Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2023, 03:01:10 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: 50 năm chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng  (Đọc 457 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1335



« Trả lời #20 vào lúc: 02 Tháng Ba, 2023, 09:08:22 am »

CHIẾN THẮNG CÁNH ĐỒNG CHUM - XIÊNG KHOẢNG MÙA MƯA NĂM 1972 SỰ VẬN DỤNG SÁNG TẠO VÀ HIỆU QUẢ PHƯƠNG CHÂM “GIÚP NHÂN DÂN NƯỚC BẠN TỨC LÀ MÌNH TỰ GIÚP MÌNH”
CỦA TRUNG ƯƠNG ĐẢNG VÀ CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH


PGS, TS LÝ VIỆT QUANG
Viện trưởng Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh


Tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam ngày nay là sự đơm hoa, kết trái của bao nỗ lực, phấn đấu, chung sức, đồng lòng của các thế hệ cán bộ, đảng viên và nhân dân hai nước, được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản đặt nền móng. Lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân hai nước đã ghi lại những trang sử vẻ vang, oanh liệt của quân và dân hai nước dưới sự lãnh đạo của hai Đảng đã đoàn kết, sát cánh chiến đấu chống lại kẻ thù chung, lập nên những chiến công, góp phần vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng hai nước. Chiến thắng Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng mùa mưa năm 1972 là một trong những chiến công đó. Đây là một biểu tượng sinh động cho tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt và liên minh chiến đấu của quân và dân hai nước Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam, tô thắm thêm quan hệ truyền thống tốt đẹp giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước.


1. Phương châm "giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình”1 (Thư gửi các đơn vị bộ đội ta có nhiệm vụ tác chiến ở Thượng Lào, trong Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 8 (1953 - 1954), (xuất bản lần thứ ba, có sửa chữa), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 105) của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh

Trong cuộc đấu tranh dựng xây và bảo vệ đất nước, với những giá trị chung là độc lập của Tổ quốc, tự do và hạnh phúc của người dân, nhân dân hai nước Việt - Lào đà tạo lập được quan hệ đoàn kết, gắn bó với nhau, đặc biệt là trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.


Từ khi tìm ra con đường đúng đắn của cách mạng Việt Nam là cứu nước, giải phóng; dân tộc để đi lên chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đứng trên lập trường khoa học, cách mạng và nhân văn sâu sắc của chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, Lãnh tụ Hồ Chí Minh đã sớm khẳng định: “Cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong cách mệnh thế giới. Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là đồng chí của dân An Nam cả. Đã là đồng chí, thì sung sướng cực khổ phải có nhau”2 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia Sư thật, Hà Nội, 2011, tr. 329). Trên tinh thần đó, Người nhận thức sâu sắc rằng, nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào không chỉ là những người bạn láng giềng lâu đời của nhau, mà còn có chung kẻ thù là chủ nghĩa thực dân, đế quốc, chung mục tiêu là đánh đổ ách thống trị tàn bạo, phản động của chủ nghĩa thực dân phương Tây, giành lại nền độc lập, xây dựng xã hội mới và cùng chung vận mệnh là “sung sướng, cực khổ phải có nhau”.


Sau ngày Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, trước âm mưu thực dân Pháp quay lại xâm lược, cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do vẫn còn phải tiếp tục cho đến khi thắng lợi hoàn toàn, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Lào và Việt là hai nước anh em. Mối quan hệ giữa hai dân tộc rất là mật thiết... Vậy nên sự đoàn kết chẳng những bao gồm đồng bào Việt, mà bao gồm cả đồng bào Việt với đồng bào Lào. Đoàn kết chặt thì lực lượng to. Lực lượng to thì quyết thắng lợi”1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 161, 162). Với tầm nhìn vượt thời gian và tinh thần lạc quan cách mạng, Người khẳng định: “Bây giờ, hai dân tộc ta tuy còn phải khó nhọc, nhưng tương lai của chúng ta rất là vẻ vang. Đến ngày Việt - Lào được quyền hoàn toàn độc lập, anh em ta sẽ cùng hưởng phúc thái bình”2 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 161, 162).


Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục chỉ ra yêu cầu phải gắn bó, đoàn kết giữa nhân dân các nước trên bán đảo Đông Dương trong cuộc đấu tranh giành độc lập: “Muốn độc lập thì các dân tộc Đông Dương quyết phải đánh tan thực dân Pháp là kẻ thù số một.


Đồng thời phải chống bọn can thiệp Mỹ. Chúng can thiệp càng mạnh, ta càng đoàn kết và chiến đấu mạnh hơn, chống cự mạnh hơn”3 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 6, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 414).


Người khẳng định: “Với sự đồng tâm nhất trí của ba dân tộc anh em, với sức đại đoàn kết của ba dân tộc anh em, chúng ta nhất định đánh tan lũ thực dân Pháp và bọn can thiệp Mỹ, chúng ta nhất định làm cho ba nước độc lập và thống nhất thật sự”4 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 47).


Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần chỉ ra yêu cầu phải đoàn kết nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào, nhân dân Campuchia trong cuộc đấu tranh chung chống lại một kẻ thù có tiềm lực kinh tế, quân sự đứng đầu thế giới. Người nêu rõ: “Đối với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia đang anh dũng đấu tranh chống đế quốc Mỹ và bọn tay sai, nhân dân ta luôn luôn thắt chặt tình đoàn kết, ủng hộ hết lòng”1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 14, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 532).


Đặt cách mạng Việt Nam trong mối quan hệ mật thiết với phong trào cách mạng thế giới, nhận thức rõ yêu cầu phải đoàn kết, liên minh chiến đấu giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào, Trung ương Đảng ta và Lãnh tụ Hồ Chí Minh đã nhìn nhận và giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc tự quyết trên bán đảo Đông Dương, trong đó có nhân dân Lào. Vượt qua những quan điểm chưa đúng, chưa sát họp với tình hình các dân tộc trên bán đào Đông Dương, Chù tịch Hồ Chí Minh đã scan nêu quan điểm phải tôn trọng quyền dân tộc tự quyết của các dân tộc sống trên bán đảo Đông Dương và đặt vấn đề giải phóng dân tộc trong phạm vi từng quốc gia dân tộc. Tại Hội nghị lần thứ VIII (5.1941), dưới sự chủ trì của Người, Trung ương Đảng đã khẳng định: “Đã nói đến vấn đc dân tộc tức là đã nói đến sự tự do độc lập của mỗi dân tộc tùy theo ý muốn của mỗi dân tộc. Nói như thế nghĩa là sau lúc đánh đuổi Pháp - Nhật, ta phải thi hành đúng chính sách “dân tộc tự quyết” cho dân tộc Đông Dương. Các dàn tộc sống trên cõi Đông Dương sẽ tuỳ theo ý muốn, tổ chức thành liên bang cộng hòa dân chủ hay đứng riêng thành một dân tộc quốc gia tuỳ ý. [...] Sự tự do độc lập của các dân tộc sẽ được thừa nhận và coi trọng”2 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 113).


Sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, trên cương vị nguyên thủ quốc gia nước Việt Nam mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định tôn trọng quyền dân tộc tự quyết của các dân tộc Lào và Campuchia. Người chỉ rõ: “Đối với Lào và Miên, nước Việt Nam tôn trọng nền độc lập của hai nước đó và bày tỏ lòng mong muốn hợp tác trên cơ sở bình đẳng tuyệt đối giữa các nước có chủ quyền”1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 4, Sđd, tr. 523).


Tại Đại hội lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Dương (2.1951) cùng với việc giải quyết triệt để vấn đề quyền dân tộc tự quyết của mỗi quốc gia dân tộc trên bán đảo Đông Dương khi chủ trương thành lập ở mỗi nước một đảng để lãnh đạo cách mạng, Đảng ta xác định: “Dân tộc Việt Nam phải đoàn kết nhất trí với các dân tộc đó (chỉ Lào và Campuchia - LVQ) để tiêu diệt bọn đế quốc xâm lược. Mặt trận dân tộc thống nhất Việt - Miên - Lào rất cần thiết. Mặt trận đó phải hoàn toàn đặt trên cơ sở bình đẳng, tương trợ và tự nguyện”2 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 98-99); đồng thời, cần phải phòng chống những tư tưởng sai lầm về quan hệ bình đẳng, tương trợ, tự nguyện giữa ba dân tộc, giữ gìn khối đoàn kết ba nước Đông Dương trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.


Sau khi kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, trong một lần trả lời phỏng vấn, khi được hỏi về quan hệ giữa nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và Lào, Campuchia, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định: “Chúng tôi muốn có quan hệ bạn bè với Lào và Miên trên cơ sở 5 nguyên tắc lớn đã được nêu ra trong các bản tuyên bố chung Trung - Ấn và Trung - Diến”3 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 233).


Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Ngày nay, hai nước chúng ta đã độc lập. Chúng ta có đủ mọi điều kiện để củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị giữa hai nước chúng ta và với các nước bầu bạn khác, để giúp đỡ lẫn nhau trong công cuộc xây dựng đất nước phồn thịnh và cải thiện đời sống của nhân dân chúng ta”1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 14, Sđd, tr. 46, 48). Với tình cảm thủy chung, chân thành, Người khẳng định: “Hai dân tộc Việt và Lào sống bên nhau trên cùng một dải đất, cùng có chung một dãy núi Trường Sơn. Hai dân tộc chúng ta đã nương tựa vào nhau, giúp đỡ lẫn nhau như anh em. Trải qua nhiều năm đấu tranh gian khổ và anh dũng, nhân dân hai nước chúng ta đã giành được độc lập, đã làm chủ đất nước của mình. Ngày nay, chúng ta lại đang giúp đỡ nhau để xây dựng một cuộc sống mới. Tình nghĩa láng giềng anh em Việt - Lào thật là thắm thiết không bao giờ phai nhạt được”2 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 14, Sđd, tr. 46, 48).


Khẳng định quan hệ đoàn kết, gắn bó mật thiết giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng Lào, Trung ương Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đồng thời nêu rõ, cách mạng Việt Nam phải có trách nhiệm giúp đỡ cách mạng Lào, cũng như cách mạng Campuchia. Trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội lần thứ II của Đảng, Người chỉ ra rằng: “Chúng ta kháng chiến, dân tộc bạn Miên, Lào cũng kháng chiến. Bọn thực dân Pháp và bọn can thiệp Mỹ là kẻ thù của ta và của dân tộc Miên, Lào. Vì vậy, ta phải ra sức giúp đỡ anh em Miên, Lào, giúp đỡ kháng chiến Miên, Lào; và tiến đến thành lập Mặt trận thống nhất các dân tộc Việt - Miên - Lào”3 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 7, Sđd, tr. 40).


Đại hội II của Đảng đã xác định: “Cách mạng Việt Nam quan hệ mật thiết với cách mạng Miên và cách mạng Lào... Việt Nam có nhiệm vụ tích cực giúp đỡ các dân tộc Miên, Lào đẩy mạnh kháng chiến, đặng phối hợp chặt chẽ với cuộc kháng chiến của Việt Nam.


Giúp đỡ cách mạng Miên và Lào về vật chất và tinh thần, đặc biệt giúp đỡ đào lạo cán bộ và kinh nghiệm tổ chức và đấu tranh.

Giúp đỡ dân tộc Cao Miên củng cố và phát triển Hội ítxarắc, và dân tộc Ai Lao củng cố và phát triển Hội ítxala.

Giúp đỡ hai nước xây dựng căn cứ địa, phát triển lực lượng võ trang, thành lập Quân đội nhân dân; xây dựng, củng cố và phát triển chính quyền dân tộc chống đế quốc”1 (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 12, Sđd, tr. 148-149).


Sự giúp đỡ đó xuất phát từ tình cảm quốc tế trong sáng, thủy chung và lợi ích chung của cách mạng Đông Dương. Người nhấn mạnh: “Vì mọi quan hệ khăng khít về địa lý, quân sự, chính trị v.v., mà ta với Miên, Lào cũng như môi với răng. Hai dân tộc Miên, Lào hoàn toàn giải phóng, thì cuộc giải phóng của ta mới chắc chắn, hoàn toàn. Cho nên nhiệm vụ của ta lại phải ra sức giúp đỡ kháng chiến Miên, Lào một cách tích cực, thiết thực hơn”2 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 7, Sđd, tr. 385).


Đặc biệt, khi Trung ương Đảng và Chính phủ cử những cán bộ, chiến sĩ sang công tác, giúp đỡ cách mạng Lào, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm căn dặn các cán bộ, chiến sĩ trước khi lên đường phải chú trọng ghi nhớ và thực hiện mối quan hệ đúng đắn với cán bộ, đảng viên và nhân dân nước bạn, đặc biệt là phải quán triệt phương châm “giúp nhân dân nước bạn là mình tự giúp mình”. Trong thư gửi các đơn vị bộ đội ta có nhiệm vụ tác chiến ở Thượng Lào ngày 3 tháng 4 năm 1953, Người lưu ý: “Lần này là lần đầu tiên, các chú nhận một nhiệm vụ quan trọng và vẻ vang như nhiệm vụ này, tức là giúp nhân dân nước bạn. Mà giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình”3 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 8, Sđd, tr. 105).


Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Người cũng nhắc nhở: “Các ngành, các cơ quan, các địa phương, mọi người dân phải tham gia đắc lực vào sự nghiệp giải phóng miền Nam, đồng thời phải tích cực giúp đỡ nhân dân Lào. Lào ở bên cạnh ta. Bây giờ, Mỹ cũng gây chiến tranh ở đó. Nếu Mỹ và bọn phản động Lào thắng ở Lào, tức là có hại cho ta, hại nhiều không phải ít”1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 15, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật Hà Nội 2011 tr. 16-17).


Những quan điểm trên đã thể hiện sự chỉ đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về phương châm “giúp nhân dân nước bạn là mình tự giúp mình”, là cơ sở định hướng cho hoạt động, công tác của cán bộ, chiến sĩ Quân tình nguyện Việt Nam khi nhận nhiệm vụ sang công tác, chiến đấu tại chiến trường Lào.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1335



« Trả lời #21 vào lúc: 02 Tháng Ba, 2023, 09:10:19 am »

2. Sự vận dụng sáng tạo, hiệu quả phương châm "giúp bạn là mình tự giúp mình” của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Chiến thắng Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng mùa mưa năm 1972

Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng là một trong ba địa bàn chiến lược quan trọng bậc nhất trên chiến trường Đông Dương. Từ đây, có thể theo Đường số 6 đi tới căn cứ cách mạng Lào ở Hủa Phăn, theo Đường số 7 về phía Đông sang Việt Nam, phía Tây có Đường số 13 nối Luông Phabăng với Viêng Chăn.


Sau khi Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương được ký kết (7.1954), Mỹ vào thay chân Pháp ở Đông Dương, âm mưu xâm lược và chia cắt lâu dài Việt Nam, chia rẽ khối đoàn kết ba nước Đông Dương. Trong cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ diễn ra trên toàn bộ lãnh thổ nước Lào, nơi tập trung nhất là Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng, mục tiêu của Mỹ là biến nơi đây thành căn cư quân sự lớn nhất ở Lào. Chính vì vậy, đây là nơi trọng điểm giành đi, giật lại giữa lực lượng cách mạng và lực lượng tay sai thân Mỹ.


Sau khi khu vực Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng bị lực lượng liên quân Việt - Lào tiến công và làm chủ trong mùa khô 1971 - 1972, mùa mưa năm 1972, lợi dụng thời điểm việc vận chuyển tiếp tế của lực lượng cách mạng gặp nhiều khó khăn, các lực lượng tay sai của Mỹ đã tổ chức tiến công hòng giành lại địa bàn Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng. Diễn ra từ ngày 21 tháng 5 đến ngày 15 tháng 11 năm 1972, Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng là chiến dịch phòng ngự có quy mô lớn nhất và diễn ra trong thời gian dài nhất trên chiến trường Lào, với địa bàn phòng ngự được tổ chức tại khu tứ giác Mường Sủi - Noọng Pẹt - thị xã Xiêng Khoảng - Thẩm Lửng (dài 60km, rộng 50km), chia thành 5 khu vực: Khu trung tâm (Cánh Đồng Chum), khu trung gian (Hin Tặng), khu thứ yếu (Noọng Pẹt) và 2 khu tác chiến phối hợp (Mường Sủi và thị xã Xiêng Khoảng); mỗi khu vực có một số cụm chốt. Với nhiều cách đánh linh hoạt, sáng tạo và tinh thần chiến đấu kiên cường, dũng cảm, Quân tình nguyện Việt Nam cùng quân và dân Lào đã đánh bại các đợt tiến công của 8 binh đoàn cơ động của quân đội phái hữu, 9 tiểu đoàn đặc biệt (BS), 4 tiểu đoàn tình nguyện (BV), 18 tiểu đoàn bộ binh và 2 tiểu đoàn pháo binh của Thái Lan, 2 binh đoàn, 2 lữ đoàn bộ binh quân phái hữu Lào, với sự chi viện tối đa của không quân Mỹ. Liên quân Việt - Lào đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 5.607 tên địch, bắn rơi 38 máy bay, đánh thiệt hại và thiệt hại năng 8 binh đoàn quân đội phái hữu Lào, 3 tiểu đoàn quân đội Thái Lan1 (Xem thêm: Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng mùa mưa 1972, Hà Nội, 1987, tr. 62-63).


Chiến thắng Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng mùa mưa năm 1972 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đây là chiến dịch phòng ngự hoàn chỉnh đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam và Quân giải phóng nhân dân Lào với cách đánh sáng tạo, hiệu quả đã giành được thắng lợi to lớn, góp phần làm phong phú thêm lý luận tác chiến chiến dịch phòng ngự; là bước phát triển về nghệ thuật chiến dịch Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ.


Thắng lợi của chiến dịch giúp bộ đội ta và bạn Lào trưởng thành nhiều mặt cả về thực tiễn lẫn lý luận chiến dịch phòng ngự, về kỹ thuật và chiến thuật trong tác chiến phòng ngự. Đó là nghệ thuật xác định đúng loại hình chiến dịch phòng ngự và chủ động giành thế trong chuẩn bị và thực hành tác chiến chiến địch. Lựa chọn đúng các khu vực phòng ngự, biết coi trọng xây dựng hệ thống công sự trận địa vững chắc, lấy đó là nội dung cơ bản của việc lập thế trận phòng ngự của ta phá thế tiến công của địch.


Với chiến thắng Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng, liên minh chiến đấu Việt - Lào đã bảo vệ vững chắc vùng giải phóng Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng của cách mạng Lào, giữ vững thế chiến lược của lực lượng cách mạng ở Bắc Lào, đồng thời góp phần phối hợp với các chiến dịch trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972 ở miền Nam Việt Nam. Thắng lợi này đã đánh bại cố gắng cao nhất của đế quốc Mỹ và lực lượng tay sai muốn chiếm địa bàn chiến lược để giành thế có lợi trong đàm phán tìm một giải pháp chính trị ở Lào. Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng đã góp phần tạo ra thế hơn hẳn của cách mạng Lào trên bàn đàm phán, góp phần quan trọng buộc Mỹ và tay sai phải ký kết Hiệp định Viêng Chăn về “chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình và thực hiện hòa hợp dân tộc ở Lào” (21.2.1973), tạo điều kiện và thời cơ rất thuận lợi để thúc đẩy cách mạng Lào tiến lên, đồng thời mở ra cơ hội mới cho liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào đẩy mạnh đấu tranh, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.


Nhận xét về cán bộ, chiến sĩ Quân tình nguyện Việt Nam, Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản đã nêu rõ: “Các đồng chí chiến sĩ quốc tế đặc biệt Việt Nam chấp hành chỉ thị của Đảng Cộng sản Việt Nam và Hồ Chủ tịch đã nêu cao tinh thần quốc tế vô sản trong sáng, yêu nhân dân Lào như bố mẹ, anh em ruột thịt của mình, đã đồng cam, cộng khổ, “hạt gạo cắn đôi, cọng rau bẻ nửa”... kề vai sát cánh chiến đấu sống chết bên nhau với quân đội và nhân dân Lào trong từng chiến hào, trên khắp chiến trường trong cả nước với tinh thần anh dũng tuyệt vời”1 (Cayxỏn Phômvihản, Xây dựng một nước Lào hòa bình, độc lập và xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1978, tr. 183-184). Chiến thắng Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng là một sự kiện lịch sử tiêu biểu minh chứng cho nhận xét này của Chủ tịch Cayxỏn Phômvihản.


Nửa thế kỷ đã trôi qua, độ lùi lịch sử càng cho phép nhìn nhận và khẳng định ý nghĩa to lớn của Chiến thắng Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng mùa mưa năm 1972, một mốc son tiêu biêu, một biểu tượng sinh động cho tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam. Đó không chỉ là chiến công vang dội, góp phần vào thắng lợi của cách mạng hai nước, mà còn là sự kiện lịch sử góp phần vun đắp, làm sâu sắc hơn nữa tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt giữa hai Đảng, hai Nhà nước và quân dân hai nước - tài sản tinh thần vô cùng quý giá và to lớn mà các thế hệ cán bộ, đảng viên, quân và dân hai nước sẽ mãi gìn giữ, phát huy, để góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc giàu mạnh, phồn vinh, hạnh phúc.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1335



« Trả lời #22 vào lúc: 02 Tháng Ba, 2023, 09:11:58 am »

LỰC LƯỢNG VŨ TRANG QUÂN KHU 2 TRONG
CHIẾN DỊCH PHÒNG NGỰ CÁNH ĐỒNG CHUM - XIÊNG KHOẢNG


Thiếu tướng PHẠM HỒNG CHƯƠNG
Tư lệnh Quân khu 2


Quân khu 2 án ngữ phía Bắc và Tây Bắc của Bắc Bộ Việt Nam, có đường biên giới giáp với nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào dài 610km, cùng với những điều kiện địa lý và hoàn cảnh lịch sử, vì sự nghiệp cách mạng của hai dân tộc, nhân dân và quân đội hai nước, nên trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, lực lượng vũ trang Tây Bắc (Quân khu 2 ngày nay) được Đảng, Nhà nước và Bộ Quốc phòng Việt Nam giao thực hiện nghĩa vụ quốc tế với quân và dân Lào; vừa làm nhiệm vụ dân tộc, vừa làm nghĩa vụ quốc tế.


Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ngoài nhiệm vụ xây dựng hậu phương, chi viện cho chiến trường miền Nam, đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, từ tháng 6 năm 1959 đến năm 1973, lực lượng vũ trang Quân khu 2 đã phối hợp cùng quân và dân Lào tổ chức hàng chục chiến dịch với hàng nghìn trận chiến đấu, góp phần vào thành công của cách mạng hai nước. Một trong những biểu trưng đẹp nhất về tình đoàn kết, sự hy sinh cao cả và thắng lợi vang dội của liên minh quân sự giữa lực lượng vũ trang Quân khu 2 với quân và dân Lào là chiến thắng của Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng năm 1972.


Mặc dù bị thất bại và rơi vào thế bị động sau Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968) ở Việt Nam, nhưng đế quốc Mỹ vẫn ngoan cố hòng làm cho lực lượng kháng chiến của ba nước Đông Dương suy yếu, giành thế mạnh trên chiến trường và nghị trường. Vì vậy cùng với đẩy mạnh chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” Mỹ ồ ạt đưa quân chư hầu vào Lào, phát triển lực lượng đặc biệt do Vàng Pao cầm đầu, tăng mật độ không quân đánh phá..., để giáng những đòn quyết định tiêu diệt cách mạng Lào giành quyền kiểm soát toàn bộ đất nước Lào bằng chiến lược “Chiến tranh đặc biệt tăng cường”. Để đạt được âm mưu đó, quân Mỹ và ngụy Viêng Chăn phải chiếm giữ bằng được mục tiêu chủ yếu mang tính quyết định là Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng.


Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng là một địa bàn có giá trị chiến lược đặc biệt quan trọng cả về quân sự, chính trị, kinh tế, không chỉ đối với sự tồn vong của khu căn cứ địa cách mạng Lào và khống chế vùng Đông Dương, mà còn là một hướng chiến lược phối hợp chung quan trọng của ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia. Vì vậy, trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, khu vực này đã trở thành nơi đọ sức, giành giật giữa lực lượng cách mạng Lào với đế quốc Mỹ và ngụy Viêng Chăn; đồng thời là nơi Mỹ thí điểm thực hiện công thức chiến tranh của học thuyết Níchxơn: Quân ngụy Viêng Chăn + quân Thái Lan + không quân, hậu cần, cố vấn Mỹ.


Tại đây, sau khi liên quân Lào - Việt kết thúc chiến dịch mùa khô năm 1971, địch cấp tốc điều lực lượng từ các quân khu khác đến tăng cường và thay cho các binh đoàn đặc biệt Vàng Pao rút sang Thái Lan củng cố, huấn luyện. Âm mưu của địch là đánh chiếm bằng được Cánh Đồng Chum trong mùa mưa năm 1972, nhầm giành ưu thế trong đàm phán tại Hội nghị Pari. Đến tháng 5 năm 1972, lực lượng địch tại khu vực này có 18.400 tên, gồm 76 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh.


Để đối phó với âm mưu chiếm lại Cánh Đồng Chum của địch, Quân ủy Trung ương hai nước Việt Nam - Lào chủ trương tổ chức Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng mùa mưa năm 1972 ngay sau kết thúc chiến dịch tiến công mùa khô 1971   - 1972. Mục đích của chiến dịch nhằm đánh bại cuộc tiến công lấn chiếm quy mô của địch, bảo vệ vững chắc vùng giải phóng, tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, làm thay đổi tương quan lực lượng có lợi cho cách mạng Lào, xây dựng địa bàn chiến lược này thành căn cứ địa cách mạng vững mạnh của Lào, đồng thời thu hút lực lượng địch, tạo điều kiện thuận lợi cho các chiến trường khác giành thắng lợi.


Tham gia Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng chủ yếu là lực lượng vũ trang Quân khu Tây Bắc, gồm những đơn vị đã có kinh nghiệm chiến đấu nhiều năm trên chiến trường Lào: Sư đoàn 316, Trung đoàn 335, Trung đoàn 866, tháng 10 năm 1972, Bộ tăng cường thêm Trung đoàn 88 Sư đoàn 308C. Về binh chủng có 2 tiểu đoàn đặc công (27,41), Tiểu đoàn Pháo binh 42, 2 tiểu đoàn công binh (25, 15), 1 tiểu đoàn xe tăng và 4 tiểu đoàn pháo, súng máy phòng không. Lực lượng Quân giải phóng nhân dân Lào có 7 tiểu đoàn bộ binh, 4 đại đội bộ đội địa phương và dân quân du kích 2 huyện Mường Pẹt - Mường Khăm.


Để chỉ huy thống nhất lực lượng tham gia chiến dịch, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng thành lập Bộ Tư lệnh Chiến dịch, do đồng chí Vũ Lập - Tư lệnh Quân khu Tây Bắc làm Tư lệnh, đồng chí Lê Linh - Phó Chính ủy Quân khu Tây Bắc làm Chính ủy Chiến dịch.


Căn cứ vào tính chất nhiệm vụ, đặc điểm địa hình và âm mưu, thủ đoạn của địch, Bộ Tư lệnh Chiến dịch quyết định lấy khu tứ giác Mường Sủi - Noọng Pẹt - thị xã Xiêng Khoảng - Thẩm Lửng, chiều rộng 50km, chiều dài 60km, làm khu vực phòng ngự của chiến dịch phòng ngự và chia thành các khu vực: Khu trung tâm Cánh Đồng Chum là khu phòng ngự chủ yếu; khu trung gian là khu phòng ngự quan trọng phía trước, trực tiếp tiếp xúc với địch, bảo vệ phía Tây Nam Cánh Đồng Chum; khu Noọng Pẹt là khu phòng ngự thứ yếu bảo vệ phía Đông Bắc; khu Mường Sủi - thị xã Xiêng Khoảng là khu phòng ngự thứ yếu thứ hai, chốt giữ một số điểm cao quan trọng.


Dưới sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh Chiến dịch, từ tháng 2 đến giữa tháng 5 năm 1972, các đơn vị của lực lượng vũ trang Quân khu Tây Bắc và bạn tích cực chuyển thế trận từ tiến công sang phòng ngự. Trên toàn địa bàn chiến dịch, thế trận phòng ngự được hình thành và từng bước hoàn chỉnh với tư tưởng chỉ đạo "phòng ngự tích cực, chốt giữ kết hợp với cơ động, phòng giữ kết hợp với tiến công”. Căn cứ vào thế mạnh của từng đơn vị, Bộ Tư lệnh Chiến dịch đã tổ chức lực lượng phòng ngự thành hai lực lượng: Lực lượng phòng ngự trận địa và lực lượng phòng ngự cơ động.


Lực lượng phòng ngự trận địa là Trung đoàn 866 và Trung đoàn 174, các tiểu đoàn Quân giải phóng nhân dân Lào. Trung đoàn 866 gồm 5 tiểu đoàn được tăng cường 1 đại đội xe tăng, 1 đại đội pháo binh, 1 đại đội cối 120mm đảm nhiệm phòng ngự khu trung tâm Cánh Đồng Chum và Noọng Pẹt. Trung đoàn 174 gồm 3 tiểu đoàn, được tăng cường 2 khẩu pháo 85mm, 1 khẩu pháo 130mm, 1 khẩu ĐKB, 1 tiểu đoàn 12,7mm đảm nhiệm phòng ngự khu trung gian, các tiểu đoàn Quân giải phóng nhân dân Lào đảm nhiệm phòng ngự khu Mường Sủi - thị xã Xiêng Khoảng.


Để thế trận phòng ngự đảm bảo vững chắc và phản công hiệu quả, Bộ Tư lệnh Chiến dịch chỉ đạo ở tất cả các khu vực phòng ngự, mỗi vị trí chỉ bố trí 1 đại đội chốt giữ, còn từ 1 đến 2 đại đội cơ động đánh địch bảo vệ chốt, ở các vị trí chốt giữ phải xây dựng hầm hào, công sự, hỏa điểm, chướng ngại vật, có đường cơ động, kết hợp giữa công sự, hỏa lực, lực lượng đánh địch từ xa đến gần, thực hiện vận động tiến công kết hợp chốt để tiêu diệt địch, giữ vững trận địa.


Lực lượng phòng ngự cơ động chiến dịch là các trung đoàn 148,335, tháng 10 được bô sung thêm Trung đoàn 88 Sư đoàn 308C. Lực lượng này có nhiệm vụ chủ yếu là cùng xe tăng, thiết giáp tập trung tác chiến hiệp đồng binh chủng, tổ clìưc một so các trận then chốt của chiến dịch, tiêu diệt và bẻ gãy các mũi tiến công của địch vao Canh Đong Chum... Các đơn vị binh chủng có nhiệm vụ hỗ trợ, chi viện đắc lực cho bộ binh đánh địch bảo vệ địa bàn.


Do yêu cầu và nhiệm vụ của chiến dịch, Bộ Tư lệnh Chiến dịch quyết định trực tiếp chỉ huy tới các trung đoàn và các đơn vị binh chủng, bỏ khâu trung gian (cấp sư đoàn) để tăng cường cán bộ cho dưới và bảo đảm tác chiến chiến dịch thống nhất, chính xác kịp thời và hiệu quả. Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng diễn ra qua 4 đợt.


Đợt 1 (21.5 - 10.8.1972): Ngày 21 tháng 5, sau khi đánh phá dữ dội các trọng điểm ở khu trung gian và các trục đường bằng hỏa lực máy bay, địch huy động lực lượng lớn tiến quân làm 2 mũi vào Cánh Đồng Chum: Mũi thứ nhất, gồm 5 tiểu đoàn lính Thái Lan, 1 binh đoàn cơ động và 1 tiểu đoàn ngụy Viêng Chăn đánh các điêm cao 1800, 1978, Hin Đăm, Thẩm Lửng phía Nam khu trung gian. Mũi thứ hai, gồm 2 binh đoàn cơ động, 1 tiểu đoàn Thái Lan, 4 tiểu đoàn ngụy Viêng Chăn đánh vào sườn phía sau Phu Pkaxay, Điểm cao 2083..., làm bàn đạp để tiến công vào Cánh Đồng Chum.


Dưới sự lãnh đạo, chỉ huy của Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Chiến dịch Trung đoàn 174 đã dựa chắc vào hệ thống công sự, phát huy hỏả lực đánh địch từ xa đến gần, kết hợp nhiều lần xuất kích đã đánh bật các đợt xung phong của địch. Tuy vậy, chúng cũng chiếm được một số vị trí. Ngày 6 tháng 6, Tiểu đoàn 6 Trung đoàn 148 phối hợp với Trung đoàn 174 phản kích đánh tan 2 tiểu đoàn của GM 30 diệt trên 200 tên, đẩy lùi quân địch. Tiếp đó, ta tổ chức phản kích địch ở hướng Tây Nam, đánh tan 16 chốt đóng quân của 2 tiểu đoàn Thái Lan và 4 tiểu đoàn ngụy Lào, khôi phục lại Hin Đám, Thẩm Lửng..., và cải thiện thế phòng ngự tại Điểm cao 1800. Cùng thời điểm, đặc công và pháo binh tổ chức đánh vào Loong Chẹng, uy hiếp sân bay, phá kho tàng và khu sở chỉ huy của Vàng Pao, gây thiệt hại lớn, buộc địch phải bị động đối phó. Kết quả, ta đã bẻ gãy đợt tiến công mở đầu của địch, giữ vững khu vực trung gian.


Đợt 2 (11.8 -10.9.1972): Địch tập trung 40 tiểu đoàn tiến công Cánh Đồng Chum theo 3 hướng, đồng thời bất ngờ đổ quân bằng máy bay ở hướng Tây Bắc, hình thành hướng tiến công chủ yếu thọc sâu vào Cánh Đồng Chum. Ta lần lượt bẻ gãy các hướng tiến công, tập trung lực lượng đánh bại cánh quân chủ yếu, phá thế tiến công của địch, giữ vững địa bàn phòng ngự.


Sau khi sử dụng hơn 100 lần chiếc máy bay cường kích và 25 lần chiếc máy bay B-52 đánh phá, địch đùng trực thăng đổ GM 23 xuống Đông Nam Phu Hủa Sang nhằm đánh chiếm Phu Luông. Trung đoàn 148 kiên quyết chặn đánh, buộc chúng phải lui về Khang Kho. Cùng thời gian, Trung đoàn 866 đánh bật cuộc tiến công của địch, giữ vững vị trí Đồi Năm Mỏm. Trên hướng Đông Bắc, Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 335 cùng 2 đại đội của Trung đoàn 866 phối hợp với Quân giải phóng nhân dân Lào tổ chức 2 trận phản kích vào đội hình địch, diệt gần 600 tên, buộc địch phải rút về Buôm Loọng.


Cả 3 hướng tiến công của địch vào khu trung gian đều bị ta chặn đánh. Trong 2 ngày 21 và 22 tháng 8 năm 1972, địch đổ GM 21 và GM 25 xuống Điểm cao 1098 (Bắc Phu Keng) nhằm thọc sâu chiếm các vị trí trọng yếu ở Cánh Đồng Chum. Đến lúc này, địch mới bộc lộ hướng tiến công chủ yếu vào Tây Bắc Cánh Đồng Chum. Từ ngày 30 tháng 8 đến ngày 3 tháng 9, Trung đoàn 335 phối hợp với Tiểu đoàn 2, Tiểu đoàn 701 Quân giải phóng nhân dân Lào, có sự chi viện đắc lực của xe tăng, tổ chức phản đột kích quyết liệt, đánh bại hoàn toàn cánh quân chủ yếu của địch, diệt trên 697 tên, bắt sống 43 tên.


Trong chiến đấu, Cánh Đồng Chum đang giữa mùa mưa, những trận mưa lớn và kéo dài đã gây rất nhiều trở ngại, khó khăn cho lực lượng phòng ngự của ta và bạn. Các sông suối nước chảy xiết, dâng cao. Hầm hào chiến đấu, đường cơ động bị sụt lở. Quần áo của cán bộ, chiến sĩ luôn ướt dầm, lấm lem bùn đất và khói bom đạn, cùng với quá trình hoạt động tác chiến nên phần lớn quần áo, giày, tất của bộ đội bị rách, hỏng; nhiều đồng chí phải đi chân không. Bệnh lở loét, hắc lào, sốt mò, sốt rét phát triển. Với tinh thần quốc tế vô sản cao cả và ý chí, quyết tâm chiến đấu cao, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Quân khu 2 tích cực ngày đêm sửa chữa hầm hào, công sự, khâu vá quần áo, tìm lốp xe hỏng làm dép thay giày, tăng cường giữ vệ sinh chiến hào, tự pha chế thuốc chữa bệnh..., đã khắc phục được khó khăn, tiếp tục hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.


Lợi dụng những khó khăn của bộ đội ta và bạn trong mùa mưa, địch tập trung 6 GM và một số tiểu đoàn tiến công lần thứ hai vào Cánh Đồng Chum theo 3 hướng. Dự kiến trước được âm mưu của địch, Bộ Tư lệnh Chiến dịch sử dụng Trung đoàn 148 (thiếu), 2 tiểu đoàn của Trung đoàn 866, 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 335 cùng xe tăng kiên quyết bẻ gãy cánh quân chủ yếu của địch. Sau 2 đợt phản kích, ta tiêu diệt trên 400 tên địch, bắn rơi 3 máy bay, đẩy lùi cánh quân này. Trên các hướng khác, lực lượng ta và bạn tích cực ngăn chặn, phản kích, buộc địch tháo chạy. Cuộc tiến công lần thứ hai của địch bị thất bại.
Logged
vnmilitaryhistory
Moderator
*
Bài viết: 1335



« Trả lời #23 vào lúc: 02 Tháng Ba, 2023, 09:12:27 am »

Đợt 3 (11 - 30.9.1972): Thất bại trên hướng chính Tây Bắc, không thực hiện được đánh hiểm và bất ngờ, địch phải tăng cường lực lượng, chuyển hướng Tây làm chủ yếu, tiến công từ ngoài vào kết hợp với các hướng khác. Các đơn vị của ta (các trung đoàn 148, 866, 335, lực lượng công binh và đơn vị bạn) đã tổ chức tốt trận phản đột kích thứ hai, đánh bại cuộc tiến công của địch vào khu vực phòng ngự chủ yếu của ta, giữ quyền chủ động trên chiến trường.


Đợt 4 (1.10 - 15.11.1972): Bị thúc ép về chính trị và mùa mưa sắp kết thúc, địch đã dốc toàn lực để tổ chức tiến công nhằm đạt được mục tiêu hạn chế là chiếm cho được phía Nam Cánh Đồng Chum, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đàm phán giữa hai bên. Phát huy khí thế chiến thắng, ta tập trung đánh trận then chốt quyết định, đánh bại hoàn toàn cuộc tiến công quy mô lớn của địch. Từ ngày 12 đến ngày 14 tháng 10 năm 1972, kết hợp lực lượng chốt giữ, các trung đoàn 148, 335 cơ động vào bên sườn và phía sau địch, đánh thiệt hại nặng 1 binh đoàn cơ động, diệt 635 tên, bắn rơi 3 máy bay. Thừa thắng, các trung đoàn 148, 335, 866, 88 tổ chức bao vây, chia cắt kết hợp với nhiều mũi phản đột kích, bẻ gãy các đợt tiến công của địch, loại khỏi vòng chiến đấu 1.240 tên, thu 1.500 súng các loại. Ngày 15 tháng 10 năm 1972, địch tập trung 60 tiểu đoàn quân phái hữu Lào và lính đánh thuê Thái Lan mở cuộc tiến công lớn thử ba vào Cánh Đồng Chum. Bộ Tư lệnh Chiến dịch chủ trương sử dụng lực lượng tại chỗ ngăn chặn địch, kết hợp cùng lực lượng cơ động mạnh tiến hành phản đột kích, kiên quyết đánh bại hoàn toàn cuộc tiến công của chúng. Đầu tháng 11, ta bao vây, đánh địch co cụm ở phía Nam Cánh Đồng Chum, diệt hàng trăm tên, khôi phục lại toàn bộ khu vực này. Cuộc tiến công lớn lần thứ ba của địch hoàn toàn thất bại. Ta chủ động kết thúc chiến dịch vào ngày 15 tháng 11 năm 1972, Cánh Đồng Chum được bảo vệ vững chắc.


Trải qua 179 ngày chiến đấu gian khổ suốt mùa mưa năm 1972, Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng kết thúc thắng lợi. Trong chiến dịch này, lực lượng vũ trang Quân khu 2 đã phối hợp với các đơn vị của Bộ và Quân giải phóng nhân dân Lào lần đầu tiên tổ chức thắng lợi chiến dịch phòng ngự hiệp đồng binh chủng quy mô lớn trên chiến trường Lào, làm biến đổi tương quan lực lượng có lợi cho cách mạng Đông Dương. Ta đã đánh thắng cả 3 cuộc tiến công quy mô lớn của địch, loại khỏi vòng chiến đấu 5.759 tên, đánh thiệt hại nặng 3 GM quân đặc biệt Vàng Pao, 3 tiểu đoàn Thái Lan và 5 GM khác; góp phần đánh bại “học thuyết Níchxơn” ở Lào, lực lượng đặc biệt Vàng Pao bị tổn thất nặng nề, quân đánh thuê Thái Lan không còn là chỗ dựa chủ yếu của quân ngụy Viêng Chăn; đồng thời, bảo vệ vững chắc địa bàn chiến lược Cánh Đồng Chum, làm thay đổi cục diện chiến trường có lợi cho cách mạng Lào và phối hợp cùng cuộc tiến công chiến lược năm 1972 trên chiến trường miền Nam Việt Nam.


Thất bại nặng nề của đế quốc Mỹ và tay sai trong mùa mưa năm 1972 ở Cánh Đồng Chum buộc chúng phải xuống thang chiến tranh và chấp nhận đàm phán. Ngày 21 tháng 2 năm 1973, Hiệp định về lập lại hòa bình, thực hiện hòa hợp dân tộc ở Lào được ký kết. Nhân dân các bộ tộc Lào dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng Lào, tiến hành xây dựng chế độ mới trên đất nước Lào tươi đẹp. Lực lượng vũ trang Quân khu 2 vui mừng trước thắng lợi của cách mạng nước bạn và cũng rất tự hào, bởi đã chung vai gánh vác với bạn trong những năm dài chiến đấu đầy hy sinh, gian khổ với tinh thần “hạt muối cắn đôi, bát cơm sẻ nửa”, sống chết có nhau trong nghĩa vụ quốc tế cao cả.


Thắng lợi của Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng mùa mưa năm 1972 là minh chứng hùng hồn về tư tưởng cách mạng tiến công và cách đánh sáng tạo của lực lượng vũ trang Quân khu 2 cùng các đơn vị bạn trong chiến đấu phòng ngự cả về chiến dịch và chiến thuật. Mặc dù địch đã triệt để khai thác những khó khăn của ta trong mùa mưa để tiến công, nhưng với sự lãnh đạo, chỉ huy chặt chẽ của Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Chiến dịch, ta đã tổ chức chiến dịch phòng ngự hoàn chỉnh, kết hợp tài trí giữa phòng ngự trận địa và phòng ngự cơ động mạnh; cùng phát huy cao độ ý chí, tinh thần cách mạng, sự bền bỉ, kiên trì, tháo vát, năng động của cán bộ, chiến sĩ trong chiến đấu, lực lượng vũ trang Quân khu 2 đã phối hợp tốt với bạn đánh thắng kẻ thù.


Cũng qua thành công của chiến dịch, ta và bạn đã đúc kết được nhiều kinh nghiệm và bài học quý về tổ chức phòng ngự chiến dịch, làm phong phú thêm nền khoa học và nghệ thuật quân sự của quân đội hai nước, từ đó khẳng định loại hình chiến đấu phòng ngự là một loại hình quan trọng, cơ bản, cả trong thực hành chiến thuật và tổ chức chiến dịch. Tổ chức phòng ngự nhưng phải lấy tư tưởng tích cực tiến công làm tư tưởng chỉ đạo tác chiến. Vừa phòng ngự ngoan cường, vừa tiến công dũng mãnh để tiêu diệt và đánh bại những cuộc tiến công quy mô lớn của địch. Những bài học và kinh nghiệm trong Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng năm 1972 đã và đang được các thế hệ cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Quân khu 2 nghiên cứu vận dụng và phát triển, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.


50 năm đã trôi qua, tinh thần chiến đấu và tình cảm cao đẹp của lực lượng vũ trang Quân khu 2 với quân và dân các bộ tộc Lào trong Chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng năm 1972 sẽ mãi là nguồn cổ vũ, động viên to lớn để lực lượng vũ trang Quân khu 2 ngày nay tiếp tục phát huy, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao trong giai đoạn cách mạng mới, xứng đáng với lòng tin yêu của hai Đảng, hai dân tộc, hai quân đội, xây dựng tình đoàn kết chiến đấu ngày càng bền chặt - một biểu tượng mẫu mực về tinh thần quốc tế vô sản trong sáng như đồng chí Cayxỏn Phômvihản đã nói: “Núi có thể lở, sông có thể cạn, nhưng tình cảm giữa hai dân tộc Lào và Việt Nam mãi mãi trường tồn cùng thời gian".
Logged
Trang: « 1 2 3   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM