Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 08:46:30 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: 50 năm chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng  (Đọc 2818 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #10 vào lúc: 14 Tháng Hai, 2023, 10:42:07 am »

CHIẾN THẮNG CÁNH ĐỒNG CHUM - XIÊNG KHOẢNG NĂM 1972
BƯỚC PHÁT TRIỂN VỀ NGHỆ THUẬT CHIẾN DỊCH VIỆT NAM
TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC


Thượng tướng, TS LÊ HUY VỊNH
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Ủy viên Quân ủy Trung ương
Thứ trưởng Bộ Quốc phòng


Chiến thắng Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng mùa mưa năm 1972 của liên quân Việt Nam - Lào, đánh bại hoàn toàn cuộc tiến công quy mô lớn có ý nghĩa chiến lược, tiêu diệt lớn bộ phận sinh lực quan trọng của địch, đập tan âm mưu đánh chiếm bàn đạp chiến lược Cánh Đồng Chum, bảo vệ thành công vùng giải phóng, phối hợp kịp thời, chặt chẽ và hiệu quả với các chiến trường ở miền Nam Việt Nam trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972, góp phần đánh bại thêm một bước cơ bản chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và làm phá sản “Học thuyết Níchxơn”. Chiến thắng Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng năm 1972 đã khẳng định chiến dịch phòng ngự là một hình thức tất yếu trong chiến tranh giải phóng, góp phần làm phong phú sự phát triển lý luận và thực tiễn nghệ thuật chiến dịch Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.


Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, ngay từ tháng 2 năm 1972, Quân ủy Trung ương của ta và bạn Lào đã thông báo cho Bộ Tư lệnh chiến dịch Cánh Đồng Chum - Mường Sủi về chủ trương: Ngay sau khi kết thúc Chiến dịch tiến công, lực lượng ta sẽ chuyển vào phòng ngự chiến dịch. Đầu tháng 4 năm 1972, Bộ Tư lệnh Chiến dịch nhận nhiệm vụ nhanh chóng chuyển vào phòng ngự, sẵn sàng đánh bại các cuộc tiến công lớn của địch.


Sau một thời gian nỗ lực tiến hành công tác chuẩn bị, đến ngày 20 tháng 5 năm 1972, ta đã xây dựng thế trận phòng ngự chiến dịch liên hoàn, vững chắc và hoàn thành mọi công tác chuẩn bị, sẵn sàng bước vào tác chiến giành thắng lợi. Trải qua gần 6 tháng kiên cường phòng ngự và tổ chức phản kích, phản đột kích có hiệu quả, ta đã đánh bại hoàn toàn cuộc tiến công quy mô lớn của địch, giữ vững địa bàn chiến lược quan trọng Cánh Đồng Chum. Trong toàn chiến dịch, Quân tình nguyện Việt Nam và Quân giải phóng nhân dân Lào đã đánh tổng cộng 244 trận, ta loại khỏi vòng chiến đấu 5.759 quân địch; đánh thiệt hại nặng 3 binh đoàn cơ động (21,23 và 26), 3 tiểu đoàn quân Thái Lan và đánh thiệt hại 5 binh đoàn cơ động khác, bắn rơi 38 máy bay, thu 859 súng các loại (có 4 khẩu pháo 105mm và 4 súng cối 106,7mm)1 (Bộ Quốc phòng, Bách khoa toàn thư quân sự Việt Nam, Quyển 1: Lịch sử quân sự, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2015, tr. 250). Đây là chiến địch phòng ngự hoàn chỉnh đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam và Quân giải phóng nhân dân Lào với cách đánh sáng tạo, hiệu quả; đánh dấu bước phát triển cao của nghệ thuật chiến dịch Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, được thể hiện trên một số nội dung chủ yếu:


Một là, lần đầu tiên trong chiến tranh giải phóng ta thực hiện hoàn chỉnh loại hình chiến dịch phòng ngự

Về lý luận, tư tưởng chiến lược nhất quán của chiến tranh cách mạng bao giờ cũng là tư tưởng tiến công. Trong thực tiễn tác chiến, tư tưởng cách mạng đó đã phát huy tính chủ động, kiên quyết, linh hoạt và khôn khéo bảo đảm đánh thắng địch trong mọi điều kiện. Song, xem xét trong một loại hình tác chiến chiến dịch, hành động tác chiến không chỉ bao hàm hành động tiến công, phản công mà có cả hành động phòng ngự và các hoạt động đấu tranh khác... Tuỳ từng loại hình tác chiến mà hoạt động tác chiến nào là hoạt động phổ biến, bên cạnh hoạt động tác chiến phổ biến còn có các hoạt động đấu tranh khác. Mỗi loại hình chiến dịch đều có vị trí, vai trò và nội dung, cách thức tiến hành khác nhau, từ công tác tổ chức chuẩn bị chiến đấu đến thực hành và kết thúc chiến dịch. Nên trong tác chiến, không được xem nhẹ hay tuyệt đối hóa bất kỳ loại hình tác chiến nào... Tuy nhiên, do nhận thức không đúng, nên trong một thời gian dài, một số cán bộ cho rằng trong chiến tranh chỉ có đường lối tiến công, coi nhẹ phòng ngự, phủ nhận phòng ngự, thậm chí coi phòng ngự là điều cấm kỵ. Vì vậy, mà trong một số trận đánh, bộ đội bị thương vong”. Việc phản đối hoặc phủ nhận vai trò của tác chiến phòng ngự là một nhận thức sai lầm cả về lý luận cũng như trong thực tiễn chiến tranh.


Về thực tiễn, trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến, do sự tác động ảnh hưởng của nhiều yếu tố, nên loại hình chủ yếu thường vận dụng vẫn là chiến dịch tiến công, mà chưa tổ chức trận địa phòng ngự lớn ở cấp chiến dịch1 (Các loại hình chiến dịch khác, gồm: Từ năm 1966, xuất hiện loại hình chiến dịch phản công, như: Chiến dịch Tây Ninh (1966), Chiến dịch phản công đánh bại cuộc hành quân Gianxơn Xity (1967), Chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào (1971)... Đến năm 1972, xuất hiện chiến dịch tiến công tổng hợp, như: Chiến dịch Bắc Bình Định, Chiến dịch Đồng bằng sông Cửu Long; chiến dịch độc lập của Quân chủng Phòng không - Không quân kết hợp chiến tranh nhân dân, như: Chiến dịch Phòng không Hà Nội - Hải Phòng (18 - 29.12.1972)). Tính đến năm 1972, đã diễn ra một số trận phòng ngự cấp trung, sư đoàn, như: Sư đoàn 3 Quân khu 5 phòng ngự ở Bắc Bình Định; Trung đoàn 209 Sư đoàn 7 phòng ngự trên Đường số 13 ở khu vực Tàu Ô - Xóm Ruộng... Tính đến thời điểm năm 1972, đây là lần đầu tiên xuất hiện loại hình phòng ngự cấp chiến dịch trong chiến tranh giải phóng. Thắng lợi của Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng đã khẳng định phòng ngự là loại hình tác chiến chiến dịch không thể thiếu trong chiến tranh giải phóng, nhất là trước yêu cầu chiến lược phải giữ vững địa bàn chiến lược và thành quả cách mạng vừa giành được, khi mà lực lượng cách mạng đã đủ sức đảm đương được nhiệm vụ. Đây là sự phát triển biện chứng của tư duy quân sự về tư tưởng chiến lược cách mạng tiến công không ngừng trong tác chiến chiến dịch - chiến lược và đánh dấu bước phát triển mới của nhận thức luận đúng đắn, đầy đủ về tư tưởng chỉ đạo chiến dịch phòng ngự. Là sự bổ sung hợp lý và đầy đủ các loại hình tác chiến chiến dịch, phản ánh sự phát triển tất yếu nghệ thuật chiến dịch Việt Nam, đáp ứng đòi hỏi khách quan của thực tiễn chiến trường, đánh dấu sự phát triển đầy đủ và cao nhất về loại hình chiến dịch Việt Nam.


Hai là, tạo lập thế trận phòng ngự liên hoàn, vững chắc nhằm đánh bại các đợt tiến công của địch, giữ vững thế trận phòng ngự chiến dịch

Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, đánh giá tình hình các mặt, nhất là tình hình địch, Bộ Tư lệnh Chiến dịch đã phán đoán và dự kiến chính xác hướng địch tiến công từ Loong Chẹng đi Cánh Đồng Chum, nên ta đã chọn hướng phòng ngự chủ yếu là hướng Nam - Tây Nam; hướng phòng ngự thứ yếu: Hướng Tây - Tây Bắc. Từ đó, ta đã chọn khu trung tâm Cánh Đồng Chum là khu vực phòng ngự chủ yếu, khu phòng ngự cơ bản phía trước là khu Hin Tặng (còn gọi là khu trung gian). Lựa chọn khu vực Mường Sủi và thị xã Xiêng Khoảng là khu vực tác chiến phối hợp, đánh địch từ xa. Thành lập 4 cụm chốt trong khu trung tâm Cánh Đồng Chum: 2 cụm chốt ở Phu Tâng, Phu Tôn trong khu vực phòng ngự chủ yếu; cụm chốt Phu Seo - Phu Hủa Sang trên hướng phòng ngự chủ yếu; cụm chốt Phu Keng - Phu Thông trên hướng phòng ngự thứ yếu và cụm chốt Phu Khê (2125) bảo đảm hành lang bên sườn phía Tây của chiến dịch. Ngoài ra, trên các khu trung gian Hin Tặng (tổ chức 3 cụm chốt), khu Noọng Pẹt (tổ chức 2 cụm chốt), khu Mường Sủi và thị xã Xiêng Khoảng (tổ chức 2 cụm chốt) để bảo đảm đánh địch trên nhiều hướng tiến công vào khu trung tâm Cánh Đồng Chum.


Từ cách xác định khoa học, hợp lý, Bộ Tư lệnh Chiến dịch đã đưa ra phương án sử dụng lực lượng hợp lý, phù hợp với khả năng, sở trường của từng đơn vị. Xây dựng phương pháp tác chiến phòng ngự phù hợp, chủ động lập thế trận phòng ngự liên hoàn, vững chắc, kiên cường bám giữ các chốt trọng yếu; vận dụng linh hoạt các hình thức tiến công, liên tục bám đánh địch; nắm vững thời cơ, sử dụng lực lượng cơ động phản kích quân địch, bằng những trận then chốt, then chốt quyết định, tiêu diệt địch ngoài công sự, bẻ gãy từng mũi, đợt tiến công của địch, tiến tới đánh bại hoàn toàn quân địch. Quá trình tác chiến, tích cực cơ động lực lượng, phương tiện, nhanh chóng chuyển hóa thế trận chiến dịch nhằm tạo ra thế mới, lực mới, sẵn sàng đánh bại các hướng tiến công mới của địch. Kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng tại chỗ và lực lượng cơ động thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phòng ngự được giao.


Với thế trận liên hoàn, vững chắc và hiểm hóc đã bố trí, Bộ Tư lệnh Chiến dịch đã chỉ huy các lực lượng bẻ gãy các đợt tiến công lớn của địch vào Cánh Đồng Chum, thực hiện thắng lợi 3 trận then chốt: Trận then chốt 1 ở Phu Keng, trận then chốt 2 ở phía Tây Cánh Đồng Chum và trận then chốt quyết định trên cánh đồng Căng Xẻng1 (Trận then chốt 1 đánh địch đổ bộ đường không diễn ra từ ngày 30 tháng 8 đến ngày 3 tháng 9 năm 1972 nhằm tiêu hao, tiêu diệt GM 21, GM 26 của địch đò bộ đường không ở khu vực Bản Sang, Điểm cao 1098 phía Tây Bắc Cánh Đồng Chum (trận phản đột kích then chốt Phu Keng); trận then chốt thứ 2 đánh địch tiến công đường bộ và đổ bộ đường không diễn ra từ ngày 26 đến ngày 29 tháng 9 năm 1972 tại khu vực Phu Thông, Bản Khổng, đồi Năm Mỏm ở phía Tây Cánh Đồng Chum, khi quân địch tăng cường lực lượng, tiến công vào khu vực phòng ngự chủ yếu của chiến dịch không thành công, đã phải co cụm và tháo chạy; trận then chốt quyết định kết thúc chiến dịch diễn ra trong ngày 26 tháng 10 năm 1972 trên khu vực từ phía Nam Bản Quay đến Bắc Khang Kho, Phu Hủa Sang, Phu Xeng Luông trên cánh đồng Căng Xèng (phía Nam Cánh Đồng Chum), đánh tan cụm lực lượng quân địch tập trung chuẩn bị tiến công từ hướng Nam vào trung tâm Cánh Đồng Chum, khu vực phòng ngự chủ yếu của chiến địch) (ở Nam của Cánh Đồng Chum), hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ phòng ngự chiến dịch, giữ vững thế liên hoàn vững chắc giữa các vùng căn cứ địa cách mạng của ta và bạn Lào kịp thời phối hợp với các hoạt động khác trên toàn chiến trường Đông Dương.


Ba là, lựa chọn hình thức phòng ngự cơ động, lấy hành động tiến công làm chủ yếu

Loại hình chiến dịch phòng ngự có hai hình thức: Phòng ngự khu vực (phòng ngự trận địa) và phòng ngự cơ động. Dù lựa chọn hình thức phòng ngự nào cũng phải bảo đảm yêu cầu cơ bản của tác chiến phòng ngự, đó là: Tích cực, vững chắc, kiên cường. Xây dựng hệ thống công sự, trận địa, vật cản liên hoàn, vững chắc bảo đảm đánh địch từ xa đến gần, sát thương địch khi chúng vận động tiếp cận triển khai đội hình chiếm lĩnh vị trí xuất phát tiến công, khi địch công kích trước tiền duyên phòng ngự; giữ vững các trận địa các khu vực phòng ngự; kiên quyết tiêu diệt địch đột nhập vào các khu vực phòng ngự; tiêu diệt quân địch đổ bộ đường không, vu hồi luồn sâu... đánh bại các thủ đoạn tiến công của địch, giữ vững trận địa, bảo toàn lực lượng ta, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ phòng ngự.


Trong Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng, ta đã chủ động lựa chọn hình thức phòng ngự cơ động. Vận dụng sáng tạo nguyên tắc sử dụng lực lượng trong tác chiến phòng ngự cơ động để tạo điều kiện thuận lợi ưu tiên lực lượng cho nhiệm vụ phòng ngự cơ động, lấy tiến công làm hoạt động chủ yếu, nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phòng ngự chiến dịch. Trong phòng ngự cơ động, nguyên tắc sử dụng lực lượng thường là: Sử dụng 2/3 lực lượng làm nhiệm vụ phòng ngự trên các hướng, 1/3 lực lượng làm nhiệm vụ cơ động đánh địch đột nhập, phản đột kích đánh địch trên các hướng. Trong thực tiễn Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng, do phạm vi không gian chiến dịch rộng, nên để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đánh địch tiến công trên các hướng, ta đã chủ động sử dụng 2 trung đoàn (174 và 866) làm nhiệm vụ phòng ngự tại chỗ và 3 trung đoàn (148 và 335; tháng 10 năm 1972, tăng cường thêm Trung đoàn 88) làm nhiệm vụ phòng ngự cơ động nhằm bảo đảm đánh địch tiến công vào khu vực phòng ngự cơ bản phía trước ở Hin Tặng, giữ vững 2 cụm phòng ngự then chốt trong khu phòng ngự chủ yếu và các cụm chốt trên các hướng phòng ngự. Đồng thời, đẩy mạnh tác chiến phối hợp ở Mường Sui và thị xã Xiêng Khoảng nhằm tiêu diệt từng bộ phận quân địch, ngăn chặn từng bước và làm thất bại các cuộc tiến công vào trận địa phòng ngự đánh bại các đợt tiến công của địch, tiến tới đánh bại hoàn toàn quân địch, bảo vệ thành công địa bàn chiến lược. Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng đã vận dụng sáng tạo, linh hoạt nguyên tắc tác chiến chiến dịch vào điều kiện thực tiễn một cách phù hợp, nâng cao khả năng và hiệu suất chiến đấu, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phòng ngự chiến dịch.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #11 vào lúc: 14 Tháng Hai, 2023, 10:42:56 am »

Bốn là, sử dụng lực lượng linh hoạt, hợp lý giữa hai nhiệm vụ phòng ngự trên các hướng (khu vực) và nhiệm vụ phòng ngự cơ động

Trong Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng, ta sử dụng lực lượng 5 trung đoàn bộ binh, 2 tiểu đoàn đặc công, 1 tiểu đoàn pháo binh, 4 tiểu đoàn súng máy phòng không, 1 tiểu đoàn xe tăng và 2 tiểu đoàn công binh. Lực lượng của bạn Lào có 7 tiểu đoàn chủ lực, 1 đại đội xe tăng, 2 đại đội pháo binh, 2 đại đội súng máy phòng không, 1 đại đội công binh và 4 đại đội bộ đội địa phương. Như vậy, tính đến thời điểm Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng diễn ra, lực lượng sử dụng trong tác chiến đã phát triển đến quy mô cao nhất của một chiến dịch phòng ngự... Để bảo đảm sức mạnh chiến đấu liên tục dài ngày trong từng giai đoạn chiến đấu, lực lượng tham gia chiến dịch được tổ chức thành 2 thành phần: Lực lượng phòng ngự và lực lượng cơ động.


Lực lượng phòng ngự: Sử dụng các trung đoàn 174, 866, 1 đại đội tăng - thiết giáp và toàn bộ pháo binh chiến dịch (Trung đoàn 866 và đại đội tăng - thiết giáp phòng ngự khu trung tâm Cánh Đồng Chum và Noọng Pẹt; Trung đoàn 174 phòng ngự ở khu trung gian). Lực lượng pháo binh, ngoài lực lượng tăng cường cho nhiệm vụ phòng ngự trận địa, lực lượng pháo mặt đât thành lập 3 cụm pháo binh chiến dịch; lực lượng pháo tầm xa bố trí trên khu vực của Trung đoàn 174, đảm nhiệm bắn phá các mục tiêu ở Loong Chẹng, Sảm Thông; lực lượng pháo cao xạ và súng máy phòng không phối hợp với hỏa khí bộ binh hình thành lưới lửa phòng không tiêu diệt máy bay địch, bảo vệ đội hình chiến đấu mặt đất. Lực lượng đặc công tổ chức các tổ, đội luân phiên luồn sâu đánh phá các mục tiêu trong chiều sâu đội hình địch, sử dụng một phần lực lượng chốt giữ các chốt ở Bắc thị xã Xiêng Khoang. Lực lượng tăng - thiết giáp, ngoài lực lượng tăng cường cho nhiệm vụ phòng ngự trận địa, lực lượng còn lại tập trung tại Bản Phạt, Bản Nong làm nhiệm vụ cơ động đánh địch, sẵn sàng chi viện lực lượng tham gia các trận đánh then chốt đánh địch trên các hướng.


Lực lượng phòng ngự cơ động: Sử dụng Trung đoàn 148 và Trung đoàn 335, đứng chân ở phía Bắc của Noọng Tai và phía Nam của Phu Xeng Luông (đến tháng 10 năm 1972 được Bộ tăng cường thêm Trung đoàn 88). Với cách sử dụng lực lượng như vậy, ta đã ưu tiên lực lượng cho nhiệm vụ cơ động đánh địch tiến công từ xa, lấy hành động tiến công làm chủ yếu để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phòng ngự chiến dịch. Mặc dù ta không vận dụng hình thức phòng ngự khu vực mà chọn hình thức phòng ngự cơ động, nhưng ta lại tổ chức lực lượng ở các cụm chốt trên khu vực phòng ngự chủ yếu và trên các hướng phòng ngự. Tổ chức lực lượng tác chiến phối hợp ở Mường Sủi và thị xã Xiêng Khoảng. Với phương án sử dụng lực lượng sáng tạo, linh hoạt như vậy, Bộ Tư lệnh Chiến dịch vừa bảo đảm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phòng ngự trên các hướng (khu vực), vừa có điều kiện để ưu tiên lực lượng cho nhiệm vụ phòng ngự cơ động, chủ động đánh địch tiến công từ xa.


Trong Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng, nhờ sử dụng lực lượng sáng tạo, linh hoạt, hợp lý, bảo đảm hài hòa giữa nhiệm vụ phòng ngự trận địa và phòng ngự cơ động, ta đã phát huy khả năng, sở trường của các thành lực lượng tham gia chiến dịch, tạo sức mạnh tổng hợp thúc đẩy chiến dịch đi đến thắng lợi, đánh dấu sự phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam với nét nghệ thuật độc đáo về sử dụng lực lượng trong tác chiến phòng ngự cấp chiến dịch.


Bằng phương pháp tác chiến chiến dịch chủ động, tích cực, phát huy sức mạnh tổng hợp tiến hành phòng ngự toàn diện có trọng điểm, sử dụng lực lượng cơ động linh hoạt, đúng thời cơ đánh bại tiến công, phản kích của địch trên các hướng. Lần đầu tiên ta và bạn Lào đã tổ chức hoàn chỉnh chiến dịch phòng ngự, đánh bại hoàn toàn quân địch tiến công quy mô lớn, dài ngày. Chiến thắng Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng mùa mưa năm 1972 đã bảo vệ thành công vùng giải phóng, giữ vững địa bàn chiến lược, phối hợp có hiệu quả với các hướng tiến công chiến lược năm 1972 trên toàn chiến trường Đông Dương, góp phần làm thất bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ và đánh bại một bước cơ bản chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Lào hóa chiến tranh”. Chiến thắng Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng năm mùa mua 1972 cùng với những thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược 1972, mà tiêu biểu là Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” tháng 12 năm 1972, đã góp phần quan trọng buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định Pari (27.1.1973), rút quân khỏi miền Nam Việt Nam, đưa sự nghiệp cách mạng miền Nam chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn giành thế chủ động chiến lược tiến lên Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 giành thắng lợi quyết định, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.


Chiến thắng Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng mùa mưa năm 1972 là thắng lợi của loại hình chiến dịch mới, hội tụ đầy đủ các yếu tố cấu thành của một chiến dịch phòng ngự. Sự xuất hiện của Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng đã khẳng định sự tồn tại khách quan của loại hình tác chiến rất quan trọng của chiến tranh nhân dân Việt Nam, một hình thức tác chiến của bộ đội chủ lực trong thời khắc quyết định của lịch sử, khi mà cuộc đấu tranh ngoại giao đã bước sang năm thứ tư và đang đi đến quyết định cho một giải pháp chính trị ở Việt Nam, Lào và toàn Đông Dương. Ta phải đối chọi với một đội quân đông được trang bị mạnh, tất nhiên Mỹ không muốn chấp nhận thua cuộc và sẽ dùng mọi âm mưu, thủ đoạn để tìm kiếm một thắng lợi quân sự mang tính biểu tượng trên chiến trường làm điều kiện để đàm phán ngoại giao trên thế mạnh. Do vậy, mức độ bom đạn mà không quân, hải quân và pháo hạm Mỹ sử dụng trên chiến trường và những nỗ lực của địch là không thể xem thường. Trong điều kiện đó, ta phải bảo vệ vùng giải phóng với không gian rộng lớn và giữ gìn thành quả cách mạng vừa giành được, việc chủ động và kiên quyết chuyển vào phòng ngự trên quy mô chiến dịch để củng cố và giữ vững địa bàn chiến lược là việc làm cần thiết, đáp ứng đòi hỏi thực tiễn chiến trường và là biểu hiện của tư duy quân sự nhạy bén, đúng đắn, khách quan và khoa học. Bài học sâu sắc đó không chỉ riêng của Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng mà còn có giá trị hiện thực lịch sử trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ngày nay.


Ngày nay, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc được tiến hành trong thế phòng thủ chung của đất nước, thế trận của khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố và thế trận phòng thủ quân khu được chuẩn bị trước một phần từ thời bình, chủ động chuyển thành thế trận chiến tranh nhân dân phát triển cao trong thời chiến. Chiến dịch phòng ngự diễn ra ngay từ thời kỳ đầu và trong quá trình chiến tranh, trên phạm vi cả nước hoặc trên một số hướng chiến lược trọng yếu.


Phòng ngự chiến dịch nhằm ngăn chặn, làm chậm tốc độ và phá thế tiến công của địch, giữ vững thế trận của ta, tạo điều kiện và thời cơ cho phản công, tiến công chiến dịch. Tác chiến phòng ngự phải phòng tránh, đánh trả có hiệu quả địch tiến công hỏa lực; sát thương lớn, tiêu hao, tiêu diệt từng bộ phận quân địch tiến công đường bộ, đổ bộ đường không và đổ bộ đường biển; bảo vệ tiềm lực quốc phòng, tiềm lực quân sự, các mục tiêu trọng yếu quốc gia, mục tiêu và địa bàn chiến dịch - chiến lược, làm cho địch thất bại trên từng hướng tiến công, buộc địch sa lầy, suy yếu, tạo điều kiện, thời cơ chuyển sang phản công, tiến công tiêu diệt lớn quân địch.


Hiện nay, môi trường quốc tế, nhất là quan hệ giữa các nước lớn trên thế giới và khu vực đã có những thay đổi, khác nhiều so với kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trước đây và biến đổi rất nhanh chóng và mau lẹ, có sự chi phối lợi ích chiến lược và lợi ích riêng của mỗi quốc gia, dân tộc và xu thế chung trong khu vực và trên thế giới... Chiến dịch phòng ngự của ta có thể diễn ra đồng thời trên nhiều dạng địa hình...


Tiến hành chiến dịch phòng ngự trong điều kiện đối phương tiến hành chiến tranh công nghệ cao, tác chiến điện tử rộng rãi, trực tiếp tiến công vào lành thổ nước ta. Trong khi đó, cơ sở hạ tầng kỹ thuật bảo đảm cho tác chiến có sử dụng vũ khí công nghệ cao còn hạn chế, khả năng cơ động của lực lượng chiến lược chưa cao; khả năng vũ khí, trang bị, trình độ và kinh nghiệm tác chiến chiến tranh hiện đại so với địch còn có mặt hạn chế; chất lượng huấn luyện, công tác đào tạo và diễn tập chiến đấu chưa theo kịp yêu cầu tác chiến có sử dụng vũ khí công nghệ cao... Do đó, tiến hành tác chiến phòng ngự trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc là một tất yếu khách quan, là một hoạt động tác chiến chủ đạo và diễn ra ngay từ đầu của tác chiến khu vực phòng thủ tinh, thành phố, phòng thủ quân khu và trong suốt quá trình chiến tranh, tạo điều kiện và thời cơ chuyển sang tác chiến phản công, tiến công địch, hoặc chốt giữ và bảo vệ các địa bàn, khu vực (hướng) chiến lược trọng yếu theo yêu cầu của cấp chiến lược. Từ bài học kinh nghiệm lịch sử Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng trong chiến tranh giải phóng, tiếp tục nghiên cứu, phát triển và vận dụng vào trong điều kiện tác chiến của chiến tranh hiện đại là việc làm thiết thực để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa trong tình hình mới.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #12 vào lúc: 14 Tháng Hai, 2023, 10:46:00 am »

CHIẾN THẮNG CÁNH ĐỒNG CHUM - XIÊNG KHOẢNG NĂM 1972
BÀI HỌC VỀ XÂY DỰNG KHU VỰC PHÒNG THỦ
TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY


Thượng tướng, PGS, TS TRẦN VIỆT KHOA
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Ủy viên Quân ủy Trung ương, Giám đốc Học viện Quốc phòng


Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng diễn ra cùng thời điểm với cuộc tiến công chiến lược năm 1972 trên chiến trường miền Nam Việt Nam. Đây là lần đầu tiên bộ đội Việt Nam triển khai nhiệm vụ phòng ngự ở quy mô chiến dịch một cách hoàn chỉnh trong liên minh chiến đấu với lực lượng vũ trang cách mạng Lào trên chiến trường nước bạn. Sau 179 ngày đêm chiến đấu (21.5 - 15.11.1972), liên quân Việt Nam - Lào đã đánh 244 trận, loại khỏi vòng chiến đấu 5.759 tên địch, đánh thiệt hại nặng 3 GM (21,23 và 26), 3 tiểu đoàn quân Thái Lan và đánh thiệt hại nặng 5 GM khác, bắn rơi 38 máy bay, thu 859 súng các loại1 (Bộ Quốc phòng, Bách khoa toàn thư quân sự Việt Nam, Quyển 1: Lịch sử quân sự, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2015, tr. 250)... Thắng lợi của Chiến dịch “góp phần làm thay đổi cục diện chiến trường chung, bảo đảm thế liên hoàn, vững chắc cho vùng căn cứ địa của bạn trong tình hình mới, kịp thời thực hiện được nhiệm vụ phối hợp chiến trường”2 (Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng mùa mưa 1972, Hà Nội, 1987, tr. 64); củng cố thêm khối đoàn kết liên minh chiến đấu, mối quan hệ gắn bó giữa hai Đảng, hai dân tộc, hai quân đội Việt Nam và Lào trong kháng chiến chống Mỹ. Thắng lợi của Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý có thể nghiên cứu, vận dụng sáng tạo vào nhiệm vụ xây dựng khu vực phòng thủ, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới:


Thứ nhất, bài học về phân tích đánh giá đúng tình hình, xác định rõ đối tượng tác chiến là cơ sở khách quan để Bộ Tư lệnh Chiến địch có quyết tâm chính xác, cách đánh phù hợp

Trong tác chiến, việc phân tích đánh giá đúng tình hình, xác định rõ đối tượng tác chiến, dự kiến đúng các tình huống có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, là cơ sở để tiến hành công tác chuẩn bị, hạ quyết tâm tác chiến, xác định phương thức tác chiến phù hợp, tạo lập và chuyển hóa thế trận, giành thắng lợi trên chiến trường. Thực tiễn, trong Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng, do Cánh Đồng Chum có giá trị chiến lược lớn về quân sự, chính trị, kinh tế ở Bắc Lào, là bàn đạp uy hiếp trực tiếp căn cứ địa cách mạng của Lào và miền Bắc Việt Nam nên đế quốc Mỹ và bọn phản động Lào quyết tâm giành lại.


Trên cơ sở phân tích các hoạt động của địch, ta nhận thấy một quy luật là vào lúc ta kết thúc hoạt động mùa khô, gặp khó khăn về vận chuyển, tiếp tế, cơ động, chúng thường mở cuộc tiến công lấn chiếm. Mặt khác, Mỹ và tay sai muốn giành thắng lợi quân sự trên chiến trường Đông Dương để tạo thế “thượng phong” trên bàn đàm phán và giành ưu thế cho đảng cầm quyền trong năm bầu cử Tổng thống Mỹ. Vì thế, chúng sẽ mở cuộc hành binh quy mô lớn, đánh chiếm lại khu vực Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng để phục vụ cho mưu đồ quân sự, chính trị của chúng. Trong cuộc tiến công này, địch có nhiều lợi thế: Lực lượng đông, vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại (cả máy bay B-52), chủ động về thời gian và mục tiêu tiến công. Ngoài ra, chúng cũng đã đánh chiếm được một số địa bàn, vị trí quan trọng. Tuy nhiên, địch có những điểm yếu cốt tử, đó là trình độ tác chiến hạn chế, tinh thần chiến đấu giảm sút, khả năng hỗ trợ của không quân Mỹ cũng có hạn và rất sợ phải tác chiến trong thời gian dài, địa bàn rộng. Từ nhận định đúng về địch, Bộ Tư lệnh Chiến dịch đã xác định vấn đề bảo vệ, giữ vững Cánh Đồng Chum là một yêu cầu nhiệm vụ chiến lược quan trọng và đã chủ động chỉ đạo các lực lượng chuyển vào phòng ngự kịp thời, đúng lúc.


Bộ Tư lệnh Chiến dịch đã xác định đúng thành phần lực lượng tiến công của quân địch gồm: Các GM (chủ lực), quân phái hữu Lào và quân Thái Lan; những lực lượng này đều do Mỹ trực tiếp tổ chức và chỉ huy, nhưng mỗi loại lại có sở trường riêng và được sử dụng trong những nhiệm vụ khác nhau; trong đó, lực lượng nòng cốt trong tiến công của địch là 8 GM cơ động (từ GM 21 - GM 28); lực lượng phái hữu Lào thường chỉ làm nhiệm vụ hỗ trợ hoặc độc lập phụ trách trên một hướng; quân đánh thuê Thái Lan sử dụng chủ yếu bảo vệ căn cứ, giữ bàn đạp phía sau hoặc củng cố các mục tiêu đã chiếm... Xác định đúng và hiểu rõ đối tượng tác chiến chủ yếu là một trong những cơ sở khách quan, khoa học để Bộ Tư lệnh Chiến dịch hạ quyết tâm chính xác; là một căn cứ để hạn chế mặt mạnh, khoét sâu những mặt yếu của địch, làm cho địch đông mà yếu, từ chủ động biến thành bị động; giúp ta tranh thủ được chủ động từ trong quá trình chuẩn bị cũng như trong thực hành chiến dịch phòng ngự, giành được thắng lợi to lớn.


Ngày nay, tình hình chính trị - an ninh thế giới thay đổi nhanh chóng, diễn biến phức tạp, khó lường; tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia, tranh chấp lãnh thổ và tài nguyên, xung đột sắc tộc, tôn giáo, can thiệp lật đổ, khủng bố, chiến tranh cục bộ, chiến tranh mạng tiếp tục diễn ra gay gắt ở nhiều khu vực. Trong nước, các nguy cơ đe dọa đến hòa bình, ổn định và phát triển đất nước chưa được đẩy lùi, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, kích động tư tưởng ly khai, bạo loạn nhằm gây mất ổn định bên trong để tạo cớ can thiệp từ bên ngoài... đã và đang làm nảy sinh những thách thức mới đối với nhiệm vụ xây dựng khu vực phòng thủ, bảo vệ Tổ quốc. Từ bài học thành công của Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng, để xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc, đòi hỏi toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta phải “thường xuyên cảnh giác, nắm chắc, đánh giá, dự báo sát, đúng tình hình, nhất là những vấn đề phức tạp nảy sinh; chủ động tham mưu đề xuất với Đảng, Nhà nước có đối sách phù hợp, xử lý kịp thời hiệu quả các tình huống”1 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 280). Việc dự báo chính xác các nguy cơ, thách thức, đối tượng quốc phòng; dự báo chính xác tình hình, sát với khả năng và các tình huống có thể xảy ra có ý nghĩa rất quan trọng, là cơ sở để từng khu vực phòng thủ nghiên cứu, đề ra những nội dung, biện pháp phòng, chống và đối phó có hiệu quả âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ của các thê lực thù địch; từ đó, xác định các nhiệm vụ, giải pháp phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng khu vực phòng thủ trong từng giai đoạn, từng năm; đảm bảo xử lý thắng lợi các tình huống quốc phòng, an ninh, tạo sức mạnh bên trong để ngăn ngừa và đánh thắng chiến tranh xâm lược.


Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, là lực lượng nòng cốt trong xây dựng khu vực phòng thủ, thế trận khu vực phòng thủ, Quân đội ta, trực tiếp là các cơ quan tham mưu chiến lược, bộ chỉ huy quân sự các tỉnh, thành phố cần luôn chủ động phối hợp nghiên cứu, nắm chắc tình hình, đánh giá và dự báo chính xác, kịp thời những diễn biến phức tạp liên quan đến tình hình quốc phòng, an ninh. Trên cơ sở đó tham mưu với Đảng, Nhà nước hoạch định đường lối, chủ trương, điều chỉnh cơ chế, chính sách, pháp luật về xây dựng khu vực phòng thủ; chú trọng nghiên cứu, dự báo chính xác những tình huống phức tạp có thể xảy ra; từ đó, có phương sách, giải pháp chủ động sẵn sàng đối phó, ngăn ngừa, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, giữ vững ổn định chính trị, môi trường hòa bình để phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ vững chắc từng địa phương trong mọi tình huống, góp phần bảo đảm cho đất nước luôn ở thế chủ động, không để bị động, bất ngờ.


Thứ hai, bài học về xác định rõ loại hình tác chiến, có tư tưởng chỉ đạo đúng là nhân tố quvết định thắng lợi của chiến dịch

Tiến hành chiến dịch phòng ngự là một tất yếu khách quan của quá trình phát triển chiến tranh cách mạng; nó có vị trí quan trọng khi phải chấp hành những yêu cầu bức thiết của nhiệm vụ chiến lược. Trước năm 1972, Bộ đội tình nguyện Việt Nam và Quân giải phóng nhân dân Lào đã từng kết hợp tổ chức tác chiến phòng ngự bảo vệ khu vực Cánh Đồng Chum nhưng nhìn chung, bộ đội chưa được trang bị lý luận hoàn chỉnh về chiến đấu phòng ngự; tư tưởng chỉ đạo tác chiến phòng ngự cũng chưa được xác định rõ ràng, dứt khoát, khâu tổ chức chuẩn bị chưa chưa tốt, chưa hình thành được hệ thống trận địa vững chắc, liên hoàn theo yêu cầu chiến đấu phòng ngự... nên trong mấy mùa mưa trước đó, tuy liên quân Việt Nam - Lào có nỗ lực chiến đấu, tiêu diệt được sinh lực địch, nhưng cuối cùng địch vẫn chiếm được địa bàn chiến lược trọng yếu này; buộc ta và bạn lại phải tổ chức chiến dịch phản công vào mùa khô mới khôi phục lại được địa bàn. Đến mùa mưa năm 1972, trước quyết tâm phải bảo vệ bằng được khu vực Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng của cấp chiến lược, trong chỉ đạo của người chỉ huy chiến trường đã hình thành quyết tâm tổ chức chiến dịch phòng ngự một cách chủ động, có ý đồ tác chiến dứt khoát, triển khai công tác chuẩn bị mọi mặt chu đáo, đặc biệt là xây dựng hệ thống trận địa phòng ngự vững chắc; nhờ đó, liên quân Việt Nam - Lào đã hoàn thành tốt nhiệm vụ chiến lược được giao.


Từ thắng lợi trên, có thể khẳng định: Tiến hành chiến dịch phòng ngự là một tất yếu khách quan; loại hình chiến dịch này nhất định xuất hiện cùng với các loại hình chiến dịch khác nhằm đáp ứng yêu cầu của chiến lược. Có chiến dịch tiến công, phản công để tiêu diệt địch, giải phóng hoặc khôi phục lại đất đai do địch chiếm, thì cũng phải có chiến dịch phòng ngự để thực hiện nhiệm vụ giữ vững trận địa, đất đai, vùng giải phóng, hành lang, căn cứ địa, củng cố, bảo vệ thành quả đã đạt được; hoặc để tạo thế tạo thời cơ chuyển sang phản công, tiến công tiêu diệt lớn địch. Như vậy, chiến dịch phòng ngự cũng là một loại hình chiến dịch cơ bản trong nghệ thuật chiến dịch Việt Nam. Để hoàn thành nhiệm vụ của chiến dịch phòng ngự, trước hết cần quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng chỉ đạo tác chiến phòng ngự. Phòng ngự tích cực mà nội dung được thể hiện tập trung nhất là sự kết hợp chặt chẽ giữa yếu tố phòng ngự và tiến công, từ nhận thức lý luận cũng như trong hành động chiến đấu phải trên cơ sở phòng ngự chu đáo, vững chắc nhất và có kế hoạch, biện pháp chủ động tiến công đánh trả địch trong suốt quá trình thực hành chiến dịch.


Thông thường, phòng ngự là bị động, lệ thuộc vào một số điều kiện của đối phương. Do đó, chiến dịch phòng ngự vẫn phải có mục đích rất kiên quyết, triệt để; yêu cầu phải giữ bằng được các khu vực các mục tiêu xung yếu nhất. Muốn vậy, phải quán triệt tinh thần tích cực tiến công, lấy việc tiến công tiêu diệt địch để bảo vệ đất đai có hiệu quả nhất, lấy kiên quyết, ngoan cường giữ vững trận địa khu vực đất đai để tạo điều kiện tiến công tiêu diệt địch. Thực tiễn ở Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng mùa mưa năm 1972 chứng minh: Bằng chiến dịch phòng ngự vận dụng nghệ thuật chiến dịch đúng đắn, sáng tạo liên quân Việt Nam - Lào thực hiện được yêu cầu tiêu diệt sinh lực địch với hiệu suất chiến đấu cao mà thương vong thấp (ta và bạn đã tiêu diệt khoảng 1/3 sinh lực địch), tạo thế phát triển tiến công. Trong Chiến dịch này, lực lượng liên quân Việt Nam - Lào ít hơn địch, phạm vi phòng ngự rộng; địch chủ động tiến công, lại tập trung vào trọng điểm, nhưng ta vẫn có điều kiện để tiêu diệt địch. Từ đó, có thể khẳng định: “Với bất cứ hình thức chiến dịch nào, vấn đề tiêu diệt sinh lực địch vẫn là một trong những mục đích cơ bản của chiến dịch”1 (Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng mùa mưa 1972, Tlđd, tr. 76). Chỉ có như vậy, trong chiến dịch phòng ngự ta mới đánh bại tiến công của địch, mới bảo vệ được vùng giải phóng, giữ vững được trận địa.


Trong tình hình hiện nay, để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng khu vực phòng thủ, trước hết cần phải làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục làm cho các cấp, các ngành và nhân dân nhận thức sâu sắc và hiểu rõ khu vực phòng thủ là một thành phần trong hệ thống phòng thủ chung của cả nước, bộ phận hợp thành của nên quốc phòng toàn dân, giữ vị trí chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của chính quyền, trực tiếp là cấp ủy Đảng và chính quyền các địa phương. Sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó yêu cầu quan trọng, cốt lõi nhất là thế trận và lực lượng, mà xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc là một nội dung quan trọng trong xây dựng thế trận, nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


Để xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, cần phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước. Đồng thời, phải phát huy vai trò, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành và toàn dân, lấy lực lượng vũ trang ba thứ quân, nhất là Quân đội nhân dân làm nòng cốt; các cấp, các ngành, địa phương và các đoàn thể xã hội trong cả nước phải tổ chức quán triệt, triển khai thực hiện thống nhất nghị quyết của Đảng, các văn bản pháp luật của Nhà nước nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động, nâng cao trách nhiệm, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện nhiệm vụ xây dựng và hoạt động của khu vực phòng thủ bảo đảm toàn diện, cơ bản, có trọng tâm trọng điểm, phù hợp với tính chất địa bàn và điều kiện thực tế ở địa phương. Chú trọng xây dựng các tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh; xây dựng địa phương vững mạnh toàn diện, nhất là ở các địa bàn chiến lược, trọng yếu về quốc phòng, an ninh, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Quan tâm đầu tư ngân sách xây dựng sở chỉ huy, các công trình khu vực phòng thủ then chốt, căn cứ hậu cần - kỹ thuật cơ bản vững chắc; cơ quan quân sự địa phương phải phối hợp chặt chẽ với cơ quan công an và các ban, ngành, đoàn thể ở địa phương làm tham mưu và tổ chức thực hiện, tạo sức mạnh tổng hợp, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng khu vực phòng thủ vững mạnh ở từng địa phương và trên cả nước.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #13 vào lúc: 14 Tháng Hai, 2023, 10:46:35 am »

Thứ ba, bài học về kịp thời nâng cao chất lượng chiến đấu của bộ đội, tổ chức sử dụng lực lượng hợp lý, phát huy được khả năng của mọi lực lượng tham gia chiến dịch

Coi trọng việc nâng cao chất lượng chiến đấu của bộ đội, biết tổ chức sử dụng lực lượng hợp lý, phát huy khả năng của mọi lực lượng tham gia chiến dịch là thiết thực đáp ứng yêu cầu chiến đấu phòng ngự. Thực tiễn trước chiến dịch, bộ đội ta chưa quen và thường ngại đánh phòng ngự, thậm chí đã có tư tưởng thiếu tin vào khả năng bảo vệ giữ vững Cánh Đồng Chum. Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh Chiến dịch kịp thời chỉ đạo các đơn vị tổ chức làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, quán triệt sâu sắc tình hình, nhiệm vụ; quan tâm trực tiếp đến việc bảo đảm ăn, nghỉ, sinh hoạt hằng ngày của bộ đội; điều cán bộ có năng lực, trình độ xuống trực tiếp chỉ đạo, chỉ huy các đơn vị chiến đấu. Nhờ đó, lực lượng tham gia chiến dịch đã có những chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, tư tưởng, nêu cao ý chí, tinh thần quyết chiến quyết thắng, nhanh chóng chấp hành mệnh lệnh chuyển vào phòng ngự, chủ động xây dựng phương án tác chiến, tiến công địch. Đc nâng cao khả năng tác chiến phòng ngự, Bộ Tư lệnh Chiến dịch còn chỉ đạo các đơn vị tổ chức huấn luyện, diễn tập các phương án tác chiến ngay trong khu vực phòng ngự. Qua đó, rút kinh nghiệm, tìm ra những bài học hay, bổ khuyết, hoàn thiện từng phương án tác chiến, nhằm đối phó có hiệu quả với mọi tình huống có thể xảy ra.


Nắm bắt rõ trong chiến đấu phòng ngự thường rất ác liệt, căng thẳng, dai dẳng, Bộ Tư lệnh Chiến dịch đã thường xuyên quan tâm tới đời sống vật chất, tinh thần của bộ đội, tổ chức thay phiên, đổi và bổ sung quân ở những chốt, những khu vực phải bám trụ, chốt giữ dài ngày, tạo cho bộ đội có tâm lý thoải mái, được nghỉ ngơi dưỡng sức, không căng thẳng, sẵn sàng vào trận đánh mới cũng là một nguyên nhân dẫn đến thành công của chiến dịch. Đồng thời, việc tổ chức sử dụng lực lượng hợp lý, phát huy khả năng chiến đấu của lực lượng phòng ngự kiên quyết ngăn chặn địch, ngoan cường giữ vững trận địa; kịp thời tăng cường lực lượng chiến đấu cho các khu vực bị uy hiếp nhất; kiên quyết tổ chức phản kích bẻ gãy các mũi tiến công của địch, nhanh chóng khôi phục lại các địa bàn trọng yếu đã mất. Trên cơ sở tác chiến ngăn chặn, kiên cường bám trụ trận địa kết hợp với liên tục phản kích làm suy yếu địch, tạo được thế có lợi cho liên quân Việt Nam - Lào tiến công bộ phận địch, khống chế máy bay không cho địch tăng quân tiếp viện; nắm vững thời cơ, tập trung lực lượng thích hợp, dùng cách đánh hiệp đồng binh chủng, thực hành các trận phản đột kích để thúc đẩy chiến dịch tiến triển, tạo điều kiện đánh trận quyết định, kết thúc chiến dịch thắng lợi.


Từ bài học kinh nghiệm trên, vận dụng vào nhiệm vụ xây dựng khu vực phòng thủ trong tình hình hiện nay, cần phải phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của các cấp, các ngành, các lực lượng và toàn dân. Xây dựng khu vực phòng thủ được tiến hành trên nhiều lĩnh vực: Chính trị, kinh tế, quân sự, an ninh, đối ngoại... do cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, các lực lượng và toàn dân tiến hành. Mỗi lực lượng có chức năng, nhiệm vụ và hoạt động xây dựng trên những lĩnh vực khác nhau nhưng đều góp phần tạo nên sự vững chắc của khu vực phòng thủ; để phát huy được sức mạnh tổng hợp trong xây dựng khu vực phòng thủ, các lực lượng cần vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phương thức xây dựng, phối kết hợp chặt chẽ với nhau, hỗ trợ, giúp đỡ, tạo thế cho nhau, nhằm tăng cường tiềm lực, sức mạnh khu vực phòng thủ, bảo đảm cho từng địa phương và cả nước hoàn thành được nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong cả thời bình và thời chiến, cấp ủy, chính quyền địa phương phải xác định xây dựng khu vực phòng thủ là một nhiệm vụ trọng yếu, có chủ trương, giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo sát thực trong từng giai đoạn; căn cứ vào tình hình cụ thể và chức năng, nhiệm vụ của từng lực lượng để lựa chọn, sử dụng phù hợp, hiệu quả. Các cấp, các ngành, các lực lượng cần tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 22 tháng 9 năm 2008 của Bộ Chính trị “về tiếp tục xây dựng các tinh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới”; Kết luận số 64-KL/TW ngày 30 tháng 10 năm 2019 của Bộ Chính trị “về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW và Nghị định số 21/2019/NĐ-CP ngày 22 tháng 2 năm 2019” của Chính phủ về khu vực phòng thủ, gắn với thực hiện tốt Luật Quốc phòng, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Chiến lược quốc phòng, Chiến lược quân sự. Lực lượng vũ trang tiếp tục phát huy vai trò nòng cốt, tham mưu và phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền địa phương huy động có hiệu quả các nguồn lực xã hội, nhân rộng các mô hình hay, cách làm mới, góp phần tạo sức mạnh tổng hợp, tăng cường tiềm lực, sức mạnh khu vực phòng thủ, thực hiện thắng lợi toàn diện Nghị quyết số 28-NQ/TW trong tình hình mới.


Chiến thắng Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng là kết quả đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sức mạnh đoàn kết liên minh chiến đấu giữa quân và dân hai nước Việt Nam - Lào, là một thành công xuất sắc trong chỉ đạo chiến dịch, sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo của Bộ Tư lệnh Chiến dịch, đánh bại hoàn toàn quân địch tiến công quy mô lớn, dài ngày; giữ được thế liên hoàn vững chắc giữa ba vùng căn cứ địa cách mạng của Lào và kịp thời phối hợp với các hoạt động khác trên chiến trường ba nước Đông Dương. Chiến thắng này để lại nhiều bài học kinh nghiệm, bổ sung và làm phong phú thêm lý luận về nghệ thuật chiến dịch, đặc biệt là với loại hình tác chiến phòng ngự, cần được tiếp tục nghiên cứu, vận dụng sáng tạo, có hiệu quả vào nhiệm vụ xây dựng, củng cố quốc phòng, xây dựng khu vực phòng thủ, thế trận khu vực phòng thủ vững chắc, góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #14 vào lúc: 02 Tháng Ba, 2023, 08:13:41 am »

CHIẾN DỊCH PHÒNG NGỰ CÁNH ĐỒNG CHUM - XIÊNG KHOẢNG
50 NĂM NHÌN LẠI


Thiếu tướng, TS NGUYỄN HOÀNG NHIÊN
Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự - Bộ Quốc phòng


Cách đây 50 năm, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương hai nước Việt Nam và Lào, liên quân Việt Nam - Lào đã giành thắng lợi to lớn trong Chiến dịch phòng ngự Cánh Đông - Xiêng Khoảng, đánh bại hoàn toàn cuộc tiến công quy mô lớn có tính chất chiến lược của Mỹ, phái hữu Lào và quân đánh thuê Thái Lan được sự yểm trợ tối đa của không quân hậu cần Mỹ. Thắng lợi của chiến dịch không chỉ bảo vệ vững chắc địa bàn chiến lược của cách mạng Lào mà còn tạo thế phối hợp trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972 ở chiến trường miền Nam Việt Nam. Với độ lùi thời gian, cùng nguồn tư liệu ngày càng phong phú, chúng ta có điều kiện để nhìn nhận rõ hơn, sâu sắc hơn ý nghĩa của chiến dịch này.


1. Chiến thắng Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng khẳng định quyết tâm chiến lược, tư tưởng chỉ đạo chủ động, sáng tạo của Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương trong thế phối hợp tiến công chiến lược với chiến trường ba nước Đông Dương

Những thắng lợi của lực lượng cách mạng trên tất cả các mặt trận quân sự, chính trị năm 1971 đã làm chuyển biến căn bản cục diện chiến trường ba nước Đông Dương. Trong khi ở miền Nam Việt Nam, “ta đang ở thế thắng, địch đang ở thế thua, thế khó khăn, thế đi xuống”, thì “ở Lào và Campuchia, ta và bạn đều mạnh hẳn hơn địch và giữ quyền chủ động tiến công”1 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 32 (1971), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr. 379). Học thuyết Níchxơn đã bước đầu bị phá sản và thụt lùi một bước nghiêm trọng trên chiến trường ba nước Đông Dương. Đây là thời cơ thuận lợi để chủ lực ta và bạn đẩy mạnh các hoạt động phối hợp quân sự, giữ vững quyền chủ động trên chiến trường ba nước Đông Dương, giành lại hẳn thế chủ động chiến lược, tạo tiền đề quan trọng cho những thắng lợi quân sự to lớn tiếp sau.


Trên cơ sở phân tích, đánh giá khách quan, khoa học tình hình địch, ta trên chiến trường Đông Dương, Hội nghị lần thứ 20 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (17.1 - 11.2.1972) đã xác định nhiệm vụ chiến lược cần kíp năm 1972: “Đánh bại học thuyết Níchxơn trên toàn chiến trường Đông Dương, tạo ra một chuyển biến căn bản làm thay đổi cục diện ở chiến trường miền Nam và trên cả bán đảo Đông Dương, giành thắng lợi to lớn, buộc đế quốc Mỹ phải chấp nhận chấm dứt chiến tranh trên thế thua bằng một giải pháp chính trị có lợi cho ta mà chúng có thể chấp nhận được”2 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 33 (1972), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr. 36). Quán triệt và triển khai nhiệm vụ chiến lược do Trung ương Đảng đề ra, trên chiến trường miền Nam Việt Nam, Bộ Chính trị, Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương ta quyết định mở cuộc tiến công chiến lược năm 1972, với 3 hướng tiến công: Đông Nam Bộ, Trị - Thiên và Tây Nguyên. Trong thế liên hoàn chiến trường, Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương hai nước Việt Nam và Lào thống nhất: Ngay sau kết thúc Chiến dịch Cánh Đồng Chum - Mường Sủi (18.12.1971 - 6.4.1972) ta và bạn chủ động tổ chức phòng ngự, kiên quyết không để địch tái chiếm địa bàn chiến lược quan trọng này vào mùa mưa 1972, đồng thời giữ vững thế chiến chiến lược của cách mạng Việt Nam và Lào ở Thượng Lào, bảo vệ "sườn phải" cho 2 chiến dịch ta diễn ra ở Bắc Tây Nguyên và Trị - Thiên.


Tại chiến trường Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng trên cơ sở đánh giá đúng tình hình chuẩn bị thực hiện cuộc tiến công vào mùa mưa, nhằm chiếm lại địa bàn chiến lược này, đồng thời, căn cứ đề xuất của Đoàn 959 Chuyên gia quân sự Việt Nam và Bộ Tổng Tham mưu, ngay trong tháng 2 năm 1972, Quân ủy Trung ương ta đã ra chỉ thị sơ bộ cho Bộ Tư lệnh Chiến dịch Cánh Đồng Chum - Mường Sủi về việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ và giữ vững địa bàn chiến lược vừa giành được. Ngày 1 tháng 4 năm 1972, khi Chiến dịch tiến công Cánh Đồng Chum - Mường Sủi đang diễn ra những trận đánh cuối cùng, Thường vụ Quân ủy Trung ương ta đã chỉ đạo Đảng ủy và Bộ Tư lệnh 959 và các lực lượng tác chiến ở khu vực này cần phải "có kế hoạch tác chiến thích hợp, dùng lực lượng không lớn tiếp tục hoàn thành đánh chiếm những địa hình có lợi cho ta và tích cực tiêu diệt quân địch ra phản kích; ra sức củng cố chỗ đứng chân của ta để từ đó tiếp tục dùng phân đội nhỏ, đặc công, pháo, cối, tiêu diệt quân địch ra phản kích; ra sức củng cố chỗ đứng chân của ta để từ đó tiếp tục dùng phân đội nhỏ, đặc công, pháo, cối tiêu diệt địch ở Loong Chẹng; củng cố chỗ đứng chân trong vùng Sảm Thông; đẩy mạnh việc triển khai kế hoạch phòng thủ khu vực Cánh Đồng Chum... theo chỉ thị của Bộ Tổng Tham mưu. Tư tưởng chỉ đạo của kế hoạch phòng thủ là giữ vững địa bàn, tiêu diệt lực lượng địch khi chúng tiến hành phản công..."1 (Dẫn theo: Quân đội nhân dân Việt Nam - Bộ Tổng Tham mưu, Biên niên sự kiện Bộ Tổng Tham mưu trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954 - 1975, Tập VIII (1972), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2008, tr. 121). Nhấn mạnh nhiệm vụ bảo vệ khu vực Cánh Đồng Chum là nhiệm vụ rất quan trọng đối với cả ta và bạn, Thường vụ Quân ủy Trung ương yêu cầu Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Chính trị Tổng cục Hậu cần các binh chủng tăng cường chỉ đạo và giải quyét những vấn đề cấp thiết thực hiện kế hoạch phòng thủ khu vực Cánh Đồng Chum.


Sau khi Quân ủy Trung ương hai nước thống nhất chủ trương mở Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng, đầu tháng 4 năm 1972, công tác chuẩn bị cho chiến địch được tiến hành khẩn trương. Bộ Tư lệnh Chiến dịch được thành lập, gồm 6 đồng chí, do đồng chí Vũ Lập làm Tư lệnh, đồng chí Lê Linh làm Chính ủy; phía Lào có đồng chí Xiphon Phalikhăn - Tư lệnh Quân khu Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng làm Phó Tư lệnh về quân sự1 (Dẫn theo: Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử các đoàn 335, 766, 866 quân tình nguyện và 463, 565 chuyên gia quân sự Việt Nam tại Lào (1954 -1975), Nxb Quân đội nhấn dân, Hà Nội, 2006, tr. 203). Lực lượng tham gia chiến dịch: về phía Việt Nam, gồm có: 5 trung đoàn bộ binh (174, 148, 866, 335 và 88), 2 tiểu đoàn đặc công, 1 tiểu đoàn pháo binh, 4 tiểu đoàn pháo và súng máy phòng không, 1 tiểu đoàn xe tăng và 2 tiểu đoàn công binh; phía Lào, gồm có: 7 tiểu đoàn chủ lực, 1 đại đội xe tăng, 2 đại đội pháo binh, 2 đại đội súng máy phòng không, 1 đại đội công binh và 4 đại đội địa phương.


Như vậy, quyết định mở Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng đã thể hiện sự chủ động, nhạy bén, sáng tạo và táo bạo trong tư tưởng chỉ đạo của Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương. Đây là lần đầu tiên liên quân Việt Nam - Lào chủ động tiến hành một chiến dịch phòng ngự trong trên địa bàn chiến lược Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng, phá vỡ quy luật đã hình thành từ trước đến lúc đó là: Mùa khô ta tiến công và giành quyền kiểm soát; mùa mưa địch nống lấn và giành lại quyền kiểm soát. Chiến thắng này đánh bại nỗ lực mở cuộc tiến công quy mô lớn, có tính chất chiến lược của địch, góp phần bảo vệ vững chắc địa bàn chiến lược của cách mạng hai nước Việt Nam và Lào, làm thay đổi cục diện chiến trường có lợi cho cách mạng.


2. Chiến thắng Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng góp phần đánh bại nỗ lực quân sự cao nhất của Mỹ và phái hữu Lào trong chiến lược "Chiến tranh đặc biệt lăng cường ” ở Lào

Từ năm 1969, sau khi đắc cử tổng thống Mỹ, với bản chất hiếu chiến, chính quyền Tổng thống Níchxơn vẫn ngoan cố theo đuổi mưu đồ kéo dài chiến tranh xâm lược ở Lào và Đông Dương. Lấy Đông Dương làm nơi thí điểm học thuyết mới - “Học thuyết Níchxơn”, cùng với chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” ở miền Nam Việt Nam và chính sách “Khơme hóa chiến tranh” ở Campuchia, Mỹ thực hiện chính sách “Lào hóa chiến tranh”, bằng chiến lược “Chiến tranh đặc biệt tăng cường”. Theo đó, Mỹ tăng cường viện trợ quân sự và phát triển quân đội phái hữu Lào, lực lượng đặc biệt Vàng Pao, tiếp tục đưa quân đánh thuê Thái Lan vào Lào, đồng thời sử dụng không quân Mỹ đánh phá tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh và trực tiếp chi viện yểm trợ cho quân phái hữu Lào trong các cuộc hành quân lấn chiếm vùng giải phóng, hòng tiêu diệt cách mạng Lào, giành quyền kiểm soát toàn bộ lãnh thổ. Công thức điển hình để giành chiến thắng trong chiến lược “Chiến tranh đặc biệt tăng cường” ở Lào là: quân đội phái hữu Lào + quân đội đánh thuê Thái Lan + cố vấn Mỹ, hậu cần và hỏa lực tối đa của không quân Mỹ. Đây là “một cuộc chiến tranh xâm lược đầy tội ác được tiến hành ở Lào từ năm 1969 đến năm 1972 trên toàn lãnh thổ Lào, từ vùng giải phóng đển vùng tạm kiếm soát của ngụy quyền Viêng Chăn”1 (Nguyễn Hùng Phi - Buasi Chalonsúc, Lịch sử Lào hiện đại, Tập II, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 167).


Là địa bàn chiến lược trọng yếu, Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng có tầm quan trọng về cả tiến công và phòng thủ, có tầm ảnh hưởng chiến trường rộng lớn không chỉ đối với sự tồn vong của khu căn cứ Trung ương cách mạng Lào, mà còn có giá trị khống chế đối với vùng Đông Dương. Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Lào, nơi đây trở thành nơi đọ sức, giành giật giữa lực lượng cách mạng Lào với Mỹ và phái hữu Lào, đồng thời là địa bàn mang tính phối hợp chung rất quan trọng giữa ta và bạn. Khi triển khai chiến lược “Chiến tranh đặc biệt tăng cường”, Mỹ và chính quyền Viêng Chăn coi việc chiếm giữ bằng được Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng trở thành mục tiêu tất yếu, mang tính quyết định và chỉ có thể giải quyết bằng những cuộc hành quân quy mô lớn, với lực lượng đông, trang bị vũ khí tối tân, có sự hỗ trợ, hiệp đồng của nhiều binh chủng. Theo đó, liên tiếp từ tháng 10 năm 1969 đến tháng 4 năm 1972, trên địa bàn Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng đã diễn ra các cuộc tiến công và phản công lán, như: Mường Sủi (6 - 7.1969), Toàn thắng (10.1969 - 4.1970), 74B (3.2 - 30.4.1971), Cánh Đồng Chum - Mường Sủi (12.1971 - 4.1972) giữa liên quân Việt Nam - Lào với quân địch; phản ánh quyết tâm chiến lược, thế giằng co giữa cách mạng Lào và Mỹ - phái hữu Lào.


Mặc dù thất bại nặng trong mùa khô 1971 - 1972 nhưng địch khẩn trương điều lực lượng từ các quân khu khác đến tăng cường cho Quân khu 2. Đến ngày 20 tháng 5 năm 1972, địch đã tập trung ở Quân khu 2 tới 76 tiểu đoàn bộ binh (trong đó có 18 tiểu đoàn quân đánh thuê Thái Lan), 3 tiểu đoàn pháo binh, nhiều phương tiện chiến tranh hiện đại, được không quân Mỹ chi viện, hình thành 4 khu vực xung quanh Cánh Đồng Chum là: Sảm Thông - Loong Chẹng, Buôm Loọng, Tôm Tiêng - Pha Đông và Sa La Phu Khun. Âm mưu của địch là tập trung lực lượng đánh chiếm Cánh Đồng Chum trong mùa mưa 1972 để tạo thế mạnh, làm cơ sở mặc cả với lực lượng cách mạng Lào trên bàn đàm phán.


Từ ngày 21 tháng 5 năm 1972, không quân địch đánh phá dữ dội vào các điểm cao trọng yếu ở khu trung gian. Tiếp đó, ngày 25 tháng 5, bộ binh địch chính thức mở cuộc tiến công vào khu vực

Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng. Diễn biến chiến dịch cho thấy, mặc dù địch huy động một lực lượng rất lớn, trong đó nhiều đơn vị lực lượng đặc biệt Vàng Pao và quân đánh thuê Thái Lan - lực lượng chủ yếu thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt tăng cường” ở Lào vào cuộc tiến công có ý nghĩa chiến lược này, nhưng kết quả không như ý muốn. Dựa vào thế trận phòng ngự đã chuẩn bị kỹ lưỡng, dưới sự chỉ huy của Bộ Tư lệnh Chiến dịch, liên quân Việt Nam - Lào đã anh dũng chiến đấu, đánh bại nhiều đợt tiến công của địch, giữ vững trận địa, đồng thời tổ chức lực lượng tiến hành nhiều trận đột phản kích hiệu quả, tiêu hao, tiêu diệt nhiều quân địch. Kết quả, lực lượng địch bị tổn thất nặng nề: Ta và bạn Lào đã loại khỏi vòng chiến đấu 5.759 tên địch; đánh thiệt hại nặng 3 GM (21, 23 và 26), 3 tiểu đoàn quân đánh thuê Thái Lan và đánh thiệt hại 5 GM khác, bắn rơi 38 máy bay, thu 859 súng các loại1 (Bộ Quốc phòng, Bách khoa toàn thư quân sự Việt Nam, Quyển I: Lịch sử quân sự, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2015, tr. 250)...


Có thể nói, thắng lợi của chiến dịch này đánh bại thêm một bước chiến lược “Chiến tranh đặc biệt tăng cường” ở Lào. Đế quốc Mỹ tiếp tục thất bại trong âm mưu sử dụng lực lượng đặc biệt Vàng Pao - đội quân xung kích trong tiến công với những tôn thất nặng nề, tinh thần sa sút; quân Thái Lan không làm nổi chức năng “chỗ dựa” cho quân phái hữu Lào. Thắng lợi này còn góp phần tạo thế mạnh trên bàn đàm phán giải quyết vấn đề hòa bình ở Lào. Chiến thắng này cùng với thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược năm 1972 trên chiến trường miền Nam Việt Nam và thắng lợi trên chiến trường Campuchia, đã giáng một đòn nặng nề vào Học thuyết Níchxơn” của Mỹ ở Đông Dương.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #15 vào lúc: 02 Tháng Ba, 2023, 08:15:30 am »

3. Chiến thắng Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng 1972 - biểu hiện sinh động của tình đoàn kết chiến đấu đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam

Đoàn kết, liên minh chiến đấu là một tất yếu khách quan, là quy luật sống còn của nhân dân ba nước Đông Dương. Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng 1972 là một trong những biểu hiện sinh động, đậm nét của tình đoàn kết chiến đấu đặc biệt giữa hai Đảng, hai Nhà nước, hai Quân đội và nhân dân hai nước Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam. Trên cơ sở tuân thủ nguyên tắc tôn trọng chủ quyền độc lập, tự chủ của bạn, nêu cao tinh thần quốc tế chân chính, quán triệt và thực hiện tốt phương châm “giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình”1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập. Tập 8 (1953 - 1954), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 105), phát huy cao độ tình đoàn kết chiến đấu đặc biệt giữa quân và dân hai nước, đầu năm 1972, Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương hai nước Việt Nam và Lào nhất trí về chủ trương tổ chức chiến dịch phòng ngự. Thực hiện nhiệm vụ được giao, các đơn vị Quân tình nguyẹn việt Nam, các đoàn chuyên gia quân sự 463 và 959 tích cực phối hợp cùng các đơn vị quân đội cách mạng Lào và nhân dân, bộ đội địa phương, dân quân du kích tỉnh Xiêng Khoảng làm tốt công tác chuẩn bị chiến trường, huy động các lực lượng tổ chức thế trận phòng ngự theo kế hoạch và cơ bản hoàn tất trước ngày diễn ra chiến dịch.


Qua thảo luận, Bộ Tư lệnh Chiến dịch xác định địa bàn chiến dịch bao gồm khu tứ giác: Mường Sủi - Noọng Pẹt - thị xã Xiêng Khoảng - Thẩm Lửng, với chiều dài 60km, chiều rộng 50km, trong đó Cánh Đồng Chum là khu trung tâm. Toàn bộ địa bàn chiến dịch được chia thành 5 khu vực: Khu vực trung tâm Cánh Đồng Chum là khu vực chủ yếu, trong đó hướng phòng ngự chủ yếu là hướng Nam và Tây Nam, hướng phòng ngự thứ yếu là Bắc và Tây Bắc; khu vực Hin Tặng (khu trung gian) là khu vực phòng ngự cơ bản phía trước rất quan trọng của hướng phòng ngự chủ yếu; khu Noọng Pẹt là khu vực phòng ngự thứ yếu; khu Mường Sủi và thị xã Xiêng Khoảng là hai khu vực hoạt động tác chiến phối hợp, đánh địch từ xa, bảo vệ phía Tây Bắc và Đông cho khu trung tâm. Tuy nhiên, do đây là lần đầu tiên ta và bạn tiến hành một chiến dịch phòng ngự hoàn chỉnh nên ta và bạn thống nhất phân công: Ta phụ trách khu vực trung tâm Cánh Đồng Chum, khu trung gian, khu Noọng Pẹt; bạn phụ trách khu vực thị xã Xiêng Khoảng và khu vực Mường Sủi. Ngoài ra, các đơn vị binh chủng, các đơn vị của bạn được bố trí xen kẽ ở các khu vực phòng ngự để hỗ trợ hiệp đồng chi viện cho bộ binh đánh địch, bảo vệ địa bàn.


Ngày 21 tháng 5 năm 1972, địch bắt đầu tiến công khu trung gian, mở màn cuộc tiến công lấn chiếm Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng. Khi địch vừa tiến công cũng đúng vào thời điểm ta và bạn chuyển trạua thái từ chiến dịch tiến công sang chiến dịch phòng ngự một cách toàn diện. Trải qua 4 đợt chiến dịch, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương hai nước Việt Nam và Lào, trực tiếp của Bộ Tư lệnh Chiến dịch, liên quân Việt Nam - Lào, với việc tổ chức lực lượng thích hợp bao gồm 2 bộ phận phòng ngự tại chỗ và cơ động đánh địch trên các hướng, đã ngăn chặn, phản kích, bẻ gãy các mũi và hướng tiến công của địch, kết hợp tập kích tiêu hao sinh lực, tạo thế và lực đánh trận then chốt quyết định. Sau đó, liên quân Việt Nam - Lào tiếp tục tiến công, truy quét địch ra khỏi khu vục Nam Cánh Đồng Chum, khôi phục lại các khu vực địch chiếm, buộc chúng phải co cụm về giữ Loong Chẹng - căn cứ chiến lược của lực lượng đặc biệt Vàng Pao, đánh bại hoàn toàn cuộc tiến công quy mô lớn của địch.


Thực tiễn chiến dịch đã chứng minh, hoạt động phối hợp chiến đấu phòng ngự và tiến công được liên quân Việt Nam - Lào thực hiện một cách nhuần nhuyễn, linh hoạt, hiệu suất chiến đấu cao. Trong toàn bộ chiến dịch, liên quân Việt Nam - Lào đã đánh 244 trận lớn nhỏ, trong đó Quân tình nguyện Việt Nam đánh 170 trận có 1 trận quy mô sư đoàn, 8 trận quy mô trung đoàn, 14 trận quy mô tiểu đoàn; lực lượng cách mạng Lào đánh 74 trận, có 1 trận quy mô cấp trung đoàn. Ta và bạn đã hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đánh bại hoàn toàn cuộc tiến công quy mô lớn có tính chất chiến lược của Mỹ và phái hữu Lào, hòng chiếm lại địa bàn chiến lược, bảo vệ được vùng giải phóng có ý nghĩa chiến lược trọng yếu đối với cách mạng Lào; đồng thời, liên quân Việt Nam - Lào còn làm phá sản âm mưu địch muốn thu hút, giam chân, phân tán chủ lực Việt Nam ở Lào để đỡ đòn cho các chiến trường khác ở Đông Dương, tạo nên thế phối hợp cùng “chia lửa” với các chiến trường khác ở miền Nam Việt Nam.


Thắng lợi của liên quân Việt Nam - Lào trên chiến trường Lào nói chung, chiến thắng Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng mùa mưa 1972 nói riêng thực sự là biểu tượng sinh động, góp phần củng cố và phát triển tình đoàn kết chiến đấu Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam thêm một bước mới. Thực tiễn chiến dịch đã chứng minh sự thống nhất về mặt chủ trương, sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả trong suốt quá trình chuẩn bị và thực hành chiến dịch giữa ta và bạn. Thắng lợi của chiến dịch chính là thắng lợi chung, thúc đẩy cuộc kháng chiến chống kẻ thù chung của hai dân tộc ngày càng phát triển.


4. Chiến thắng Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng đánh dấu bước phát triển về nghệ thuật chỉ đạo tổ chức và thực hành chiến dịch phòng ngự trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

Trên cơ sở phán đoán đúng âm mưu, ý đồ của địch, đồng thời phát huy thế chủ động chiến lược của ta, ngay từ đầu năm 1972, đồng chí Lê Trọng Tấn - Phó Tổng Tham mưu trưởng, đại diện Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng Việt Nam, trực tiếp chỉ đạo Chiến dịch giải phóng Cánh Đồng Chum đã báo cáo Quân ủy Trung ương ta về tình hình chiến dịch, cũng như đề xuất nhiệm vụ giữ vững, xây dựng địa bàn này trở thành căn cứ địa vững chắc của bạn. Thực hiện nhiệm vụ được giao, tháng 2 năm 1972, Bộ Tổng Tham mưu ta đã soạn thảo mệnh lệnh về tổ chức Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng và Sảm Thông - Loong Chẹng, dự kiến âm mưu và thủ đoạn hoạt động của địch...


Chấp hành chỉ thị của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tham mưu, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng khẩn trương xây dựng kế hoạch và triển khai các công tác chuẩn bị. Tại các khu vực trọng yếu xây dựng trận địa liên hoàn, hình thành hệ thống các khu vực vững chắc, nhiều tuyến, có chiều sâu. Riêng các khu vực không trọng yếu và chưa thể xây dựng trận địa thì vận dụng hình thức “chốt” có trọng điểm để tiêu hao, ngăn chặn, làm suy yếu địch trước khi chúng tiến công vào khu vực phòng ngự chủ yếu. Theo kế hoạch tác chiến, Bộ Tư lệnh Chiến dịch tổ chức 2 lực lượng chủ yếu, gồm: Lực lượng phòng ngự tại chỗ và lực lượng cơ động chiến dịch. Lực lượng phòng ngự tại chỗ, gồm: 2 trung đoàn bộ binh 174, 866, 1 đại đội xe tăng - thiết giáp và toàn bộ pháo binh chiến địch, xây dựng trận địa thành các chốt, cụm chốt để ngăn chặn địch tiến công. Lực lượng cơ động chiến dịch đánh địch trên các hướng phòng ngự bị địch uy hiếp, gồm: 2 trung đoàn bộ binh 148, 3551 (Đến tháng 10 năm 1972, Bộ tăng cường thêm Trung đoàn 88 Sư đoàn 308C tham gia chiến dịch), xây dựng trận địa bố trí đứng chân ở khu vực Bắc Noọng Tai, Nam Phu Keng Luông.


Để đảm bảo phục vụ chiến dịch, công tác hậu cần, thông tin liên lạc, quân y, kỹ thuật... được chuẩn bị chu đáo đảm bảo hoạt động chiến đấu phòng ngự liên tục, dài ngày. Thấu triệt nhiệm vụ phòng ngự chiến dịch do Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo, lại ít nhiều có kinh nghiệm chốt, trụ bám chiến đấu chống địch lấn chiếm trong các mùa mưa trước nên các đơn vị đều tích cực, chủ động khắc phục khó khăn, hoàn thành mọi công tác chuẩn bị chiến đấu theo đúng kế hoạch và quyết tâm đề ra. Các lực lượng tham gia chiến dịch sẵn sàng chờ lệnh nổ súng.


Nhờ chuẩn bị chu đáo về mọi mặt, sự thống nhất cao trong cấp chỉ huy chiến dịch giữa ta và bạn, Bộ Tư lệnh Chiến dịch đã điều hành chiến dịch một cách chủ động, kịp thời và chặt chẽ, phát huy cao độ sức mạnh của liên quân chiến đấu Việt Nam - Lào trên các khu vực phòng ngự, các hướng phản đột kích chiến dịch. Chiến dịch đã vận dụng nhiều cách đánh linh hoạt, sáng tạo, kết hợp phòng ngự trận địa với tác chiến ở vòng ngoài, phản kích, tập kích vào phía sau lưng địch, với những đòn phản công lớn. Đặc biệt trong các trận then chốt chiến dịch, cơ quan và người chỉ huy chiến dịch đã nắm chắc tình hình địch, xử lý đúng các tình huống chiến dịch và chiến thuật, nắm chắc thời cơ, sử dụng lực lượng liên quân Việt Nam - Lào thích hợp, được tăng cường binh khí kỹ thuật, tổ chức hiệp đồng chặt chẽ, đánh tiêu diệt binh đoàn cơ động (GM), tiểu đoàn địch, giành những thắng lợi quyết định.


Như vậy việc chủ động mở và chỉ đạo tổ chức, thực hành thắng lợi Chiến địch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng ghi dấu thành quả đoàn kết, phối hợp chiến đấu giữa Trung ương Đảng Quân ủy Trung ương hai nước Việt Nam và Lào, trực tiếp là hoạt động chỉ huy chung của Bộ Tư lệnh Chiến dịch. Thành công này đánh dấu bước phát triển của nghệ thuật quân sự chiến dịch Việt Nam nói chung, nghệ thuật chiến dịch phòng ngự nói riêng. Đồng thời, thắng lợi đó đánh dấu bước trưởng thành quan trọng về tổ chức, chỉ huy tác chiến của Quân tình nguyện Việt Nam và các lực lượng vũ trang cách mạng Lào. Đây là chiến dịch phòng ngự hoàn chỉnh đầu tiên của liên quân Việt Nam - Lào, để lại nhiều kinh nghiệm quý, góp phần làm phong phú thêm lý luận về nghệ thuật chiến dịch.


Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng in đậm mốc son trong dòng chảy lịch sử cách mạng Việt Nam, là một trong những biểu tượng sinh động của tình đoàn kết chiến đấu đặc biệt giữa Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân dân hai nước Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam. Đây là thắng lợi của một chiến dịch phòng ngự hoàn chỉnh được ta và bạn tổ chức trên chiến trường Lào, với nhiều cách đánh sáng tạo, hiệu quả, góp phần đánh bại một bước quan trọng chiến lược “Chiến tranh đặc biệt tăng cường” ở Lào, làm thay đổi cục chiến trường có lợi cho cách mạng Lào, phối hợp hiệu quả với cuộc tiến công chiến lược năm 1972 trên chiến trường chính miền Nam Việt Nam. 50 năm trôi qua, nhưng Chiến thắng Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng mùa mưa năm 1972 vẫn còn nguyên giá trị, để lại nhiều kinh nghiệm quý, cần tiếp tục nghiên cứu, vận dụng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, cũng như tăng cường củng cố và phát triển mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, tình đoàn kết đặc biệt hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam lên tầm cao mới.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #16 vào lúc: 02 Tháng Ba, 2023, 08:34:37 am »

CHIẾN THẮNG CÁNH ĐỒNG CHUM - XIÊNG KHOẢNG MÙA MƯA NĂM 1972 THÀNH CÔNG VỀ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM VÀ ĐẢNG NHÂN DÂN CÁCH MẠNG LÀO


PGS, TS NGUYỄN DANH TIÊN
Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh


Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào1 (Đảng Nhân dân Lào thành lập ngày 22 tháng 3 năm 1955, đến tháng 2 năm 1972 đổi tên thành Đảng Nhân dân cách mạng Lào) có chung cội nguồn từ Đảng Cộng sản Đông Dương. Trong suốt những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào luôn có sự thống nhất về chủ trương, đường lối nhằm tăng cường liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam cùng chống kẻ thù chung. Chính sự chỉ đạo của hai Đảng là nhân tố quan trọng quyết định thắng lợi của liên minh chiến đấu giữa các mạng hai nước và được biểu hiện sinh động trong chiến thắng của Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng mùa mưa năm 1972.


1. Cơ sở dẫn tới thành công về sự chỉ đạo của Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào trong Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng

Sau khi đế quốc Mỹ tiến hành chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” ở Lào, với những diễn biến mới của tình hình, để giúp Lào bảo vệ thành quả cách mạng đã giành được, ngày 2 tháng 7 năm 1959, Bộ Chính trị báo cáo Trung ương Đảng Lao động Việt Nam "Về tình hình mới và nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Lào”, trong đó xác định: “Tích cực ủng hộ cách mạng Lào phải được coi là một nhiệm vụ quốc tế hết sức quan trọng của Đảng và nhân dân ta..., là một công tác có ý nghĩa trọng đại đối với sự nghiệp củng cố miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà. Chúng ta cần phải thống nhất tư tưởng trong Đảng và trong cán bộ về tình hình và nhiệm vụ của cách mạng Lào, về nhiệm vụ quốc tế của Đảng đối với cách mạng Lào”1 (Bộ Chính trị bảo cáo Trung ương Đảng về tình hình mới và nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Lào, ngày 2 tháng 7 năm 1959, Trung tâm Lưu trữ Bộ Quốc phòng, Phông Quân ủy Trung ương, Hồ sơ 223). Tiếp đó, ngày 9 tháng 7 năm 1961, tại cuộc hội đàm cấp cao giữa hai Đảng, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn nhắc lại lời Chủ tịch Hồ Chí Minh và khẳng định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam đối với cách mạng Lào: “Dầu còn nhiều khó khăn nhưng Đảng Lao động Việt Nam vẫn đem hết sức mình ra giúp cách mạng Lào...”2 (Lê Đình Chỉnh, Quan hệ đặc biệt, hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào trong giai đoạn 1954 - 2000, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr. 80), về phía cách mạng Lào, để lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ phát triển lên một bước mới, tháng 5 năm 1965, Hội nghị lần thứ 13 Đảng Nhân dân Lào được tổ chức, ra Nghị quyết về đặc điểm cơ bản, nhiệm vụ và đường lối cơ bản và nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Lào, nhấn mạnh: “Tăng cường đoàn kết quốc tế, phối hợp chặt chẽ với cách mạng Việt Nam...”3 (Nghị quyết 13 (5.1965) của Trung ương Đảng bạn về đặc điểm, nhiệm vụ và đường lối cơ bản và nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Lào, Tài liệu lưu trữ tại Viện Lịch sử quân sự, ký hiệu TK/4528, tr. 66).


Từ năm 1969, cùng với triển khai chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” ở miền Nam Việt Nam, đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt tăng cường” ở Lào. Trước tình hình trên, Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Nhân dân Lào chủ trương thắt chặt tình đoàn kết chiến đấu đặc biệt. Theo đó, ngày 19 tháng 6 năm 1970, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ra Nghị quyết về tình hình mới ở bán đảo Đông Dương và nhiệm vụ mới của chúng ta. Đối với Lào, Nghị quyết chỉ rõ, mục đích của đế quốc Mỹ ở Lào là củng cố, tăng cường các lực lượng phản động kết hợp với một bộ phận quân Thái Lan, quân đội Sài Gòn đẩy mạnh chiến tranh đặc biệt lấn chiếm và đánh phá vùng giải phóng, nhất là ở khu vực Trung - Hạ Lào, nhằm ngăn chặn đường vận chuyển chiến lược của cách mạng Việt Nam, đàn áp cách mạng Lào uy hiếp miền Bắc Việt Nam, xúc tiến việc thực hiện kế hoạch liên minh khu vực ở Đông Nam Á. Về nhiệm vụ mới của cách mạng Việt Nam, Nghị quyết chỉ rõ: Trước tình hình mới, ba nước Việt Nam, Campuchia và Lào đã trở thành chiến trường thống nhất, nhiệm vụ mới lúc này là động viên sự nỗ lực cao nhất của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cả hai miền Việt Nam, tăng cường khối đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương để lực lượng to lớn này trở thành một khối thống nhất có chiến lược, kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến của nhân dân ba nước chống đế quốc Mỹ xâm lược và tay sai1 (Nghị quyết Bộ Chính trị về tình hình mới ở bán đảo Đông Dương và nhiệm vụ mới của chúng ta, ngày 19 tháng 6 năm 1970, Tài liệu lưu trữ tại Viện Lịch sử quân sự, ký hiệu TW/1015, tr. 10). Đối với Lào, từ ngày 3 đến ngày 6 tháng 2 năm 1972, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II Đảng Nhân dân Lào được tổ chức. Đại hội quyết định đổi tên Đảng Nhân dân Lào thành Đảng Nhân dân cách mạng Lào. Cương lĩnh chính trị được thông qua tại Đại hội đã đề ra nhiệm vụ chủ yếu và mục tiêu trước mắt của cách mạng Lào là: “Giương cao ngọn cở cách mạng dân tộc, dân chủ, tăng cường đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết mọi lực lượng cách mạng, mọi lực lượng yêu nước và tiến bộ, đoàn kết chặt chẽ với nhân dân Việt Nam... Tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội ở Đông Dương, Đông Nam Á và trên toàn thế giới”2 (Ban Chỉ đạo lý luận và thực tiễn Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Lịch sử Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr 158-159).


Thay mặt Đoàn đại biểu Đảng Lao động Việt Nam tham dự Đại hội II Đảng Nhân dân Lào, Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ (Hội đồng Bộ trưởng), Bộ trưởng Bộ Quốc phòng khẳng định: Quan hệ Việt - Lào là mối quan hệ đặc biệt... Trong quá trình đoàn kết chống kẻ thù chung là thực dân Pháp trước đây cũng như đế quốc Mỹ ngày nay, nhân dân Lào đã chịu đựng những hy sinh to lớn để giúp đỡ cách mạng Việt Nam... Về phần mình, Đảng Lao động Việt Nam và nhân dân Việt Nam kế tục truyền thống sẵn có, quyết không ngại hy sinh gian khổ, toàn tâm toàn lực giúp đỡ cách mạng Lào trong tình quốc tế trong sáng, quyết đem hết sức mình vun đắp cho mối tình hữu nghị anh em và đoàn kết chiến đấu giữa hai Đảng và nhân dân hai nước Việt - Lào mãi mãi xanh tươi, đời đời nồng thắm1 (Đảng Nhân dân cách mạng Lào - Đảng Cộng sản Việt Nam, Lịch sử quan hệ đoàn kết đặc biệt Việt Nam - Lào. Lào - Việt Nam (1930 - 2007), Văn kiện, Tập III (1956 -1975), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012, tr. 282-283).


Như vậy, sự thống nhất về chủ trương, đường lối tăng cường liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam chính là cơ sở để Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào phối hợp chỉ đạo lực lượng vũ trang hai nước đoàn kết chiến đấu giành những thắng lợi mới. Chiến thắng của Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng mùa mưa năm 1972 là một dấu ấn đậm nét về thành công trong sự chỉ đạo của hai Đảng trong thời điểm quan trọng của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Việt Nam và Lào.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #17 vào lúc: 02 Tháng Ba, 2023, 08:38:18 am »

2. Sự chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào - nhân tố quyết định thắng lợi của Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng

Thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của cách mạng ba nước Đông Dương, đặc biệt là chiến trường Đường 9 - Nam Lào, Đông Bắc Campuchia, Tây Nguyên trong Xuân - Hè 1971 đã góp phần quan trọng khiến chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ bị phá sản. Trên chiến trường miền Nam Việt Nam, địch phải chuyển hẳn vào thế phòng ngự, quân Mỹ tiếp tục rút khỏi chiến trường, quân đội Sài Gòn sa sút về tinh thần, sức chiến đấu giảm.


Để thúc đẩy chiều hướng phát triển có lợi cho cách mạng, Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam họp tháng 5 năm 1971 chủ trương: Phát triển thế tiến công chiến lược trên toàn chiến trường, đánh bại chiến lược Đông Dương hóa chiến tranh của đế quốc Mỹ, giành thắng lợi có tính quyết định trong năm 1972, buộc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh bằng thương lượng trên thế thua; trước mắt, mở các chiến dịch tiến công lớn của bộ đội chủ lực trên các hướng quan trọng là miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Trị - Thiên, đồng thời đẩy mạnh tiến công quân sự rộng khắp, kết hợp với quần chúng nổi dậy phá kế hoạch “bình định” của chúng ở nông thôn rừng núi và nông thôn đồng bằng, thúc đẩy phong trào đấu tranh của quần chúng ở các đô thị, làm thay đổi cục diện chiến tranh1 (Đảng Nhân dân cách mạng Lào - Đảng Cộng sản Việt Nam, Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam (1930 - 2007), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 471).


Ở Lào, sau thành công của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II (2.1972), cách mạng Lào có nhiều chuyển biến quan trọng. Đảng Nhân dân cách mạng Lào nhanh chóng đưa Nghị quyết Đại hội vào cuộc sống, đặc biệt là lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố các chiến trường và tiếp tục đẩy mạnh liên minh chiến đấu Lào - Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược. Đặc biệt, để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng cách mạng Lào, Thường vụ Bộ Chính trị Đảng Nhân dân cách mạng Lào chủ trương tiến hành chỉnh huấn Đảng lần thứ ba vào đầu mùa mưa năm 1972. Kết quả đợt chình huấn đã góp phần nâng cao sức mạnh mọi mặt của cách mạng Lào, là cơ sở để cách mạng Lào phối hợp chặt chẽ với cách mạng Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược.


Nhằm quán triệt quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và Bộ Chính trị Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào, tháng 2 năm 1972, Quân ủy Trung ương Đảng Lao động Việt Nam họp, xác định: “Phải giành thắng lợi lớn, tạo nên thế so sánh lực lượng và cục diện mới có lợi cho ta, buộc địch phải chấm dứt chiến tranh trong năm 1972 theo điều kiện của ta, đồng thời có sự chuẩn bị mọi mặt để tiếp tục đánh mạnh hơn nữa vào mùa khô 1972 - 1973 nếu địch còn ngoan cố kéo dài chiến tranh”1 (Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng mùa mưa 1972, Hà Nội, 1987, tr. 21). Với chiến trường Lào, địa bàn Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng là khu vực có vị trí chiến lược về nhiều mặt, giữ vững và bảo vệ được khu này sẽ tạo bước ngoặt cho cách mạng Lào và thúc đẩy cách mạng Việt Nam - Lào phát triển. Do vậy, ngay từ tháng 2 năm 1972, khi chiến dịch tiến công ở Cánh Đồng Chum đang ở giai đoạn cuối, Quân ủy Trung ương hai nước Việt Nam và Lào thống nhất chủ trương tổ chức chiến dịch phòng ngự khu vực chiến lược Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng. Cũng ngay trong tháng 2 năm 1972, Bộ Tư lệnh Chiến dịch Cánh Đồng Chum - Mường Sủi (18.12.1971 - 6.4.1972) đã nhận được chỉ thị sơ bộ của Quân ủy Trung ương hai nước về về nhiệm vụ bảo vệ, giữ vững địa bàn chiến lược này.


Đầu tháng 4 năm 1972, Quân ủy Trung ương hai nước chính thức giao nhiệm vụ tổ chức phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng - Mường Sủi, “nhằm đánh bại cuộc tiến công lấn chiếm của địch trong mùa mưa 1972, bảo vệ vững chắc vùng giải phóng, giữ vững thế chiến lược của ta ở Bắc Lào và bảo vệ sườn phải cho hai chiến dịch tiến công Trị - Thiên và Bắc Tây Nguyên trong cuộc tiến công chiến lược 1972”1 (Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Tóm tắt các chiến dịch trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2001, tr. 592). Như vậy, nhiệm vụ tổ chức Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng mùa mưa năm 1972 là xuất phát từ quyết tâm chiến lược của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào về phối hợp đẩy mạnh liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam giành thắng lợi mang tính bước ngoặt trong năm 1972.


Để thống nhất chỉ huy các lực lượng tham gia chiến dịch, Quân ủy Trung ương hai nước Việt Nam và Lào quyết định thành lập Bộ Tư lệnh Chiến dịch gồm 6 đồng chí, do đồng chí Vũ Lập làm Tư lệnh, đồng chí Lê Linh làm Chính ủy. Về phía Lào có đồng chí, Tư lệnh Quân khu Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng, Xiphon Phalikhăn, làm Phó Tư lệnh về quân sự. Lực lượng tham gia chiến dịch: Về phía Việt Nam, có 2 trung đoàn 174, 148 (Sư đoàn 316), 2 trung đoàn bộ binh quân tình nguyện 866 và 3352 (Đến tháng 10 năm 1972, chiến dịch được tăng cường Trung đoàn 88 thuộc Sư đoàn 308C), 2 tiểu đoàn đặc công: 41 và 27, Tiểu đoàn Pháo binh 42, 4 tiểu đoàn phòng không, 1 tiểu đoàn xe tăng và 2 tiểu đoàn công binh. Lực lượng của bạn Lào có 7 tiểu đoàn chủ lực, 1 đại đội xe tăng, 2 đại đội pháo, 2 đại đội súng máy phòng không, 1 đại đội công binh, 4 đại đội bộ đội địa phương và dân quân du kích.


Do đây là chiến dịch quan trọng, có ý nghĩa chiến lược đối với cách mạng Việt Nam và Lào cũng như cách mạng ba nước Đông Dương, lại diễn ra vào mùa mưa, đường sá đi lại khó khăn, tiếp tế hậu cần gặp nhiều trở lại, Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào, trực tiếp là Quân ủy Trung ương hai nước đã có sự chỉ đạo sát sao đối với Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Chiến dịch trong việc tổ chức lực lượng, giáo dục, quán triệt kịp thời tư tưởng chỉ đạo của Trung ương Đảng hai nước, nêu cao ý chí quyết tâm vượt qua mọi khó khăn gian khổ, sẵn sàng nhận và hoàn thanh mọi nhiệm vụ được giao; chỉ đạo, chỉ huy và thực hành chiến dịch cũng như đối với các đơn vị trực tiếp tham gia chiến dịch của hai bên, kể cả đối với lực lượng bộ đội địa phương, dân quân du kích trên địa bàn diễn ra chiến dịch.


Sau một thời gian chuẩn bị, từ ngày 21 tháng 5 đến ngày 15 tháng 11 năm 1972, Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng diễn ra và giành thắng lợi. Trong suốt quá trình diễn ra chiến dịch, Trung ương Đảng hai nước đã luôn theo dõi sát sao tình hình và có sự đạo kịp thời đối với Quân ủy Trung ương và Bộ Tư lệnh Chiến dịch để lãnh đạo, chỉ đạo các lực lượng tham gia chiến dịch hoàn thành tốt mục đích, nhiệm vụ đã đề ra. Đặc biệt, tuy chỉ phụ trách trên những hướng thứ yếu, hướng phối hợp của chiến dịch, nhưng Quân giải phóng nhân dân Lào đã quán triệt sâu sắc tư tưởng chỉ đạo của Đảng Nhân dân cách mạng Lào về tăng cường đoàn kết đấu Lào - Việt Nam trong thời điểm quan trọng của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, qua đó các đơn vị của Lào đã chiến đấu dũng cảm, hiệu quả, góp phần vào thành công chung của chiến dịch. Kết quả toàn chiến dịch, liên quân Lào - Việt đánh tổng cộng 244 trận (Quân tình nguyện Việt Nam đánh 170 trận, Quân giải phóng nhân dân Lào đánh 74 trận), loại khỏi vòng chiến đấu 5.759 tên địch (trong đó bắt 179 tên), đánh thiệt hại nặng 3 binh đoàn cơ động (21, 23 và 26), 3 tiểu đoàn quân Thái Lan, đánh thiệt hại 5 binh đoàn cơ động khác; bắn rơi 38 máy bay, thu 859 súng các loại, đánh bại hoàn toàn cuộc tấn công quy mô lớn của địch, giữ vững địa bàn chiến lược quan trọng Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng1 (Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Tóm tắt các chiến dịch trong kháng chiến chống Mỹ, ciru nước (1954 - 1975), Sđd, tr. 604). Chiến thắng của Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng năm 1972 là một trong những đỉnh cao của liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Thắng lợi này không chỉ tạo bước ngoặt cho cách mạng Lào, tác động trực tiếp đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam, mà đây còn là lần đầu tiên liên quân Lào - Việt Nam tổ chức chiến dịch phòng ngự hoàn chỉnh, đánh bại hoàn toàn cuộc tiến công quy mô lớn, dài ngày của địch vào một địa bàn chiến lược; qua đó, đúc rút được những kinh nghiệm quý báu, góp phần làm phong phú thêm kho tàng nghệ thuật quân sự Việt Nam và Lào.


Có thể thấy, chiến thắng của Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng năm 1972 là dấn ấn quan trọng về thành công trong chỉ đạo của Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào. Thành công đó xuất phát từ chủ trương, đường lối đúng đắn về tăng cường liên minh chiến đấu giữa cách mạng hai nước và được cụ thể hóa trong quá trình chuẩn bị và tiến hành chiến dịch. Nửa thế kỷ đã trôi qua, nhưng những thành công về sự chỉ đạo của Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào trong Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng vẫn là dấu ấn đậm nét trong dòng chảy lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam, đúng như khẳng định của Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản: “Trong lịch sử cách mạnh thế giới cũng đã nhiều tấm gương sáng chói về tinh thần quốc tế vô sản, nhưng chưa ở đâu và chưa bao giờ có sự đoàn kết liên minh, chiến đấu đặc biệt lâu dài, toàn diện như vậy...”1 (Cayxỏn Phỏmvihản, Xây dựng một nước Lào hòa bình, độc lập và xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1978, tr. 91). Thành công về sự chỉ đạo của Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng Lào là những kinh nghiệm quý báu, cần được chắt lọc, vận dụng để xây dựng, phát triển mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam lên một tầm cao mới trong giai đoạn hiện nay.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #18 vào lúc: 02 Tháng Ba, 2023, 08:43:09 am »

CHIẾN DỊCH PHÒNG NGỰ CÁNH ĐỒNG CHUM - XIÊNG KHOẢNG GÓP PHẦN THỰC HIỆN THẮNG LỢI CHỦ TRƯƠNG GIÀNH THẮNG LỢI QUYẾT ĐỊNH CỦA TRUNG ƯƠNG ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM


Đại tá, PGS, TS, NGƯT NGUYỄN XUÂN TỨ
Trung úy, CN NGUYỄN THỊ PHƯƠNG TRINH
Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng


Sau hơn hai năm (1969 - 1971) thực hiện kiên trì và đẩy mạnh kháng chiến, kết hợp giữa đấu tranh quân sự, chính trị và ngoại giao quân và dân ba nước Đông Dương đã làm thay đổi cục diện chiến trường ngày càng có lợi cho cách mạng. Chính sách "Đông Dương hóa chiến tranh” của Mỹ bị thất bại một bước nghiêm trọng cách mạng Việt Nam, Lào và Campuchia đã vượt qua thời kỳ khó khăn. Tuy vậy, về toàn cục trên chiến trường Đông Dương, cách mạng vẫn chưa tạo được sự chuyển biến căn bản. Trong năm 1971, ý đồ của Mỹ là phải chấm dứt chiến tranh trước năm 1972 (năm bầu cử tổng thống) theo điều kiện của Mỹ vì chính cuộc chiến tranh này đang làm suy giảm sự ủng hộ mà Níchxơn giành được trong nước. Với Việt Nam, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và Quân ủy Trung ương chủ trương giành thắng lợi quyết định bằng việc mở cuộc tiến công chiến lược năm 1972, với mục tiêu: Buộc đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh, rút hết quân Mỹ, đánh cho ngụy quân, ngụy quyền tan rã, sụp đổ một bước quan trọng. Đồng thời, Việt Nam phối hợp với cách mạng Lào và Campuchia đẩy mạnh các hoạt động quân sự. Một trong những hoạt động đó là liên quân Việt - Lào tiến hành chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng mùa mưa năm 1972. Đây là chiến dịch phòng ngự hoàn chỉnh đầu tiên của Quân tình nguyện Việt Nam và Quân giải phóng nhân dân Lào thực hiện trong gần 6 tháng, bằng cách đánh sáng tạo, hiệu quả cao với chiến thắng to lớn, góp phần thực hiện thắng lợi chủ trương giành thắng lợi quyết định của Trang ương Đảng Lao động Việt Nam.


Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng là một cao nguyên rộng lớn giữa vùng Đông Bắc của nước Lào. Đây là một trong những địa bàn chiến lược quan trọng bậc nhất trên chiến trường Lào trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ. Lãnh đạo Neo Lào Hắc Xạt từng đánh giá nước Lào như một con voi trắng, khu vực Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng là đầu voi, ai cưỡi được trên đầu voi, thì người đó làm chủ nước Lào1 (Vi Sảy Chăn Tha Mạt, Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng - Vị trí chiến lược quân sự quan trọng, in trong sách Viện Khoa học quốc gia Lào - Viện Khoa học xã hội Việt Nam. Liên minh chiến đấu Lào - Việt Nam trên chiến trường Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng (Kỷ yếu hội thảo khoa học), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2009, tr. 93). Địa bàn này còn liên quan tới tuyến hành lang vận chuyển chiến lược quan trọng nhất từ miền Bắc Việt Nam đến các chiến trường miền Nam Việt Nam, Lào và Campuchia trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ba nước Đông Dương. Vì thế, Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng không chỉ có tầm quan trọng đặc biệt đối với cách mạng Lào, mà còn đối với cả cách mạng Việt Nam và toàn Đông Dương.


Do vị trí địa quân sự rất quan trọng, nên trong quá trình đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt tăng cường” (1969 - 1973) ở Lào, Mỹ đã chỉ đạo lực lượng phái hữu Lào cùng quân đánh thuê Thái Lan bố trí ở đây lực lượng quân sự mạnh nhằm chiếm giữ địa bàn chiến lược này. Thời điểm tháng 5 năm 1972, lực lượng địch ở Quân khu 2 - địa bàn Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng, có 76 tiểu đoàn bộ binh 3 tiểu đoàn pháo binh. Trong đó lính đánh thuê Thái Lan có 18 tiểu đoàn bộ binh, 2 tiểu đoàn pháo binh. Lực lượng tăng cường từ Quân khu 1 Quân khu 3 có GM 10B9, GM 30; đồng thời, tại khu vực Sa La Phu Khun có 2 trung đoàn thuộc Sư đoàn 1 Bộ binh 2 tiểu đoàn quân trung lập; 1 tiểu đoàn đặc biệt; 1 đại đội pháo binh. Tại sân bay ở Loong Chẹng có 2 phi đội máy bay T-28 với 9 chiếc, riêng không quân Mỹ chi viện từ 50 - 70 lần chiếc/ngày.


Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng là địa bàn trung tâm chống "Chiến tranh đặc biệt" và "Chiến tranh đặc biệt tăng cường" của nước bạn Lào; khu vực tác chiến trọng yếu bảo vệ tuyến vận tải chiến lược từ miền Bắc Việt Nam vào chiến trường ba nước Đông Dương. Đây là khu vực ta và địch giành giật quyết liệt; ta chưa đủ sức giữ, còn địch thì quyết chiếm lại. Đặc biệt từ tháng 9 năm 1969 đến tháng 12 năm 1971 hình thái chiến trường ở đây đều diễn ra theo quy luật: Mùa khô ta tiến công địch giành quyền làm chủ, nhưng mùa mưa địch lại nống ra chiếm lại vùng mới giải phóng của ta.


Nhằm tạo được sự chuyển biến căn bản theo hướng có lợi cho cách mạng trên chiến trường miền Nam Việt Nam nói riêng và trên chiến trường Đông Dương nói chung, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam chủ trương giành thắng lợi quyết định với nội dung: Buộc Mỹ phải rút hết quân đội ra khỏi miền Nam Việt Nam, lực lượng quân sự, chính trị của ta phải mạnh hơn lực lượng còn lại của chế độ Sài Gòn đang trên đà suy sụp; lực các vùng chiến lược quân sự và chính trị của ta phải làm chủ phần lớn vùng nông thôn, các cùng chiến lược quan trọng, các vùng xung quanh thành thị và làm chủ một phần ở thành thị, chủ yếu ở cơ sở, tiến lên thực hiện những mục tiêu trước mắt đề ra cho cách mạng miền Nam. Mục tiêu cụ thể được đặt ra để nhằm giành thắng lợi quyết định là: Đánh thật mạnh, thật đau vào quân Mỹ, tiêu diệt nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của chúng, làm cho chúng không thực hiện được ý đồ làm chỗ dựa cho chính sách “Việt Nam hóa chiến tranh”, làm thất bại âm mưu vừa muốn duy trì sức ép về quân sự, vừa muốn giảm bớt thương vong và ý đồ xuống thang từng bước, kéo dài chiến tranh để tạo thế mạnh. Bên cạnh đó, ta còn nhằm tiêu diệt và làm tan rã quân đội Sài Gòn, khiến cho chúng không thực hiện được nhiệm vụ làm công cụ chủ yếu của Mỹ để tiến hành “Việt Nam hóa chiến tranh”, không thực hiện được kế hoạch bình định và không làm được chỗ dựa để củng cố chính quyền Sài Gòn. Cùng với đó là tiếp tục đánh đổ và làm suy yếu chính quyền các cấp của địch, đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị và nổi dậy của quần chúng ở thành thị, nhất là các thành phố lớn, làm suy yếu và đánh đổ từng bước chính quyền trung ương.


Để giành thắng lợi quyết định theo mục tiêu trên, trong năm 1972, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam quyết định mở cuộc tiến công chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam vào Xuân - Hè năm 1972, với ba hướng tiến công: Trị - Thiên, Đông Nam Bộ và Bắc Tây Nguyên. Cùng với đó là tăng cường phối hợp giữa Quân tình nguyện Việt Nam với Quân giải phóng nhân dân Lào, đẩy mạnh các hoạt động quân sự, trong đó trọng tâm là tác chiến giữ vùng giải phóng khu vực Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng mùa mua 1972.


Thực hiện yêu cầu giành thắng lợi quyết định và phát triển lực lượng cách mạng theo chủ trương của Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, ngày 1 tháng 4 năm 1972, Quân ủy Trung ương Việt Nam phối hợp với Quân ủy Trung ương Lào quyết định tổ chức Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng. Tiến hành chiến dịch này nhằm đánh bại cuộc tiến công lấn chiếm của địch trong mùa mưa năm 1972, bảo vệ vững chắc vùng giái phóng, giữ vững thế chiến lược của cách mạng Lào ở Bắc Lào và bảo vệ sườn phải cho 2 chiến dịch tiến công Trị - Thiên và Bắc Tây Nguyên trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972 trên chiến trường miền Nam Việt Nam, góp phần giành thặng lợi quyết định trên chiến trường miền Nam, tạo nên chuyển biến căn bản về chiến lược cho cách mạng Đông Dương.


Theo đó, nhiệm vụ chiến dịch được xác định: Hiệp đồng chặt chẽ giữa Quân tình nguyện Việt Nam với Quân giải phóng nhân dân Lào, khẩn trương triển khai kế hoạch phòng thủ khu vực Cánh Đồng Chum - Mường Sủi - Xiêng Khoảng, trong bất kỳ tình huống nào cũng phải bảo vệ vững chắc khu vực Cánh Đồng Chum, bao gồm cả tuyến trung gian. Kiên quyết đánh bại mọi cuộc tiến công quy mô lớn của địch trong mùa mưa năm 1972, bảo vệ vững chắc vùng giải phóng, trên cơ sở đó xây dựng Cánh Đồng Chum thành một địa bàn chiến lược, căn cứ địa vững chắc của cách mạng Lào.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1830



« Trả lời #19 vào lúc: 02 Tháng Ba, 2023, 08:44:05 am »

Đầu tháng 4 năm 1972, Quân ủy Trung ương (Việt Nam) chính thức giao nhiệm vụ tổ chức phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng - Mường Sủi. Ban Thường vụ Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh quyết định thành lập Bộ Tư lệnh Chiến dịch do Đại tá Vũ Lập làm Tư lệnh, Đại tá Lê Linh làm Chính ủy. Phía bạn Lào, đồng chí Xiphon Phalikhăn, Tư lệnh Quân khu Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng làm Phó Tư lệnh Chiến dịch.


Khu vực phòng ngự được xây dựng trong phạm vi tứ giác Mường Sủi - Noọng Pẹt - thị xã Xiêng Khoảng - Thẩm Lửng (khoảng 3.000km2), bố trí thành 5 khu vực: Cánh Đồng Chum (khu trung tâm) là khu vực phòng ngự chủ yếu, đánh địch trên hướng Nam và Tây Nam; Hin Tặng (khu trung gian) là khu vực phòng ngự cơ bản; Noọng Pẹt là khu vực phòng ngự thứ yếu; Mường Sủi và thị xã Xiêng Khoảng là những khu vực tác chiến phối hợp đánh địch từ xa nhằm bảo vệ sườn Tây Bắc và sườn Đông của Cánh Đồng Chum, mỗi khu vực có một số cụm chốt.


Xác định đây là chiến dịch phòng ngự hoàn chỉnh đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam và Quân giải phóng nhân dân Lào, Bộ Tư lệnh Chiến dịch đã tổ chức lực lượng theo hai thành phần chủ yếu. Trong đó, lực lượng phòng ngự trận địa gồm một số trung đoàn bộ binh được tăng cường xe tăng và pháo binh chiến dịch, có nhiệm vụ chiếm giữ các cụm chốt: Phu Pha Xay, các điểm cao 2063, 1800, 1978, 1516, 1900B, Phu Tâng, Phu Tôn, Phu Seo, Phu Hủa Sang, Phu Keng, Phu Thông, Phu Khe, Phu Học. Lực lượng này thực hiện kìm chân địch tại chỗ, tạo điều kiện cho các lực lượng cơ động chiến dịch tiến hành phản đột kích, đánh các trận then chốt tiêu diệt địch.


Lực lượng tham gia phòng ngự được huy động cho Chiến dịch Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng gồm lực lượng Quân tình nguyện Việt Nam có 5 trung đoàn bộ binh (trung đoàn 174 và 148 của Sư đoàn 316; Trung đoàn 866 và Trung đoàn 335; tháng 10 năm 1972, Bộ tăng cường Trung đoàn 88 thuộc Sư đoàn 308C), 2 tiểu đoàn đặc công, 1 tiểu đoàn pháo binh, 4 tiểu đoàn pháo và súng máy phòng không, 1 tiểu đoàn xe tăng vả 2 tiểu đoàn công binh. Quân giải phóng nhân dân Lào có: 7 tiểu đoàn chủ lực, 1 đại đội xe tăng, 2 đại đội pháo binh, 2 đại đội súng máy phòng không, 1 đại đội công binh và 4 đại đội bộ đội địa phương.


Sau chiến dịch tiến công của ta giải phóng Cánh Đồng Chum Mường Sủi và tiến sâu vào Sảm Thông - Loong Chẹng trong mùa khô 1971 - 1972, từ ngày 5 tháng 4 năm 1972, Bộ Tư lệnh Chiến dịch đã chỉ đạo các đơn vị thực hiện quyết định của Quân ủy Trung ương hai nước. Liên quân Việt - Lào chủ động tổ chức Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng nhằm phá tan ý đồ tiến công lấn chiếm của địch trong mùa mưa năm 1972, giữ vững vùng mới giái phóng. Trong vòng chưa đầy 2 tháng (5.4 - 20.5.1972), lực lượng của ta chuẩn bị khẩn trương, chu đáo, chặt chẽ về mọi mặt, thiết lập các cụm điểm tựa có hệ thống công sự, hầm hào; bố trí vật chất dự trữ chiến đấu ở từng khu vực; hình thành thế trận phòng ngự liên hoàn, vững chắc, có chiều sâu, đảm bảo tác chiến dài ngày trong điều kiện mùa mưa.


Ngày 21 tháng 5 năm 1972, Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng bắt đầu và diễn ra theo 4 đợt: Đợt 1 (21.5 -10.8.1972); đợt 2 (11.8 - 10.9.1972); đợt 3 (11 - 30.9.1972); đợt 4 (1.10 - 15.11.1972). Trải qua gần 6 tháng tiến hành chiến dịch phòng ngự giữ địa bàn Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng vô cùng gian khổ, ác liệt, liên quân Việt - Lào đã thực hiện 244 trận đánh (Quân tình nguyện Việt Nam đánh 170 trận, quân và dân Lào đánh 74 trận), loại khỏi vòng chiến đấu 5.759 quân địch; đánh thiệt hại nặng 3 binh đoàn cơ động (21, 23 và 26), 3 tiểu đoàn quân Thái Lan và đánh thiệt hại 5 binh đoàn cơ động khác, bắn rơi 38 máy bay, thu 859 súng các loại. Riêng quân và dân Lào diệt gần 400 tên địch, bắt 139 tên, gọi hàng 230 tên, đánh thiệt hại nặng 3 tiểu đoàn, phá 32 ấp, giải phóng 3 huyện, thu nhiều vũ khí, trang bị và quân trang, quân dụng của địch.


Trước thất bại nặng nề trên toàn bộ chiến trường, nhất là tại Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng mùa mưa năm 1972, Tổng thống Mỹ Níchxơn buộc phải để cho Phuma công khai đề nghị ngừng bắn trên toàn bộ lãnh thố Lào có quốc tế giám sát và đồng ý lấy đề nghị 5 điểm của Quân giải phóng nhân dân Lào làm cơ sở thương lượng về giải pháp hòa bình ở Lào. Từ đó, trực tiếp đi tới ký kết Hiệp định Viêng Chăn ngày 21 tháng 2 năm 1973 giữa Neo Lào Hắc Xạt và đại diện Vương quốc Lào nhằm chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình và thực hiện hòa hợp dân tộc ở Lào, tạo bước ngoặt quyết định trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân Lào, đồng thời góp phần quan trọng tạo nên cục diện mới có lợi cho cách mạng ba nước Đông Dương.


Chiến công vang dội trong Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng năm 1972 tác động mạnh mẽ cùng với chiến thắng của các chiến dịch Trị - Thiên, Nguyễn Huệ (Đông Nam Bộ) và Bắc Tây Nguyên (Tây Nguyên) đã góp phần vào thắng lợi to lớn của cuộc tiến công chiến lược năm 1972 trên chiến trường miền Nam Việt Nam. Những thắng lợi này cộng hưởng với chiến thắng của quân và dân miền Bắc Việt Nam trong chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai, mà đỉnh cao là trận “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” cuối năm 1972, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pari chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam (27.1.1973), rút quân Mỹ và đồng minh Mỹ khỏi miền Nam Việt Nam, ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn suy yếu nghiêm trọng, hoàn thành chủ trương giành thắng lợi quyết định của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam tạo nên những điều kiện hết sức thuận lợi để vươn lên “đánh cho ngụy nhào” kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam. Đồng thời, thắng lợi này đã cổ vũ mạnh mẽ và tạo điều kiện cho quân và dân Lào liên tiếp nổi dậy, giành chính quyền trong cả nước và thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào vào ngày 2 tháng 12 năm 1975.


Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng năm 1972 thắng lợi đã giữ được thế liên hoàn vững chắc giữa các vùng căn cứ địa cách mạng của bạn và kịp thời phối hợp với các hoạt động khác trên chiến trường ba nước Đông Dương. Chiến dịch đã góp phần thực hiện thắng lợi chủ trương giành thắng lợi quyết định của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Nửa thế kỷ đã trôi qua, lịch sử càng lùi xa, càng nổi rõ tầm vóc của Chiến thắng Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng mùa mưa năm 1972 - góp phần tạo nên dấu mốc quan trọng trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ba nước Đông Dương. Sự kiện lịch sử này đã và sẽ mãi ghi dấu ấn về sự liên minh chiến đấu, mối quan hệ gắn bó đặc biệt giữa hai Đảng, hai dân tộc, hai quân đội Việt Nam - Lào cùng chống kẻ thù chung là đế quốc Mỹ, ngày càng bền chặt. Đồng thời, nó cũng khẳng định sự thành công xuất sắc trong chỉ đạo chiến lược giành thắng lợi quyết định trong năm 1972 của Đảng Lao động Việt Nam, tạo ra thế và lực mới để tiến tới kết thúc thắng lợi sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước bằng cuộc Tổng tiến công và nổi đậy Xuân 1975. 
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM