Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 26 Tháng Tư, 2024, 10:21:06 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: 50 năm chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng  (Đọc 3121 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #50 vào lúc: 28 Tháng Tư, 2023, 07:50:53 am »

NHỮNG ĐỘNG THÁI CỦA CHÍNH QUYỀN SÀI GÒN TRONG THỜI GIAN DIỄN RA CHIẾN DỊCH PHÒNG NGỰ CÁNH ĐỒNG CHUM - XIÊNG KHOẢNG

PGS, TS HỒ SƠN ĐÀI
Viện Nghiên cứu Đông Nam Bộ - Trường Đại học Thủ Dầu Một


Chiến dịch phòng ngự của liên quân Việt - Lào đánh bại các cuộc tiến công lấn chiếm của quân phái hữu Lào và quân đội Thái Lan nhằm bảo vệ vùng giải phóng Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng diễn ra từ ngày 21 tháng 5 đến ngày 15 tháng 11 năm 1972. Đây cũng là quãng thời gian hết sức sôi động với nhiều sự kiện lịch sử đặc biệt quan trọng liên quan đến cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở miền Nam Việt Nam, như: Diễn biến tiến dần đến giai đoạn kết thúc cuộc hòa đàm Pari, “cuộc đi đêm” chưa từng có tiền lệ kể từ năm 1949 giữa Mỹ và Trung Quốc, cuộc tiến công chiến lược của Quân giải phóng trên toàn chiến trường miền Nam và những rạn nứt xuất hiện trong chính trường Sài Gòn kề từ sau cuộc độc diễn tranh cử của Nguyễn Văn Thiệu. Trong thế chiến lược “Đông Dương là một chiến trường”, diễn biến và kết quả Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng năm 1972 đã “chia lửa” và tác động sâu sắc đến tiến trình chung cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia; tác động đến những diễn biến của chính trường Sài Gòn trong thời gian diễn ra chiến dịch.


1. Củng cố quyền lực và hệ thống chính trị

Sau một thời gian dài rối ren về chính trị kể từ sau khi Ngô Đình Diệm bị lật đổ, chính quyền quân sự ở miền Nam Việt Nam được thiêt lập dưới sự điều hành của Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia (do Trung tướng quân đội Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu làm Chủ tịch) và Ủy ban Hành pháp Trung ương (do Thiếu tướng quân đội Sài Gòn Nguyễn Cao Kỳ điều hành). Để hợp thức hóa, Thiệu - Kỳ tổ chức bầu cử quốc hội lập hiến và công bố hiến pháp nền Đệ nhị Việt Nam cộng hòa. Về thực chất, hiến pháp này là bệ đỡ cho chính thể quân sự độc tài mới, ở đó Tổng thống chính quyền Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu tập trung mọi quyền hành đối nội và đối ngoại, kể cả quyền chỉ định và bãi miễn thủ tướng. Những bất hợp lý trong cơ cấu chính quyền quân sự chuyên chế, lệ thuộc Mỹ cả về đường hướng và nguồn lực, phong trào chống Mỹ gây chiến tranh xâm lược Việt Nam của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới, đặc biệt cuộc tiến công chiến lược của các lực lượng vũ trang cách mạng và nhân dân ba nước Đông Dương trong năm 1972 đã làm cho mâu thuẫn vốn có trong giới cầm quyền Sài Gòn ngày càng trở nên sâu sắc. Từ đó, gây hoang mang trong toàn bộ bộ máy điều hành chiến tranh của chính quyền Sài Gòn từ trung ương đến địa phương, làm phát sinh tình trạng bất ổn trên chính trường miền Nam Việt Nam. Được sự hỗ trợ tối đa của Mỹ, chính quyền Sài Gòn ra sức triển khai thực hiện nhiều biện pháp đối phó nhằm củng cố quyền lực và hệ thống chính trị.


Ngay sau khi loại các đối thủ để trở thành ứng viên duy nhất độc diễn trong cuộc tổng tuyển cử lần thứ hai của nền Đệ nhị cộng hòa, Nguyễn Văn Thiệu phải liên tục đối phó, tìm cách hạ uy tín, loại bỏ thế lực trong liên danh ứng cử tổng thống và phó tổng thống trong cuộc đua tranh vào dinh Độc Lập là Dương Văn Minh - Hồ Văn Minh, Nguyễn Cao Kỳ - Trương Vĩnh Lễ và nhiều thế lực khác tại Sài Gòn. Trong quốc hội, mặc dù đã tìm cách kiểm soát mọi hoạt động ở cả hạ viện và thượng viện, Thiệu vẫn phải hằng ngày đối phó với các khối dân biểu trung lập và đối lập với chính phủ, chưa kể các đảng phái khác như Việt Nam Nhân xã Cách mạng Đảng, Đại Việt Cách mạng Đảng, Việt Nam Quốc dân Đảng, Mặt trận Nhân dân cứu nguy dân tộc, Phong trào Quốc gia cấp tiến, Tập đoàn Cựu chiến sĩ Hòa Hảo Dân xã... Khi Quân giải phóng miền Nam Việt Nam mở cuộc tiến công chiến lược ở Quảng Trị, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, liên quân Việt - Lào tiến hành Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng, Thiệu ép quốc hội thông qua “Luật ủy quyền” cho phép tổng thống rộng quyền ứng phó với tình hình quân sự, toàn quyền “điều hành quốc sự” bằng sắc luật mà không cần được quốc hội phê chuẩn.


Đối với giới tướng lĩnh quân đội, khi Quân giải phóng triển khai cuộc tiến công chiến lược năm 1972, Nguyễn Văn Thiệu “với tư cách Tổng Tư lệnh quân đội, tập trung hết quyền bính trong tay, cho đặt một hệ thống máy truyền tin tại dinh Độc Lập để liên lạc thẳng với các quân khu, điều động các đơn vị, bổ nhiệm tư lệnh vùng và trực tiếp ra lệnh hành quân”1 (Nguyễn Tiến Hưng, Tâm tư Tổng thống Thiệu, Cơ sở xuất bản Hứa Chấn Minh, Hoa Kỳ, 2010, tr. 367). Để củng cố thế lực, đề phòng bị quân đội làm phản, Thiệu thay hết những vị trí chủ chốt, đưa các thân tín của mình nắm giữ vị trí chỉ huy các quân khu và quân đoàn, như: Điều Ngô Quang Trưởng ra giữ chức Tư lệnh Quân đoàn 1 - Quân khu 1 thay Hoàng Xuân Lãm (đưa Lãm về làm phụ tá Tổng trưởng quốc phòng, thực chất là “ngồi chơi xơi nước”); điều Nguyễn Văn Toàn (dù được giới tướng lĩnh đánh giá là “ít tài nhiều tật, thích ăn nhậu, say mê các cuộc đỏ đen, lao vào những cuộc truy hoan, hút xách”2 (Nguyễn Duy Xí, Đằng sau dinh Độc Lập, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1990, tr. 112) thay Ngô Du làm Tư lệnh Quân đoàn 2 - Quân khu 2; đưa Phạm Quốc Thuần thay Nguyễn Văn Minh làm Tư lệnh Quân đoàn 3 - Quân khu 3 (Minh bị điều về phụ trách Trường Bộ binh Thủ Đức); bổ nhiệm Tư lệnh Sư đoàn 21 Nguyễn Vĩnh Nghi giữ chức Tư lệnh Quân đoàn 4 - Quân khu 4. Thiệu còn trực tiếp đến An Lộc và một vài vị trí đang diễn ra chiến sự ác liệt khác để kêu gọi sự đồng lòng, gắn huy hiệu “Anh dũng bội tinh” cho binh sĩ.


Ngoài ra, chính quyền Sài Gòn còn phải liên tục đối phó với hoạt động chống đối của các lực lượng đấu tranh công khai tại đô thị, nhất là giới báo chí và học sinh, sinh viên. Lợi dụng mâu thuẫn giữa các phe phái trong giới chóp bu, kể cả Nguyễn Cao Kỳ, học sinh, sinh viên tổ chức các cuộc đấu tranh hòa bình có kết hợp với đấu tranh vũ trang. Đáng kể là cuộc đấu tranh diễn ra trước cổng Đại học Vạn Hạnh, sinh viên của trường này cùng một số trường khác tổ chức biểu tình, tràn xuống đường, phong tỏa nhiều đoạn đường, sử dụng cả thủ pháo để tiến công các căn cứ của chính quyền Sài Gòn. Thiệu phải nhiều lần ra lệnh cho Tổng nha Cảnh sát lùng bắt hết số học sinh, sinh viên tham gia đấu tranh. Từ cuối năm 1971 đến đầu năm 1972, nhiều thành viên trong Ban Chỉ huy học sinh, sinh viên như Huỳnh Tấn Mầm, Hạ Đình Nguyên, Võ Như Lanh... lần lượt bị chúng bắt, cầm tù. Thiệu phải than thở: “Hễ khi nào thấy đại sứ Mỹ tới gặp và yêu cầu tôi làm một việc gì mà tôi không làm, thì chỉ vài tuần sau sẽ có biểu tình hoặc báo chí chống đối”1 (Nguyễn Tiến Hưng, Tâm tư Tổng thống Thiệu, Sđd, tr. 364).
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #51 vào lúc: 28 Tháng Tư, 2023, 07:51:32 am »

2. Phá hoại tiến trình đàm phán tại Hội nghị Pari

Liên tiếp thất bại trong hai mùa khô 1965 - 1966, 1966 - 1967, nhất là trong Tết Mậu Thân 1968, lại bị áp lực từ cao trào phản đối chiến tranh của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới, trong đó có nhân dân Mỹ, Nhà Trắng buộc phải xuống thang chiến tranh, chấp nhận đàm phán với Hà Nội hòng tìm một lối thoát trong danh dự. Bắt đầu từ cuộc nói chuyện chính thức ngày 13 tháng 5 năm 1968 Hội nghị Pari đựợc tổ chức giữa hai bên (Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Hoa Kỳ) rồi bốn bên (Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Chính phủ Hoa Kỳ, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Chính phủ Việt Nam cộng hòa). Cuộc đàm phán diễn ra gay gắt và trải qua nhiều bước, ở đó kết quả đạt được của mỗi bước tùy thuộc vào tình hình chính trị, quân sự của từng bên và cục diện chiến trường ở Việt Nam. Nội dung chính của cuộc đàm phán là Hoa Kỳ và các nước phải tôn trọng độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, cam kết chấm dứt dính líu quân sự, rút hết quân Mỹ và các nước đồng minh, không can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam; miền Nam Việt Nam thành lập chính phủ liên hiệp lâm thời gồm ba lực lượng chính trị (chính quyền Sài Gòn, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và lực lượng trung lập) để tiến hành tổng tuyển cử thống nhất nước nhà thông qua con đường hiệp thương giữa hai miền Nam - Bắc.


Trong quá trình đàm phán, trong khi phái đoàn Việt Nam dân chủ cộng hòa luôn có sự phối hợp nhịp nhàng với Cộng hòa miền Nam Việt Nam trước khi đưa ra các quyết sách, thì Hoa Kỳ gần như tự ý sắp đặt mọi chuyện trong các cuộc họp kín với Việt Nam dân chủ cộng hòa mà không quan tâm đến ý kiến của đoàn Việt Nam cộng hòa. Cho rằng nội dung một số điều khoản bất lợi cho Việt Nam cộng hòa nên Nguyễn Văn Thiệu luôn chỉ đạo tìm cách phá hoại, gây khó dễ cho quá trình đàm phán.


Khi chiến dịch sự đang diễn ra ác liệt ở Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng, Trị - Thiên, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, trong một cuộc họp giao ban định kỳ với tư lệnh các chiến trường, Nguyễn Văn Thiệu nói: “Phái đoàn của Kissinger đã đến Sài Gòn từ hai ngày qua1 (Hành động phá hoại tiến trình đàm phán và không chịu ký Hiệp định buộc Nhà Trắng phải cử Kítxinhgiơ (Henry Kissinger) đi Sài Gòn (10.1972) để thuyết phục chính quyền Sài Gòn chấp thuận đề xuất ngừng bắn được đưa ra tại các cuộc đàm phán bí mật với miền Bắc tại Pari), có trao cho tôi một bản dự thảo hiệp định ngừng bắn, trong đó có nhiều điểm cần phải làm sáng tỏ thêm. Tuy nhiên có ba điểm mà tôi nhân danh tổng thống không đồng ý với Mỹ, đó là: Vấn đề thành lập một chính phủ liên hiệp ba thành phần ở miền Nam sau ngày ngừng bắn, sự duy trì của 350.000 quân chủ lực Bẳc Việt Nam ở miền Nam sau ngày ngừng bắn, ngày ngừng bắn được dự định vào 30 tháng 10 năm 1972. Nếu chấp nhận ba điểm đó tức là chúng ta tự sát. Mỹ muốn bán đứng miền Nam cho cộng sản nên mới đặt vấn đề như thế này. Tôi cương quyết bác bỏ”2 (Nguyễn Duy Xí, Đằng sau Dinh Độc Lập, Sđd, tr. 117). Phải đến lúc nhận được điện văn của Tổng thống Mỹ R. Níchxơn (Richard Nixon) với nội dung đe dọa “quyết định của ngài sẽ mang đến những hậu quả nghiêm trọng nhất đối với khả năng của tôi tiếp tục yểm trợ ngài và chính phủ miền Nam Việt Nam (Việt Nam cộng hòa)”, Thiệu mới chịu ký Hiệp định.


Ngay từ năm 1972, trong khi đang phải đối phó với cuộc tiến công chiến lược của lực lượng vũ trang cách mạng, chính quyền Sài Gòn đã chuẩn bị một kế hoạch chi tiết nhằm phá hoại quá trình thực hiện các điều khoản của Hiệp định Pari. Về chính trị, chính quyền Sài Gòn sử dụng bộ máy tuyên truyền bóp méo diễn biến Hội nghị Pari, đặt “cảnh sát quốc gia” và “nhân dân tự vệ” nằm ngoài phạm vi điều chỉnh về lực lượng vũ trang của Hiệp định (dù sau đó, 2 lực lượng này trở thành nhân tố chủ yếu hỗ trợ của quân lực Sài Gòn tiến hành cuộc chiến tranh giành dân, lấn đất), về quân sự, Nguyễn Văn Thiệu hoạch định một chiến dịch “tràn ngập lãnh thổ” trong đó “phải gây tổn thất lớn cho phía Quân giải phóng giành quyền kiểm soát tối đa về lãnh thổ và dân chúng, đặc biệt ở vùng tranh chấp”.


Mặc dù chính quyền Sài Gòn ra sức phá hoại, nhưng cuối cùng Hiệp định Pari vẫn được ký kết vào ngày 27 tháng 1 năm 1973 sau cuộc đàm phán đầy gay gắt và kịch tính kéo dài 4 năm 8 tháng, 14 ngày, với 202 phiên họp chung và 24 cuộc tiếp xúc bí mật, đánh dấu một cột mốc quan trọng, đưa cách mạng miền Nam tiến lên theo phương thức chiến lược mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch định trong thơ chúc Tết năm 1969 “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #52 vào lúc: 28 Tháng Tư, 2023, 07:53:37 am »

3. Đối phó với cuộc tiến công chiến lược của Quân giải phóng

Trên cơ sở cho rằng hoạt động của lực lượng kháng chiến trong năm 1972 cũng chỉ tương tự như năm 1971, Nhà Trắng chủ trương cố giữ cục diện chiến trường ở Đông Dương như những năm trước, tiếp tục thực hiện mục tiêu chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, rút dần quân Mỹ tại chiến trường Nam Việt Nam, tạo lợi thế trong đàm phán tại Hội nghị Pari và cuộc vận động tái cử tổng thống của Níchxơn. Trước tình hình trên, Bộ Chính trị Trung ương Đảng chủ trương: “Nhiệm vụ cần kíp của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta là đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ, đánh bại học thuyết Níchxơn trên toàn chiến trường Đông Dương, tạo ra một chuyển biến căn bản làm thay đổi cục diện chiến tranh ở miền Nam và cả trên bán đảo Đông Dương giành thắng lợi to lớn, buộc đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh trên thế thua bằng một giải pháp chính trị có lợi cho ta mà chúng có thể chấp nhận được”1 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng về chống Mỹ, cứu nước, Tập II (1966 - 1975), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật ,Hà Nội, 2012, tr. 651-652). Từ chủ trương của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương xác định quyết tâm chiến lược năm 1972 là: Tập trung mọi cố gắng đẩy mạnh tiến công quân sự và chính trị trên cả ba vùng, mở cuộc tiến công chiến lược năm 1972, trong đó, Trị - Thiên là chiến trường chính, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ là chiến trường phối hợp.


Vừa củng cố quyền lực và hộ thống chính trị sau cuộc độc diễn tranh cử nhiệm kỳ tổng thống thứ hai, tìm cách phá hoại tiến trình đàm phán tại Hội nghị Pari, chính quyền Sài Gòn vừa phải tập trung đối phó với cuộc tiến công chiến lược của Quân giải phóng trên toàn chiến trường miền Nam. Mặc dù buộc phải điều quân thay thể những vị trí bị bỏ trống do quân Mỹ và đồng minh của Mỹ tiếp tục rút quân về nước (đến trước 1.5.1972, trên chiến trường Nam Việt Nam, Mỹ chỉ còn 69.000 tên, các nước đồng minh còn 38.000 tên), Nguyễn Văn Thiệu vẫn chủ trương tập trung lực lượng đánh phủ đầu Quân giải phóng trên khu vực dọc biên giới. Chỉ trong 2 tháng đầu năm 1972, “liên quân Mỹ - Sài Gòn thực hiện 793 cuộc hành quân cấp tiểu đoàn trở lên, 148.166 phi xuất chiến thuật (trực thăng vận và oanh kích yểm trợ hành quân của các loại chiến đấu cơ, ngoại trừ máy bay B-52), 497 phi xuất oanh tạc của B-52 (không kể chiến trường Lào và Campuchia), 47.682 hải xuất (tuần duyên và yểm trợ hành quân) và 62 vụ hải pháo tác xạ hỗ trợ hành quân dọc các vùng ven biển miền Nam Việt Nam”1 (Bộ Tổng Tham mưu quân lực Việt Nam cộng hòa, Báo cáo tình hình chiến sự hàng tuần từ ngày 2.1 đến ngày 26.2.1972, Hồ sơ 17441, Phông Phủ Thủ tướng Việt Nam cộng hòa (1954 - 1975), Trung tâm Lưu trữ quốc gia II, Thành phố Hồ Chí Minh). Dù vậy, chúng vẫn gặp bất ngờ và bị động đối phó với Quân giải phóng trên các chiến trường.


Tại chiến trường Trị - Thiên, hướng tiến công chủ yếu trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972 trên chiến trường miền Nam, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương chỉ đạo mở chiến dịch tiến công nhằm tiêu diệt một bộ phận lực lượng quân sự của đối phương, giải phóng phần lớn địa bàn tỉnh Quảng Trị. Ngay từ đầu năm 1972, để thay thế các đơn vị quân Mỹ rút đi, quân đội Sài Gòn buộc phải điều động cả lực lượng dự bị chiến lược (Sư đoàn 3 Thủy quân lục chiến) đảm nhiệm phòng giữ khu vực Đường 9 - Bắc Quảng Trị. Khi Chiến dịch Trị - Thiên nổ ra (30.3 - 27.6.1972, trên địa bàn 2 tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên), trước tình hình nhiều căn cứ quân sự ở Nam, Bắc Đường số 9 và tuyến phòng thủ vòng ngoài bị uy hiếp nghiêm trọng, ngày 3 tháng 4 năm 1972, Nguyễn Văn Thiệu phải bay ra Huế trực tiếp thị sát tình hình, triệu tập cuộc họp với chỉ huy các lực lượng, tìm cách ngăn chặn các cuộc tiến công của Quân giải phóng và chỉ thị cho Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn khẩn cấp tăng viện cho mặt trận Quảng Trị. Tiếp đó, Nguyễn Văn Thiệu liên tiếp xử lý hàng loạt tình huống: Ra lệnh rút liên đoàn biệt động “dày dạn chiến đấu nhất” ở Bình Long (vốn đang phải đương đầu với các cuộc tiến công của Quân giải phóng) ra tăng cường cho lực lượng bảo vệ Quảng Trị- cách chức tướng Hoàng Xuân Lãm - Tư lệnh Quân khu 1 - Quân đoàn 1 điều thêm 5 lữ đoàn, trung đoàn từ Sài Gòn, Đà Nằng ra Huế lập tuyến phòng thủ ngăn chặn mới; huy động lực lượng dự bị chiến lược với sự yểm trợ tối đa của không quân và pháo binh nhằm tái chiếm Quảng Trị. Dù vậy, kết quả thu được từ các nỗ lực trên không mấy khả quan. Ngày 6 tháng 6 năm 1972, tướng Alểchxăngđơ Hai (Alexander Haig) - Phụ tá Quân sự cho Henri Kítxinhgiơ (Henry Kissinger) - phàn nàn với Tòa Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn: “Chúng tôi nghĩ rằng giới lãnh đạo Việt Nam Cộng hòa nên làm mọi cách để thanh toán, giải tỏa An Lộc trong thời gian ngắn nhất để có thể di chuyển lực lượng dù ra Quân khu 1 và hành quân tái chiếm vùng Quảng Trị và phần đất ở Bình Định, càng sớm càng tốt”1 (Phiếu trình số 015/PQL ngày 6.6.1972 của Tòa Đại sử Việt Nam Cộng hòa tại Washington - Hoa Kỳ, Hồ sơ 402, Phông Phủ Tổng thống đệ nhị Cộng hòa (1967 - 1975), Trung tâm Lưu trữ quốc gia II, Thành phố Hồ Chí Minh).


Tại chiến trường Đông Nam Bộ, Trung ương Cục và Quân ủy Miên chỉ đạo mở chiến dịch tiến công (mang mật danh Nguyễn Huệ, trên địa bàn các tỉnh Bình Long, Phước Long, Tây Ninh, Bình Dương) nhằm tiêu diệt một bộ phận lực lượng quân sự và phá vỡ tuyến phòng thủ biên giới của quân đội Sài Gòn, giải phóng một số khu vực có ý nghĩa chiến lược ở miền Đông Nam Bộ, phối hợp với hướng chủ yếu ở Trị - Thiên trong cuộc tiến công chiến lược 1972. Từ đầu năm, quân đội Sài Gòn tranh thủ mở các cuộc hành quân “Toàn thắng 72A”, “Toàn thắng 72B” dọc biên giới Việt Nam - Campuchia nhằm bịt hành lang vận tải, đánh phá các cơ sở hậu cần của Quân giải phóng, hỗ trợ cho hoạt động “bình định” trong nội địa. Khi Bộ Tư lệnh Miền mở Chiến dịch Nguyễn Huệ, chính quyền Sài Gòn chỉ đạo triệt thoái hết lực lượng đang hoạt động trên biên giới về tập trung chống đỡ trên hướng Đường số 13 - Bình Long và Đường số 22 - Tây Ninh; đồng thời, điều động lực lượng từ các nơi khác mở các cuộc hành quân “Toàn thắng 72C”, “Toàn thắng 72D”, “Toàn thắng 72E” nhằm giải tỏa An Lộc, khai thông Quốc lộ 13, đối phó với Quân giải phóng ở Tây Ninh, Hậu Nghĩa, Bình Dương, Long An1 (Phòng Tổng kết địch - Ban Tổng kết chiến tranh B2, Quá trình cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ và quy luật hoạt động của Mỹ - ngụy trên chiến trường B2, Ban Tổng kết chiến tranh B2, Thành phố Hồ Chí Minh, 1984, tr. 216). Cũng tướng Alếchxăngđơ Hai bày tỏ: “Chúng tôi rất lo ngại vì vài sự kiện đã xảy ra trên chiến trường Việt Nam: Như cuộc hành quân của Sư đoàn 21 đến nay đã 2 tháng qua mà vẫn chưa giải tỏa được An Lộc mặc dù chỉ còn một đoạn đường ngắn... Với một lực lượng tương đối hùng hậu mà không thể tiến thêm vài cây số lại giẫm chân một nơi để gánh nhiều thiệt hại thì thật khó giải thích với dư luận cũng như Quốc hội tại đây”2 (Phiếu trình số 015/PQL ngày 6.6.1972 của Tòa Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Washington - Hoa Kỳ, Tlđd).


Tại chiến trường Tây Nguyên, hướng tiến công phối hợp trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương chỉ đạo mở chiến dịch tiến công các căn cứ quân sự của địch ở Đắk Tô - Tân Cảnh, thị xã Kon Tum (30.3 - 5.6.1972), hình thành vùng căn cứ hoàn chỉnh nối liền với căn cứ địa miền Đông Nam Bộ. Trong bối cảnh quân Mỹ và đồng minh rút dần lực lượng về nước, quân đội Sài Gòn buộc phải dàn mỏng lực lượng của Quân khu 2 - Quân đoàn 2 để bảo vệ cả địa bàn Tây Nguyên và khu vực các tỉnh duyên hải Trung Bộ. Ngay từ đầu năm 1972 Nguyễn Văn Thiệu chỉ thị cho Quân khu 2 vừa đưa lực lượng thám báo, biệt kích thăm dò, vừa huy động không quân bắn phá dọc tuyến đường vận tải chiến lược Trường Sơn. Khi cụm cứ điểm phòng ngự Đăk Tô - Tân Cảnh bị tiêu diệt, Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh cho Quân đoàn 2 rút các trung đoàn đang phòng thủ ở vòng ngoài về lập tuyến phòng ngự mới nhằm bảo vệ thị xã Kon Tum mở cuộc hành quân giải tỏa mang mật danh Bắc Bình Vương 712. Sau khi nhận tin binh lính quân đội Sài Gòn tháo chạy tán loạn khỏi các căn cứ quân sự ở Quân khu 1, Quân khu 2, nhất là tại Đăk Tô - Tân Cảnh, ngày 29 tháng 4 năm 1972, Nguyễn Văn Thiệu ban bố tình trạng “Tổ quốc lâm nguy”, triệu tập nội các và Hội đồng An ninh quốc gia, ra lệnh cho các cấp quân sự và hành chính bằng mọi giá phải cố thủ, chờ tăng viện để phản công giành lại những vùng đã bị Quân giải phóng đánh chiếm. Tuy nhiên kết quả không như mong đợi. Tổng thống chính quyền Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu buộc phải thừa nhận sự thất bại và thiếu hiệu quả của quân đội Sài Gòn trong việc chống lại những cuộc tiến công của Quân giải phóng trong năm 1972: “Chưa kể là từ các nơi đã chiếm đóng, cộng sản vẫn tiếp tục loang ra, còn phía chúng ta (Mỹ - Sài Gòn) thì cũng khó phản công chiếm lại được”1 (Công điện số 027- TT/CĐTM ngày 29.4.1972 của Nguyễn Văn Thiệu, Hồ sơ 395, Phông Phù Tổng thống đệ nhị Cộng hòa (1967 - 1975), Trung tâm Lưu trữ quốc gia II, Thành phố Hồ Chí Minh).


Như vậy, những động thái nêu trên của chính quyền Sài Gòn mặc nhiên không tách rời diễn biến cuộc đấu tranh của quân và dân ba nước Đông Dương. Nó tác động sâu sắc đến những nỗ lực của quân đội đánh thuê Thái Lan và quân đội phái hữu Lào trong cuộc tiến công lấn chiếm vùng giải phóng Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng do liên quân Việt - Lào tổ chức phòng ngự mùa mưa năm 1972. Phối hợp với cuộc tiến công chiến lược của Quân giải phóng trên các mặt trận Trị - Thiên, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, liên quân Việt - Lào đã bẻ gãy các cuộc hành quân lấn chiếm, loại khỏi chiến đấu một bộ phận lớn sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch, giữ vững vùng giải phóng và thế liên hoàn giữa ba vùng căn cứ địa cách mạng của Lào, thể hiện sự liên minh chiến đấu, mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Quân đội và nhân dân hai nước Việt - Lào trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là đế quốc Mỹ và quân đội đồng minh của Mỹ. Cùng với mũi đấu tranh chính trị, binh vận, hoạt động quân sự trên chiến trường miền Nam và Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng năm 1972 đã góp phần đẩy chính quyền Sài Gòn vào thế bị động chiến lược, lúng túng đối phó trên tất cả các mặt trận, tạo tình trạng bất ổn liên tục trên chính trường, làm đảo lộn mọi sinh hoạt chính trị - kinh tế - xã hội ở miền Nam Việt Nam vùng chính quyền Sài Gòn kiểm soát. Đồng thời, sau thất bại nặng nề trong chiến dịch 12 ngày đêm trên bầu trời Hà Nội, Mỹ buộc phải ký Hiệp định Pari, hiệp định mà trước đó, Nguyễn Văn Thiệu phải thốt ra những lời cay đắng trong bức thư gửi Tổng thống Níchxơn ngày 11 tháng 11 tháng 1972: “Những công lao tranh đấu và bao nhiêu hy sinh chúng ta đã gánh chịu trong nhiều năm đều trở thành vô nghĩa”1 (Nguyễn Tiến Hưng, Tâm tư Tổng thống Thiệu, Sđd, tr. 344-345, 315); và tình hình miền Nam sẽ chuyển sang “một tình huống mới, một thực tế mới” như nhận xét dự đoán của cố vấn Kítxinhgiơ2 (Nguyễn Tiến Hưng, Tâm tư Tổng thống Thiệu, Sđd, tr. 344-345, 315).
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #53 vào lúc: 15 Tháng Sáu, 2023, 07:46:33 am »

VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG VŨ TRANG CÁCH MẠNG LÀO TRONG CHIẾN DỊCH PHÒNG NGỰ CÁNH ĐỒNG CHUM - XIÊNG KHOẢNG


Đại tá, TS TRƯƠNG MAI HƯƠNG
Nguyên Phó Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam - Bộ Quốc phòng


Cách đây 50 năm, thực hiện chủ trương của Quân ủy Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và Quân ủy Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Bộ Quốc phòng Việt Nam phối hợp với Bộ Chỉ huy tối cao Quân giải phóng nhân dân Lào tổ chức thắng lợi Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng mùa mưa năm 1972, qua đó giữ vững địa bàn chiến lược của cách mạng Lào, đánh bại một bước học thuyết Níchxơn ở Lào và tác động trực tiếp tới cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân hai nước Việt Nam - Lào. Thắng lợi của chiến dịch này không chỉ khẳng định chủ trương đúng đắn và tình đoàn kết chiến đấu đặc biệt giữa hai Đảng, hai dân tộc, hai quân đội và nhân dân hai nước Việt Nam - Lào mà còn khẳng định sự lớn mạnh và vai trò quan trọng của lực lượng vũ trang cách mạng Lào đối với Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng nói riêng và trong tiến trình cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung.


Bước sang năm 1972, cách mạng Lào có bước chuyển biến mới. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II Đảng Nhân dân Lào (2.1972) đánh giá những thành tựu của Đảng Nhân dân Lào giành được trong sự nghiệp lãnh đạo nhân dân tiến hành kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; đồng thời, đề ra chủ trương, phương hướng lãnh đạo cách mạng Lào tăng cường đoàn kết với nhân dân ba nước Đông Dương, tăng cường đoàn kết chiến đấu Lào - Việt Nam, quyết tâm đẩy mạnh sự nghiệp kháng chiến chống đế quốc Mỹ, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Sau Đại hội, Thường vụ Bộ Chính trị Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào chủ trương chỉnh huấn Đảng lần thứ ba; nhiệm vụ chỉnh huấn Đảng trong quân đội được Quân ủy Trung ương Lào xác định vào đầu mùa mưa năm 1972.


Trong khi các đơn vị lực lượng vũ trang cách mạng Lào tiến hành chỉnh huấn Đảng, trên địa bàn Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng, địch ra sức nống lấn để cải thiện hình thái bị uy hiếp ở Loong Chẹng, đẩy liên quân Lào - Việt ra xa. Mặc khác, chúng khẩn trương điều lực lượng từ các quân khu khác đến tăng cường cho Quân khu 2 thay cho các đơn vị của Vàng Pao rút ra củng cố vùng giáp biên giới Thái Lan. Âm mưu của địch là tập trung lực lượng đánh chiếm Cánh Đồng Chum trong mùa mưa năm 1972 để tạo thế mạnh, làm cơ sở mặc cả với cách mạng Lào trên bàn đàm phán. Tính đến ngày 20 tháng 5 năm 1972, địch tập trung ở Quân khu 2 lên tới 76 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh, hình thành 4 khu vực xung quanh Cánh Đồng Chum là Sảm Thông - Loong Chẹng, Buôm Loọng, Tôm Tiêng - Pha Đông và Sa La Phu Khun1 (Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tại Lào trong kháng chiến chống Mỹ (1954 -1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005, tr. 344).


Trước âm mưu, thủ đoạn của địch, Quân ủy Trung ương hai nước thống nhất phối hợp mở Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng “nhằm đánh bại cuộc tiến công lấn chiếm của địch trong mùa mưa 1972, bảo vệ vững chắc vùng giải phóng, giữ vững thế chiến lược của ta ở Bắc Lào và bảo vệ sườn phải cho hai chiến dịch tiến công Trị Thiên và Bắc Tây Nguyên trong cuộc tiến công chiến lược 1972”1 (Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Tóm tắt các chiến dịch trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2001, tr. 592).


Đầu tháng 4 năm 1972, Thường vụ Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam quyết định thành lập Bộ Tư lệnh Chiến dịch do Đại tá Vũ Lập làm Tư lệnh Đại tá Lê Linh làm Chính ủy. Phía bạn Lào, đồng chí Xiphon Phalikhăn, Tư lệnh Quân khu Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng làm Phó Tư lệnh Chiến dịch. Sở Chỉ huy chiến dịch đặt tại Phu Nhu. Sở Chỉ huy Quân khu Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng đóng ở Phu Leng (1580), có hệ thống thông tin liên lạc trực tiếp với Sở Chỉ huy Chiến dịch. Mối quan hệ là hiệp đồng chỉ huy theo phân công phụ trách riêng từng khu vực và có sự bàn bạc theo dõi thường xuyên giữa hai bên Việt Nam và Lào.


Như vậy, trong thành phần Bộ Tư lệnh Chiến dịch bao gồm cả Việt Nam và Lào, điều đó thể hiện sự liên minh đoàn kết chặt chẽ giữa hai bên, đồng thời cho thấy vai trò của lực lượng vũ trang cách mạng Lào trong chiến dịch này.


Trước khi diễn ra chiến dịch, ở Quân khu Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng, lực lượng vũ trang cơ động của Lào có 7 tiểu đoàn bộ binh, 1 đại đội xe tăng, 1 đại đội pháo xe kéo, 1 đại đội pháo mang vác (nữ), 2 đại đội pháo cao xạ, 1 đại đội công binh... Đây là những đơn vị nhiều năm chiến đấu với quân địch trên chiến trường Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng, lập nhiều thành tích xuất sắc, có nhiều kinh nghiệm tác chiến vừa và nhỏ, thông thạo địa hình, nắm chắc quy luật hoạt động của đối phương. Hơn nữa, nhiều phân đội đã có kinh nghiệm chiến đấu phòng ngự trong các mùa mưa nên có khả năng đảm nhiệm độc lập một khu vực phòng ngự hoặc một hướng của chiến dịch phòng ngự. Tuy nhiên, khó khăn của lực lượng vũ trang cách mạng Lào là thiếu quân số, khó bổ sung lực lượng, trình độ tác chiến quy mô lớn, phức tạp còn hạn chế. Do đó, phía Lào chỉ tổ chức bộ binh đến cấp tiểu đoàn, binh chủng đến cấp đại đội1 (Về bộ đội địa phương bạn ở Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng có 1 đại đội tại chỗ của Quân khu, 1 đại đội của tỉnh và 8 trung đội của 2 huyện Mường Pẹt (Lạt Buột) và Mường Khăm (Bàn Ban), quân số thiếu. Lực lượng này thành thạo trong đánh nhỏ nhưng chưa quen đánh hiệp đồng. Dân quân du kích của Lào số lượng ít, chỉ tập trung ở những trọng điểm như Lạt Buột, Noọng Pẹt, Bản Ban). Sau chiến dịch tiến công mùa khô 1971 - 1972, lực lượng vũ trang cách mạng Lào có thời gian củng cố, bổ sung, huấn luyện nên khí thế các đơn vị đều tốt, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.


Tham gia Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng, lực lượng vũ trang cách mạng Lào được huy động có 7 tiểu đoàn chủ lực, 1 đại đội xe tăng, 1 đại đội pháo xe kéo, 1 đại đội mang vác, 2 đại đội súng máy phòng không, 1 đại đội công binh, 4 đại đội bộ đội địa phương và dân quân du kích2 (Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Tóm tắt các chiến dịch trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), Sđd, tr. 593).


Các đơn vị vũ trang cách mạng Lào tham gia chiến dịch được quán triệt tình hình nhiệm vụ mới; quán triệt phương châm, tư tưởng chỉ đạo tác chiến phòng ngự; xây dựng quyết tâm và lòng tin để từng bước nhất trí về nhận thức và hành động. Bên cạnh đỏ, Quân khu Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng đã tổ chức lớp tập huấn quân sự cho cán bộ và huấn luyện cơ bản cho các phân đội, đồng thời tổ chức diễn tập thực binh theo phương án chiến đấu để kiểm tra và rút kinh nghiệm về xây dựng phương án về tổ chức hiệp đồng và công tác bảo đảm các mặt. Kết quả, đã nâng cao một bước chất lượng và tinh thần chiến đấu của bộ đội tạo điều kiện cho các đơn vị nắm chắc phương án chiến đấu thông thạo địa hình trong khu vực phụ trách cũng như các vùng khác có liên quan.


Cũng như các chiến dịch trước đó, trước khi bước vào Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng mùa mưa năm 1972, thực hiện chủ trương của Quân ủy Trung ương và Bộ Chỉ huy tối cao Quân giải phóng nhân dân Lào, Bộ Tư lệnh Quân khu Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng tiếp tục đẩy mạnh quán triệt và nâng cao hiệu quả của liên minh chiến đấu Lào - Việt Nam, Việt Nam - Lào. Bởi đây là chiến dịch có quy mô lớn, lại diễn ra trong mùa mưa, điều kiện bảo đảm mọi mặt cho các đơn vị khó khăn hơn rất nhiều so với các chiến dịch trong mùa khô, chỉ có nêu cao sự phối hợp giữa lực lượng vũ trang cách mạng Lào với bộ đội chủ lực và Quân tình nguyện Việt Nam mới có thể vượt qua mọi khó khăn, trở ngại, hoàn thành nhiệm vụ Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng hai nước giao phó. Do làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, động viên, cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang cách mạng Lào đã quán triệt sâu sắc liên minh chiến đấu Lào - Việt Nam trong chiến dịch, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao, quyết chiến đấu và hy sinh vì thắng lợi chung của chiến dịch.


Sau khi phân tích, đánh giá tình hình địch - ta, xác định 5 khu vực phòng ngự, trong đó Cánh Đồng Chum là khu vực phòng ngự chủ yếu, Bộ Tư lệnh Chiến dịch quyết định tổ chức lực lượng thành 2 bộ phận: Lực lượng phòng ngự tại chỗ và lực lượng cơ động chiến dịch. Theo đó, lực lượng phòng ngự tại chỗ xây dựng trận địa thành các chốt, cụm chốt để ngăn chặn địch tiến công1 (Gồm 2 trung đoàn bộ binh 174 và 866, 1 đại đội xe tăng - thiết giáp và toàn bộ pháo binh chiến dịch); lực lượng cơ động chiến dịch đánh địch trên các hướng phòng ngự bị huy hiếp, xây dựng trận địa đứng chân: Trung đoàn 148 ở khu vực bắc Noọng Tai, Trung đoàn 335 ở Nam Phu Keng. Ngoài lực lượng trên, các đơn vị binh chủng, các đơn vị vũ trang Lào được bố trí xen kẽ ở các khu vực phòng ngự để hỗ trợ hiệp đồng chi viện cho bộ binh đánh địch bảo vệ địa bàn. Đến ngày 20 tháng 5 năm 1972, các đơn vị hoàn thành mọi công tác chuẩn bị chiến đấu, sẵn sàng đánh địch theo nhiệm vụ được giao.


Đồng thời, trong điều kiện địch đánh phá ác liệt và mùa mưa bắt đầu, muốn hoàn thành chuẩn bị tốt mọi mặt đòi hỏi sự cố gắng rất lớn của các lực lượng. Qua đề xuất của Đoàn chuyên gia quân sự 959 và 463, Quân khu Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng đã huy động lực lượng lớn dân quân du kích và nhân dân địa phương bảo đảm phần lớn tre, gỗ, tôn đưa đến các đơn vị; đồng thời giúp hàng nghìn ngày công, cùng bộ đội xây dựng công sự trận địa đảm bảo đúng thời gian và chất lượng. Đây là những yếu tố vô cùng quan trọng để bộ đội Việt Nam và Lào trụ vững, đánh thắng địch trong chiến dịch.


Tựu trung, Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng năm 1972 có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của tiến trình cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Lào cũng như đối với cách mạng ba nước Đông Dương. Chiến dịch này được Quân ủy Trung ương Việt Nam và Lào xác định và đặt quyết tâm cao, đề ra nhiều chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, kịp thời. Quán triệt chủ trương của Quân ủy Trung ương hai Đảng, lực lượng vũ trang cách mạng Lào tham gia chiến dịch có sự chuẩn bị tốt về mọi mặt. Đặc biệt, Bộ Tư lệnh Quân khu Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng đã tổ chức tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; quán triệt mục đích, yêu cầu và nhiệm vụ chiến dịch cho các lực lượng tham gia; tổ chức tập huấn quân sự cho cán bộ và huấn luyện cơ bản cho các phân đội... Nhờ đó, lực lượng vũ trang cách mạng Lào có khí thế quyết tâm cao, sẵn sàng phối hợp chặt chẽ với bộ đội chủ lực và Quân tình nguyện Việt Nam tổ chức thành công chiến dịch phòng ngự.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #54 vào lúc: 15 Tháng Sáu, 2023, 07:48:06 am »

Quá trình diễn ra chiến dịch, các lực lượng vũ trang cách mạng Lào đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Trong đợt 1 (21.5 - 10.8 ) các đơn vị của Lào đã phối hợp với các đơn vị Việt Nam đẩy lui nhiều đợt tiến công của địch ở Mường Sủi; cùng với đó, lực lượng đặc công, pháo binh liên tục tập kích vào sân bay, kho tàng, sở chỉ huy Vàng Pao ờ Loong Chẹng gây cho địch nhiều thiệt hại. Đến ngày 10 tháng 8 năm 1972, đợt 1 chiến dịch kết thúc. Liên quân Lào - Việt giữ vững được tuyến phòng ngự trung gian, đánh thiệt hại nặng nhiều tiểu đoàn địch, làm đảo lộn kế hoạch tiến công của chúng, tạo điều kiện để ta tổ chức phòng ngự hoàn chỉnh ơ khu vực Cánh Đồng Chum.


Trong đợt 2(11.8- 10.9), sau khi giành giật với ta không thành công ở khu trung gian, ngày 11 tháng 8, địch dùng 4 binh đoàn ồ ạt tiến công từ 3 hướng là Đông Nam, Tây và Đông Bắc Cánh Đồng Chum. Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh Chiến dịch nhận định: “Địch đã đưa toàn bộ lực lượng chủ yếu vào chiến đấu nhằm tiến công ồ ạt từ nhiều hướng vào trung tâm Cánh Đồng Chum, trong đó hướng Tây là hướng chủ yếu; vì vậy, ta phải quyết tâm giữ vững khu phòng ngự trung tâm phía trước, ngăn chặn giữ vững các điêm tựa phòng ngự ở phía Tây và Nam Cánh Đồng Chum, tập trung lực lượng phản kích trên hướng địch tiến công chủ yếu”1 (Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Tóm tất các chiến dịch trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), Sđd, tr. 597). Quán triệt chủ trương của Bộ Tư lệnh Chiến dịch, Bộ Tư lệnh Quân khu Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng đã quán triệt và triển khai tới các đơn vị tham gia chiến dịch, qua đó nêu cao quyết tâm phối hợp với bộ đội chủ lực và Quân tình nguyện Việt Nam đánh địch.


Cùng với hướng Nam, hướng Tây, ở hướng Đông Bắc, từ ngày 15 tháng 8 năm 1972, Tiểu đoàn 5 thuộc Trung đoàn 866 và Tiểu đoàn 1 thuộc Trung đoàn 335 cùng với lượng vũ trang cách mạng Lào ngăn chặn địch tiến công vào Bản Lao, Phu Học, diệt 600 tên, buộc địch phải rút chạy về Mường Nọi và Nam Buôm Loọng.


Về phía địch, sau hơn 10 ngày tổ chức tiến công nghi binh thu hút lực lượng ta, ngày 21 và 22 tháng 8 năm 1972, địch dùng máy bay trực thăng cơ động GM 21 và GM 26 đổ xuống khu vực Đông Bắc Phu Keng hòng bất ngờ hình thành cánh tiến công chủ yếu ở hướng Tây Bắc, thọc sâu đánh chiếm các mục tiêu trọng yếu ở khu trung tâm Cánh Đồng Chum. Trước diễn biến mới của tình hình, Bộ Tư lệnh Chiến dịch nhận định quân địch ở Phu Keng là lực lượng nguy hại nhất, uy hiếp trực tiếp khu vực phòng ngự chủ yếu trung tâm Cánh Đồng Chum. Vì vậy, một mặt ta vừa phải ngăn chặn quân địch trên các hướng; mặt khác, phải tập trung lực lượng đánh trận then chốt chiến dịch tiêu diệt quân địch ở Phu Keng.


Thực hiện quyết tâm của Bộ Tư lệnh Chiến dịch đề ra, sau khi Tiểu đoàn 1 của Trung đoàn 335 lập được bàn đạp ở Phu Sản và chiến đấu tạo thế thành công, ngày 19 tháng 8 năm 1972, các lực lượng tham gia trận phản đột kích Phu Keng đã vào vị trí tập kết, sẵn sàng nổ súng tiến công quân địch. Trung đoàn 335 (thiếu Tiểu đoàn 1) tiến công trên hướng chủ yếu, triển khai từ Đông Nam đánh thẳng vào Khang Mường, Điểm cao 1202. Trong khi đó 2 tiểu đoàn của Lào được tăng cường 4 xe tăng triển khai tiến công trên hướng thứ yếu, từ Đông Bắc xuống Bắc Phu Keng. Một đại đội thuộc Trung đoàn 866 cùng 2 đại đội của Lào bao vây đón lõng, bố trí triển khai ở bờ Tây sông Nậm Ngừm.


Như vậy, trong đợt 2 chiến dịch, các lực lượng vũ trang cách mạng Lào được bố trí đánh địch ở nhiều vị trí theo kế hoạch chung do Bộ Tư lệnh Chiến dịch đề ra, trong đó vừa triển khai tiến công địch trên hướng thứ yếu, vừa phối thuộc với Quân tình nguyên Việt Nam bao vây đón lõng quân địch. Do được quán triệt quyết tâm chiến đấu cũng như được rèn luyện thử thách trong nhiều trận đánh, nhiều chiến địch trước đây, các lực lượng vũ trang cách mạng Lào đã phát huy tốt vai trò của mình. 6 giờ ngày 30 tháng 8 năm 1972, sau 15 phút pháo binh chiến dịch bắn chuẩn bị, các hướng đồng loạt nổ súng tiến công vào tất cả các mục tiêu được giao. Đến 18 giờ, Tiểu đoàn 1 thuộc Trung đoàn 335 cùng Tiểu đoàn 2 Lào có xe tăng chi viện, tranh thủ thời cơ tiến công vào Bản Sang, quân địch ở đây bỏ chạy. Từ ngày 31 tháng 8 ta tiếp tục truy kích quân địch rút chạy. Ngày 3 tháng 9 năm 1972 trận phản đột kích kết thúc, giành thắng lợi lớn. Liên quân Lào - Việt diệt tổng cộng 679 tên địch, bắt 43 tên, thu nhiều vũ khí; các các binh đoàn cơ động 21 và 26 bị tổn thất nặng nề, phải mất một thời gian dài củng cố mới trở lại chiến đấu1 (Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng mùa mưa 1972, Sđd, tr. 51).


Trong đợt 3 (11 - 30.9.1972), bị thất bại trên hướng chính Tây Bắc, không thực hiện được việc đánh hiểm và bất ngờ, địch phải bị động tăng cường lực lượng, lấy hướng Tây Nam làm chủ yếu, tấn công từ ngoài vào cùng với các hướng khác. Ta tổ chức trận phản đột kích thứ hai, tiếp tục đánh lui địch, giành quyền chủ động trên chiến trường. Trong thời gian diễn ra trận phản đột kích, ở hướng Đông Bắc, Tiểu đoàn 5 Trung đoàn 866 phối hợp với các đơn vị của Lào tổ chức tiến công các binh đoàn cơ động 24, 27 tiêu hao một bộ phận quân địch buộc chúng phải rút chạy khỏi Phu Lạt Tây và một số nơi khác. Nhìn chung, trong đợt 3 chiến dịch, ta đã tiếp thu được kinh nghiệm phối hợp tác chiến giữa các hướng và sử dụng linh hoạt lực lượng dự bị chiến dịch, tiếp tục đánh bại cuộc tiến công của địch vào khu vực phòng ngự chủ yếu của ta. Trong chiến công đó có sự đóng góp quan trọng của lực lượng vũ trang cách mạng Lào.


Đợt 4 chiến dịch (1.10 - 15.11.1972), trong thế bị thúc ép về chính trị và mùa mưa sắp kết thúc, địch dốc sức tập trung vào đợt tiến công mới với ý định hạn chế là “đánh chiếm cho được phía Nam Cánh Đồng Chum”1 (Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng mùa mưa 1972, Sđd, tr. 54, 63). Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh Chiến dịch chủ trương tổ chức lực lượng thích hợp ngăn chặn bẻ gãy các hướng, mũi tiến công của địch, tạo thế, tạo thời cơ tập trung lực lượng đánh trận then chốt quyết định tiêu diệt lực lượng quan trọng của địch, tiến tới đánh bại hoàn toàn cuộc tiến công của chúng. Thực hiện chủ trương của Bộ Tư lệnh Chiến dịch, khi đối phương đổ 2 lữ đoàn quân phái hữu xuống Nậm Chắt (phía Tây Mường Sủi 20km) tiến công Mường Sủi phối hợp với việc đánh lớn vào Cánh Đồng Chum nhưng đã bị lực lượng vũ trang cách mạng Lào chặn đánh ngay từ đầu. Ngày 16 tháng 10 năm 1972, phía Lào dùng 3 tiểu đoàn phản kích, buộc quân phái hữu phải rút về Nậm Chắt. Kết quả này góp phần quan trọng vào thành tích chung của đợt 4 Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng.


Sau hơn 5 tháng tiến công với nỗ lực cao nhất, cuối cùng địch đã hoàn toàn thất bại, buộc phải rút chạy khỏi các bàn đạp ở Cánh Đồng Chum. Đến ngày 15 tháng 11 năm 1972, Bộ Tư lệnh Chiến dịch chủ động kết thúc chiến dịch. Toàn chiến dịch, liên quân Lào - Việt đánh tổng cộng 244 trận lớn nhỏ. Trong đó, lực lượng vũ trang cách mạng Lào đánh 74 trận (1 trận cỡ trung đoàn), diệt 470 tên địch, bắt 17 tên; thu và phá hủy 159 súng các loại; bắn rơi 1 máy bay lên thẳng, bắn cháy 2 chiếc khác2 (Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng mùa mưa 1972, Sđd, tr. 54, 63).


Thắng lợi của Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng năm 1972 đã đánh bại hoàn toàn cuộc tiến công quy mô lớn, có tính chất chiến lược của đối phương, đập tan âm mưu của chúng đánh chiếm địa bàn chiến lược trọng yếu Cánh Đồng Chum nhằm thu hẹp căn cứ địa của cách mạng Lào, đánh bại thêm một bước học thuyết Níchxơn ở Lào. Với thắng lợi này, ta đã thành công trong nhiệm vụ bảo vệ vùng giải phóng trọng yếu có ý nghĩa chiến lược, tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, góp phần làm thay đổi cục diện chiến trường chung, bảo đảm thế liên hoàn, vững chắc cho căn cứ địa của Lào. Hơn nữa, thắng lợi của chiến dịch đã thể hiện liên minh chiến đấu chặt chẽ, hiệu quả Việt Nam - Lào trên chủ trương cũng như trong tổ chức thực hiện, đồng thời phản ánh vai trò và sự lớn mạnh của lực lượng vũ trang cách mạng Lào trong tiến trình cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #55 vào lúc: 15 Tháng Sáu, 2023, 07:49:50 am »

NHỮNG NÉT ĐẶC SẮC VỀ CÔNG TÁC HẬU CẦN CỦA CHIẾN DỊCH PHÒNG NGỰ CÁNH ĐỒNG CHUM - XIÊNG KHOẢNG


Đại tá, PGS, TS DƯƠNG HỒNG ANH
Phó Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự - Bộ Quốc phòng


Ngay sau khi chiến dịch mùa khô 1971 - 1972 kết thúc, liên quân Lào - Việt chủ động tiến hành chiến dịch phòng ngự tại Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng, nhằm đánh bại cuộc hành quân quy mô lớn của quân phái hữu Lào và quân đội Thái Lan, bảo vệ vùng giải phóng, xây dựng căn cứ địa vững mạnh tạo thế cho cách mạng Lào phát triển1 (Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Từ điển Lịch sử quân sự Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2011, tr. 70). Đây là chiến dịch phòng ngự dài ngày, đầu tiên của Quân tình nguyện Việt Nam và Quân giải phóng nhân dân Lào trong kháng chiến chống Mỹ, cũng là lần đầu tiên trên chiến trường Lào, liên quân Việt Nam - Lào thực hiện thắng lợi chiến dịch phòng ngự quy mô lớn2 (Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử quân sự Việt Nam, Tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 330). Quá trình Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng, công tác hậu cần đã có nhiều cố gắng, đáp ứng mọi yêu cầu bảo đảm vật chất, góp phần vào thắng lợi chung của toàn chiến dịch và để lại nhiều nét đặc sắc về bảo đảm hậu cần.


1. Nhanh chóng chuyển hóa thế trận hậu cần từ bảo đảm cho tiến công sang bảo đảm cho phòng ngự

Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng là chiến dịch chuyển thể tác chiến từ chiến dịch tiến công trước đó sang phòng ngự, việc quán triệt sâu sắc quyết tâm chiến lược, nắm vững ý định chiến dịch là yêu cầu có tính nguyên tắc của công tác hậu cần, nhằm nắm vững tư tưởng chỉ đạo, phương châm tác chiến để tiến hành công tác bảo đảm hậu cần cho chiến dịch thắng lợi. Để tổ chức bảo đảm hậu cần cho các lực lượng tác chiến, lực lượng đảm bảo hậu cần phải nhanh chóng chuyển hóa thế trận từ bảo đảm cho tiến công sang bảo đảm cho phòng ngự.


Nội dung chuyển hóa thế trận hậu cần tập trung vào chuẩn bị đường vận tải, lực lượng và vật chất kỹ thuật hậu cần, xây dựng các căn cứ hậu cần trên các hướng và chuẩn bị các phương án tổ chức bảo đảm phù hợp với yêu cầu tác chiến.


Trong khi chiến dịch tiến công còn đang diễn ra, việc duy trì bảo đảm liên tục và giải quyết hậu quả, những tồn đọng của chiến dịch còn bộn bề, hậu cần chiến dịch phải tiến hành ngay công tác chuẩn bị cho chiến dịch phòng ngự tiếp theo. Mặc dù công việc nhiều, chồng lấn lên nhau song quán triệt và nắm vững được ý định của trên, mọi việc vẫn được tiến hành đầy đủ. Trong đó ưu tiên tập trung cho chuẩn bị mạng đường vận tải cơ giới và tổ chức dự trữ vật chất.


Ngay từ tháng 2, sau khi hoàn thành kế hoạch vận chuyển cho chiến dịch tiến công, 2 binh trạm vận tải chiến lược 11 và 13 đã tranh thủ những ngày mùa khô còn lại, vận chuyển vật chất cho chiến dịch phòng ngự và vận chuyển nốt những thương binh phải chữa dài ngày về hậu phương. Khi chiến dịch tiến công kết thúc, hậu cần đã dự trữ được 4.396 tấn vật chất, đủ bảo đảm cho các lực lượng tác chiến trong mùa mưa và vật chất đã được phân chia dự trữ ở hậu cần các cấp.


Về chuẩn bị mạng đường vận tải, các đơn vị công binh tích cực, chủ động sửa chữa đường, làm một số đường vòng, đường tránh, đường ngầm, cầu để đảm bảo vận tải trong mùa mưa. Việc chuẩn bị cũng được phân rõ: Hậu cần chiến dịch cùng hậu cần đơn vị chuẩn bị đường từ kho chiến dịch đến hậu cần các trung đoàn; các đơn vị chiến đấu chuẩn bị đường cơ động và đường vận tải bộ lên các cụm điểm tựa, điểm tựa phía trước. Nhờ chuẩn bị tốt mạng đường vận tải, ta đã phát huy được khả năng vận tải bằng ô tô. Trong các đợt phản đột kích, hậu cần chiến dịch đã sử dụng 3 đại đội vận tải ô tô để cơ động một bộ phận lực lượng bộ đội vào khu vực tập kết chiến đấu đúng thời gian.


Về sử dụng lực lượng hậu cần, ngoài lực lượng của hậu cần đơn vị, hậu cần chiến dịch sử dụng 3 đại đội vận tải ô tô và hơn 1.000 dân công hỏa tuyến làm nhiệm vụ cơ động lực lượng, vận chuyển bổ sung vật chất và vận chuyển thương binh, bệnh binh, về quân y, tuy không có thay đổi lớn nhưng ta có điều chỉnh, ngoài Bệnh viện 139 làm nhiệm vụ bệnh viện khu vực, còn tổ chức 1 đội điều trị, 1 đội vệ sinh phòng dịch, 1 đội chuyển thương, 1 đội an dưỡng, 1 kho thuốc và lấy quân y trung đoàn làm nòng cốt cho khu vực phòng ngự; tổ chức lực lượng quân y cơ động mạnh, tăng cường cho các cơ sở thu dung để đảm bảo khả năng giải quyết thương binh, bệnh binh tại chỗ; tiếp tế và dự trữ đủ thuốc cho từng khu vực kịp thời trước khi địch tổ chức tiến công.


Nhờ có sự chủ động chuẩn bị từ khi chiến dịch tiến công đang diễn ra và ngay khi chiến dịch tiến công vừa kết thúc nên khi chuyển sang phòng ngự, hậu cần chiến dịch đã hoàn tất công tác chuẩn bị, sẵn sàng bảo đảm cho các đơn vị làm nhiệm vụ phòng ngự và các đơn vị cơ động phản đột kích.
Đến cuối tháng 5, khi công tác tổ chức, bố trí đội hình, xây dựng công sự, trận địa phòng ngự và công tác bảo đảm hậu cần kỹ thuật cho chiến dịch của bộ đội ta cơ bản hoàn thành thì cũng là lúc mùa mưa tới. Đây là thời điểm địch mở cuộc hành quân lấn chiếm Cánh Đồng Chum1 (Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954 -1975, Tập VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr. 262).


2. Chuyển đối phương thức, từ bảo đảm theo tuyến sang bảo đảm theo khu vực phù hợp với yêu cầu bảo đảm cho loại hình tác chiến mới

Trong các chiến dịch tiến công trước đó, lực lượng hậu cần chiến dịch được tổ chức thành nhiều bộ phận, nhiều cụm kho trạm để bảo đảm cho các hướng, mũi tiến công; lực lượng hậu can chiến dịch riêng và hậu cần các đơn vị riêng, hình thành bảo đảm theo tuyến; khi kết thúc chiến dịch, hầu hết lực lượng hậu cần được rút về tuyến sau hoặc về nước, chỉ để lại một lực lượng nhỏ giải quyết hậu quả và bảo đảm cho các đơn vị ở lại bám trụ. Cuối tháng 3 năm 1972, chiến dịch tiến công còn đang diễn ra, hậu cần chiến dịch đã xây dựng phương án tổ chức lại lực lượng hậu cần chiến dịch cho phù hợp với tác chiến phòng ngự. Khi chiến dịch kết thúc, hậu cần chiến dịch đã họp nhất với hậu cần Sư đoàn 316 tổ chức lại các thành phần lực lượng, điều chỉnh lại các căn cứ hậu cần, cụm hậu cần, kho trạm.


Hai cụm kho phía trước ở Nậm Xiêm, Bản Hai, lực lượng được chuyển giao cho các trung đoàn làm nhiệm vụ phòng ngự, một bộ phận rút về phía sau. Lực lượng thuộc cụm kho phía trước ở Bản Hai giao cho hậu cần Trung đoàn 174 làm nhiệm vụ giữ khu trung gian. Lực lượng thuộc cụm kho ở Bản Khổng rút về căn cứ Noọng Pẹt - Khang Khay, một bộ phận lực lượng và vật chất giao cho Trung đoàn 866 phòng thủ khu trung tâm. Căn cứ hậu cần chiến dịch Thẩm Cập - Bản Thẩm được rút gọn lại thành cụm kho Bản Thẩm ở sau Trung đoàn 866 và cụm kho Bản Quang sau Trung đoàn 148. Căn cứ hậu cần phía sau ở Noọng Pẹt - Khang Khay - Lạt Buột vẫn được giữ nguyên để tiếp nhận vật chất do Binh trạm 11 và 13 chiến lược chuyển đến, song được tổ chức lại thành 2 đại đội. Bệnh viện 139 cũng được tổ chức thành 2 đại đội. Như vậy, khi Bộ Tư lệnh Chiến dịch tổ chức lại lực lượng tác chiến thì hậu cần chiến dịch cũng kịp thời điều chỉnh lại lực lượng hậu cần cho phù hợp. Từ 2 cụm hậu cần và 1 căn cứ hậu cần phía trước được rút lại thành 1 cụm kho phía trước, không tổ chức của hậu cần sư đoàn mà tăng cường lực lượng cho hậu cần các trung đoàn. Lực lượng hậu cần chiến dịch hình thành 1 căn cứ hậu cần phía sau, 1 cụm kho hậu cần phía trước và hậu cần của các trung đoàn được tăng cường lực lượng làm nhiệm vụ phòng ngự. Cách tổ chức này đã hình thành thế bảo đảm theo khu vực, chứ không còn bảo đảm theo tuyến như trong chiến dịch tiến công.


Nhiệm vụ của căn cứ hậu cần, cụm hậu cần là dự trữ vật chất, vận chuyển bổ sung vật chất, bảo đảm quân y và bảo đảm sinh hoạt cho các đơn vị theo phân cấp quy định. Căn cứ hậu cần, cụm hậu cần là tổ chức cơ sở của hậu cần chiến dịch, có đủ khả năng bảo đảm theo yêu cầu tác chiến trên từng khu vực. Để thực hiện được nhiệm vụ đó, tổ chức cơ quan và phân đội của căn cứ hậu cần phải mạnh, có đủ lực lượng và các phân đội như kho tàng, xếp dỡ, vận tải (cơ giới, thủy, bộ) điều trị, chuyển thương và vệ sinh phòng dịch. Ngoài ra, căn cứ hậu cần còn được tăng cường lực lượng công binh chiến dịch để quản lý, bảo dưỡng, sửa chữa đường, làm công sự, hầm cho thương binh, kho; lực lượng cao xạ để bảo vệ vận tải, lực lượng thông tin liên lạc và lực lượng cảnh vệ để bảo vệ căn cứ.


Về cơ bản, hậu cần Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng đã tổ chức đủ các căn cứ hậu cần, cụm hậu cần bảo đảm cho các khu vực phòng ngự, trong từng căn cứ, lực lượng hậu cần cũng được biên chế, sắp xếp tương đối đầy đủ. Căn cứ hậu cần chủ yếu Noọng Pẹt, các kho trạm được tổ chức thành 2 đại đội. Bệnh viện 139 làm nhiệm vụ bệnh viện khu vực của mặt trận lực lượng quân y tổ chức thành 1 đội điều trị, 1 đội vệ sinh phòng dịch, 1 đội chuyển thương, 1 đội an dưỡng, 1 kho thuốc và 5 đại đội quân y trung đoàn.


Đồng thời hậu cần chiến dịch triển khai cơ quan, phân đội, kho trạm cùng cơ sở vật chất hậu cần kỹ thuật vào những vị tri thích hợp đã được lựa chọn và chuẩn bị trước, phù hợp với thế trận phòng thủ của chiến dịch, nhằm tạo thế trận hậu cần liên hoàn, vững chắc, thuận lợi đê tiến hành các hoạt động bảo đảm hậu cần có hiệu quả cao, đáp ứng kịp thời mọi yêu cầu, nhiệm vụ tác chiến.


Các căn cứ, cụm hậu cần chiến dịch được bố trí phù hợp với thế bố trí lực lượng, đội hình tác chiến của chiến dịch, có sự kết hợp chặt chẽ giữa tập trung có trọng điểm với phân tán thích hợp, có khả năng cơ động chuyển hóa thế nhanh đáp ứng kịp thời trong mọi tinh huông. Các căn cứ hậu cần chiến dịch bố trí theo khu vực phòng ngự, đồng thời gắn với hậu cần chiến lược và hậu cần các đơn vị, sẵn sàng cơ động bảo đảm cho các đợt phản đột kích. Trong chiến dịch, bố trí căn cứ hậu cần chiến dịch ở khu vực Noọng Pẹt - Khang Khay - Lạt Buột, phía trước là các cụm kho Bản Thẩm ở sau Trung đoàn 866 và cụm kho Bản Quang sau Trung đoàn 148 phía sau là Binh trạm 11 và Binh trạm 13 của hậu cần chiến lược Việc bố trí đã hình thành thế bảo đảm hậu cần theo khu vực, có thể hỗ trợ, chi viện lẫn nhau trong quá trình chiến đấu.


Các căn cứ hậu cần được bố trí theo khu vực, gắn với hậu cần chiến lược và hậu cần các đơn vị, tạo thế bảo đảm theo khu vực, đáp ứng đầy đủ yêu cầu bảo đảm cho lực lượng tác chiến phòng thủ và sẵn sàng cơ động theo đội hình phản đột kích. Theo phân cấp, hậu cần chiến lược bảo đảm đầy đủ cho chiến dịch tác chiến. Do vậy, bố trí các căn cứ hậu cần chiến dịch nơi thuận tiện cho vận tải chiến lược giao vật chất và chuyển thương bệnh binh về phía sau. Cự ly giữa căn cứ hậu cần chiến dịch với căn cứ hậu cần chiến lược ở phía sau và với hậu cần các đơn vị ở phía trước thích hợp với các cung độ vận chuyển bằng các loại phương tiện sử dụng (cơ giới - ô tô, thô sơ - sức người), có mạng đường vận tải thường xuyên được bảo đảm thông suốt và có đủ diện tích triển khai các kho trạm dự trữ vật chất, bí mật, an toàn. Hệ thống các căn cứ hậu cần chiến dịch, chiến lược và hậu cần đơn vị tạo thành thế liên hoàn, vững chắc, gắn bó chặt chẽ với nhau, tuyến trên chỉ đạo, chi viện, hỗ trợ được cho tuyến dưới, từng tuyến chi viện, hỗ trợ được cho nhau. Trong chiến dịch phòng ngự có các đợt phản đột kích, căn cứ hậu cần chiến dịch luôn có lực lượng cơ động sẵn sàng bám sát với đội hình tác chiến, tiến hành các mặt bảo đảm được liên tục, kịp thời.


Việc di chuyển, triển khai bố trí lại các cụm hậu cần đã hình thành thế bảo đảm theo khu vực khá hoàn chỉnh. Lực lượng hậu cần được sử dụng một cách hợp lý, gọn, mạnh theo từng khu vực phòng ngự, tạo được thế liên hoàn vững chắc. Các khu vực triển khai hậu cần đều bố trí ở phía sau khu vực phòng ngự và được chuẩn bị đủ công sự, hầm hào, kho trạm để tiếp nhận, dự trữ vật chất, cứu chữa thương binh. Trong quá trình tác chiến chiến dịch, các trung đoàn 174, 866 khi cần có thể nhận vật chất và gửi thương bệnh binh ở cụm hậu cần của trung đoàn hoặc cụm hậu cần chiến dịch ở Bản Thẩm. Trong chiến dịch này, quân y chiến dịch đã cứu chữa cho 1.320 thương binh, với 12,47% là thương binh nặng, 30% thương binh vừa và 57% thương binh nhẹ.


Sự điều chỉnh lực lượng và bố trí hậu cần như vậy đã hình thành thế bảo đảm theo khu vực ở từng khu vực phòng ngự, có hậu cần trung đoàn và có cụm kho của hậu cần chiến dịch. Do nắm được ý định của trên, hậu cần chiến dịch đã nhanh chóng chuyển phương thức từ bảo đảm theo tuyến cho chiến dịch tiến công chuyển sang bảo đảm theo khu vực cho chiến dịch phòng ngự.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #56 vào lúc: 15 Tháng Sáu, 2023, 07:51:17 am »

3. Tổ chức hiệp đồng, phối hợp chặt chẽ với bạn trong bảo đảm hậu cần và thực hiện nhiệm vụ đối ngoại quốc phòng

Trong chiến dịch phòng ngự ở Cánh Đồng Chum 1972 kết qụa sự phối hợp chiến đấu giữa bạn và ta không những có ý nghĩa về quân sự mà còn có ý nghĩa về chính trị, góp phần củng cố thêm khối đoàn kết liên minh chiến đấu giữa hai lực lượng trong chiến đấu chống kẻ thù chung. Đây là nhiệm vụ đặc biệt mà Đảng ta đã giao cho quân đội, nhằm phát huy sức mạnh đoàn kết giữa hai dân tộc trong tác chiến cũng như bảo đảm hậu cần chiến dịch.


Quân tình nguyện Việt Nam đánh địch trên đất bạn nhưng mọi mặt bảo đảm phải đưa từ miền Bắc Việt Nam sang. Địa bàn chiến dịch đường sá ít và kém phát triển, về mùa mưa sông suối nước lớn chia cắt từng khu vực, cơ động lực lượng, vận chuyển tiếp tế rất khó khăn1 (Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Tổng kết tác chiến phòng ngự trong kháng chiến chống thực dãn Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược 1945 - 1975, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2010, tr. 273). Địch đã triệt để lợi dụng khó khăn, nhược điểm này của ta để đánh phá ác liệt bằng mọi biện pháp như dùng hỏa lực không quân, đổ quân biệt kích, các toán phỉ chốt đường phá hoại... Mưu đồ của Mỹ và tay sai là cô lập phía trước với phía sau của ta, buộc ta phải phân tán đối phó. Trong điều kiện ấy, hậu cần chiến dịch thường xuyên giáo dục quán triệt quan điểm “Đông Dương là một chiến trường”, “Giúp bạn là mình tự giúp mình” của Đảng; đồng thời tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo phát huy sức mạnh đoàn kết Việt - Lào về đảm bảo hậu cần cho tác chiến nói chung, chiến dịch phòng ngự nói riêng, đặc biệt là trong bảo đảm hậu cần cho các lực lượng tham gia chiến dịch.


Bạn và ta cùng thống nhất nhiệm vụ đánh kẻ thù chung, nhưng giữa ta và bạn lại là hai lực lượng riêng biệt, chịu sự lãnh đạo, chỉ huy của hai Đảng, hai Nhà nước, hai quân đội khác nhau. Bởi vậy, việc tôn trọng độc lập, tự chủ của bạn, giữ vững quan hệ bình đẳng là những nguyên tắc cơ bản mà quân tỉnh nguyện phải quán triệt trong cả nhận thức tư tưởng cũng như trong tổ chức hành động. Ta có thuận lợi cơ bản là tình đoàn kết liên minh chiến đấu Việt - Lào đã được củng cố và thử thách qua quá trình lâu dài phối hợp làm nhiệm vụ chung dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng hai nước. Tuy nhiên, sự có mặt của Quân tình nguyện Việt Nam trên đất Lào là một vấn đề mà bọn tay sai phản động thường xuyên lợi dụng để công kích, xuyên tạc, kích động tinh thần dân tộc hẹp hòi nhằm chia rẽ, làm suy yếu liên minh chiến đấu Việt - Lào. Những năm 1971 - 1972, tình hình chính trị - xã hội của bạn còn nhiều phức tạp, những luận điệu tuyên truyền của địch có tác động không tốt trong nhân dân Lào.


Chính vì thế, cũng như trước đây, các đơn vị quân tình nguyện nói chung, lực lượng hậu cần chiến dịch này nói riêng đã quán triệt sâu sắc các quan điểm của Đảng, chấp hành nghiêm chính sách đoàn kết chống kẻ thù chung của hai dân tộc. Suốt quá trình chiến dịch, lực lượng hậu cần đã thể hiện đầy đủ nhất bản chất cách mạng của một quân đội tình nguyện thực hiện nghĩa vụ quốc tế. Việc huy động nhân tài, vật lực của nhân dân địa phương đều phải có sự nhất trí cao giữa bạn và ta, nhất thiết không tuỳ tiện- đề cao ý thức tổ chức kỷ luật trong công tác bảo vệ và phối hợp bảo đảm hậu cần cho chiến dịch phòng ngự.


Thực tế Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng còn cho thấy, lực lượng hậu cần đã được nhân dân và các đơn vị của bạn hết sức tin tường, giúp đỡ. Nhân dân địa phương của bạn, mặc dù thưa thớt, thiếu đói, nhất là sau các cuộc hành quân càn quét của địch, vẫn hết lòng ủng hộ bộ đội tình nguyện nhất là ủng hộ vật liệu xây dựng, củng cố hầm hào, công sự chiến đấu và kho trạm dự trữ vật chất hậu cần. Hậu cần các đơn vị ta lại trích một phần lương thực, thực phẩm để cứu trợ nhân dân bạn; lực lượng quân y chiến dịch tích cực thu dung, cứu chữa cho cả nhân dân và thương, bệnh binh của bạn... Sự phối hợp, giúp đỡ ủng hộ của hậu cần Việt Nam và bạn đã tạo thuận lợi nhiều mặt cho công tác bảo đảm hậu cần để chiến dịch phòng ngự giành thắng lợi.


Trình độ và khả năng về nghiệp vụ bảo đảm giữa bạn và ta còn chênh lệch, nên trong quá trình chiến đấu, lực lượng của ta phải phát huy nỗ lực, tự giác đảm nhiệm các địa bàn xung yếu với tinh thần nhận phân khó về mình, nhường và tạo thuận lợi cho bạn. Phân công, phân nhiệm rành mạch, mỗi lực lượng đảm trách từng khu vực để bạn có thể phát huy tính chủ động, độc lập trong bảo đảm và tác chiến. Tuy nhiên, ta không khoán trắng cho bạn mà phải có kế hoạch và lực lượng sẵn sàng chi viện cho bạn trong những trường hợp cần thiết.


Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng mùa mưa năm 1972 là lần đầu tiên Quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với Quân giải phóng nhân dân Lào tổ chức một chiến dịch phòng ngự hoàn chỉnh với cách đánh sáng tạo, hiệu quả, để lại nhiều bài học quý. Kết quả toàn chiến dịch ta đã loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 5.600 tên (bắt 179), thu 859 súng các loại (có 4 khẩu pháo 105mm, 4 khẩu cối 106,7mm) bắn rơi 38 máy bay1 (Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Từ điển Lịch sử quân sự Việt Nam, Sđd, tr. 72). Khẳng định chiến dịch phòng ngự là một hình thức chiến dịch tất yếu trong quá trình chiến tranh. Điểm nổi bật của chiến dịch này là đã hình thành phòng ngự khu vực lấy điểm tựa, cụm điểm tựa làm nòng cốt, có lực lượng cơ động khá mạnh để thực hành phản kích và phản đột kích2 (Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử nghệ thuật chiến dịch Việt Nam (1945 - 1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995, tr. 439). Nét đặc sắc về công tác hậu cần chiến dịch này là nghệ thuật chuyển hóa thế trận về hậu cần; nhanh chóng chuyển phương thức từ bảo đảm theo tuyến chuyển sang bảo đảm theo khu vực; hậu cần chiến dịch đã phối hợp chặt chẽ với hậu cần và địa phương của bạn để khai thác, huy động nhân lực, vật chất tại chỗ. Thành công của công tác hậu cần Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng đã để lại nhiều kinh nghiệm quý để nghiên cứu vận dụng trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #57 vào lúc: 15 Tháng Sáu, 2023, 07:52:50 am »

SỬ DỤNG TĂNG THIẾT GIÁP TRONG CHIẾN DỊCH PHÒNG NGỰ
CÁNH ĐỒNG CHUM - XIÊNG KHOẢNG


Thiếu tướng ĐỖ ĐÌNH THANH
Tư lệnh Binh chủng Tăng thiết giáp


Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng, lần đầu tiên bộ đội ta tổ chức một chiến dịch phòng ngự chủ động, hoàn chỉnh, liên minh chiến đấu với lực lượng vũ trang cách mạng Lào và đã giành thắng lợi to lớn, đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn của quân phái hữu Lào và quân đánh thuê Thái Lan; giữ vững địa bàn chiến lược Cánh Đồng Chum, hoàn thành nhiệm vụ chiến lược được giao, góp phần đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân hai nước Việt Nam, Lào phát triển. Thắng lợi của Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng, đánh dấu bước phát triển mới về nghệ thuật sử dụng tăng - thiết giáp.


Lực lượng tăng thiết giáp tham gia Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng gồm có Tiểu đoàn Tăng 195A, gồm 18 xe tăng các loại (6 xe T-59, 6 xe T-34 và 6 xe K-63)1 (Xe K-63 do Trung Quốc sản xuất năm 1963, dựa trên xe PT-76 của Liên Xô, khung gầm có kích thước lớn hơn một chút và được trang bị pháo 85mm, nòng trơn thay vì pháo 76,2mm của PT-76). Bộ Tư lệnh Chiến dịch sử dụng làm 2 lực lượng: Lực lượng phòng ngự trận địa và lực lượng cơ động. Lực lượng phòng ngự trận địa có Đại đội Tăng 8 (thiếu) gồm 6 xe (4 xe T-34, 2 xe K-63), tăng cường cho Trung đoàn Bộ binh 866, đảm nhiệm phòng ngự khu trung tâm Cánh Đồng Chum và Noọng Pẹt. Lực lượng cơ động là Đại đội Tăng 9 gồm 12 xe (6 xe T-59, 2 xe T-34 và 4 xe K-63) tập kết ở Bản Phát và Bản Noọng, làm nhiệm vụ cơ động, sẵn sàng phối hợp với bộ binh trên các hướng đánh các trận then chốt chiến dịch và xử trí các tình huống trong quá trình phòng ngự. Cả hai lực lượng này được sử dụng chủ yếu trong đợt 2 và đợt 4 của chiến dịch.


Ngày 21 tháng 5 năm 1972, địch bắt đầu sử dụng hỏa lực không quân và pháo binh tập kích các điểm cao khống chế khu vực trung gian. Dựa vào công sự, trận địa, xe tăng - thiết giáp cùng các lực lượng khác kiên cường bám trụ, chủ động và linh hoạt chiến đấu, hiệp đồng và chi viện cho nhau, đẩy lùi nhiều đợt xung phong của địch. Sau đợt giành giật với ta không thành công ở khu vực trung gian, từ ngày 11 tháng 8, địch tập trung trên 40 tiểu đoàn mở cuộc tiến công lớn trên 3 hướng Tây, Tây Nam và hướng Nam, đồng thời bất ngờ đổ quân bằng máy bay lên thẳng ở hướng Tây Bắc Cánh Đồng Chum, hình thành hướng tiến công chủ yếu thọc sâu vào trung tâm Cánh Đồng Chum. Sau khi hoàn thành mọi công tác chuẩn bị, chiều ngày 30 tháng 8, Đại đội Tăng 9 tham gia phản kích phối hợp hiệp đồng với các trung đoàn bộ binh tiêu diệt địch đang co cụm ở Bản Sang. Thấy xe tăng ta xuất hiện, địch hoang mang, tháo chạy hỗn loạn, xô nhau vượt sông, bị nước lũ cuốn trôi khoảng 200 tên, số còn lại chạy về hướng đồi Năm Mỏm. Tại đây, địch bị lực lượng của Trung đoàn 866 đón đánh, diệt gọn. Ngày hôm sau, xe tăng và bộ binh ta tiếp tục truy quét tàn quân địch diệt 429 tên địch, bắt 35 tên1 (Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng mùa mưa 1972, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1987, tr.41). Đến ngày 3 tháng 9, trận phản đột kích kết thúc thắng lợi, hai binh đoàn cơ động GM 21 và GM 26 quân phái hữu Lào bị đánh thiệt hại nặng, ta thu nhiều vũ khí trang bị.


Đến tháng 10 năm 1972, trong thế bị thúc ép về chính trị và mùa mưa sắp hết, quân địch lại dốc sức tập trung mở cuộc tiến công đánh chiếm bằng được bàn đạp phía Nam Cánh Đồng Chum. Phát huy thắng lợi vừa giành được các đợt trước, ta tập trung lực lượng đánh trận then chốt quyết định nhằm bẻ gãy cuộc tiến công quy mô lớn của địch ra Cánh Đồng Chum. Bộ Tư lệnh Chiến dịch chủ trương sử dụng lực lượng thích hợp tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, kịp thời ngăn chặn các mũi tiến công của địch, tạo thế, tạo thời cơ thực hành phản đột kích đánh bại hoàn toàn cuộc tiến công của địch.


Ngày 9 tháng 10, Đại đội Tăng 9 (7 xe) hiệp đồng cùng Tiểu đoàn 924 Trung đoàn Bộ binh 866 được hỏa lực pháo binh chi viện đánh bật quân địch ra khỏi các vị trí quan trọng ở Bản Ngua, Bản Xứt, Bản Khổng, các điểm cao 1228 và 1239. Ngay sau đó, địch cho bộ binh có pháo binh và không quân yểm trợ, chiếm lại các điểm cao 1228 và 1239, nhưng chúng đã bị bộ binh và xe tăng ta bao vây chặt1 (Binh chủng Tăng thiết giáp, Lịch sử nghệ thuật sử dụng tăng - thiết giáp trong chiến dịch (1959 - 1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr. 114).


Ngày 26 tháng 10, Bộ Tư lệnh Chiến dịch quyết định đánh trận phản đột kích vào cụm lớn quân địch ở cánh đồng Căng Xẻng (trận then chốt quyết định của chiến dịch). Đại đội Tăng 9 hiệp đồng với Trung đoàn Bộ binh 148, Trung đoàn Bộ binh 335 (Sư đoàn Bộ binh 316) và Tiểu đoàn Bộ binh 924 (Trung đoàn Bộ binh 866) cùng 1 đại đội xe tăng (5 xe), được 2 cụm pháo binh chiến dịch trực tiếp chi viện, bất ngờ đồng loạt nổ súng tiến công vào đội hình quân địch đang tập trung trước các mục tiêu dự định tiến công. Tiểu đoàn Bộ binh 924 (Trung đoàn Bộ binh 866) cùng đại đội tăng (có 5 xe tăng và 3 xe thiết giáp đánh chiếm các điểm cao 1228 và 1239, sau đó phát triển xuống phía Nam phá vỡ đội hình địch, dồn chúng vào khu quyết chiến ở Cha Ho, Bản Hai, Bản Phồn, phối hợp với 2 trung đoàn 335 và 148 hợp vây tiêu diệt. Bị đánh bất ngờ, địch hoang mang rối loạn, chống lại yếu ớt rồi tháo chạy về phía Nam. Trong trận này, lực lượng xe tăng ta đã góp phần cùng bộ binh và các đơn vị bạn giành thắng lợi lớn. Sau khi bị đánh thiệt hại nặng ở cánh đồng Căng Xẻng ngày 26 tháng 10, địch vội điều GM 28 từ hướng Đông Bắc và Khang Kho lên tổ chức phòng ngự tại các khu vực ở Đông Nam Cánh Đồng Chum. Thực hiện chỉ đạo của Bộ Tư lệnh Chiến dịch, các đơn vị bộ binh ta tiếp tục vây đánh địch co cụm, quét địch ra khỏi các địa bàn. Ngày 3 tháng 11, ta nổ súng đánh tan 2 cụm phòng ngự địch tại Phu Tu Ngua, Nậm Cọ. Ngày 14 tháng 11, ta tổ chức đánh tiếp các cụm địch còn lại, nhanh chóng khôi phục lại toàn bộ trận địa phòng ngự ở hướng Đông Nam Cánh Đồng Chum và kết thúc chiến dịch.


Như vậy, tham gia Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng, Tiểu đoàn Tăng 195A cùng các đơn vị binh chủng hợp thành và Quân giải phóng nhân dân Lào đã giành thắng lợi, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, loại khỏi vòng chiến đấu 5.759 tên địch, trong đó bắt 179 tên, đánh thiệt hại và thiệt hại nặng 8 binh đoàn cơ động quân phái hữu Lào và 3 tiểu đoàn quân đánh thuê Thái Lan. Nghiên cứu Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng năm 1972 có thể đúc rút một số bài học kinh nghiệm chủ yếu về nghệ thuật sử dụng tăng - thiết giáp, đó là:


Thứ nhất, vận dụng linh hoạt các hình thức chiến thuật, thủ đoạn chiến đấu; sử dụng lực lượng, phương pháp phát triển chiến đấu thích hợp

Thực tiễn chiến đấu chứng minh, trong Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng, lực lượng tăng - thiết giáp đã vận dụng linh hoạt các hình thức chiến thuật, thủ đoạn chiến đấu như: Phản đột kích (đánh địch trong phòng ngự, từ trong công sự kết hợp xuất kích ngắn), phòng ngự trận địa, tập kích hỏa lực, bắn ngắm trực tiếp, đột phá, đột kích, thọc sâu, đánh địch rút chạy, dùng xung lực kết hợp với hỏa lực để tiêu diệt địch. Quy mô sử dụng lực lượng linh hoạt theo tính chất của từng trận đánh. Lực lượng tăng - thiết giáp được sử dụng tập trung để đánh các trận then chốt, then chốt quyết định góp phần giữ vững khu vực phòng ngự: Trận phản kích tiêu diệt địch co cụm ở khu vực Căng Xẻng, người chỉ huy binh chủng hợp thành đã sử dụng lực lượng xe tăng - thiết giáp đúng nguyên tắc, sử dụng 1/3 lực lượng làm nhiệm vụ phòng ngự trận địa (6/18 xe tăng) trên hướng chủ yếu của chiến dịch, 2/3 lực lượng làm nhiệm vụ cơ động (12/18 xe tăng). Từng trận đánh vận dụng linh hoạt phương pháp tác chiến, điều đó đã chứng minh trình độ tổ chức, chỉ huy, bảo đảm của cán bộ chỉ huy đã phát triển lên một bước mới. Công tác tổ chức, chỉ huy, bảo đảm được tiến hành liên tục và hiệu quả cao nên đã phát huy được sức mạnh của vũ khí kỹ thuật hiện đại, đạt hiệu suất chiến đấu cao trong suốt quá trình phòng ngự của chiến dịch.


Thứ hai, xác định đúng khu vực, hướng, trận địa phòng ngự, khu bố trí lực lượng tăng - thiết giáp cơ động

Xác định khu vực, hướng, trận địa phòng ngự, khu bố trí lực lượng cơ động trong phòng ngự có vị trí, vai trò rất quan trọng nhằm tổ chức, bố trí lực lượng, xây dựng hệ thống công sự, trận địa phòng ngự, tạo thành thể liên hoàn vững chắc, phát huy được hỏa lực phù hợp với các loại binh khí kỹ thuật.


Thực tiễn Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng do lực lượng xe tăng, xe thiết giáp tham gia phòng ngự trận địa số lượng ít (6 xe tăng), nên được giao nhiệm vụ phòng ngự giữ chắc khu vực Phu Hè là mục tiêu then chốt án ngữ trung tâm khu vực phòng ngự, ngăn chặn địch tiến công từ hướng Tây, Tây Nam vào trung tâm Cánh Đồng Chum (đây cũng là hướng phòng ngự chủ yếu của ta); lực lượng xe tăng cơ động sẵn sàng đánh địch trên các khu vực dự kiến trước và xử trí các tình huống bố trí ở Bản Phát, Bản Noọng, tiện triển khai đánh địch trên các hướng, bảo đảm bí mật, an toàn, phù hợp với tính năng hỏa lực, khả năng cơ động của xe tăng. Mặc dù phạm vi đảm nhiệm rộng, chiều sâu lớn nhưng Bộ Tư lệnh Chiến dịch đã vận dụng tốt nguyên tắc phòng ngự có trọng điểm kết hợp với tiến công rộng khắp, nên lực lượng tăng - thiết giáp đã hiệp đồng chặt chẽ với các đơn vị binh chủng hợp thành và Quân giải phóng nhân dân Lào để càng đánh càng mạnh, khí thế chiến đấu càng cao, trận sau của chiến dịch hiệu quả hơn trận trước.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #58 vào lúc: 15 Tháng Sáu, 2023, 07:53:16 am »

Thứ ba, bảo đảm bí mật, bất ngờ về tổ chức lực lượng và thời cơ sử dụng xe tăng - thiết giáp cơ động trong phòng ngự

Bảo đảm bí mật, bất ngờ về tổ chức lực lượng và thời cơ sử dụng lực lượng xe tăng cơ động có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Bí mật lực lượng là để tạo bất ngờ, nhất là việc sử dụng lực lượng tăng - thiết giáp làm lực lượng cơ động trong phòng ngự, đây là nét nổi bật, đặc trưng, đặc sắc mới trong nghệ thuật tác chiến của xe tăng - thiết giáp nhằm đạt hiệu quả chiến đấu cao, kịp thời xử trí các tình huống trong phòng ngự. Thực tiễn Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng đã chứng minh lực lượng tăng - thiết giáp lần đầu tiên triển khai nhiệm vụ phòng ngự ở quy mô chiến dịch một cách hoàn chỉnh, lực lượng xe tăng ít so với xe tăng địch, nhưng Bộ Tư lệnh Chiến dịch đã sử dụng tập trung, ưu tiên cho các trận then chốt ở đợt 2 và đợt 4 của chiến dịch. Trong suốt quá trình phòng ngự, bộ đội tăng - thiết giáp đã chấp hành nghiêm mệnh lệnh, bảo đảm bí mật tuyệt đối, nên đã tạo nên yếu tố bất ngờ trong trận then chốt. Trong đợt 2 của chiến dịch, xe tăng tham gia trận phản kích 1, đã phối hợp hiệp đồng với bộ binh tiêu diệt địch đang co cụm ở Bản Kang, gây cho địch bất ngờ, khiến địch hoang mang tháo chạy hỗn loạn. Trong đợt 4 của chiến dịch Bộ Tư lệnh Chiến dịch đã sử dụng lực lượng tăng - thiết giáp đúng thời cơ vào trận then chốt quyết định, tham gia trận phản kích 2 Đại đội Tăng 9 hiệp đồng cùng Trang đoàn Bộ binh 148, Trung đoàn Bộ binh 335 (Sư đoàn Bộ binh 316) và Tiểu đoàn Bộ binh 924 Trung đoàn Bộ binh 866, bất ngờ đồng loạt nổ súng tiến công vào đội hình quân địch đang co cụm, chiếm lại các điểm cao 1228 và 1239, càng khẳng định yếu tố bí mật bất ngờ được phát huy tốt trong chiến dịch. Ngoài ra, biện pháp giữ bí mật chỉ huy, thông tin liên lạc được bảo đảm tuyệt đối, các đại đội báo cáo tiểu đoàn băng thông tin vận động, đồng thời các trận đánh được giữ bí mật từ cơ động lực lượng, ý định sử dụng lực lượng, hướng, thời cơ sử dụng, nhất là bí mật cách đánh.


Thứ tư, làm tốt công tác chuẩn bị các mặt, phân công giao nhiệm vụ chặt chẽ cho các bộ phận

Chuẩn bị chu đáo, cụ thể, tỷ mỷ, phân công giao nhiệm vụ cho các bộ phận chặt chẽ là yếu tố tạo lên thành công của chiến dịch. Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng ta có thời gian chuẩn bị dài ngày, lực lượng tăng - thiết giáp đã làm tốt công tác chuẩn bị từ con người, vũ khí trang bị, xây dựng kế hoạch phòng ngự khoa học, khả thi; trinh sát khu phòng ngự chặt chẽ, tỷ mỷ; xây dựng hệ thống công sự, trận địa liên hoàn vững chắc, nắm chắc địch, hiệp đồng chặt chẽ với các lực lượng, nên các đợt chiến dịch đã đạt được hiệu suất chiến đấu cao khi có lực lượng tăng - thiết giáp tham gia. Chỉ huy các cấp đã phân công giao nhiệm vụ cụ thể cho từng bộ phận, có kế hoạch thường xuyên bổ sung quân số, khí tài, lương thực thực phẩm bảo đảm cho các trung đội tăng phòng ngự trận địa ở Phu Hè, nên đã bảo đảm cho bộ đội chiến đấu phòng ngự liên tục, dài ngày.


Những bài học kinh nghiệm rút ra từ sử dụng lực lượng tăng - thiết giáp trong chiến dịch phòng ngự cách đây đã 50 năm vẫn còn nguyên giá trị cả về lý luận và thực tiễn. Hiện nay, trước yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, việc nâng cao trình độ và khả năng chiến đấu của Quân đội ta là vấn đề vừa cấp thiết trước mắt, vừa có tính cơ bản lâu dài; lực lượng tăng - thiết giáp chiến đấu trong điều kiện tác chiến mới, địch sử dụng rộng rãi vụ khí công nghệ cao, tác chiến điện tử mạnh, nên phải tổ chức huấn luyện chặt chẽ, đặc biệt là trong phòng tránh, đánh địch tiến công hỏa lực; việc di, dịch chuyển bảo toàn lực lượng; huấn luyện toàn diện, trọng tâm quy mô cấp đại đội và biết dựa vào thế trận chiến tranh nhân dân, thế trận khu vực phòng thủ địa phương để tổ chức bố trí lực lượng phân tán, bí mật, tăng cường các biện pháp ngụy trang kết hợp nghi binh, xây dựng hệ thống công sự ẩn nấp cho người, cho xe tăng để phân tán hỏa lực của địch. Phối hợp chặt chẽ các lực lượng phòng không trong khu vực phòng thủ, phòng ngự với hỏa lực phòng không trên xe tăng, xe thiết giáp để bảo vệ lực lượng tăng - thiết giáp. Việc tổ chức nghiên cứu, tổng kết hoạt động tác chiến của lực lượng tăng - thiết giáp trong Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng cũng nhằm tiếp tục khẳng định vai trò, vị trí của lực lượng tăng - thiết giáp trong chiến tranh giải phóng dân tộc và vận dụng những bài học kinh nghiệm quý báu đó vào xây dựng và huấn luyện nâng cao trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu cho bộ đội tăng - thiết giáp hiện nay.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #59 vào lúc: 15 Tháng Sáu, 2023, 07:54:42 am »

LỰC LƯỢNG ĐẶC CÔNG TRONG CHIẾN DỊCH PHÒNG NGỰ
CÁNH ĐỒNG CHUM - XIÊNG KHOẢNG


Thiếu tướng PHAN THẾ BA
Tư lệnh Binh chủng Đặc công


Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng là địa bàn có ý nghĩa chiến lược quan trọng đối với cách mạng Lào nói riêng, cách mạng ba nước Đông Dương nói chung. Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đặc biệt từ năm 1969, địch tăng cường các hoạt động quân sự, nhằm chiếm bằng được địa bàn này. Theo đó, các hoạt động quân sự địch, ta diễn ra rất quyết liệt theo quy luật: Mùa khô ta đánh địch, giành quyền làm chủ; mùa mưa địch nống ra chiếm lại. Khăc phục tình trạng này, sau chiến dịch tiến công thu hồi Cánh Đồng Chum và tiến sâu vào Sảm Thông - Loong Chẹng trong mùa khô 1971 - 1972, liên quân Việt Nam - Lào quyết định tổ chức Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng trong mùa mưa. Từ ngày 21 tháng 5 đến ngày 15 tháng 11 năm 1972, chiến dịch diễn ra và giành thắng lợi, góp phần đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn có ý nghĩa chiến lược của địch, bảo vệ vững chắc vùng giải phóng, giữ chắc thế chiến lược của ta ở Bắc Lào và bảo vệ sườn phải cho 2 chiến dịch Trị - Thiên và Bắc Tây Nguyên trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972 trên chiến trường miền Nam Việt Nam.


Cùng với các lực lượng tham gia chiến dịch, các đơn vị bộ đội Đặc công có Tiểu đoàn Đặc công 27 của Bộ, Tiểu đoàn Đặc công 41 của Quân khu Tây Bắc và các đại đội đặc công của các trung đoàn bộ binh (174, 148, 866, 335). Trong thế trận chủ động tiến công địch từ sớm, từ xa của lực lượng cơ động chiến dịch, Bộ Tư lệnh Chiến dịch quyết định tổ chức Tiểu đoàn Đặc công 41 ở Na Bầu (Đông Bắc Xiêng Khoảng). Nhiệm vụ của lực lượng đặc công là luồn sâu vào hậu phương, phía sau đội hình địch, tập kích vào vị trí trọng yếu của địch trên các hướng phòng ngự của ta bị địch uy hiếp.


Đợt 1 của chiến dịch (21.5 - 10.8.1972), trong khi các lực lượng (phòng ngự và cơ động) của chiến dịch tập trung ngăn chặn, đánh bật địch ra khỏi khu trung gian (khu tiếp giáp giữa Cánh Đồng Chum với các căn cứ địch), không để chúng lấn chiếm tạo bàn đạp triển khai lực lượng tiến công lớn vào Cánh Đồng Chum từ hướng Tây Nam, lực lượng đặc công đã bí mật vượt qua khu trung gian, luồn sâu vào trong đội hình quân địch tại Loong Chẹng, hiệp đồng với pháo tầm xa của chiến dịch liên tiếp tập kích các vị trí trọng yếu trong khu Sở Chỉ huy của Vàng Pao, sân bay Loong Chẹng, phá hủy các kho tàng, trận địa hỏa lực... Cùng với đó, một bộ phận đặc công tổ chức chốt giữ một số điểm cao ở phía Bắc thị xã Xiêng Khoảng, hiệp đồng với các lực lượng bạn chiến đấu bảo vệ khu vực thị xã và các vùng xung quanh. Kết quả, với tinh thần mưu trí, dũng cảm, các đơn vị bộ đội Đặc công không những gây thiệt hại nặng cho địch về sinh lực và phương tiện chiến tranh mà còn gây rối loạn đội hình phía sau chúng; phối hợp có hiệu quả với các lực lượng của chiến dịch, góp phần đánh bại đợt tiến công của địch, giữ vững khu vực trung gian (Tây Nam Cánh Đồng Chum) và toàn bộ trận địa phòng ngự.


Trong những đợt tác chiến tiếp theo của chiến dịch (đợt 2: 11.8 - 10.9.1972), địch chuyển hướng tiến công vào Cánh Đồng Chum, sử dụng 4 GM tiến công đường bộ theo 3 hướng (Đông Nam, Tây và Đông Bắc), kết hợp với 2 GM đổ bộ đường không xuống Phu Keng tiến công hướng Tây Bắc. Ta kịp thời ngăn chặn, đẩy lui địch ở Phu Luông, Phu Hủa Sang, Phu Thông, đồi Năm Mỏm, Điểm cao 1294, Bản Lao, Phu Học, đồng thời tập trung lực lượng thực hiện thắng lợi trận phản đột kích then chốt ở Phu Keng tiêu diệt và bắt hơn 700 địch (30.8 - 3.9), giữ vững trận địa; đợt 3 (11 - 30.9.1972), địch tăng cường lực lượng (6 GM và 3 tiểu đoàn) chuyển hướng tiến công sang hướng Tây là chính, đồng thời đổ bộ 1 tiểu đoàn biệt kích xuống Ta Li Nọi quấy rối hậu phương ta nhưng không đạt kết quả; đợt 4 (1.10 - 15.11.1972), địch huy động 4 GM và 2 tiểu đoàn dồn sức tiến công nhằm chiếm một phần phía Nam Cánh Đồng Chum để gây áp lực cho đàm phán chính trị (15.10). Ta tổ chức lực lượng thích hợp ngăn chặn, phản kích bẻ gẫy các mũi và hướng tiến công của địch, kết hợp tập kích tiêu hao sinh lực, tạo thế và lực đánh trận then chốt quyết định tiêu diệt phần lớn cụm quân địch từ Nam bản Quay đến Bắc Khang Kho (26.10), sau đó tiếp tục tiến công, truy quét địch khỏi Nam Cánh Đồng Chum, buộc địch phải co về giữ Loong Chẹng...


Quán triệt và thực hiện quyết tâm của Bộ Tư lệnh Chiến dịch, trong thực tế diễn biến các trận chiến đấu phòng ngự và phản đột kích của liên quân Việt Nam - Lào, các tiểu đoàn đặc công 41 và 27, cùng các đơn vị đặc công thuộc các trung đoàn trong chiến dịch các đơn vị tiếp tục bám đánh địch ở phía sau đội hình của chúng, đánh phá nhiều vị trí trọng yếu, đánh trúng lực lượng dự bị của địch. Trận đánh tiêu biểu nhất của lực lượng đặc công diễn ra rạng sáng ngày 3 tháng 11 năm 1972 trong đợt tổ chức bao vây và chuyến sang tiến công địch co cụm, quét sạch địch ra khỏi các bàn đạp phía Nam Cánh Đồng Chum. Theo đó, phối hợp với các đơn vị tiến công địch, các đội đặc công tiến hành tập kích trận địa pháo và diệt 1 điểm ở Khang Kho. Kết quả là đặc công cùng với các lực lượng của chiến dịch đã đột phá đánh tan 2 cụm địch ở Phu Tu Ngua, Nậm Cọ, diệt 153 tên, thu 2 khẩu pháo 105mm. Riêng cụm địch ở Khang Kho, ta chưa giải quyết được. Đến ngày 14 tháng 11, ta mới tiếp tục tổ chức tiến công giải quyết các cụm địch còn lại. Phối hợp với các đơn vị khác, lực lượng đặc công đột nhập đánh một số mục tiêu trong tung thâm Khang Kho.


Đến ngày 15 tháng 11 năm 1972, Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng kết thúc thắng lợi. Sau hơn 5 tháng chiến đấu, liên quân Việt Nam - Lào đánh tổng cộng 244 trận, loại kliòi vòng chiến đấu 5.759 tên địch, đánh thiệt hại nặng 3 GM (21,23 và 26), 3 tiểu đoàn quân đội Thái Lan, đánh thiệt hại 5 GM khác... Trong chiến dịch này, lực lượng đặc công góp phần cùng các lực lượng chủ lực của chiến dịch thực hiện tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giữ vững địa bàn chiến lược quan trọng Cánh Đồng Chum; giữ được thế liên hoàn vững chắc giữa vùng căn cứ địa cách mạng của bạn Lào, đồng thời bảo vệ sườn phải cho 2 chiến dịch tiến công Trị - Thiên và Bắc Tây Nguyên trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972.


Thành công lớn nhất của lực lượng đặc công trong Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng mùa mưa 1972 là đã phát huy tác dụng mũi nhọn, tiến công liên tục vào các mục tiêu quan trọng nằm sâu trong hậu phương địch, phối hợp đắc lực với các lực lượng chiến dịch, gây cho chúng những tổn thất nặng nề về cơ sở vật chất, hậu cần, kỹ thuật và phương tiện chiến tranh. Qua chiến đấu, lực lượng đặc công có bước trưởng thành về tổ chức và trình độ chiến đấu, tích cực bám trụ vững chắc trên các địa trận địa, liên tục tiến công địch với hiệu suất chiến đấu cao. Thực tiễn chiến đấu của bộ đội Đặc công đã để lại nhiều bài học có giá trị đối với quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội ta nói chung, lực lượng đặc công nói riêng:

Một là, đặc biệt trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân, luôn nêu cao tinh thần yêu nước, tinh thần quốc tế trong sáng

Bộ đội Đặc công là một bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam, được Đảng và Quân đội tin tưởng giao cho những nhiệm vụ chiến đấu đặc biệt. Càng đặc biệt hơn khi thực hiện nhiệm vụ độc lập, lúc phối thuộc với các thành phần, lực lượng khắp các trên chiến trường nước bạn, tiến công những mục tiêu quan trọng, nhất là đánh vào hậu phương, hậu cứ của đối phương. Trong điều kiện tác chiến như thế, đòi hỏi cán bộ, chiến sĩ Đặc công luôn giữ vững tinh thần, ý chí chiến đấu cao, dũng cảm mưu trí, sáng tạo, kiên quyết tiến công địch để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Do yếu tố “đặc biệt” trong yêu cầu, nhiệm vụ chiến đấu, cho nên, như lời huấn thị của Chủ tịch Hồ chí Minh: “Cái gì cũng đặc biệt đối với đặc công... Đối vối Đảng, phải đặc biệt trung thành. Đối với dân, phải đặc biệt thân ái. Bất kỳ nhiệm vụ gì, bãt kỳ nhiệm vụ đặc biệt nào cũng phải hoàn thành và hoàn thành cho tốt”.


Thực tiễn từ các cuộc chiến tranh đó cho thấy, kẻ thù trong bất kỳ giai đoạn lịch sử nào khi tiến hành chiến tranh xâm lược đều coi Đông Dương là một chiến trường, luôn tìm cách chia rẽ mối đoàn kết liên minh chiến đấu chống kẻ thù chung, dùng nước này làm bàn đạp thôn tính nước khác, đồng thời gây kích đọng, tạo bất hòa giữa các dân tộc để hòng đạt được dã tâm thôn tính toàn cõi Đông Dương. Tuy nhiên, Quân đội ta luôn luôn có ý thức củng cố và phát huy truỵên thống đoàn kết quốc tế trong sáng của Đảng và nhân dân ta. Đối với cách mạng Lào, Quân đội nói chung, bộ đội Đặc công nói riêng đã gắn bó chặt chẽ với sự nghiệp cách mạng của bạn, sát cánh chiến đấu cùng với các lực lượng vũ trang cách mạng và nhân dân Lào giành thắng lợi chung.


Nắm vững tư tưởng chỉ đạo ấy, trong tổ chức, xây dựng lực lượng, chúng ta phải đặc biệt chú trọng giáo dục nhận thức, xây dựng con người, rèn luyện bản lĩnh chính trị để lực lượng đặc công không ngừng lớn mạnh, trưởng thành, thực sự là “Binh chủng đặc biệt tinh nhuệ” của Quân đội ta. Trong Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng, bộ đội Đặc công đã tỏ rõ bản lĩnh chính trị vững vàng, tiến hành và tham gia nhiều trận đánh mang ý nghĩa chiến thuật, chiến dịch; tập kích nhiều loại mục tiêu khác nhau như kho tàng, sân bay, sở chỉ huy ở Loong Chẹng, Tôm Tiêng... đạt hiệu suất chiến đấu cao, góp phần vào thắng lợi chung của chiến dịch.


Trong tình hình hiện nay, để phát huy những phẩm chất “đặc biệt” của bộ đội Đặc công, chúng ta phải xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, chiến sĩ đặc công có phẩm chất cách mạng ưu tú toàn diện cả về chính trị, tư tưởng, năng lực hành động, trong đó, đặc biệt chú trọng yếu tố: Trung thành vô hạn với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân, luôn nêu cao tinh thần yêu nước, tiếp tục củng cố, phát huy truyền thống đoàn kết quốc tế trong sáng đối với quân đội và nhân dân các nước. Đó là điều kiện tiên quyết, nhân tố thắng lợi trong thực hiện mọi nhiệm vụ mà Đảng, Quân đội và nhân dân giao phó.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM