Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 05 Tháng Sáu, 2023, 04:40:09 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: 50 năm chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng  (Đọc 873 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1427



« Trả lời #50 vào lúc: 28 Tháng Tư, 2023, 07:50:53 am »

NHỮNG ĐỘNG THÁI CỦA CHÍNH QUYỀN SÀI GÒN TRONG THỜI GIAN DIỄN RA CHIẾN DỊCH PHÒNG NGỰ CÁNH ĐỒNG CHUM - XIÊNG KHOẢNG

PGS, TS HỒ SƠN ĐÀI
Viện Nghiên cứu Đông Nam Bộ - Trường Đại học Thủ Dầu Một


Chiến dịch phòng ngự của liên quân Việt - Lào đánh bại các cuộc tiến công lấn chiếm của quân phái hữu Lào và quân đội Thái Lan nhằm bảo vệ vùng giải phóng Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng diễn ra từ ngày 21 tháng 5 đến ngày 15 tháng 11 năm 1972. Đây cũng là quãng thời gian hết sức sôi động với nhiều sự kiện lịch sử đặc biệt quan trọng liên quan đến cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở miền Nam Việt Nam, như: Diễn biến tiến dần đến giai đoạn kết thúc cuộc hòa đàm Pari, “cuộc đi đêm” chưa từng có tiền lệ kể từ năm 1949 giữa Mỹ và Trung Quốc, cuộc tiến công chiến lược của Quân giải phóng trên toàn chiến trường miền Nam và những rạn nứt xuất hiện trong chính trường Sài Gòn kề từ sau cuộc độc diễn tranh cử của Nguyễn Văn Thiệu. Trong thế chiến lược “Đông Dương là một chiến trường”, diễn biến và kết quả Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng năm 1972 đã “chia lửa” và tác động sâu sắc đến tiến trình chung cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia; tác động đến những diễn biến của chính trường Sài Gòn trong thời gian diễn ra chiến dịch.


1. Củng cố quyền lực và hệ thống chính trị

Sau một thời gian dài rối ren về chính trị kể từ sau khi Ngô Đình Diệm bị lật đổ, chính quyền quân sự ở miền Nam Việt Nam được thiêt lập dưới sự điều hành của Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia (do Trung tướng quân đội Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu làm Chủ tịch) và Ủy ban Hành pháp Trung ương (do Thiếu tướng quân đội Sài Gòn Nguyễn Cao Kỳ điều hành). Để hợp thức hóa, Thiệu - Kỳ tổ chức bầu cử quốc hội lập hiến và công bố hiến pháp nền Đệ nhị Việt Nam cộng hòa. Về thực chất, hiến pháp này là bệ đỡ cho chính thể quân sự độc tài mới, ở đó Tổng thống chính quyền Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu tập trung mọi quyền hành đối nội và đối ngoại, kể cả quyền chỉ định và bãi miễn thủ tướng. Những bất hợp lý trong cơ cấu chính quyền quân sự chuyên chế, lệ thuộc Mỹ cả về đường hướng và nguồn lực, phong trào chống Mỹ gây chiến tranh xâm lược Việt Nam của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới, đặc biệt cuộc tiến công chiến lược của các lực lượng vũ trang cách mạng và nhân dân ba nước Đông Dương trong năm 1972 đã làm cho mâu thuẫn vốn có trong giới cầm quyền Sài Gòn ngày càng trở nên sâu sắc. Từ đó, gây hoang mang trong toàn bộ bộ máy điều hành chiến tranh của chính quyền Sài Gòn từ trung ương đến địa phương, làm phát sinh tình trạng bất ổn trên chính trường miền Nam Việt Nam. Được sự hỗ trợ tối đa của Mỹ, chính quyền Sài Gòn ra sức triển khai thực hiện nhiều biện pháp đối phó nhằm củng cố quyền lực và hệ thống chính trị.


Ngay sau khi loại các đối thủ để trở thành ứng viên duy nhất độc diễn trong cuộc tổng tuyển cử lần thứ hai của nền Đệ nhị cộng hòa, Nguyễn Văn Thiệu phải liên tục đối phó, tìm cách hạ uy tín, loại bỏ thế lực trong liên danh ứng cử tổng thống và phó tổng thống trong cuộc đua tranh vào dinh Độc Lập là Dương Văn Minh - Hồ Văn Minh, Nguyễn Cao Kỳ - Trương Vĩnh Lễ và nhiều thế lực khác tại Sài Gòn. Trong quốc hội, mặc dù đã tìm cách kiểm soát mọi hoạt động ở cả hạ viện và thượng viện, Thiệu vẫn phải hằng ngày đối phó với các khối dân biểu trung lập và đối lập với chính phủ, chưa kể các đảng phái khác như Việt Nam Nhân xã Cách mạng Đảng, Đại Việt Cách mạng Đảng, Việt Nam Quốc dân Đảng, Mặt trận Nhân dân cứu nguy dân tộc, Phong trào Quốc gia cấp tiến, Tập đoàn Cựu chiến sĩ Hòa Hảo Dân xã... Khi Quân giải phóng miền Nam Việt Nam mở cuộc tiến công chiến lược ở Quảng Trị, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, liên quân Việt - Lào tiến hành Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng, Thiệu ép quốc hội thông qua “Luật ủy quyền” cho phép tổng thống rộng quyền ứng phó với tình hình quân sự, toàn quyền “điều hành quốc sự” bằng sắc luật mà không cần được quốc hội phê chuẩn.


Đối với giới tướng lĩnh quân đội, khi Quân giải phóng triển khai cuộc tiến công chiến lược năm 1972, Nguyễn Văn Thiệu “với tư cách Tổng Tư lệnh quân đội, tập trung hết quyền bính trong tay, cho đặt một hệ thống máy truyền tin tại dinh Độc Lập để liên lạc thẳng với các quân khu, điều động các đơn vị, bổ nhiệm tư lệnh vùng và trực tiếp ra lệnh hành quân”1 (Nguyễn Tiến Hưng, Tâm tư Tổng thống Thiệu, Cơ sở xuất bản Hứa Chấn Minh, Hoa Kỳ, 2010, tr. 367). Để củng cố thế lực, đề phòng bị quân đội làm phản, Thiệu thay hết những vị trí chủ chốt, đưa các thân tín của mình nắm giữ vị trí chỉ huy các quân khu và quân đoàn, như: Điều Ngô Quang Trưởng ra giữ chức Tư lệnh Quân đoàn 1 - Quân khu 1 thay Hoàng Xuân Lãm (đưa Lãm về làm phụ tá Tổng trưởng quốc phòng, thực chất là “ngồi chơi xơi nước”); điều Nguyễn Văn Toàn (dù được giới tướng lĩnh đánh giá là “ít tài nhiều tật, thích ăn nhậu, say mê các cuộc đỏ đen, lao vào những cuộc truy hoan, hút xách”2 (Nguyễn Duy Xí, Đằng sau dinh Độc Lập, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1990, tr. 112) thay Ngô Du làm Tư lệnh Quân đoàn 2 - Quân khu 2; đưa Phạm Quốc Thuần thay Nguyễn Văn Minh làm Tư lệnh Quân đoàn 3 - Quân khu 3 (Minh bị điều về phụ trách Trường Bộ binh Thủ Đức); bổ nhiệm Tư lệnh Sư đoàn 21 Nguyễn Vĩnh Nghi giữ chức Tư lệnh Quân đoàn 4 - Quân khu 4. Thiệu còn trực tiếp đến An Lộc và một vài vị trí đang diễn ra chiến sự ác liệt khác để kêu gọi sự đồng lòng, gắn huy hiệu “Anh dũng bội tinh” cho binh sĩ.


Ngoài ra, chính quyền Sài Gòn còn phải liên tục đối phó với hoạt động chống đối của các lực lượng đấu tranh công khai tại đô thị, nhất là giới báo chí và học sinh, sinh viên. Lợi dụng mâu thuẫn giữa các phe phái trong giới chóp bu, kể cả Nguyễn Cao Kỳ, học sinh, sinh viên tổ chức các cuộc đấu tranh hòa bình có kết hợp với đấu tranh vũ trang. Đáng kể là cuộc đấu tranh diễn ra trước cổng Đại học Vạn Hạnh, sinh viên của trường này cùng một số trường khác tổ chức biểu tình, tràn xuống đường, phong tỏa nhiều đoạn đường, sử dụng cả thủ pháo để tiến công các căn cứ của chính quyền Sài Gòn. Thiệu phải nhiều lần ra lệnh cho Tổng nha Cảnh sát lùng bắt hết số học sinh, sinh viên tham gia đấu tranh. Từ cuối năm 1971 đến đầu năm 1972, nhiều thành viên trong Ban Chỉ huy học sinh, sinh viên như Huỳnh Tấn Mầm, Hạ Đình Nguyên, Võ Như Lanh... lần lượt bị chúng bắt, cầm tù. Thiệu phải than thở: “Hễ khi nào thấy đại sứ Mỹ tới gặp và yêu cầu tôi làm một việc gì mà tôi không làm, thì chỉ vài tuần sau sẽ có biểu tình hoặc báo chí chống đối”1 (Nguyễn Tiến Hưng, Tâm tư Tổng thống Thiệu, Sđd, tr. 364).
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1427



« Trả lời #51 vào lúc: 28 Tháng Tư, 2023, 07:51:32 am »

2. Phá hoại tiến trình đàm phán tại Hội nghị Pari

Liên tiếp thất bại trong hai mùa khô 1965 - 1966, 1966 - 1967, nhất là trong Tết Mậu Thân 1968, lại bị áp lực từ cao trào phản đối chiến tranh của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới, trong đó có nhân dân Mỹ, Nhà Trắng buộc phải xuống thang chiến tranh, chấp nhận đàm phán với Hà Nội hòng tìm một lối thoát trong danh dự. Bắt đầu từ cuộc nói chuyện chính thức ngày 13 tháng 5 năm 1968 Hội nghị Pari đựợc tổ chức giữa hai bên (Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Hoa Kỳ) rồi bốn bên (Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Chính phủ Hoa Kỳ, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Chính phủ Việt Nam cộng hòa). Cuộc đàm phán diễn ra gay gắt và trải qua nhiều bước, ở đó kết quả đạt được của mỗi bước tùy thuộc vào tình hình chính trị, quân sự của từng bên và cục diện chiến trường ở Việt Nam. Nội dung chính của cuộc đàm phán là Hoa Kỳ và các nước phải tôn trọng độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, cam kết chấm dứt dính líu quân sự, rút hết quân Mỹ và các nước đồng minh, không can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam; miền Nam Việt Nam thành lập chính phủ liên hiệp lâm thời gồm ba lực lượng chính trị (chính quyền Sài Gòn, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và lực lượng trung lập) để tiến hành tổng tuyển cử thống nhất nước nhà thông qua con đường hiệp thương giữa hai miền Nam - Bắc.


Trong quá trình đàm phán, trong khi phái đoàn Việt Nam dân chủ cộng hòa luôn có sự phối hợp nhịp nhàng với Cộng hòa miền Nam Việt Nam trước khi đưa ra các quyết sách, thì Hoa Kỳ gần như tự ý sắp đặt mọi chuyện trong các cuộc họp kín với Việt Nam dân chủ cộng hòa mà không quan tâm đến ý kiến của đoàn Việt Nam cộng hòa. Cho rằng nội dung một số điều khoản bất lợi cho Việt Nam cộng hòa nên Nguyễn Văn Thiệu luôn chỉ đạo tìm cách phá hoại, gây khó dễ cho quá trình đàm phán.


Khi chiến dịch sự đang diễn ra ác liệt ở Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng, Trị - Thiên, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, trong một cuộc họp giao ban định kỳ với tư lệnh các chiến trường, Nguyễn Văn Thiệu nói: “Phái đoàn của Kissinger đã đến Sài Gòn từ hai ngày qua1 (Hành động phá hoại tiến trình đàm phán và không chịu ký Hiệp định buộc Nhà Trắng phải cử Kítxinhgiơ (Henry Kissinger) đi Sài Gòn (10.1972) để thuyết phục chính quyền Sài Gòn chấp thuận đề xuất ngừng bắn được đưa ra tại các cuộc đàm phán bí mật với miền Bắc tại Pari), có trao cho tôi một bản dự thảo hiệp định ngừng bắn, trong đó có nhiều điểm cần phải làm sáng tỏ thêm. Tuy nhiên có ba điểm mà tôi nhân danh tổng thống không đồng ý với Mỹ, đó là: Vấn đề thành lập một chính phủ liên hiệp ba thành phần ở miền Nam sau ngày ngừng bắn, sự duy trì của 350.000 quân chủ lực Bẳc Việt Nam ở miền Nam sau ngày ngừng bắn, ngày ngừng bắn được dự định vào 30 tháng 10 năm 1972. Nếu chấp nhận ba điểm đó tức là chúng ta tự sát. Mỹ muốn bán đứng miền Nam cho cộng sản nên mới đặt vấn đề như thế này. Tôi cương quyết bác bỏ”2 (Nguyễn Duy Xí, Đằng sau Dinh Độc Lập, Sđd, tr. 117). Phải đến lúc nhận được điện văn của Tổng thống Mỹ R. Níchxơn (Richard Nixon) với nội dung đe dọa “quyết định của ngài sẽ mang đến những hậu quả nghiêm trọng nhất đối với khả năng của tôi tiếp tục yểm trợ ngài và chính phủ miền Nam Việt Nam (Việt Nam cộng hòa)”, Thiệu mới chịu ký Hiệp định.


Ngay từ năm 1972, trong khi đang phải đối phó với cuộc tiến công chiến lược của lực lượng vũ trang cách mạng, chính quyền Sài Gòn đã chuẩn bị một kế hoạch chi tiết nhằm phá hoại quá trình thực hiện các điều khoản của Hiệp định Pari. Về chính trị, chính quyền Sài Gòn sử dụng bộ máy tuyên truyền bóp méo diễn biến Hội nghị Pari, đặt “cảnh sát quốc gia” và “nhân dân tự vệ” nằm ngoài phạm vi điều chỉnh về lực lượng vũ trang của Hiệp định (dù sau đó, 2 lực lượng này trở thành nhân tố chủ yếu hỗ trợ của quân lực Sài Gòn tiến hành cuộc chiến tranh giành dân, lấn đất), về quân sự, Nguyễn Văn Thiệu hoạch định một chiến dịch “tràn ngập lãnh thổ” trong đó “phải gây tổn thất lớn cho phía Quân giải phóng giành quyền kiểm soát tối đa về lãnh thổ và dân chúng, đặc biệt ở vùng tranh chấp”.


Mặc dù chính quyền Sài Gòn ra sức phá hoại, nhưng cuối cùng Hiệp định Pari vẫn được ký kết vào ngày 27 tháng 1 năm 1973 sau cuộc đàm phán đầy gay gắt và kịch tính kéo dài 4 năm 8 tháng, 14 ngày, với 202 phiên họp chung và 24 cuộc tiếp xúc bí mật, đánh dấu một cột mốc quan trọng, đưa cách mạng miền Nam tiến lên theo phương thức chiến lược mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch định trong thơ chúc Tết năm 1969 “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1427



« Trả lời #52 vào lúc: 28 Tháng Tư, 2023, 07:53:37 am »

3. Đối phó với cuộc tiến công chiến lược của Quân giải phóng

Trên cơ sở cho rằng hoạt động của lực lượng kháng chiến trong năm 1972 cũng chỉ tương tự như năm 1971, Nhà Trắng chủ trương cố giữ cục diện chiến trường ở Đông Dương như những năm trước, tiếp tục thực hiện mục tiêu chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, rút dần quân Mỹ tại chiến trường Nam Việt Nam, tạo lợi thế trong đàm phán tại Hội nghị Pari và cuộc vận động tái cử tổng thống của Níchxơn. Trước tình hình trên, Bộ Chính trị Trung ương Đảng chủ trương: “Nhiệm vụ cần kíp của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta là đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ, đánh bại học thuyết Níchxơn trên toàn chiến trường Đông Dương, tạo ra một chuyển biến căn bản làm thay đổi cục diện chiến tranh ở miền Nam và cả trên bán đảo Đông Dương giành thắng lợi to lớn, buộc đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh trên thế thua bằng một giải pháp chính trị có lợi cho ta mà chúng có thể chấp nhận được”1 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng về chống Mỹ, cứu nước, Tập II (1966 - 1975), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật ,Hà Nội, 2012, tr. 651-652). Từ chủ trương của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương xác định quyết tâm chiến lược năm 1972 là: Tập trung mọi cố gắng đẩy mạnh tiến công quân sự và chính trị trên cả ba vùng, mở cuộc tiến công chiến lược năm 1972, trong đó, Trị - Thiên là chiến trường chính, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ là chiến trường phối hợp.


Vừa củng cố quyền lực và hộ thống chính trị sau cuộc độc diễn tranh cử nhiệm kỳ tổng thống thứ hai, tìm cách phá hoại tiến trình đàm phán tại Hội nghị Pari, chính quyền Sài Gòn vừa phải tập trung đối phó với cuộc tiến công chiến lược của Quân giải phóng trên toàn chiến trường miền Nam. Mặc dù buộc phải điều quân thay thể những vị trí bị bỏ trống do quân Mỹ và đồng minh của Mỹ tiếp tục rút quân về nước (đến trước 1.5.1972, trên chiến trường Nam Việt Nam, Mỹ chỉ còn 69.000 tên, các nước đồng minh còn 38.000 tên), Nguyễn Văn Thiệu vẫn chủ trương tập trung lực lượng đánh phủ đầu Quân giải phóng trên khu vực dọc biên giới. Chỉ trong 2 tháng đầu năm 1972, “liên quân Mỹ - Sài Gòn thực hiện 793 cuộc hành quân cấp tiểu đoàn trở lên, 148.166 phi xuất chiến thuật (trực thăng vận và oanh kích yểm trợ hành quân của các loại chiến đấu cơ, ngoại trừ máy bay B-52), 497 phi xuất oanh tạc của B-52 (không kể chiến trường Lào và Campuchia), 47.682 hải xuất (tuần duyên và yểm trợ hành quân) và 62 vụ hải pháo tác xạ hỗ trợ hành quân dọc các vùng ven biển miền Nam Việt Nam”1 (Bộ Tổng Tham mưu quân lực Việt Nam cộng hòa, Báo cáo tình hình chiến sự hàng tuần từ ngày 2.1 đến ngày 26.2.1972, Hồ sơ 17441, Phông Phủ Thủ tướng Việt Nam cộng hòa (1954 - 1975), Trung tâm Lưu trữ quốc gia II, Thành phố Hồ Chí Minh). Dù vậy, chúng vẫn gặp bất ngờ và bị động đối phó với Quân giải phóng trên các chiến trường.


Tại chiến trường Trị - Thiên, hướng tiến công chủ yếu trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972 trên chiến trường miền Nam, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương chỉ đạo mở chiến dịch tiến công nhằm tiêu diệt một bộ phận lực lượng quân sự của đối phương, giải phóng phần lớn địa bàn tỉnh Quảng Trị. Ngay từ đầu năm 1972, để thay thế các đơn vị quân Mỹ rút đi, quân đội Sài Gòn buộc phải điều động cả lực lượng dự bị chiến lược (Sư đoàn 3 Thủy quân lục chiến) đảm nhiệm phòng giữ khu vực Đường 9 - Bắc Quảng Trị. Khi Chiến dịch Trị - Thiên nổ ra (30.3 - 27.6.1972, trên địa bàn 2 tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên), trước tình hình nhiều căn cứ quân sự ở Nam, Bắc Đường số 9 và tuyến phòng thủ vòng ngoài bị uy hiếp nghiêm trọng, ngày 3 tháng 4 năm 1972, Nguyễn Văn Thiệu phải bay ra Huế trực tiếp thị sát tình hình, triệu tập cuộc họp với chỉ huy các lực lượng, tìm cách ngăn chặn các cuộc tiến công của Quân giải phóng và chỉ thị cho Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn khẩn cấp tăng viện cho mặt trận Quảng Trị. Tiếp đó, Nguyễn Văn Thiệu liên tiếp xử lý hàng loạt tình huống: Ra lệnh rút liên đoàn biệt động “dày dạn chiến đấu nhất” ở Bình Long (vốn đang phải đương đầu với các cuộc tiến công của Quân giải phóng) ra tăng cường cho lực lượng bảo vệ Quảng Trị- cách chức tướng Hoàng Xuân Lãm - Tư lệnh Quân khu 1 - Quân đoàn 1 điều thêm 5 lữ đoàn, trung đoàn từ Sài Gòn, Đà Nằng ra Huế lập tuyến phòng thủ ngăn chặn mới; huy động lực lượng dự bị chiến lược với sự yểm trợ tối đa của không quân và pháo binh nhằm tái chiếm Quảng Trị. Dù vậy, kết quả thu được từ các nỗ lực trên không mấy khả quan. Ngày 6 tháng 6 năm 1972, tướng Alểchxăngđơ Hai (Alexander Haig) - Phụ tá Quân sự cho Henri Kítxinhgiơ (Henry Kissinger) - phàn nàn với Tòa Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn: “Chúng tôi nghĩ rằng giới lãnh đạo Việt Nam Cộng hòa nên làm mọi cách để thanh toán, giải tỏa An Lộc trong thời gian ngắn nhất để có thể di chuyển lực lượng dù ra Quân khu 1 và hành quân tái chiếm vùng Quảng Trị và phần đất ở Bình Định, càng sớm càng tốt”1 (Phiếu trình số 015/PQL ngày 6.6.1972 của Tòa Đại sử Việt Nam Cộng hòa tại Washington - Hoa Kỳ, Hồ sơ 402, Phông Phủ Tổng thống đệ nhị Cộng hòa (1967 - 1975), Trung tâm Lưu trữ quốc gia II, Thành phố Hồ Chí Minh).


Tại chiến trường Đông Nam Bộ, Trung ương Cục và Quân ủy Miên chỉ đạo mở chiến dịch tiến công (mang mật danh Nguyễn Huệ, trên địa bàn các tỉnh Bình Long, Phước Long, Tây Ninh, Bình Dương) nhằm tiêu diệt một bộ phận lực lượng quân sự và phá vỡ tuyến phòng thủ biên giới của quân đội Sài Gòn, giải phóng một số khu vực có ý nghĩa chiến lược ở miền Đông Nam Bộ, phối hợp với hướng chủ yếu ở Trị - Thiên trong cuộc tiến công chiến lược 1972. Từ đầu năm, quân đội Sài Gòn tranh thủ mở các cuộc hành quân “Toàn thắng 72A”, “Toàn thắng 72B” dọc biên giới Việt Nam - Campuchia nhằm bịt hành lang vận tải, đánh phá các cơ sở hậu cần của Quân giải phóng, hỗ trợ cho hoạt động “bình định” trong nội địa. Khi Bộ Tư lệnh Miền mở Chiến dịch Nguyễn Huệ, chính quyền Sài Gòn chỉ đạo triệt thoái hết lực lượng đang hoạt động trên biên giới về tập trung chống đỡ trên hướng Đường số 13 - Bình Long và Đường số 22 - Tây Ninh; đồng thời, điều động lực lượng từ các nơi khác mở các cuộc hành quân “Toàn thắng 72C”, “Toàn thắng 72D”, “Toàn thắng 72E” nhằm giải tỏa An Lộc, khai thông Quốc lộ 13, đối phó với Quân giải phóng ở Tây Ninh, Hậu Nghĩa, Bình Dương, Long An1 (Phòng Tổng kết địch - Ban Tổng kết chiến tranh B2, Quá trình cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ và quy luật hoạt động của Mỹ - ngụy trên chiến trường B2, Ban Tổng kết chiến tranh B2, Thành phố Hồ Chí Minh, 1984, tr. 216). Cũng tướng Alếchxăngđơ Hai bày tỏ: “Chúng tôi rất lo ngại vì vài sự kiện đã xảy ra trên chiến trường Việt Nam: Như cuộc hành quân của Sư đoàn 21 đến nay đã 2 tháng qua mà vẫn chưa giải tỏa được An Lộc mặc dù chỉ còn một đoạn đường ngắn... Với một lực lượng tương đối hùng hậu mà không thể tiến thêm vài cây số lại giẫm chân một nơi để gánh nhiều thiệt hại thì thật khó giải thích với dư luận cũng như Quốc hội tại đây”2 (Phiếu trình số 015/PQL ngày 6.6.1972 của Tòa Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Washington - Hoa Kỳ, Tlđd).


Tại chiến trường Tây Nguyên, hướng tiến công phối hợp trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương chỉ đạo mở chiến dịch tiến công các căn cứ quân sự của địch ở Đắk Tô - Tân Cảnh, thị xã Kon Tum (30.3 - 5.6.1972), hình thành vùng căn cứ hoàn chỉnh nối liền với căn cứ địa miền Đông Nam Bộ. Trong bối cảnh quân Mỹ và đồng minh rút dần lực lượng về nước, quân đội Sài Gòn buộc phải dàn mỏng lực lượng của Quân khu 2 - Quân đoàn 2 để bảo vệ cả địa bàn Tây Nguyên và khu vực các tỉnh duyên hải Trung Bộ. Ngay từ đầu năm 1972 Nguyễn Văn Thiệu chỉ thị cho Quân khu 2 vừa đưa lực lượng thám báo, biệt kích thăm dò, vừa huy động không quân bắn phá dọc tuyến đường vận tải chiến lược Trường Sơn. Khi cụm cứ điểm phòng ngự Đăk Tô - Tân Cảnh bị tiêu diệt, Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh cho Quân đoàn 2 rút các trung đoàn đang phòng thủ ở vòng ngoài về lập tuyến phòng ngự mới nhằm bảo vệ thị xã Kon Tum mở cuộc hành quân giải tỏa mang mật danh Bắc Bình Vương 712. Sau khi nhận tin binh lính quân đội Sài Gòn tháo chạy tán loạn khỏi các căn cứ quân sự ở Quân khu 1, Quân khu 2, nhất là tại Đăk Tô - Tân Cảnh, ngày 29 tháng 4 năm 1972, Nguyễn Văn Thiệu ban bố tình trạng “Tổ quốc lâm nguy”, triệu tập nội các và Hội đồng An ninh quốc gia, ra lệnh cho các cấp quân sự và hành chính bằng mọi giá phải cố thủ, chờ tăng viện để phản công giành lại những vùng đã bị Quân giải phóng đánh chiếm. Tuy nhiên kết quả không như mong đợi. Tổng thống chính quyền Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu buộc phải thừa nhận sự thất bại và thiếu hiệu quả của quân đội Sài Gòn trong việc chống lại những cuộc tiến công của Quân giải phóng trong năm 1972: “Chưa kể là từ các nơi đã chiếm đóng, cộng sản vẫn tiếp tục loang ra, còn phía chúng ta (Mỹ - Sài Gòn) thì cũng khó phản công chiếm lại được”1 (Công điện số 027- TT/CĐTM ngày 29.4.1972 của Nguyễn Văn Thiệu, Hồ sơ 395, Phông Phù Tổng thống đệ nhị Cộng hòa (1967 - 1975), Trung tâm Lưu trữ quốc gia II, Thành phố Hồ Chí Minh).


Như vậy, những động thái nêu trên của chính quyền Sài Gòn mặc nhiên không tách rời diễn biến cuộc đấu tranh của quân và dân ba nước Đông Dương. Nó tác động sâu sắc đến những nỗ lực của quân đội đánh thuê Thái Lan và quân đội phái hữu Lào trong cuộc tiến công lấn chiếm vùng giải phóng Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng do liên quân Việt - Lào tổ chức phòng ngự mùa mưa năm 1972. Phối hợp với cuộc tiến công chiến lược của Quân giải phóng trên các mặt trận Trị - Thiên, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, liên quân Việt - Lào đã bẻ gãy các cuộc hành quân lấn chiếm, loại khỏi chiến đấu một bộ phận lớn sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch, giữ vững vùng giải phóng và thế liên hoàn giữa ba vùng căn cứ địa cách mạng của Lào, thể hiện sự liên minh chiến đấu, mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Quân đội và nhân dân hai nước Việt - Lào trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là đế quốc Mỹ và quân đội đồng minh của Mỹ. Cùng với mũi đấu tranh chính trị, binh vận, hoạt động quân sự trên chiến trường miền Nam và Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng năm 1972 đã góp phần đẩy chính quyền Sài Gòn vào thế bị động chiến lược, lúng túng đối phó trên tất cả các mặt trận, tạo tình trạng bất ổn liên tục trên chính trường, làm đảo lộn mọi sinh hoạt chính trị - kinh tế - xã hội ở miền Nam Việt Nam vùng chính quyền Sài Gòn kiểm soát. Đồng thời, sau thất bại nặng nề trong chiến dịch 12 ngày đêm trên bầu trời Hà Nội, Mỹ buộc phải ký Hiệp định Pari, hiệp định mà trước đó, Nguyễn Văn Thiệu phải thốt ra những lời cay đắng trong bức thư gửi Tổng thống Níchxơn ngày 11 tháng 11 tháng 1972: “Những công lao tranh đấu và bao nhiêu hy sinh chúng ta đã gánh chịu trong nhiều năm đều trở thành vô nghĩa”1 (Nguyễn Tiến Hưng, Tâm tư Tổng thống Thiệu, Sđd, tr. 344-345, 315); và tình hình miền Nam sẽ chuyển sang “một tình huống mới, một thực tế mới” như nhận xét dự đoán của cố vấn Kítxinhgiơ2 (Nguyễn Tiến Hưng, Tâm tư Tổng thống Thiệu, Sđd, tr. 344-345, 315).
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM