hòa Bình, chuyển hướng hoạt động thụ động sang tấn công quân địch mới chiếm đóng. Hòa Bình là hướng chính, các nơi khác là phối hợp"2 (Trung tâm lưu trữ Bộ Quốc phòng, phông Bộ Tổng Tham mưu, Hồ sơ 109).


Cũng trong ngày 15 tháng 11 năm 1951, sau khi được tin địch đánh ra Chợ Bến, Bộ Tổng Tư lệnh chỉ thị đình chỉ công tác chuẩn bị chiến trường Liên khu 3. Bước đầu, Bộ Tổng Tư lệnh giao nhiệm vụ cho Đại đoàn 312 chuẩn bị chiến trường, bảo vệ căn cứ tiếp tế, đường vận chuyển; điều Trung đoàn 209 từ Phú Thọ xuống gần Hòa Bình bám sát và tiêu diệt những bộ phận nhỏ của đối phương, cùng bộ đội địa phương bảo vệ, phân tán kho tàng tiến hành vũ trang tuyên truyền trong vùng Đà Bắc. Đồng thời Tổng Quân ủy đề nghị với Bộ Chính trị thành lập Ban Chỉ huy lâm thời để chỉ đạo bộ phận chuẩn bị chiến trường của Bộ Tổng Tư lệnh ở Liên khu 3 và Liên khu ủy tăng cường cán bộ giúp đỡ cho Tỉnh ủy Hòa Bình, khẩn trương chuẩn bị hậu cần, đảm bảo có sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt cho chiến dịch. Chủ tịch Hồ Chí Minh Bộ Chính trị hoàn toàn nhất trí với nhận định cũng như chủ trương của Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM